Tải bản đầy đủ (.docx) (19 trang)

Chế độ BHXH của người lao động giải quyết chưa thoả đáng, trách nhiệm thuộc về ai

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (109.02 KB, 19 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Bảo hiểm xã hội là chính sách lớn của Đảng và Nhà nước, là sự bảo đảm
thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập của người lao động khi họ bị giảm hoặc
mất thu nhập do ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, thất
nghiệp, hết tuổi lao động hoặc chết trên cơ sở đóng và được thụ hưởng. Chính vì
đây là một chính sách mang ý nghĩa nhân văn sâu sắc, đảm bảo an sinh xã hội
nên Đảng và Nhà nước ta đã hết sức quan tâm thực hiện ngay từ những ngày đầu
thành lập. Các chế độ, chính sách về Bảo hiểm xã hội đã thực sự là nguồn cổ vũ,
động viên đội ngũ cán bộ, công nhân, viên chức và lực lượng vũ trang yên tâm
phấn khởi lao động sản xuất, dũng cảm chiến đấu góp phần xây dựng và phát
triển đất nước. Tuy nhiên, cùng với sự phát triển đi lên của đất nước, bước vào
thời kỳ đổi mới kinh tế - xã hội, các chế độ, chính sách, phương thức quản lý về
BHXH theo các quy định trước đó đã trở nên bất cập, bộc lộ nhiều điểm khơng
cịn phù hợp với tiến trình đổi mới theo đường lối và các Nghị quyết của Đảng.
Để khắc phục những bất cập ấy, tất yếu phải đổi mới các chế độ, chính sách,
phương thức quản lý BHXH cho phù hợp với sự đổi mới nền kinh tế - xã hội. Xuất
phát từ điều kiện thực tiễn Quốc Hội nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Vịêt nam đã
ban hành Luật Bảo hiểm xã hội số 71/2006/QH11 ngày 29/6/2006 sau đó được
thay thế bằng luật Bảo hiểm xã hội số 58/2014/QH13.
Trong những năm qua, ngành Bảo hiểm xã hội đã đạt được nhiều thành tựu
quan trọng góp phần bảo đảm ổn định đời sống cho cán bộ, công chức, quân nhân
và người lao động, ổn định chính trị, trật tự an tồn xã hội, thúc đẩy sự nghiệp xây
dựng đất nước, bảo vệ Tổ quốc. Tuy nhiên, trên thực tế trong quá trình thực hiện
chính sách Bảo hiểm xã hội vẫn cịn nhiều tồn tại và bất cập. Trong đó, vấn đề
quan trọng là chế độ Bảo hiểm xã hội của người lao động chưa được giải quyết
thoả đáng dẫn đến khiếu nại, đòi hỏi trách nhiệm của cơ quan Bảo hiểm xã hội phải
xem xét giải quyết.
Qua thời gian học lớp Quản lý Nhà nước ngạch chuyên viên chính do
Trường chính trị Nghệ An tổ chức, nhằm để áp dụng kiến thức Quản lý nhà nước
vào thực tiễn công việc hàng ngày và nâng cao kỹ năng viết của bản thân nên tôi
1




mạnh dạn chọn đề tài về thực hiện công tác Bảo hiểm xã hội với đề tài: “Chế độ
BHXH của người lao động giải quyết chưa thoả đáng, trách nhiệm thuộc về
ai?”
Trong khuôn khổ tiểu luận, kiến thức và kỹ năng trình bày của bản thân có
hạn nên khơng tránh khỏi thiếu sót. Hy vọng qua tình huống phát sinh trong thực tế
sẽ giải đáp và trả lời được một số thắc mắc còn vướng phải trong việc thực hiện
các chế độ chính sách về BHXH và quan điểm nhân văn về an sinh xã hội mà
Đảng và Nhà nước đang ngày một hồn thiện sữa đổi góp phần thực hiện mục tiêu
dân giàu nước mạnh xã hội công bằng dân chủ văn minh .
Kính mong nhận được ý kiến đóng góp của các Thầy giáo, cơ giáo cùng các
bạn đồng nghiệp để tơi có thể hồn thiện, nâng cao kiến thức của mình phục vụ
thiết thực cho cơng việc chuyên môn.

2


I. MƠ TẢ TÌNH HUỐNG
Ơng là Nguyễn Văn T trú quán tại Khối 2, Thị Trấn Quỳ Hợp, huyện Quỳ
Hợp, Tỉnh Nghệ An có con trai tên là Nguyễn Văn Đ sinh ngày 20/7/1992 là công
nhân Công ty CK.
Công nhân Nguyễn Văn Đ có thời gian tham gia BHXH như sau:
Từ tháng 01/2016 đến tháng 12/2018 hệ số lương: 1,67;
Từ tháng 01/2019 đến tháng 3/2020 hệ số lương: 2,34.
Theo lời kể của ơng T thì tháng 4/2020 anh Nguyễn Văn Đ chưa thực sự
nghỉ việc tại Công ty A, đến sáng ngày 27/4/2020 (ngày chủ nhật) trên đường lên
Công ty để sáng thứ 2 làm việc thì anh đã bị tai nạn giao thông và chết vào lúc 7 h
sáng 27/4/2020. Gia đình đã gọi điện báo cho Cơng ty CK và Cơng ty đã hỗ trợ
cho gia đình một phần tiền để gia đình lo mai táng cho anh Nguyễn Văn Đ.

