Tải bản đầy đủ (.docx) (9 trang)

Bài thu hoạch diễn án hồ sơ dân sự 06 Chu Khắc Trường

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (97.48 KB, 9 trang )

HỌC VIỆN TƯ PHÁP
CƠ SỞ TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
ο

BÀI THU HOẠCH DIỄN ÁN

Môn: Kỹ năng cơ bản của Luật Sư khi tham gia giải quyết các vụ án dân sự.
Số hồ sơ: 06
Ngày diễn án: 31/08/2021
Giáo viên hướng dẫn: NGUYỄN THỊ HƯƠNG GIANG

Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 31 tháng 08 năm 2021
1
1


PHẦN I: CHUẨN BỊ TẠI NHÀ
1. TĨM TẮT VỤ VIỆC

Ơng Chu Khắc Trường (mất năm 1945) và bà Chu Thị Cúc (mất năm 1990)
có 04 người con là: Chu Thị Thanh, Chu Khắc Sinh, Chu Thị The và Chu Thị
Loan. Sinh thời ông Trường và bà Cúc sống cùng các con trên mảnh đất diện tích
777m2 thuộc thửa số 40, tờ bản đồ số 2 lập năm 1998 tại thôn 6, xã Phù Vân, TP
Phủ Lý, tỉnh Hà Nam. Trên thửa đất này có một căn nhà gỗ hai gian lợp ngói, vách
đất với diện tích là 183.4m2. Sau khi ông Trường mất, bà Cúc tiếp tục sống tại thửa
đất đó, 4 người con thì thốt li, đi xa làm ăn và lập gia đình riêng.
Bà Cúc mất để lại di sản trên khơng có di chúc. Ngày 20/01/1994, Ơng Chu
Khắc Sinh trở về quê làm giấy chuyển quyền thừa kế cho ơng Chu Khắc Thun
mà khơng có sự đồng ý của các chị em trong gia đình. Nội dung chuyển quyền là
chuyển toàn bộ 502m2 đất thổ cư, một nhà hai gian lợp ngói mái vách đất, ao cùng
tồn bộ cây cối, hoa màu lưu niên trên đất; giấy chuyển quyền có xác nhận của


trưởng tộc họ Chu Khắc, ông Chu Hải Nông (trưởng thôn 6), ông Chu Khắc Chinh
và UBND xã Phù Vân. Cũng vào lúc đó vợ chồng ông Sinh (vợ là bà Đinh Thị
Tám) ghi giấy biên nhận đưa cho ông Sinh 1.500.000 đồng để đi kinh tế mới
nhưng vì gấp nên chỉ đưa 500.000 đồng, 1.000.000 đồng cịn lại hẹn 2014 sẽ đưa
nhưng mãi khơng thấy ông Sinh quay lại lấy.
Khoảng tháng 04/1994, bà Chu Thị Thanh và Chu Thị The biết việc ông
Sinh tự ý chuyển quyền nên về quê làm đơn khiếu nại yêu cầu UBND xã Phù Vân
chấm dứt giấy chuyển quyền này. Ngày 10/04/1994, UBND xã Phù Vân ra thông
báo số 05/TB-UB về việc tạm đình chỉ việc chuyển quyền thừa kế.
Sau khi cả gia đình nội ngoại hai bên bàn bạc họp gia đình xong, ngày
15/04/1994 các chị em trong nhà gồm bà Thanh, bà Loan, ông Sinh và bà The
thống nhất giao mảnh đất trên cho vợ chồng ông Thuyên bà Tám trông coi, quản
lý, nội dung cụ thể: giao quyền sử dụng đất và nhà trên đất cùng các cây cối lưu
niên cho ông Thuyên sử dụng, thu hoạch với thời hạn 05 năm. Ơng Thun có
trách nhiệm trơng nom, hưởng 50% hoa lợi nhưng phải có nghĩa vụ nộp thuế nhà
nước. Biên bản về việc chuyển quyền này có xác nhận của những người trong họ
và cả chính quyền địa phương.
Ngày 29/05/2012, bà Đinh Thị Tám tiến hành tập kết vật liệu và cho xây
dựng nhà trên mảnh đất này. Biết tin bà Thanh, bà Loan về quê yêu cầu bà Tám
chấm dứt việc xây dựng tuy nhiên bà Tám vẫn tiếp tục xây. Bà Thanh và bà Loan
u cầu chính quyền can thiệp nhưng vì chính quyền làm khơng tới nên bà Tám
vẫn xây nhà bình thường. Hai bên tiến hành hoà giải tại UBND xã Phù Vân, lần 1
vào ngày 19/06/2012 và lần 2 vào 25/10/2012 nhưng không thành.
2
2


