Tải bản đầy đủ (.doc) (109 trang)

Full tài liệu lịch sử tư tưởng phương đông

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (370.56 KB, 109 trang )

Chương I
Lịch sử tư tưởng Ấn Độ cổ - trung đại
I. Những tiền đề cơ bản cho sự ra đời tư tưởng triết học Ấn Độ
1. Điều kiện kinh tế và lịch sử xó hội
ấn Độ là một bán đảo lớn thuộc Nam á với diện tích trên 3 triệu km 2 có một
nền văn minh lâu đời (khoảng 2.500 năm TCN đã có Nhà nước và chữ viết,
nhưng họ lại không sử dụng chữ viết vào việc ghi chép những tư tưởng của con
người về thế giới mà lại ghi lại những tư tưởng đó vào ký ức, sau đó truyền lại
cho người sau bằng miệng, vì vậy một kinh có thể chuyển thành nhiều kinh, hay
có sự nhầm lẫn hàng vài thế kỷ) và có một nền triết học đồ sộ. ấn Độ là một trong
ba cái nôi của triết học thế giới.
- Về dân tộc: ấn Độ là một quốc gia đa chủng tộc với hàng trăm chủng tộc
người khác nhau. Trong đó có hai chủng tộc cơ bản: Dravida và Arya. Người
Dravida là chủ nhân của nền văn minh tối cổ của ấn Độ, họ có màu da sẫm, mũi
tẹt, vóc người nhỏ bé. Arya thuộc chủng Europeoid khoảng từ giữa thiên niên kỷ
thứ hai đến thiên niên kỷ thứ nhất TCN đã tiến vào Bắc ấn, chiếm vùng đồng
bằng, sống bằng nghề nông, dồn dân bản địa xuống vùng phía Nam. Họ là người
da trắng, dáng cao, mũi thẳng. Họ mang vào ấn Độ nền văn hố phát triển cao,
ngơn ngữ, văn chương…tạo ra sự tổng hợp văn hoá giữa Dravida và arya.
Từ sự phong phú về chủng tộc dẫn tới sự đa dạng về ngơn ngữ. ấn Độ chưa
lúc nào có ngơn ngữ chung cho cả dân tộc. Hiện nay, Hiến Pháp ấn Độ cơng nhận
15 ngơn ngữ chính thức, trong đó tiếng Anh và Hin du được sử dụng nhiều nhất.
-Về lịch sử ấn Độ cổ đại chia làm 3 mốc chính:


1. Thời kỳ văn minh sông ấn (Indus): Văn minh sơng ấn hay văn hố
Harappa xuất hiện từ khoảng 2500 năm TCN tồn tại đến năm 1500 TCN. Là nền
văn minh đã có nhà nước, chữ viết.
2. Thời kỳ xâm nhập của người Arya. Arya là những cư dân bán du mục,
được tổ chức trên cơ sở các bộ lạc. Họ có sức mạnh, đã xâm nhập ấn Độ, chinh
phục người Dravida, tạo ra sự tổng hợp của hai nền văn minh, hình thành nền


móng chủng tộc và văn hố ấn Độ. Đến nửa đầu thiên niên kỷ thứ nhất TCN ở
Bắc ấn đã xuất hiện những vương quốc lớn của người Arya.
3. Thế kỷ VI TCN đến IV TCN là thời kỳ bị xâm lược của người Ba Tư, Hy
Lạp. Khi Alexandre mất, ấn Độ giành được độc lập, triều đại Maurya được thành
lập (321TCN). Đây là quốc gia tập quyền rộng lớn nhất trong lịch sử ấn Độ khi
đã kiểm sốt tồn bộ phần lục địa.
- Về cơ cấu xã hội: xã hội ấn Độ cổ đại là một xã hội có tính chất cơng xã
nơng thơn, chế độ quốc hữu về ruộng đất, có một chế độ đẳng cấp rất nghiệt ngã
và nặng nề, xã hội chia làm 4 đẳng cấp khác nhau:
+ Tăng lữ
+ Quý tộc
+ Bình dân tự do (thương nhân, thợ thủ cơng, nơng dân công xã).
+ Nô lệ
2. Tiền đề tư tưởng (các bộ kinh Vệ đà và chú giải)
2.1. Những tư tưởng triết lý tôn giáo trong kinh Veda (từ 2000 năm TCN thế kỷ thứ VI TCN).
- Veda trong tiếng ấn Độ cổ có nghĩa là hiểu biết những tri thức cao cả, thiêng
liêng (Trung Quốc gọi là Vệ đà).