Đến tháng 7/2021 vừa qua, gia đình nhận được thông báo của Công ty A lên
trực tiếp công ty để làm thủ tục giải quyết chế độ cho anh Đ. Ơng T một mình lặn
lội gần 70 km lên tận Cơng ty con trai làm việc thì được cán bộ phòng tổ chức đưa
ra một bản quyết định chấm dứt hợp đồng lao động với anh Nguyễn Văn Đ của
Công ty A từ ngày 02/4/2020 và hướng dẫn làm đơn đề nghị hưởng trợ cấp một lần
– mẫu 14-HSB. Do khơng hiểu biết về chính sách BHXH nên ông quay về làm đơn
xin xác nhận của chính quyền địa phương và ông đã thay mặt con trai ký tên vào
mục người làm đơn. Sau đó, ơng T lại trở lại Công ty A để nộp đơn. Vừa qua,
tháng 8/2020 gia đình ơng T nhận được thơng báo của Cơng ty A mời gia đình lên
nhận lại các thủ tục hồ sơ trong đó có sổ BHXH, quyết định hưởng trợ cấp một lần,
bản quá trình tham gia BHXH và hướng dẫn gia đình trực tiếp cơ quan Bảo hiểm
xã hội huyện Quỳ Hợp để nhận tiền trợ cấp một lần của anh Nguyễn Văn Đ. Trong
kỳ tiếp xúc cử tri trước kỳ họp HĐND huyện tổ chức tại Hội trường UBND Thị
trấn Quỳ Hợp, Ông T hỏi rằng: Tại sao con ông chết lại không được hưởng mai
táng phí? Ơng đề nghị cơ quan Bảo hiểm xã hội không giải quyết việc nhận trợ cấp
một lần của anh Đ mà làm đơn đề nghị giải quyết cho gia đình họ được nhận chế
độ tử tuất của anh Đ. Vấn đề của Ông được đại biểu HĐND huyện bầu tại Thị trấn
chuyển tới HĐND huyện.
3


II. PHÂN TÍCH NGUN NHÂN VÀ HẬU QUẢ
2.1. Phân tích sự đúng, sai của tình huống:
Qua việc nghiên cứu tình huống ta thấy đây là một vấn đề cần nghiên cứu
kỹ, phân tích cụ thể để tìm ra sự đúng, sai trong tình huống này.
Rõ ràng, ơng Nguyễn Văn T thắc mắc tại sao con ông chết vào ngày 27
tháng 4 năm 2020 (Quyết định chấm dứt hợp đồng lao động ngày 02 tháng 4 năm
2020) lại không được giải quyết chế độ tử tuất là có cơ sở. Như vậy, anh Nguyễn
Văn Đ thuộc đối tượng bảo lưu thời gian đóng Bảo hiểm xã hội theo qui định tại
điều 62 Luật bảo hiểm xã hội năm 2014 và bị chết trong thời gian bảo lưu. Gia

đình đã thơng báo cho Công ty CK và đã được Công ty hỗ trợ một phần chi phí
mai táng phí. Như vậy, mọi sự việc về cái chết của anh Nguyễn Văn Đ, Cơng ty
CK biết rõ. Vậy thì tại sao người làm công tác chế độ bảo hiểm xã hội của đơn vị
không hướng dẫn ông T làm thủ tục đề nghị giải quyết chế độ tử tuất cho anh Đ mà
lại hướng dẫn ông T làm thủ tục giải quyết chế độ trợ cấp một lần? Điều đó, chứng
tỏ Cơng ty CK cũng có trách nhiệm với quyền lợi của người lao động là đã đề nghị
giải quyết trợ cấp một lần nhưng do thiếu hiểu biết về chế độ chính sách bảo hiểm
xã hội dẫn đến việc quyền lợi của người lao động chưa được đảm bảo mà đúng ra
là được giải quyết chế độ tử tuất theo qui định tại điều khoản 1 Điều 66, Điều 67,
68, 70 Luật Bảo hiểm xã hội 2014; điều 25, điều 26, điều 27 Thơng tư 09/2015/
BLĐTBXH.
Vấn đề thứ hai: Ơng Nguyễn Văn T do khơng hiểu biết về chế độ chính sách
bảo hiểm xã hội nên hoàn toàn thụ động khi được Công ty CK hướng dẫn làm thủ
tục đề nghị giải quyết trợ cấp một lần nên ơng đã tự mình ký tên Nguyễn Văn Đ
vào mục người làm đơn và đề nghị Uỷ ban nhân dân Thị Trấn ký xác nhận.
Vấn đề thứ ba: Uỷ ban nhân dân Thị trấn Quỳ Hợp cấp đơn đề nghị hưởng
trợ cấp một lần cho anh Nguyễn Văn Đ vào ngày 5 tháng 8 năm 2021 (trong khi đó
anh Đ đã chết) là khơng có cơ sở, thiếu sự kiểm tra, thiếu tinh thần phối hợp giữa
bộ phận tư pháp với công an xã quản lý hộ khẩu. Vì thực tế tại các xã hiện nay
công tác giao ban hàng tháng của các công an viên tại các thơn, xóm rất chặt chẽ
trong đó có việc báo cáo về số người biến động do chuyển đi, chuyển đến, chết…
4


Vấn đề thứ tư: Bảo hiểm xã hội thành phố Hà Nội nhận hồ sơ giải quyết chế độ
BHXH từ đơn vị sử dụng lao đông là Công ty CK với thủ tục hồ sơ trợ cấp một lần
đầy đủ theo Thông tư 09/2015/ BLĐTBXH của Tổng giám đốc Bảo hiểm xã hội
Việt Nam. Vì vậy, Bảo hiểm xã hội thành phố Hà Nội đã giải quyết cho anh Đ
hưởng trợ cấp một lần là đúng với qui định tại tại điều khoản 1 Điều 66, Điều 67,
68, 70 Luật Bảo hiểm xã hội 2014.