Ông Sinh cùng bà Thanh tiến hành nộp đơn khởi kiện bà Tám tại TAND TP
Phủ Lý, tỉnh Hà Nam vào ngày 05/11/2012 với yêu cầu bà Tám trả lại mảnh đất,
nhà trên đất cùng với cây cối trên đất và 50% tổng giá trị thu nhập cây lưu niên từ

15/4/1994 cho đến nay. Toà án nhân dân TP Phủ Lý thụ lý vụ án số 20/TB-TLVA
ngày 09/11/2012. Ngày 23/02/2013 Ông Chu Khắc Sinh yêu cầu định giá tài sản là
thửa đất số 2 thuộc tờ bản đồ số 40 lập năm 1988 diện tích 777.4m2, nhà cửa và tài
sản cây cối trên đất và được toà án ra quyết định 02/2012/QĐ-ĐG định giá tài sản
tranh chấp.
Ngày 03/08/2013 vụ án được TAND TP Phủ Lý đưa ra xét xử theo quyết
định số 65/2012/QĐST-DS.
2. TƯ CÁCH ĐƯƠNG SỰ
2.1. NGUYÊN ĐƠN:
- Chu Thị Thanh (Chu Thị Hồng Thanh) – sinh năm 1930, địa chỉ: 12 tổ
-

3
3

16 phường Nam Thanh, TP Điện Biên, tỉnh Điện Biên;
Chu Khắc Sinh (Chu Văn Sinh) – sinh năm 1963, địa chỉ: thơn Vạn
Thắng, xã Hồ Thắng, huyện Hữu Lũng, tỉnh Lạng Sơn.

2.2.

ĐẠI DIỆN THEO UỶ QUYỀN CỦA NGUYÊN ĐƠN:
- Chu Thị Hồng Tâm – sinh năm 1970, địa chỉ: 61 tổ 16 phường Nam
Thanh, TP Điện Biên, tỉnh Điện Biên.

2.3.

BỊ ĐƠN:
- Đinh Thị Tám – sinh năm 1936, địa chỉ: thôn Vạn Thắng, huyện Hữu
Lũng, tỉnh Lạng Sơn.


2.4.

NGƯỜI CÓ QUYỀN LỢI VÀ NGHĨA VỤ LIÊN QUAN:
- Chu Thị Loan – sinh năm 1935, địa chỉ: tổ 3 phường Cầu Thía, thị xã
Nghĩa Lộ, tỉnh Yên Bái. Đại diện theo uỷ quyền là Chu Anh Quyết –
sinh năm 1952, địa chỉ: thôn 6, xã Phù Vân, TP Phủ Lý, tỉnh Hà Nam
theo giấy uỷ quyền ngày 21/11/2012 do UBND Cầu Thía chứng thực);
- Chu Thị The – sinh năm 1944, địa chỉ: đội 1 thôn Diên Điền, xã Bình
Hồ, huyện Giao Thuỷ, tỉnh Nam Định. Đại diện theo uỷ quyền là Đại
diện theo uỷ quyền là Chu Anh Quyết – sinh năm 1952, địa chỉ: thôn
6, xã Phù Vân, TP Phủ Lý, tỉnh Hà Nam theo giấy uỷ quyền ngày
21/11/2012 do UBND Cầu Thía chứng thực);
- Chu Khắc Hồng – sinh năm 1956;
- Trần Thị Đắc – sinh năm 1957;
- Chu Thị Mai – sinh năm 1952;


Cùng địa chỉ: thôn 6, xã Phù Vân, TP Phủ Lý, tỉnh Hà Nam
3. YÊU CẦU KHỞI KIỆN
- Yêu cầu bà Đinh Thị Tám trả lại diện tích đất 777m2 tại thửa đất số

-

thuộc thửa số 40, tờ bản đồ số 2 lập năm 1998 tại thôn 6, xã Phù Vân,
TP Phủ Lý, tỉnh Hà Nam cho các ông, bà Chu Khắc Sinh, Chu Thị
Thanh, Chu Thị The, Chu Thị Loan;
u cầu tháo dỡ các cơng trình, nhà cửa mà bà Đinh Thị Tám đã xây
dựng trái phép trên đất;
Yêu cầu bà Đinh Thị Tám trả lại nhà và cây cối trên thửa đất và hoa

màu trên đất với 50% tổng giá trị thu nhập cây lưu niên từ 15/4/1994
theo giấy gửi UBND xã Phù Vân, TP Phủ Lý, tỉnh Hà Nam (năm
1994).