- Veda là một tác phẩm văn học đồ sộ được sáng tác vào khoảng trên dưới
2000 năm TCN.
- Đây là tác phẩm của những người Arya, có thể nói đây cũng là tác phẩm
đầu tiên của triết học ấn Độ cổ đại. Nó bao gồm các bài hát ca ngợi công lao của
các thần thời bấy giờ.
- Kinh Veda gồm 4 tập: Rigveda, Samaveda, Atharvaveda, Yajurveda.
Trong các tập này, nhìn chung chưa có những khái qt triết học, mà chỉ
phản ánh những ước vọng bình thường của người dân như mong nắng, mong
mưa, mong có nhiều thức ăn, ni được nhiều gia súc, cầu được an cư, mạnh
khoẻ, có nhiều con cái… Nó phản ánh một tín ngưỡng ma thuật và đa thần giáo.
2.2. Những tư tưởng triết học trong kinh Upanisad

Đây là tác phẩm xuất hiện muộn nhất trong bộ kinh Veda vào khoảng 1000
– 500 năm TCN, còn được gọi tên là Vêda sau. Hiện nay Upanisad có 18 tập. Nội
dung triết học của Upanisad: về cơ bản thể hiện triết học duy tâm
1. Bàn đến mối quan hệ giữa cái “tất cả” và “cái một”, giữa Brahman
(Phạm) và Atman (Ngã) trong đó Brahman là tinh thần vũ trụ, Atman là tinh thần
cá nhân.
Brahman là chủ thế giới, bao quát toàn bộ thế giới, là thực thể tinh thần
rộng lớn nhất. Vạn vật sinh ra từ Brahman, dựa vào Brahman mà tồn tại, khi mất
đi thì lại quay về với Brahman.
Brahman khơng có thuộc tính, khơng có hình thức biểu hiện, là siêu việt,
khơng có khái niệm logic nào biểu đạt được nó.
2. Upanisad đã đưa ra thuyết luân hồi (Samsara) cho rằng, con người sau
khi chết linh hồn sống mãi, sẽ tái sinh dưới một thể xác khác, là hình thái thay đổi
đời người (kiếp khác). Kiếp sau như nào là do nghiệp (Karman) ở kiếp này quy
định, theo nguyên tắc thiện - thiện, ác - ác.


Nêu điều kiện giải thoát luân hồi: bào thai → người, súc vật, trứng → chim,
ẩm ướt → cá, lươn, hạt giống → cây cỏ.
3. Upanisad cịn có những yếu tố duy vật chất phác khi cho rằng thế giới là
do các yếu tố vật chất như Đất, Nước, Lửa, Gió, Hư khơng tạo thành
4. Upanisad thể hiện một sự khát khao chân lý, một sự cầu xin ánh sáng và
sự hiểu biết “con đường đi tới sự thánh thiện được mở ra bằng chân lý”.
5. Trong Upanisad đã khẳng định vai trò quyết định của con người, đề cao
việc hồn thiện đạo đức cá nhân: “khơng có gì cao quý hơn con người”.
II. Đặc điểm của tư tưởng triết học Ấn Độ
1. Triết học ấn Độ cổ đại là một nền triết học xuất hiện từ rất sớm – khoảng
2.500 năm TCN. Kinh Veda được coi là tác phẩm triết học đầu tiên của triết học
ấn Độ cổ đại.
2. Triết học cổ đại ấn Độ gắn liền với tôn giáo, vì vậy triết học khó tránh

khỏi những yếu tố duy tâm, hữu thần.
3. Trong triết học ấn Độ cổ đại những yếu tố duy vật, và duy tâm, vô thần
và hữu thần thường tồn tại đan xen vào nhau, khó nhận thấy. Gianh giới giữa
CNDV và CNDT cịn mờ nhạt, khơng rạch rịi.
4. Triết học ấn Độ cổ đại ít bàn đến những vấn đề thuộc về bản thể luận,
nhận thức luận và lôgic học, mà chủ yếu bàn đến những vấn đền thuộc về con
người, về thế giới tâm linh của con người.
5. Trong triết học ấn Độ cổ đại chứa đựng nhiều yếu tố biện chứng sơ khai
có giá trị như cho rằng thế giới vật chất là vĩnh hằng, nhưng không đứng yên, mà
biến chuyển không ngừng từ dạng này sang dạng khác (Samkhya), rằng tồn tại
vừa bất biến, lại vừa biến chuyển
III. Các trưởng phái triết học Ấn Độ