2.2. Nguyên nhân tình huống:
Như vậy, chúng ta thấy rằng từ một sự việc hết sức đơn giản nếu như người
làm công tác Bảo hiểm xã hội của Công ty CK thực sự hiểu biết, nắm chắc các chế
độ BHXH để hướng dẫn thân nhân người lao động ngay từ đầu thì việc giải quyết
chế độ cho người lao động hết sức nhanh gọn kịp thời, đảm bảo quyền lợi cho
người tham gia bảo hiểm xã hội.
Đối với tình huống cụ thể này, điều quan trọng là cán bộ làm công tác tư
pháp của Uỷ ban nhân dân Thị trấn Quỳ Hợp quản lý nhân khẩu, hộ khẩu chưa
chặt chẽ, thiếu sự kiểm tra, cán bộ tư pháp của Thị trấn Quỳ Hợp thiếu tinh thần
trách nhiệm trong việc thực hiện chun mơn của mình dẫn đến sai sót nghiêm
trọng.
Bên cạnh đó, chúng ta thấy rằng hiện nay cơng tác tun truyền các chủ
trương chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước thực sự có hiệu quả cao. Tuy
nhiên, vẫn còn một số hạn chế ở khả năng tiếp thu của một số người dân, kể cả một
bộ phận không nhỏ cán bộ, công chức, viên chức khơng có tinh thần học hỏi,
khơng nghiên cứu cập nhật văn bản để nâng cao năng lực chuyên mơn cơng tác của
mình dẫn đến sự việc tưởng chừng như đơn giản nhưng lại hướng dẫn thực hiện
sai. Điều đó, thực sự đã làm ảnh hưởng tới người dân cả về mặt kinh tế lẫn tinh
thần.
2.3. Hậu quả của tình huống:
Việc nghiên cứu hậu quả của tình huống nhằm giúp ta tránh được sự cứng
nhắc, nguyên tắc, giáo điều trong việc thực hiện chế độ chính sách của người lao
động. Đồng thời, lường trước được hậu quả của tình huống giúp ta có thể đề ra giải
pháp hợp lý, phù hợp với điều kiện thực tế nhằm giải quyết đúng, kịp thời, đảm
5


bảo quyền lợi cho người tham gia bảo hiểm xã hội. Từ đó, có biện pháp xử lý việc
chấp hành không đúng qui định trong việc thực hiện chế độ chính sách của Nhà
nước và đề ra những biện pháp phù hợp tránh lạm dụng quỹ bảo hiểm xã hội.

Tôi xin nêu một số hậu quả xảy ra với tình huống trên.
- Nếu xử lý giải quyết một cách máy móc thì người lao động sẽ bị thiệt thịi
về quyền lợi chính đáng do sự thiếu hiểu biết của cán bộ làm công tác chuyên môn
tại đơn vị sử dụng lao động.
- Nếu không điều chỉnh kịp thời những sai sót trên thì dẫn đến người dân có
thể bị mất niềm tin vào chính sách của Nhà nước ta. Trong khi đó, Đảng ta chủ
trương quan tâm đúng mức tới quyền lợi của người lao động, một ưu việt của Chủ
nghĩa xã hội so với chủ nghĩa tư bản.
- Có thể dẫn đến đổ lỗi trách nhiệm cho nhau.
- Nếu quá chủ quan trong việc tiếp nhận hồ sơ giải quyết có thể dẫn đến việc
lợi dụng lập hồ sơ để được xét hưởng trợ cấp Bảo hiểm xã hội có lợi hơn về mặt
kinh tế.
III. MỤC TIÊU XỬ LÝ TÌNH HUỐNG.
3.1. Lý luận chung:
Bản chất của Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước
của dân, do dân và vì dân. Luật pháp của Nhà nước Việt nam mang tính xã hội sâu
sắc và mang tính giai cấp - mang ý chí của giai cấp lãnh đạo xã hội là giai cấp công
nhân trên cơ sở liên minh với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức; phục vụ cho
lợi ích của mọi người dân trong xã hội chứ khơng phải lợi ích của một giai cấp
riêng biệt nào.
Luật pháp của Nhà nước Việt nam là nhân tố bảo vệ sự ổn định xã hội, thể
chế hố quyền con người, quyền cơng dân, đảm bảo và tạo điều kiện cho những
quyền đó được thực hiện đầy đủ, kịp thời. Mặt khác các thành viên trong xã hội
nhờ vào phương tiện pháp luật có điều kiện bảo vệ các quyền lợi hợp pháp của
mình, đấu tranh chống mọi hiện tượng tiêu cực, xây dựng một xã hội văn minh,
công bằng và dân chủ.