4. CÁC VĂN BẢN PHÁP LUẬT ÁP DỤNG
- Bộ luật dân sự 1995, 2005, 2015;
- Bộ luật tố tụng dân sự 2015;
- Lệnh công bố Pháp lệnh thừa kế số 44-LCT/HĐNN8 ngày
-

-

10/09/1990;
Nghị quyết ngày 28/10/1995 của Quốc hội khố IX về thi hành BLDS
1995;
Thơng tư liên ngành số 03/TTLN ngày 10/08/1996 của TANDTC –
VKSNDTC;
Nghị quyết 02/2004/NQ-HĐTP ngày 10/08/2004 của HĐTP
TANDTC hướng dẫn áp dụng pháp luật trong việc giải quyết các vụ
án dân sự, hơn nhân gia đình;
Nghị quyết 02/HĐTP ngày 19/10/1990 về việc áp dụng một số quy
định của pháp lệnh thừa kế ;
Nghị quyết 45/2005/NQ-QH11 ngày 14/06/2006 của Quốc hội về thi
hành BLDS 2005;
Nghị quyết 103/2015/QH13 ngày 25/11/2015 về thi hành BLTTDS.

5. KẾ HOẠCH HỎI TẠI PHIÊN TOÀ
5.1. HỎI BỊ ĐƠN: Bà Đinh Thị Tám
- Bà cho biết mối quan hệ giữa bà và Chu Thị Thanh, Chu Khắc Sinh?
- Vào thời điểm 1994, bà có nhận được/biết được về giấy chuyển quyền


thừa kế của cá nhân ông Sinh chuyển cho chồng bà là Chu Khắc
Thuyên không?
4
4


-

-

-

Vào khoảng tháng 04/1994, vợ chồng bà có nhận được thơng báo tạm
đình chỉ việc chuyển quyền thừa kế nào không?
Xin bà cho biết bà Thanh, Bà The, ông Sinh, bà Loan đồng ý thống
nhất chuyển quyền trông nom, quản lý phần đất tranh chấp vào thời
gian nào và trong bao lâu?
Xin bà trình bày về việc thực hiện nghĩa vụ thuế đối với thửa đất tranh
chấp từ năm nào tới nằm nào? Về biên lai đóng thuế bà cịn giữ hay đã
mất?
Xin bà cho biết bà có từng sinh sống trên thửa đất tranh chấp không?
Sống từ khi nào đến khi nào?
Sau khi chồng bà là ông Chu Khắc Thuyên chết, ai là người trực tiếp
trông nom, thu hoạch hoa màu trên thửa đất?
Xin bà cho biết lý do bà tiến hành xây dựng cơng trình nhà ở trên thửa
đất tranh chấp?
Xin bà cho biết chi tiết tài sản cơng trình là nhà ở do bà mới xây dựng
có diện tích bao nhiêu và xây vào thời gian nào?


5.2. HỎI NGƯỜI CÓ QUYỀN LỢI VÀ NGHĨA VỤ LIÊN QUAN
5.2.1. HỎI BÀ CHU THỊ MAI
- Bà Mai phần nghĩa vụ tài chính và thuế đối với tài sản đang tranh
-

chấp 777m2 là do ai thực hiện từ đó đến nay?
Bà Mai cho biết từ đó đến nay bà có thấy hoặc biết gì về việc gia đình
bà tức ơng Thun và bà Tám có gửi tiền gì cho bốn chị em bà Thanh
khơng?

5.3. HỎI NGUN ĐƠN
5.3.1. HỎI ƠNG CHU KHẮC SINH
- Ơng cho biết thời điểm sau khi cha ơng là Chu Khắc Trường mất, ông
-

sống ở đâu và cùng với ai?
Ơng cho biết sau khi cha ơng mất thì mẹ ông là bà Cúc sống ở đâu và
cùng với ai?
Ơng cho biết khi mẹ ơng mất ơng có trở về q – nơi có thửa đất tranh
chấp khơng? Nếu có thì trong bao lâu?
Ơng cho biết khi ơng thực hiện chuyển quyền sử dụng đất vào ngày
15/04/1994 cho ông Thuyên thì các chị em là bà Thanh, bà Loan, bà
The có biết vấn đề này khơng?