1. Khái lược về các trường phái chính thống
1.1. Trường phái Mimansa: Đây là phái duy vật và vô thần.
Mimansa nghĩa là tư duy khảo sát, nêu lên tư tưởng lý lẽ chứng minh cho
sự tồn tại của kinh Vêda. Người xây dựng và hệ thống là Jamini (IITCN), người
hoàn thành là Ukurasa (VSCN).
Đề cao giá trị âm thanh của kinh Vêda, cho rằng kinh Vêda đọc lên ấm ấp,
thân thiết, làm sáng tỏ nhận thức của con người. Âm thanh cũng có linh hồn và
âm thanh của kinh Vêda là không sai lệch.
Quan niệm đời người là khổ từ đó đặt ra vấn đề giải thốt con người. Muốn
giải thoát phải thực hiện lễ hiến sinh (thiêu sống).
Nội dung chủ yếu:
Thế giới quan.
- Thế giới mãi mãi là ở đó, tức là thế giới là có, nó được khái quát thành những
phạm trù và thuộc tính của những phạm trù đó. Các phạm trù: Thực thể (chỉ Đ N – L – G - Hư không – thời gian – khơng gian – linh hồn…); Tính chất hay
cịn gọi là Đức (màu sắc – hương vị – xúc – số lượng – tính dị biệt – tính kết
hợp – tính phân ly – xa – gần – sướng – khổ…); Vận động (đi lên, đi xuống, co

lại, duỗi ra, tiến hành…) ngồi ra cịn có cái Phổ biến, Phi tồn tại, Nội thuộc,
Hoà hợp, Tương tự, Năng lực, Số.
- Nguồn gốc thế giới:
Thế giới do nguyên tử cấu thành nhưng nó vận động, phát triển được là do
luật Kama (nghiệp) chi phối.
Con có thể xác và linh hồn, linh hồn tồn tại trong thể xác, có thể rời thể xác
và sống mãi mãi.
Nhận thức luận


Mục đích và nghĩa vụ của con người là phải hiểu biết kinh Vêda nhưng từ
đó đề cập đến nguồn gốc và phương pháp nhận thức.
Nguồn gốc chủ yếu của nhận thức là “Chứng ngôn” tức là các tiếng, các
thanh âm trong kinh Vêda. Nguồn gốc của nhận thức là từ các tiếng của kinh
Vêda. Ngoài ra kinh nghiệm hàng ngày cũng là nguồn gốc của nhận thức. Ngoài
hồi ức còn các cái khác đều là nhận thức sát thực. Giá trị của nhận thức là biết
được cái mới “Nhận thức là sự biểu hiện của một loại đối tượng chưa từng được
nhận thức”.
Phương pháp nhận thức: có 6 phương pháp
Tri giác, Suy lý, Loại tỷ, Suy định, Chứng ngôn, Phi tồn tại,
Tóm lại: Mimansa ca ngợi thanh âm của Vêda, coi đó là nguồn gốc chủ yếu
của nhận thức.
- Duy vật: Thừa nhận sự tồn tại độc lập khách quan của các sự vật, hiện
tượng không phụ thuộc vào ý thức của con người.
- Vô thần: Những người theo phái này không thừa nhận sự tồn tại của thần
thánh và lập luận của họ rất đơn giản rằng thiếu chứng cứ về sự tồn tại của thần;
cảm giác không nhận ra thần, trong khi đó mọi tri thức, suy cho cùng là dựa trên
cảm giác.
1. 2. Trường phái Vedanta:
Vedanta nghĩa là “kết thúc Veda”, làm sáng tỏ kinh Vêda, (Trung Quốc dịch

là Viên thành Vệ đà). Nó là sự tiếp tục những tư tưởng trong kinh Upanisad. Đây
là phái duy tâm hữu thần.
Đối tượng nghiên cứu của nó là Upanisad, người biên tập là Badarayana
(IITCN). Nó gồm 555 câu cách ngơn. Tư tưởng của phái này quan trọng vì nó là