6



Công chức, viên chức nhà nước là những người đại diện cho Nhà nước quản
lý xã hội bằng pháp luật. Cơng cụ chính quản lý xã hội của họ là pháp luật và bản
thân họ cũng có nghĩa vụ phải tn thủ pháp luật, khơng được làm trái với những
gì mà pháp luật qui định. Tuy nhiên, trong thực tế hiện nay có khơng ít một số cán
bộ cơng chức Nhà nước có chức có quyền đã lợi dụng chức quyền để sách nhiễu
nhân dân hoặc do trình độ chuyên môn thấp kém, thiếu tinh thần trách nhiệm, thiếu
hiểu biết về chính sách của Nhà nước dẫn đến ảnh hưởng quyền lợi của người dân,
thiếu công bằng xã hội, nhân dân mất lịng tin vào chính sách của Đảng và pháp
luật của Nhà nước.
3.2. Quan điểm của Đảng:
Bảo hiểm xã hội là chính sách lớn của Đảng và Nhà nước. Nhà nước tham
gia Bảo hiểm xã hội với tư cách là người bảo hộ cho người lao động. Sự bảo hộ
của Nhà nước thể hiện ở việc đề ra chính sách Bảo hiểm xã hội tác động và điều
tiết các hoạt động Bảo hiểm xã hội đưa bảo hiểm xã hội vào quỹ đạo chung của
chính sách kinh tế xã hội.
Tại Nghị quyết đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng Cộng Sản Việt
Nam, với quan điểm chỉ đạo của Đảng tiếp tục hoàn chỉnh thể chế thị trường lao
động, bảo đảm hài hồ lợi ích của người lao động và người sử dụng lao động. Đổi
mới hệ thống bảo hiểm xã hội, đa dạng hố hình thức bảo hiểm và phù hợp với
kinh tế thị trường; xây dựng chế độ bảo hiểm thất nghiệp, thực hiện tốt chế độ bảo
hộ lao động, an toàn lao động và vệ sinh lao động. Để tăng cường lãnh đạo thực
hiện các chế độ bảo hiểm xã hội theo luật định cần phát huy vai trò lãnh đạo của tổ
chức Đảng ở các cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp nhà nước, các doanh nghiệp ngoài
quốc doanh trong việc thực hiện các chế độ bảo hiểm xã hội đối với người lao
động, trọng tâm là thu nộp bảo hiểm xã hội, bảo đảm ngun tắc có tham gia thì
mới hưởng các chế độ bảo hiểm xã hội. Đồng thời, chỉ đạo thực hiện tốt cơng tác
giải quyết chế độ chính sách cho người lao động, đảm bảo quyền lợi chính đáng
cho người tham gia bảo hiểm xã hội. Đây là vấn đề quan trọng liên quan đến hàng
triệu người lao động vì vậy cần phải có biện pháp thực hiện triệt để nhằm bảo đảm


7


chặt chẽ, công bằng, tạo động lực thúc đẩy người lao động công tác tốt, tăng năng
suất lao động.
Bên cạnh đó, cần tích cực chống các biểu hiện tiêu cực, thất thốt trong
cơng tác bảo hiểm xã hội. Các cơ quan thanh tra phải kết luận giải quyết dứt điểm
những vi phạm đã được phát hiện, đồng thời thường xuyên kiểm tra , phát hiện và
xử lý kịp thời các hành vi vi phạm các chế độ bảo hiểm xã hội, những trường hợp
nghiêm trọng phải truy tố trước pháp luật.
Để các qui định về chế độ bảo hiểm xã hội thực sự đi vào cuộc sống, để mọi
người dân hiểu rõ về chế độ bảo hiểm xã hội cần coi trọng công tác tuyên truyền,
giáo dục cán bộ, đảng viên, nhân dân nhận thức đúng về ý nghĩa của bảo hiểm xã
hội, động viên mọi người tích cực và chủ động tham gia công tác bảo hiểm xã hội.
3.3. Mục tiêu xử lý tình huống
Giải quyết thoả đáng chế độ cho người lao động một cách hợp tình, hợp lý.
Đồng thời, bảo đảm nguyên tắc của ngành thu đúng, thu đủ, chi đúng, chi đủ, tránh
gây thất thoát của Nhà nước. Bên cạnh đó, làm tốt cơng tác tun truyền, động
viên để mọi người tham gia thực hiện tốt chế độ Bảo hiểm xã hội.
IV. XÂY DỰNG, PHÂN TÍCH VÀ LỰA CHỌN PHƯƠNG ÁN GIẢI
QUYẾT TÌNH HUỐNG
4. 1. Xây dựng phương án:
Cơ sở để xây dựng phương án:
- Theo qui định khoản 1 Điều 66 Luật Bảo hiểm xã hội 2014 qui định các
đối tượng sau khi chết thì người lo mai táng được nhận trợ cấp mai táng bằng 10
tháng tiền lương tối thiểu chung.
- khoản 2 Điều 67 Luật Bảo hiểm xã hội 2014, thân nhân người lao động
được hưởng trợ cấp tuất hàng tháng bao gồm:
- Con chưa đủ 18 tuổi; con từ đủ 18 tuổi trở lên bị suy giảm khả năng lao
động từ 81% trở lên; con được sinh khi người bố chết mà người mẹ đang mang

thai;

8


- Vợ từ đủ 55 tuổi trở lên hoặc chồng từ đủ 60 tuổi trở lên; vợ dưới 55 tuổi,
chồng dưới 60 tuổi nếu bị suy giảm khả năng lao động từ 81% trở lên;
- Cha đẻ, mẹ đẻ, cha đẻ của vợ hoặc chồng, mẹ đẻ của vợ hoặc chồng, thành
viên khác trong gia đình mà người lao động đang có nghĩa vụ ni dưỡng nếu từ
đủ 60 tuổi trở lên đối với nam, 55 tuổi trở lên đối với nữ;
- Cha đẻ, mẹ đẻ, cha đẻ của vợ hoặc chồng, mẹ đẻ của vợ hoặc chồng, thành
viên khác trong gia đình mà người lao động đang có nghĩa vụ nuôi dưỡng nếu dưới
60 tuổi đối với nam, dưới 55 tuổi đối với nữ và bị suy giảm khả năng lao động từ
81% trở lên.