5.3.2. HỎI BÀ CHU THỊ THANH
5
5


-


-

-

Bà Thanh cho biết quá trình sinh sống của mình từ năm 1990 cho đến
nay?
Bà Thanh cho biết thửa đất tranh chấp trên đã thực hiện khai nhận di
sản chưa?
Bà cho biết lúc mẹ bà là bà Cúc ốm đau bà hay anh chị em nào về
thăm hỏi, trông nom khơng? Lúc bà Cúc qua đời có ai về lo ma chay,
nhang khói khơng?
Bà Thanh cho biết ngày 15/04/1994 việc chuyển quyền sử dụng mảnh
đất tranh chấp này có những ai tham gia chứng kiến? Các anh chị em
trong gia đình đều cùng đồng ý việc chuyển quyền này hay khơng?
Bà Thanh có biết gì về việc thực hiện nghĩa vụ thuế đối với thửa đất
tranh chấp từ 1990 cho đến nay?

6. BÀI LUẬN CỨ CỦA LUẬT SƯ BẢO VỆ CHO NGUYÊN ĐƠN

Kính thưa Hội đồng xét xử; Vị đại diện Viện kiểm sát; Các vị luật sư đồng
nghiệp và tồn thể q vị đang có mặt trong phiên tồn ngày hơm nay!
Tơi là
Luật sư Hồng Phương Trinh – thuộc văn phịng luật sư ABC thuộc Đồn Luật sư
Thành phố X. Hơm nay tơi tham gia phiên tồ này với tư cách là người bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp cho nguyên đơn: Chu Thị Thanh trong vụ án tranh chấp
đối với phần diện tích đất 777m2, thửa số 40, tờ bản đồ 02 lập năm 1998 tại Toà án
nhân dân TP Phủ Lý cùng với đồng nguyên đơn là ông Chu Khắc Sinh và bị đơn
Đinh Thị Tám.
Yêu cầu mà nguyên đơn yêu cầu Toà án giải quyết như sau:

1- Yêu cầu bà Đinh Thị Tám trả lại diện tích đất 777m2 tại thửa đất số thuộc
thửa số 40, tờ bản đồ số 2 lập năm 1998 tại thôn 6, xã Phù Vân, TP Phủ Lý,
tỉnh Hà Nam cho các ông, bà Chu Khắc Sinh, Chu Thị Thanh, Chu Thị The,
Chu Thị Loan;
2- Yêu cầu bà Đinh Thị Tám tháo dỡ các cơng trình, nhà cửa mà bà Đinh Thị
Tám đã xây dựng trái phép trên đất;
3- Yêu cầu bà Đinh Thị Tám trả lại nhà và cây cối trên thửa đất và hoa màu
trên đất với 50% tổng giá trị thu nhập cây lưu niên từ 15/4/1994 theo giấy
gửi UBND xã Phù Vân, TP Phủ Lý, tỉnh Hà Nam (năm 1994).
Sau khi nghiên cứu hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tồ, tơi xin trình bày
05 luận điểm của mình để bảo vệ cho nguyên đơn Chu Thị Thanh như sau:
Thứ nhất, bà Thanh cùng ông Sinh, bà The, bà Loan là đồng thừa
kế hợp pháp đối với phần di sản của bà Cúc là miếng đất tranh chấp đối
với phần diện tích đất 777m2, thửa số 49, tờ bản đồ số 2 lập năm 1998:
Nguồn gốc mảnh đất tranh chấp đều được các bên công nhận cũng như thể
6
6


hiện rõ trong các tài liệu, chứng cứ là thuộc sở hữu của ông Chu Khắc
Trường (bố của bà Thanh) và bà Chu Thị Cúc (mẹ của bà Thanh). Khi ông
Trường mất năm 1945 và bà Cúc mất năm 1990 đều không để lại di chúc.
Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 25 Pháp lệnh thừa kế 1990 thì bà Thanh, ông
Sinh, bà Loan, bà The thuộc hàng thừa kế thứ nhất được hưởng phần di sản
của bà Cúc để lại sau khi mất.
Thứ hai, thời hiệu thừa kế để bà Thanh và ông Sinh cùng các
đồng thừa kế khác yêu cầu chia di sản của bà Cúc vẫn còn, bởi lẽ:
(i)
Căn cứ vào khoản 4 Điều 36 Pháp lệnh Thừa kế số 44LCT/HĐNN8 ngày 10/09/1990 quy định về “Thời hiệu
khởi kiện về thừa kế: Đối với các việc thừa kế đã mở