cơ sở tư tưởng của Bàlamôn giáo và ấn Độ giáo (Đạo Hindu). (Vêda – Upanisad
– Vêdanta – Hindu).
Thế giới quan: Cho rằng Brahman sáng tạo ra Atman, Atman là một bộ
phận của Brahman. Brahman (tinh thần thế giới) đồng nhất với Atman (tinh thần
cá nhân). Thế giới vật chất là khơng có thực, hình ảnh về nó chỉ là ảo, là giả được
sinh ra do vô minh mà thôi. Đất, nước, lửa, gió, hư khơng do Brahman sinh ra.
Trong thế giới Brahman là vị thần cao nhất, ngoài ra cịn có Vinus là thần
giữ gìn, bảo vệ; Shiva thần phá huỷ.
Như vậy phái này không thừa nhận sự tồn tại của bất cứ cái gì ngồi
Brahman như là ý thức thuần tuý hay đơn giản là Thượng đế rồi từ đó sinh ra tất
cả.
Nhận thức luận:
Mục đích nhận thức: Nhận thức cái bản thể trong cái không ổn định,
cái thường biến. Nhận thức để con người yên tâm sống với tinh thần, để thoát
khỏi sự chi phối của cuộc sống.
Phương pháp nhận thức: Nội tỉnh tức suy nghĩ những điều mình biết;
Trực giác tức là hiểu ngay được sự vật khơng phai qua q trình. Để nhận thức
được thì phải có ý chí giải thốt, có u cầu giải thoát mới đưa Atman quay về
với Brahman.
Phương pháp giải thoát: Tự chủ, kiên định, bình tĩnh vượt lên mọi
cám dỗ của đời sống vật chất, luôn tập trung tư tưởng vào mục đích làm cho
Atman về với Brahman.
1. 3. Trường phái Samkhuya: Đây là trường phái có tư tưởng duy vật.
Samkhya nghĩa là số, đếm (Trung Quốc dịch là số luận).

Phái này do Kapila xây dựng lên (TK IV TCN).


Thế giới quan:
Trung Quốc gọi là số luận vì nó liệt kê, tính tốn các yếu tố của thế giới
(gồm 24 yếu tố) phân ra thành các loại:
- Ngũ duy: Thanh, xúc, sắc, vị, hương.
- Ngũ đại: Đất, nước, lửa, gió, khơng khí.
- Ngũ căn: (5 giác quan của con người): mắt, mũi, lưỡi, tai, thân người.
- Ngũ tác căn: hành động của ngũ căn bao gồm: cơ quan phát thanh như
họng, lưỡi; cơ quan bài tiết; cơ quan sinh thực khí, tay, chân…
- Những người Samkhya gạt bỏ Brahman phủ nhận sự tồn tại của thần và
đưa ra thuyết nhân quả cho rằng tất cả mọi sự vật, hiện tượng trong thế giới đều
có nguyên nhân, mỗi loại sự vật có một nguyên nhân và trong nguyên nhân đó đã
bao hàm kết quả, đồng thời thông qua kết quả thì hiểu được tính chất của ngun
nhân bởi nhân nào quả nấy. Một câu nói nổi tiếng của những người Samkhya là:
“Trồng Sali được Sali, trồng Vrihi được Vrihi”. Như vậy, từ tính chất của kết quả
chúng ta hiểu được tính chất của nguyên nhân và ngược lại. Trên cơ sở thuyết
nhân quả những người Samkhya cho rằng thế giới vật chất có nguyên nhân của nó
và họ coi Prakriti là yếu tố vật chất đầu tiên, nhưng nó khơng phải là dạng vật
chất cụ thể, hữu hình, cảm tính mà là một dạng vật chất tinh tế, tiềm ẩn, khơng
thể cảm nhận bằng mắt thường được. Hay nói cách khác nó là một dạng vơ định
hình, bao gồm 3 yếu tố:
+ Sattva: nhẹ nhàng, trong sáng, tươi vui.
+ Razas: năng động, kích thích.
+ Tamas: nặng nề, khó khăn.
Mà bất cứ sự vật, hiện tượng nào trong thế giới cũng được cấu tạo nên từ 3
yếu tố này. Nếu Prakriti ở trạng thái khơng biểu hiện thì nó cân bằng, ổn định.