Đối chiếu với các quy định trên , trường hợp của anh Đ con ông T

thuộc đối tượng người lao động bảo lưu thời gian tham gia bảo hiểm xã hội bị chết.
Như vậy, tôi xin nêu ra một số phương án xử lý tình huống như sau:
a. Phương án 1 :
Từ chối việc giải quyết lại chế độ tử tuất cho anh Nguyễn Văn Đ và hướng
dẫn ơng Nguyễn Văn T làm đơn có xác nhận của chính quyền địa phương về việc
con trai ông đã chết (vì không thể làm thủ tục uỷ quyền hợp lệ) trực tiếp đến Bảo
hiểm xã hội huyện Quỳ Hợp để nhận trợ cấp một lần của anh Đ.
- Ưu điểm :
+ Thủ tục đơn giản, giải quyết việc nhận tiền nhanh chóng kịp thời.
+ Có cơ sở để giải quyết như vậy, vì tại thời điểm tháng 8 năm 2009 đã có
đơn đề nghị hưởng trợ cấp một lần của anh Nguyễn Văn Đ có xác nhận của chính
quyền địa phương Thị trấn Quỳ Hợp.
- Nhược điểm :

+ Chưa thoả đáng về quyền lợi của người lao động cũng như thân nhân họ.
b. Phương án hai:
Không thực hiện chi trả trợ cấp một lần của anh Đ cho ơng Nguyễn Văn T.
Đồng thời, tiếp nhận đơn có xác nhận của chính quyền địa phươngvề sự việc trên
và thủ tục hồ sơ để giải quyết chế độ tử tuất cho anh Nguyễn Văn Đ.
Ưu điểm :
+ Đảm bảo quyền lợi cho người tham gia bảo hiểm xã hội, khơng mất nhiều
thời gian của đối tượng, khơng cịn sự khiếu kiện.
9


+ Tạo được niềm tin của nhân dân.
Nhược điểm :
+ Nếu thực hiện theo phương án này thì cịn chủ quan, thiếu sự kiểm tra thực
tế có thể dẫn tới thực hiện xét duyệt chế độ sai quy định, gây hậu quả lâu dài. Có
thể gây thất thốt nghiêm trọng ảnh hưởng đến nền kinh tế của đát nước.
c. Phương án 3:
Bảo hiểm xã hội huyện Quỳ Hợp mời ông Nguyễn Văn T trực tiếp trình bày
lại tồn bộ sự việc nhằm làm rõ thêm đơn đề nghị của ông. Từ đó, tư vấn để ơng
hiểu hơn về chế độ chính sách Bảo hiểm xã hội và quyền lợi, nghĩa vụ của người
tham gia bảo hiểm xã hội. Đồng thời, hiểu rõ hơn trách nhiệm của chủ sử dụng lao
động đối với người lao động. Hướng dẫn ông nộp đầy đủ hồ sơ trợ cấp một lần đã
được Bảo hiểm xã hội thành phố Hà Nội giải quyết và kèm theo giấy chứng tử của
anh Nguyễn Văn Đ đã được Uỷ ban nhân dân Thị trấn Quỳ Hợp cấp ngày 01 tháng
09 năm 2020.
Tiếp theo, Bảo hiểm xã hội huyện sẽ trực tiếp làm việc với Cơng ty CK tìm
ra nguyên nhân từ đó đưa ra hướng giải quyết đúng qui định. Đồng thời, Bảo hiểm
xã hội huyện Quỳ Hợp sẽ trực tiếp xuống tận địa bàn nơi gia đình ông T sinh sống
để xác minh ngày, tháng, năm chết thực tế của anh Nguyễn Văn Đ. Từ đó, có cơ sở
để làm việc với Uỷ ban nhân dân Thị trấn Quỳ Hợp. Nếu thực tế anh Đ chết đúng

với ngày tháng năm đã ghi trên giấy chứng tử Uỷ ban nhân dân Thị trấn Quỳ Hợp
đã cấp thì Bảo hiểm xã hội huyện sẽ phối hợp với chính quyền địa phương hướng
dẫn ông T làm các thủ tục tiếp theo để trình Bảo hiểm xã hội tỉnh xem xét giải
quyết.
Ưu điểm:
+ Làm rõ được trách nhiệm của ủy ban nhân dân Thị trấn Quỳ Hợp là phải
thường xuyên cập nhật sổ quản lý hộ khẩu các đối tượng đã chết, tăng cường công
tác kiểm tra trước khi ký xác nhận. Đồng thời, cũng làm rõ được trách nhiệm của
Công ty A đối với người lao động.
+ Bản thân ông T và gia đình được hiểu biết hơn về các chế độ chính sách
bảo hiểm xã hội.
10


+ Thể hiện được tính nhân văn sâu sắc của chính sách Bảo hiểm xã hội là
ln ln bảo vệ lợi ích hợp pháp của người lao động.
Nhược điểm:
+ Nếu xử lý theo tình huống này thì ngành Bảo hiểm xã hội phải đầu tư
nhiều thời gian để xác minh thực tế theo đơn trình bày của ơng T.
4.2. Lựa chọn Phương án tối ưu:
Từ sự phân tích đánh giá ưu, nhược điểm của các phương án trên, nên chọn
phương án 3, bởi vì:
Đây là phương án hữu hiệu nhất vừa đảm bảo thực hiện đúng pháp luật của
Nhà nước, vừa giải quyết thoả đáng chế độ cho người lao động hợp tình, hợp lý.
Đồng thời, bảo đảm nguyên tắc của ngành thu đúng, thu đủ, chi đúng, chi đủ, tránh
gây thất thốt của Nhà nước. Bên cạnh đó, làm tốt công tác tuyên truyền, động
viên để mọi người tham gia thực hiện tốt chế độ Bảo hiểm xã hội
V. LẬP KẾ HOẠCH THỰC HIỆN PHƯƠNG ÁN
Sau khi xác định phương án 3 là phương án tối ưu nhất, tôi lập kế hoạch và
thực hiện các bước sau để thực hiện