trước ngày ban hành Pháp lệnh này thì thời hạn quy định
tại khoản 1 và khoản 2 Điều này được tính từ ngày cơng
bố Pháp lệnh này (ngày 10/09/1990).” Vì vậy thời điểm
mở thừa kế đối với phần di sản này của bà Cúc được
tính từ ngày 10/09/1990.
(ii)
Căn cứ vào tiểu mục 1 Mục II Công văn số 01/GĐTANDTC ngày 25/07/2016 của TANDTC giải đáp một
số vấn đề hình sự, tố tụng hình sự, tố tụng dân sự hướng
dẫn: “…Kể từ ngày Bộ luật dân sự 2015 có hiệu lực thi
hành, Toà án áp dụng quy định tại Điều 623 Bộ luật dân
sự 2015 để xác định thời hiệu đối với trường hợp thời
điểm mở thừa kế trước ngày 01/01/2017…” cụ thể tại
Điều 623 quy định về thời hiệu thừa kế là: “Thời hiệu để
người thừa kế yêu cầu chia di sản là 30 năm đối với bất
động sản, 10 năm đối với động sản, kể từ thời điểm mở
thừa kế. Hết thời hạn này thì di sản thuộc về người thừa
kế đang quản lý di sản đó.” Vì vậy đến ngày 10/09/2020
thời hiệu mở thừa kế đối với di sản của bà Cúc là mảnh
đất tranh chấp 777m2 mới chấm dứt. Qua đó thấy rằng
hành vi bà Tám khơng hồn trả mảnh đất và xây dựng
cơng trình trái phép trên đất thuộc di sản của bà Cúc với
những người đồng thừa kế là bà Thanh, ông Sinh, bà The,
bà Loan là trái quy định của pháp luật.
Thứ ba, nghĩa vụ dân sự (trông nom, quản lý, thu hoạch, chăm
sóc…) đối với mảnh đất tranh chấp của ơng Thun đã chấm dứt khi
ơng Thun chết: Ơng Chu Khắc Sinh vào đầu năm 1994 đã tự đồng
chuyển quyền thừa kế mảnh đất tranh chấp cho ông Chu Khắc Thuyên
nhưng việc chuyển quyền này đã được Uỷ ban nhân dân xã Phù Vân ra
7
7



quyết định tạm đình chỉ việc chuyển quyền thừa kế trên. Mảnh đất này được
các chị em bà Thanh thống nhất giao quyền trông nom, sử dụng cho ông Chu
Khắc Thuyên (chồng bà Tám) vào ngày 15/04/1994 trong thời hạn 05 năm
trước sự chứng kiến của dịng họ và chính quyền địa phương. Căn cứ vào
Điều 198 BLDS 1995 quy định về “Quyền sử dụng: Quyền sử dụng là
quyền của chủ sở hữu khai thác công dụng, hưởng hoa lợi, lợi tức từ tài sản.
Người không phải là chủ sở hữu cũng có quyền sử dụng tài sản trong các
trường hợp được chủ sở hữu chuyển giao quyền sử dụng hoặc do pháp luật
quy định”. Thời điểm gia đình bà Thanh chuyển quyền sử dụng cho ông
Thuyên là thời điểm phát sinh nghĩa vụ dân sự của ông Thuyên đối với mảnh
đất tranh chấp trên tuy nhiên Ông Thuyên chết ngày 03/03/1999 cũng đồng
nghĩa với việc nghĩa vụ dân sự khi bên có nghĩa vụ là cá nhân chết sẽ chấm
dứt theo quy định tại khoản 8 Điều 380 BLDS 1995. Như vậy bà Tám khơng
có bất kì quyền sử dụng nào đối với mảnh đất diện tích đất 777m2 tại thửa
đất số thuộc thửa số 40, tờ bản đồ số 2 lập năm 1998 tại thôn 6, xã Phù Vân,
TP Phủ Lý, tỉnh Hà Nam.
Thứ tư, hành vi chiếm hữu và xây dựng cơng trình trên đất là vi
phạm quy định của pháp luật bởi vì:
(i)
Căn cứ theo quy định tại Điều 255 BLDS năm 2005 về Các
biện pháp bảo vệ quyền sở hữu thì “Chủ sở hữu, người chiếm
hữu hợp pháp có quyền u cầu Tồ án, cơ quan, tổ chức có
thẩm quyền khác buộc người có hành vi xâm phạm quyền sở
hữu, quyền chiếm hữu phải trả lại tài sản, chấm dứt hành vi
cản trở trái pháp luật việc thực hiện quyền sở hữu, quyền
chiếm hữu và yêu cầu bồi thường thiệt hại”.
(ii)
Căn cứ tại Điều 256 BLDS năm 2005 về Quyền địi lại tài sản