Nếu bị phá vỡ sự cân bằng thì đó là điểm xuất phát của vận động (tức sự tiến hoá
của thế giới).
- Những người theo phái này cho rằng vật chất là vĩnh hằng nhưng không
đứng yên mà biến chuyển không ngừng từ dạng này sang dạng khác.
Nhưng những người Samkhya đã không giữ vững lập trường duy vật này, mà
đến hậu kỳ một số người Samkhya lại cho rằng bên cạnh Prakriti cịn có Purusa
– linh hồn nghĩa là thế giới có 2 khởi nguyên song song cùng tồn tại và sự kết
hợp giữa chúng cho chúng ta những sự vật, hiện tượng của thế giới.
Nhận thức luận: Nhận thức trải qua 3 bước
Tri giác: Nhận thức được sự vật nhưng cịn 8 hạn chế: cái xa nhất khơng nhận
thức được, cái gần nhất, cái khí quan hỏng, tâm khơng ổn định, nhỏ q, bị che
lấp, có nhưng núp đi, sự vật giống nhau ở cùng một chỗ.
Suy lý: từ biết suy ra cái chưa biết
Chứng minh: cần điều kiện sau: lấy tồn tại ngoại giới để đối chiếu với nhận
thức xem có đúng khơng?; các khí quan cảm giác có thích ứng đối tượng ngoại
giới khơng?; đối tượng cảm quan và cơ quan cảm quan phải xem xét, phân biệt
(dùng tâm); dùng “tự ngã ý thức” để xem các vật.
Quan niệm về ln lý xã hội
Mục đích tìm cách thốt ra khỏi đau khổ của xã hội. Nó chỉ ra 3 loại khổ: Khổ
bên trong (về tâm, sinh lý) như ốm đau, mệt mỏi tinh thần…; khổ bên ngồi do
người khác làm mình khổ; khổ tự nhiên là do tự nhiên gây ra.
Con đường thoát khổ: Tu luyện, nghe đạo, đọc kinh, tụng niệm
Hạn chế: chưa nói tới cái khổ về đời sống vật chất, về đấu tranh giai cấp.
1. 4. Trường phái Nyaya (Chính lý luận)


Là tên một cuốn kinh, người sáng lập là Vôtama (IITCN). Gồm 520 điều chia
làm 5 thiên, tập trung trình bầy vấn đề logic học và triết học. Nội dung cuốn
kinh này là xem triết học là mục đích, logic là phương tiện để nhận thức triết
học.

1. 1. Đề cập đến vấn đề Thực tại: đề cập đến khách thể vừa có tính chất vật
chất, vừa có tính chất tinh thần. Quan niệm thế giới có 12 khách thể, 12 khách
thể là Atman (linh hồn cá nhân) gồm: Atman, thân, căn (cơ quan cảm giác),
cảnh, giác (sự hiểu biết), ý, tác nghiệp, sai lầm, chuyển sinh, quả báo, khổ, giải
thoát.
1. 2. Quan niệm về thế giới cho thế giới do ngũ đại (Đ, N, L, G, Hư không) sinh
ra. Thế giới có hai phần thơ và tinh, thơ thấy được, tinh khơng thấy được. Thơ
biến hố, tinh khơng biến hố. Thơ thì vận động, phát triển nguồn gốc là do
Thần tác động vào (DT).
1. 3. Quan niệm về Ta (ngã) là bất diệt. Ngã là cơ sở của tinh thần, nói cách
khác tinh thần là biểu hiện nội tại của Ngã, thuộc tính của Ngã nhưng nó khơng
phải là bản ngã.
Ngã là chủ thể của nhận thức, có 5 loại nhận thức do 5 giác quan đưa lại. Muốn
nhận thức sâu hơn phải có nội ý thức. Ngã là chủ thể của luân hồi.
1. 4. Đưa ra ngũ đoạn luận
Phái này có những đóng góp đáng kể cho sự hình thành và phát triển của
lơgic hình thức. Đó là tư tưởng về ngũ đoạn luận.
VD: 1. Đồi có lửa cháy
2. Vì đồi bốc khói.
3. Tất cả cái bốc khói đều có lửa cháy, VD: bếp lị.
4. Đồi bốc khói thì khơng thể khơng có lửa cháy


5. Do đó, đồi có lửa cháy.
Theo họ 1 là luận đề ; 2 là nguyên nhân ; 3 là ví dụ ; 4 là suy đốn ; 5 là kết
luận.
Lúc đầu phái này là vô thần, sau họ lại rơi vào hữu thần khi cho rằng thần dùng
nguyên tử để xây dựng thế giới.
1. 5. Vaiseisika (Thắng luận)
Là cuốn kinh gồm 370 câu tụng ca ngợi kinh Vêda ra đời vào thế kỷ III

TCN.
Thế giới được thể hiện ra trong các phạm trù: Thực thể, Chất, Vận động, Tính
phổ biến, Tính đặc thù, Tính vốn có, Hư vơ.
Thế giới do các ngun tử tạo ra, chúng có quảng tính (đo được, có vị trí,
khơng chia được, khơng nhìn thấy). Nguyên tử kết hợp với nhau tạo nên thế giới,
thế giới kết hợp với linh hồn thế giới tạo nên sự vật.
Nguyên tử vận động sinh ra thế giới, không gian, ete. Nguyên tử phân làm 4
loại tương ứng với 4 loại cảm giác: Xúc, Vị, Thị, Khứu
Lý thuyết này cao hơn, sâu sắc hơn học thuyết trước vì nó cho thế giới thống
nhất ở nguyên tử chứ không phải ở vật chất khác. Nó hạn chế cho nguyên tử kết
hợp với linh hồn thế giới tạo ra sự vật (nhị nguyên).
1. 6. Trường phái Yôga: Đây là trường phái duy vật nhưng không triệt để
Yôga vừa là phương pháp rèn luyện sức khoẻ, dưỡng sinh vừa là một triết
thuyết.
Nó xuất hiện khoảng 2500 năm TCN, vốn gọi là kinh ga do Patanzali
chép lại (TK II TCN).
Ngun từ ga có nghĩa là ách vào, cột vào, sự tu luyện, khổ hạnh để đạt
tới một cái gì đó. Xuất phát từ chỗ họ quan niệm cuộc đời con người là hữu hạn