Bước 1 : Bảo hiểm xã hội huyện Quỳ Hợp căn cứ vào đơn trình bày của ơng
T, trực tiếp xuống làm việc với Uỷ ban nhân dân Thị trấn xác minh ngày, tháng,
năm chết của anh Đ thông qua làm việc với các bộ phận tư pháp, công an, đồng chí
trưởng Khối 2, đồng chí bí thư chi bộ Khối 2 và người phụ trách công tác dân số ở
Khối 2.
Bước 2: Sau khi xác minh ngày chết của anh Đ đúng với giấy chứng tử Uỷ
ban nhân dân Thị trấn Quỳ Hợp đã cấp. Uỷ ban nhân dân Thị trấn Quỳ Hợp làm tờ
trình giải trình về việc đã sai sót trong việc ký xác nhận vào đơn hưởng trợ cấp một
lần của anh Đ (khi đó anh Đ đã chết) có xác nhận của Uỷ ban nhân dân huyện Quỳ
Hợp và đề nghị Bảo hiểm xã hội huyện Quỳ Hợp, Bảo hiểm xã hội Tỉnh Nghệ An
xem xét giải quyết. Đồng thời, có trách nhiệm xử lý vi phạm hành chính đối với
cán bộ chun mơn đã tham mưu cho lãnh đạo ký xác nhận.
Bước 3: Yêu cầu Cơng ty CK làm tờ trình gửi Bảo hiểm xã hội Tỉnh Nghệ
An, Bảo hiểm xã hội huyện Quỳ Hợp giải trình sự việc đã lập hồ sơ đề nghị giải
11


quyết sai chế độ cho người lao động và đề nghị Bảo hiểm xã hội các cấp xem xét,
giải quyết lại chế độ BHXH cho anh Đ.
Bước 4: Bảo hiểm xã hội huyện Quỳ Hợp có trách nhiệm hướng dẫn ông T
lập đầy đủ thủ tục hồ sơ đề nghị giải quyết chế độ tử tuất cho anh Đ hoàn chỉnh
gồm các giấy tờ sau:
- Sổ BHXH và quyết định hưởng trợ cấp một lần của anh Nguyễn Văn Đ;
- Đơn đề nghị không nhận trợ cấp một lần và đề nghị được hưởng chế độ tử
tuất: 01 bản;
- Tờ khai hồn cảnh gia đình: 04 bản;
- Giấy chứng tử: 4 bản (1 bản chính +3 bản sao hoặc cơng chứng)
Bước 5: Ông T trực tiếp đến bộ phận giao dịch một cửa Bảo hiểm xã hội
huyện Quỳ Hợp nộp toàn bộ hồ sơ nêu trên. Cán bộ chuyên trách tại bộ phận giao
dịch một cửa Bảo hiểm xã hội huyện kiểm tra hồ sơ đầy đủ tiếp nhận, lập phiếu

hẹn trả kết quả trong thời gian là 15 ngày làm việc theo Quyết định số 02/QĐBHXH ngày 15 tháng 02 năm 2021 của Giám đốc Bảo hiểm xã hội huyện Quỳ
Hợp và Quyết định số 132/QĐ-BHXH ngày 11 tháng 02 năm 2021 của Giám đốc
bảo hiểm xã hội Tỉnh Nghệ An.
Bước 6 : Bộ phận giao dịch một cửa Bảo hiểm xã hội huyện Quỳ Hợp
chuyển bàn giao cho bộ phận chế độ bảo hiểm xã hội xử lý nghiệp vụ. Tiếp theo,
bộ phận chế độ bảo hiểm xã hội phối hợp với bộ phận kế toán đối chiếu với danh
sách chuyển nguồn tháng 8 năm 2021 để xem số tiền trợ cấp một lần của anh Đ mà
Bảo hiểm xã hội Tỉnh Nghệ An cấp về trong tháng 8 năm 2021. Đồng thời, thực
hiện ý kiến chỉ đạo của Giám đốc Bảo hiểm xã hội huyện Quỳ Hợp soạn thảo văn
bản gửi Bảo hiểm xã hội Tỉnh Nghệ An xem xét, giải quyết. Trong đó, xác nhận rõ
Bảo hiểm xã hội huyện Quỳ Hợp chưa thực hiện chi trả trợ cấp một lần cho thân
nhân anh Nguyễn Văn Đ.
Bước 7: Bộ phận chế độ chính sách bảo hiểm xã hội huyện Quỳ Hợp tiến
hành thu thập toàn bộ đầy đủ hồ sơ của anh Đ (Bao gồm: hồ sơ ông T nộp; Biên
bản xác minh ngày, tháng, năm chết của anh Đ; Công văn đề nghị của Bảo hiểm xã
hội huyện; Tờ trình của Cơng ty A) nộp cho Phòng tiếp nhận – quản lý hồ sơ Bảo
12


hiểm xã hội thành phố Hà Nội. Phòng tiếp nhận – quản lý hồ sơ sẽ lập phiếu hẹn
trả kết quả trong thời gian ngắn nhất là 10 ngày làm việc.
Bước 8: Các phòng nghiệp vụ ở Bảo hiểm xã hội Tỉnh Nghệ An sẽ phối hợp
xử lý, rút hồ sơ trợ cấp một lần của anh Thành để tính toán lại số tiền trợ cấp tử
tuất một lần dựa trên hồ sơ tham gia BHXH của anh Đ và tiền mai táng phí. Sau
đó, sẽ đối trừ với số tiền trợ cấp BHXH một lần đã được xét duyệt trước đó. Tiến
hành cấp nguồn kinh phí về cho Bảo hiểm xã hội huyện kịp thời. Đồng thời, đính
kèm hồ sơ giải quyết trợ cấp tử tuất một lần cho anh Đ với hồ sơ trợ cấp một lần
trước đó và lưu trữ đúng qui định.
Bước 9: Đến ngày hẹn Bảo hiểm xã hội huyện Quỳ Hợp trực tiếp phòng
giao nhận hồ sơ Bảo hiểm xã hội Tỉnh Nghệ An nhận lại 2 bộ hồ sơ hưởng trợ cấp