thì “Chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp có quyền yêu cầu
người chiếm hữu, người sử dụng tài sản, người được lợi về tài
sản khơng có căn cứ pháp luật đối với tài sản thuộc quyền sở
hữu hoặc quyền chiếm hữu hợp pháp của mình phải trả lại tài
sản đó”.
(iii) Theo quy định tại Điều 599 BLDS năm 2005 về nghĩa vụ hồn
trả thì “Người chiếm hữu, người sử dụng tài sản của người
khác mà khơng có căn cứ pháp luật thì phải hồn trả cho chủ
sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp tài sản đó”.
8
8


(iv)

Mặt khác theo quy định tại điểm b, mục 2.4 Nghị quyết
02/2004/NQ-HĐTP TANDTC, trường hợp người chết để lại di
sản cho các thừa kế, nhưng các thừa kế không trực tiếp sử dụng
quản lý, mà di sản đó đang do người khác chiếm hữu, quản lý
theo ủy quyền thì các thừa kế có quyền kiện địi tài sản.
Khi ơng Thun mất, các đồng thừa kế vì ở xa chưa có điều
kiện để chia di sản nên việc trông nom di sản do bà Tám tiếp tục, tuy nhiên
bà Tám có nghĩa vụ giao lại di sản theo yêu cầu của đồng thừa kế di sản tuy
nhiên bà Tám lại không giao trả mà còn tiếp tục chiếm giữ, xây dựng trái
phép trên di sản đó. Dù cho UBND xã tiến hành hồ giải, mời lên làm việc
nhưng bà Tám khơng hợp tác, cố tình vắng mặt, trì hỗn việc trả lại đất cho
các đồng thừa kế.
Thứ năm, việc gia đình ông Thuyên thu hoạch hoa lợi trên mảnh
đất nhưng không giao 50% hoa lợi cho gia đình bà Thanh là vi phạm
thoả thuận trong giấy giao quyền trơng nom kí ngày 15/04/1994 (BL 1011). Cụ thể thoả thuận này “giao quyền trông nom, quản lý cho người nhận

trông nom, nhà cửa tu sửa để giữ ở không dột nát, đất đai tự sản xuất ra sản
phẩm sử dụng và nạp nghĩa vụ với nhà nước (trồng cây ngắn ngày) không
được xây dựng cơ bản như: làm nhà, đất phải giữ nguyên mặt bằng không
được đào khoét, các cây cối lưu niên không được chặt phá. Tổng giá trị thu
nhập cây lưu niên hằng năm phải có sự chứng kiến của hai bên nội ngoại. Số
tiền đó ơng Chu Khắc Thun được hưởng 50% (năm mươi phần trăm) phần
còn lại do bốn chị em bà Thanh sử dụng – mở tài khoản ở ngân hàng do bà
Chu Thị Thanh đứng tên”. Tuy nhiên trong thời gian đó ơng Thun khơng
hề trích 50% hoa lợi để gửi cho bốn chị em bà Thanh, vì thể việc bà Thanh
kiện địi số tiền là hồn tồn có căn cứ.
Từ những luận điểm trên tơi khẳng định rằng yêu cầu của nguyên đơn
là hoàn toàn phù hợp với quy định của pháp luật. Kính mong HĐXX xem
xét và chấp nhận toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn. Tôi xin chân thành cảm
ơn HĐXX, Đại diện Viện kiểm sát, các vị Luật sư đồng nghiệp và tồn thể
q vị có mặt đã lắng nghe.

9
9



×