lại luôn luôn thay dổi từ trẻ đến già, từ đẹp đến xấu. Vì vậy cuộc đời con người
chỉ là ảo ảnh, là khơng có thực, cịn thể xác chỉ là cái vỏ, bên ngoài của linh hồn.
Khi con người chết, linh hồn không mất đi mà sống qua các kiếp khách nhau
trong vịng ln hồi vì vậy linh hồn là bất tử. Những người theo phái này đặt ra
mục đích là làm thế nào để con người được siêu thốt (khơng trở lại vịng sinh
tử), ra nhập vào đại ngã (Brahman). Muốn đạt được mục đích đó con người phải
tu tập, rèn luyện theo 8 phương pháp sau đây:
+ Cấm chế: giữ được các điều răn: không sát sinh, không trộm cắp…
+ Khuyến chế: chế ước được những ham muốn, dục vọng của bản thân.
+ Toạ pháp: hình thức ngồi chắp bằng 2 tay để trước ngực.

+ Điều tức: điều chỉnh hơi thở.
+ Chế cảm: chế ngự cảm giác (cảm giác và tâm phải tập trung vào một chỗ).
+ Chấp trì: tập trung tư tưởng.
+ Thiền định hay tĩnh lự: giữ cho cái tâm được thống nhất.
+ Đẳng trì hay tam muội: đưa tâm đến hư không, chứng được cảnh giới sán
lạn.
Nếu luyện được thì tâm hồn thanh thản và có khả năng sản sinh ra ra một
loại năng lượng phi thường như: nhìn thẳng vào mặt trời, dẫm chân lên than
hồng, nằm trên bàn trơng, lăn mình trên đường, chơn mình ngập đến cổ, đọc được
ý nghĩ của người khác và nhớ được quá khứ, biết được tương lai…
2. Khái lược về các trường phái khơng chính thống
2. 1. Trường phái Lôkayata: Đây là trường phái duy vật triệt để nhất
trong số các trường phái triết học của ấn Độ cổ đại.
Lôkayata là từ được ghép bởi hai từ: Lơkesu: nhân dân và Kayata: phổ biến
có nghĩa là triết học phổ biến trong nhân dân.


Phái này do Bratspati xây dựng lên ở TK IV TCN.
- Những người theo phái này cho rằng thế giới là do tứ đại tạo nên đó là
đất, nước, lửa, gió (khơng khí). Sự hội tụ hay phân tán của 4 yếu tố này chính là
cơ sở cho sự hình thành hay mất đi của các sự vật, hiện tượng trong thế giới.
- Phái Lôkayata đưa ra lý thuyết về thân thể, về mối quan hệ giữa linh hồn
(lý trí) với thể xác. Họ cho rằng thể xác và linh hồn luôn luôn thống nhất với
nhau không bao giờ tách rời nhau “Lý trí chỉ có ở nơi nào có thân thể. Nó khơng
bao giờ tìm thấy nếu khơng có thân thể, lý trí là thuộc tính của thân thể”. Như vậy
họ cho rằng mỗi sinh vật đều có linh hồn của nó và khi sinh vật chết đi thì linh
hồn cũng mất theo. Trên cơ sở này những người Lôkayata đã gạt bỏ thuyết luân
hồi và nghiệp. Họ cho rằng khơng có Atman tồn tại bên ngồi cơ thể, rằng ý thức
không quan sát được trên mặt đất. ý thức chỉ nảy sinh khi các vật liệu hỗn hợp
với nhau theo một tỉ lệ nhất định. Như vậy, theo họ vật chất do liên kết đặc biệt