tử tuất một lần của anh Nguyễn Văn Đ. Sau đó, Bảo hiểm xã hội huyện có trách
nhiệm thơng báo cho ơng T đến nhận kết quả giải quyết theo đúng thời gian đã
hẹn. Đồng thời, tách hồ sơ, 01 bộ chuyển bộ phận hồ sơ đưa vào lưu trữ và tiến
hành bàn giao 01 bộ hồ sơ trợ cấp tử tuất một lần cho ông T.
VI. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
6.1. Kết luận
Bảo hiểm xã hội có vị trí quan trọng đối với công tác an sinh xã hội của mỗi
quốc gia. Cùng với yêu cầu và nhiệm vụ của cuộc Cách mạng xã hội chủ nghĩa,
từng thời kỳ khác nhau, các quy định về chính sách Bảo hiểm xã hội được sửa đổi
bổ sung một cách linh hoạt, phù hợp nhằm đáp ứng, huy động tối đa về sức người,
sức của của nhân dân cho công cuộc Cách mạng, ổn định dần dần và ngày càng
nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho người lao động.
Vấn đề mà tình huống đưa ra đã được phân tích đúng, sai, có phương án tối
ưu để thực hiện giải quyết chế độ Bảo hiểm xã hội cho người lao động, vừa đúng
với các qui định của nhà nước, vừa thấu tình đạt lý. Điều quan trọng nhất là chế độ
của người lao động được đảm bảo, các đơn vị sử dụng lao động có liên quan đến
tình huống trên nhận thấy được những khuyết điểm của cán bộ mình đang quản lý.
Từ đó, có những biện pháp khắc phục kịp thời và có hình thức xử lý vi phạm đúng
13


đắn. Đồng thời, tăng cường hơn nữa công tác kiểm tra khi xử lý nghiệp vụ hàng
ngày. Cán bộ trực tiếp làm công việc chuyên môn cũng nhận thấy được những sai
sót và rút kinh nghiệm trong xử lý nghiệp vụ và cần phải học hỏi nhiều hơn nữa để
nâng cao kiến thức, năng lực chuyên môn nhằm phục vụ tốt hơn công tác.
- Việc thực hiện giải quyết chế độ chính sách cho người lao động theo Luật
baỏ hiểm xã hội được đối tượng cũng như chủ sử dụng lao động yên tâm và thực
sự tin tưởng vào sự nghiệp phát triển của ngành Bảo hiểm xã hội.
Qua hơn 20 năm ra đời và đi vào hoạt động , kết quả đạt được của ngành
Bảo hiểm xã hội hết sức khả quan, đặc biệt là vấn đề thu nộp Bảo hiểm xã hội . Kết

quả thu được cao gấp hàng chục lần những năm trước đây. Thực hiện lộ trình cải
cách hành chính theo cơ chế một cửa đã thực sự đem lại hiệu quả rõ rệt.Việc giải
quyết các chế độ BHXH cho người lao động được tiến hành kịp thời và khoa học
hơn, chính xác hơn, tránh được tình trạng gian lận hồ sơ. Thực hiện tốt chính sách
bảo hiểm xã hội nhằm đảm bảo ổ định kinh tế, an ninh, an toàn trật tự xã hội.
6.2. Kiến nghị
Bảo hiểm xã hội là một chính sách lớn của Đảng và Nhà nước , thể hiện sự
quam tâm đối với quyền lợi của người lao động .Việc thực hiện các chế độ chính
sách Bảo hiểm xã hội theo cơ chế mới phù hợp với cơ chế thị trường, dựa trên
nguyên tắc có đóng BHXH mới được hưởng các chế độ BHXH là hoàn toàn đúng .
1. Gần hơn 5 năm thực hiện Luật bảo hiểm xã hội số 58/2014/QH13 ngày 20
tháng 11 năm 2014 chúng ta thấy rằng: Luật bảo hiểm xã hội là hành lang pháp lý
cao nhất để mọi tổ chức, cá nhân chấp hành qui định về chính sách bảo hiểm xã hội
theo qui định của Pháp luật. Trong q trình thực hiện cơng tác ngành Bảo hiểm xã
hội đã góp phần quan trọng trong việc thực hiện chính sách Bảo hiểm xã hội của
Đảng và Nhà nước đề ra, góp phần đảm bảo an sinh xã hội. Tuy nhiên, trong q
trình thực hiện vẫn cịn nhiều vấn đề tồn tại và bất cập.
- Về qui định mức đóng vào quỹ ốm đau và thai sản bằng 3%; trong đó
người sử dụng lao động giữ lại 2% để chi trả kịp thời cho người lao động đủ điều
kiện hưởng các chế độ ốm đau, thai sản. Thực tế, hiện nay ở Nghệ An phần lớn các
đơn vị sử dụng lao động có số lao động ít, số 2% tổng quỹ lương để lại hàng quý là
14


rất nhỏ, không đủ để chi trả cho người lao động khi họ hưởng chế độ thai sản.
Trong khi đó, nhiều đơn vị nguồn kinh phí hạn hẹp nên họ khơng chủ động được
nguồn kinh phí để thanh tốn cho người lao động mà phải chờ đến đầu quý sau
quyết toán xong với cơ quan Bảo hiểm xã hội mới có tiền để trả cho người lao
động. Như vậy, chúng ta khơng thể nói là chi trả kịp thời chế độ ốm đau, thai sản
cho người lao động. Xuất phát từ những bất cập đó Nhà nước chúng ta cần phải có