thì sinh ra ý thức, nhưng họ lại hiểu vật chất sinh ra ý thức cũng như gạo nấu
thành rượu, gan tiết ra mật. Nhưng họ đã không hiểu được bản chất của ý thức
nên đã rơi vào quan điểm của CNDV tầm thường (đồng nhất ý thức với vật chất).
- Về xã hội: Họ chủ trương một xã hội khơng có đẳng cấp, không phân biệt
giàu nghèo, sang hèn. Sự phân chia giai cấp của Balamôn là sự áp đặt để bảo vệ
lợi ích của giai cấp thống trị. Nêu quan niệm xã hội bình đẳng khơng giai cấp,
máu giai cấp nào cũng đỏ như nhau.
- Về nhận thức: tri thức do 5 giác quan đưa lại, vật không tri giác được thì
khơng tồn tại, “cái gì phù hợp tri giác thì tin được, khơng phù hợp thì khơng tin”
- Về ln lý: Họ cho rằng cuộc đời con người là ngắn ngủi nên phải tận
hưởng mọi lạc thú của trần gian với khẩu hiệu: “Hãy ăn uống đi, cho dù ngày mai
sẽ chết”.
2.2. Trường phái Jaina:


Người sáng lập ra đạo này là Mahavira (người anh hùng vĩ đại TK VI TCN).
Đạo này chia làm 2 phái:
- Phái mặc áo trắng sống khổ hạnh.
- Phái ở truồng (không mặc quần áo) sống theo lẽ tự nhiên.
Về thế giới quan:
Mọi sự vật sinh ra đều có nguồn gốc của nó. Ngay cả Brahman nếu có cũng
là do nguồn gốc nào đó sinh ra nó.
Jaina đề cao thuyết tương đối cho rằng thế giới vật chất là vĩnh hằng,
nhưng không đứng yên, mà biến chuyển không ngừng từ dạng này sang dạng
khác (Samkhya), rằng tồn tại vừa bất biến, lại vừa biến chuyển: Cái vĩnh hằng là
vật chất, cái chung, còn cái biến đổi là các dạng cụ thể của vật chất, giống như đất
sét thì khơng thay đổi nhưng những cái bình làm từ đất sét thì lại ln ln thay
đổi. Vì vậy, mọi cái đều là “có thể” (có thể là cái này, có thể là cái kia, chứ khơng
có cái gì là bất biến, vĩnh hằng cả).
Họ chia thực thể tồn tại làm 2 loại: sống (thực thể sống có lý trí, có linh

hồn như quỷ thần, người, động vật, cây cỏ,...); không sống (thực thể khơng sống
khơng có lý trí, khơng có linh hồn như không gian, thời gian, vận động, nghỉ
ngơi, vật chất…). Hai loại thực thể này không tách rời nhau mà có liên kết chặt
chẽ với nhau, ngồi ra họ cho rằng các vật có thể chuyển động như lửa, gió, nước
cũng có linh hồn.
Họ thừa nhận thuyết luân hồi và nghiệp, cho rằng linh hồn cao cả nhất là
linh hồn thốt ra khỏi vịng ln hồi. Muốn thốt khỏi vịng ln hồi phải hồn
thiện đạo đức bằng hình thức sống khổ hạnh, thản nhiên trước mọi sự đau khổ
của bản thân, tự nguyện chết để thoát khổ, thực hiện luật không sát sinh, không
uống mật ong, không uống nước lọc, quét trước, bước sau.


(Bản thân Mahavira cũng tu luyện 12 năm mới đắc đạo, lúc đầu chỉ có
mảnh vải che thân, sau 13 tháng không mặc quần áo ở truồng cho đến cuối đời
thọ 72 tuổi).
Về xã hội
Đời là khổ (khổ do bị bóc lột, do thiên nhiên khắc nghiệt…) từ đó chủ
trương sống khổ hạnh, thanh thản, tự nguyện chết cho khỏi khổ.
Không làm tổn sinh đời sống của sinh vật khác. Chủ trương bất bạo động,
không dùng bạo lực để giải quyết các vấn đề chính trị.
Thực hiện 5 điều nguyện: Khơng hại sinh vật, khơng nói dối, khơng lấy
khơng của người khác, giữ thanh khiết, từ bỏ thú vui ngoài xã hội.
2. 3. Phật giỏo
1. Sự ra đời
Phật giáo là một tôn giáo xuất hiện ở cuối TK VI TCN ở miền Bắc ấn Độ.
Phật giáo ra đời là một làn sóng phản đối mạnh mẽ sự ngự trị của đạo Bàlamôn
và chế độ phân biệt đẳng cấp rất nghiệt ngã ở ấn Độ cổ đại, đòi tự do tư tưởng,
địi bình đẳng xã hội, lý giải căn ngun của nỗi khổ và tìm cách giải thốt con
người ra khỏi kiếp trầm luân bể khổ. Người sáng lập ra Phật giáo là Siddhartha
Gautama (623 – 543 TCN) hay Trung Quốc dịch ra Tất Đạt Đa.