giải pháp khắc phục tình trạng trên để đảm bảo quyền lợi cho người lao động khi
tham gia bảo hiểm xã hội.
- Về chế độ trợ cấp tuất hàng tháng cho các đối tượng là con từ 15 tuổi trở
lên; vợ, cha đẻ, mẹ đẻ, cha vợ, cha chồng, mẹ vợ, mẹ chồng nếu dưới 60 tuổi đối
nam, dưới 55 tuổi đối với nữ và bị suy giảm khả năng lao động từ 81% trở lên mới
được hưởng trợ cấp tuất hàng tháng. Nhưng việc qui định thời hạn giới thiệu giám
định mức suy giảm khả năng lao động trong vòng 2 tháng kể từ khi người lao động
chết là q ngắn.
2. Bên cạnh đó, cơng tác thơng tin tuyên truyền chưa làm được nhiều, đội
ngũ làm cộng tác tuyên truyền chưa đủ mạnh cả về chiều sâu và chiều rộng. Vì vậy
cần sớm có chính sách, biện pháp đầu tư thoả đáng vào công tác thông tin - tuyên
truyền , không chỉ dừng lại ở việc tuyên truyền các chế độ , chính sách của Đảng
và Nhà nước mà cần phải đẩy mạnh tuyên truyền về mọi mặt hoạt động của hệ
thống BHXH việt nam cũng như kinh nghiệm về BHXH trong mọi tầng lớp người
lao động và tồn xã hội, tiến tới xã hội hố về BHXH. Thơng qua đó giúp người
lao động thấy rõ được quyền lợi và nghĩa vụ và nâng cao trách nhiệm của mình
trong việc tham gia BHXH . Cần khẳng định rằng : Chỉ khi nào người lao động có
nhận thức đầy đủ về lĩnh vực BHXH thì chính họ sẽ là người giám sát chủ sử dụng
lao động trong việc chấp hành , thực hiện nghiêm túc các chế độ , chính sách Bảo
hiểm xã hội.
3. Một số đơn vị, doanh nghiệp tuy có thành lập tổ chức cơng đồn, nhưng
tổ chức này mới chỉ hoạt động có mức độ, chưa nghiên cứu thật sâu các chế độ,
chính sách BHXH nên cũng chưa đòi hỏi quyền lợi cho người lao động. Trong khi
đó , các chủ sử dụng lao động vì lợi ích cá nhân, bằng mọi cách cố tình trốn tránh
15


nghĩa vụ tham gia BHXH. Cán bộ làm công tác bảo hiểm xã hội tại một số đơn vị
chưa thực sự nắm bắt được các qui định về chế độ chính sách bảo hiểm xã hội, làm
việc thiếu tinh thần trách nhiệm dẫn đến những sai sót khơng đáng có. Vì vậy, cần

phải bồi dưỡng nghiệp vụ về cơng tác bảo hiểm xã hội cho các đơn vị sử dụng lao
động thôg qua các kênh thông tin tuyên truyền, các lớp tập huấn…
4. Cần phải có sự phối hợp chặt chẽ của các cấp, các ngành cùng với ngành
Bảo hiểm xã hội trong việc thực hiện công tác bảo hiểm xã hội.
5. Qua nhìn nhận tình huống trên ta thấy rằng cần phải coi trọng yếu tố con
người. Để có một xã hội trong sạch vững mạnh chúng ta cần có những con người
có phẩm chất đạo đức tốt, có trình độ chun mơn nghiệp vụ cao, có tinh thần trách
nhiệm, biết tôn trọng và lắng nghe ý kiến của nhân dân. Luôn đấu tranh với tệ tham
nhũng, quan liêu, hách dịch, cửa quyền, thiếu tinh thần trách nhiệm trong xử lý
nghiệp vụ hàng ngày. Làm được như vậy là chúng ta đã góp phần làm cho bộ máy
Nhà nước ta ngày càng vững mạnh.

16


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Luật Bảo hiểm xã hội của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt nam số
58/2014/QH13 ngày 20 tháng 11 năm 2014;
- Nghị định số 15/2015/NĐ-CP ngày 11 tháng 11 năm 2015 hướng dẫn một
số điều của Luật Bảo hiểm xã hội về bảo hiểm xã hội bắt buộc;
- Nghị định số 34/2015/NĐ-CP ngày 29 tháng 12 năm 2015 hướng dẫn một
số điều của Luật Bảo hiểm xã hội về bảo hiểm xã hội bắt buộc;
- Thông tư số Số: 59/2015/TT-BLĐTBXH ngày 29 tháng 12 năm 2015 quy
định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của luật Bảo hiểm xã hội về bảo
hiểm xã hội bắt buộc
- Thông tư số 06/2021/TT-BLĐTBXH ngày 7/7/2021 về sửa đổi, bổ sung
một số điều của Thông tư số 59/2015/TT-BLĐTBXH ngày 29 tháng 12 năm 2015
của Bộ trưởng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội quy định chi tiết và hướng
dẫn thi hành một số điều của Luật Bảo hiểm xã hội về bảo hiểm xã hội bắt buộc.


17


MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU
I. MƠ TẢ TÌNH HUỐNG
II. PHÂN TÍCH NGUYÊN NHÂN VÀ HẬU QUẢ
2.1. Phân tích sự đúng, sai của tình huống
2.2. Nguyên nhân của tình huống
2.3. Hậu quả của tình huống
III. MỤC TIÊU XỬ LÝ TÌNH HUỐNG
3.1. Quan điểm chung
3.2. Quan điểm của Đảng
3.3. Mục tiêu xử lý
IV. XÂY DỰNG, PHÂN TÍCH VÀ PHƯƠNG ÁN GIẢI QUYẾT
4.1. Xây dựng phương án
4.2 Lựa chọn phương án tối ưu
V. LẬP KẾ HOẠCH THỰC HIỆN PHƯƠNG ÁN
VI. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
6.1. Kết luận
6.2. Kiến nghị

18

Trang
1
3
4
4
5

5
6
6
7
8
8
8
10
11
13
13


Quỳ Hợp, ngày

NHẬN XÉT CỦA GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………

19




×