Thích ca Mâuni thuộc dịng dõi quý tộc, cha là vua của Vương quốc Sakya
lúc bấy giờ nay thuộc đất Nêpan, mẹ là công chúa của Vương quốc bên cạnh.
Năm 16 tuổi thì ơng cưới vợ, sinh được 1 người con trai, nhưng ông không thiết
tha với công việc của nhà vua, mà đi tu với mục đích tìm ra 1 đạo để cứu thế, cứu
đời. Năm 80 tuổi ông mất, theo tập tục ở ấn Độ ông bị thiêu xác, tro của ông kết
thành những viên cứng như sắt, long lanh như ngọc gọi là xá lợi.


Sau khi ơng mất các học trị của ơng tụ tập nhau lại ở thành Rajagriha
(Vương xá), họ cùng nhau nhớ lại những lời Phật dạy, ghi chép, biên soạn kinh
điển Phật giáo trước hết là Kinh tạng và Luật tạng.
100 năm sau khi Phật mất, kết tập lần 2 họp ở Vaisali, trong nội bộ giáo
đồn Phật giáo có mâu thuẫn. Số đơng địi chữa lại luật tạng, những người này bị
trục xuất ra khỏi kết tập, họ tự tập hợp nhau lại và tự xưng là phái Mahasamghika
(Trung Quốc dịch là Đại chúng bộ), cịn phái chính thống gọi là Theravada
(Thượng toạ bộ). Trong Đại chúng bộ đã có mầm mống của tư tưởng đại thừa.
Nội dung của triết học Phật giáo vô cùng đa dạng, phong phú bao gồm các
quan niệm về vũ trụ, về nhân sinh, về nhận thức…
2. Thế giới quan Phật giỏo
- Phật giáo đưa ra thuyết nhân duyên sinh cho rằng thế giới khơng có
ngun nhân đầu tiên (Phật giáo) nó là ngun nhân của chính nó. Mọi sự vật,
hiện tượng trong thế giới đều nằm trong mối liên hệ nhân quả:
+ Nhân: là cái đưa đến cái khác.
+ Quả: là cái xuất hiện do nhân sinh ra.
+ Duyên: là điều kiện, hoàn cảnh giúp nhân chuyển thành quả.
VD: Hạt giống → cây (hạt giống: nhân ; cây: quả ; nhiệt độ, ánh sáng, độ
ẩm: duyên).
Theo Phật giáo mọi cái đều do nhân dun mà ra. Phật tổ đã từng nói “chủ
pháp tịng duyên sinh, chủ pháp tòng duyên diệt”. Mọi cái đều nằm trong mối liên
hệ nhân quả bất tận, không đầu, không cuối nhưng không hỗn độn mà nhân nào,

quả nấy: trồng dưa được dưa, trồng đậu được đậu, trồng cà được cà. Từ trên cơ sở
thuyết nhân quả Phật giáo phủ nhận nguyên nhân đầu tiên của thế giới và đi đến


phủ nhận Brahman như là đấng tối cao sáng tạo ra vũ trụ và phủ nhận luôn cả
Atman.
- Phật giáo đưa ra thuyết “Vô thường”, “Vô ngã”, “Vô tạo giả”.
+ Vơ thường: tức là khơng thường cịn. Mọi cái sinh ra và tồn tại trong thế
giới không phải là vĩnh hằng, bất biến, mà luôn luôn vận động, biến đổi không
ngừng. Sự biến đổi ấy diễn ra hết sức nhanh chóng, nhanh hơn một niệm gọi là
“niệm niệm vơ thường”, nhưng lại không hỗn độn, mà tuân theo một chu kỳ nhất
định gọi là “nhất kỳ vô thường”.
VD: Đối với con người: Sinh – lão – bệnh – tử.
Đối với sinh vật: Thành – trụ – dị – diệt.
Đối với vũ trụ: Thành – trụ – hoại – không.
Sự biến đổi ấy cũng diễn ra theo một trình tự thời gian nhất định từ quá khứ
đến hiện tại, đến tương lai.
Theo Phật giáo thế giới là vô cùng, vô tận, khơng có giới hạn: “Hằng hà, sa
số”, nhiều như “cát sông Hằng”.
1 thế giới bao gồm: quả đất, mặt trời, mặt trăng, các tinh tú khác.
1 nghìn thế giới = 1 tiểu thiên vũ trụ.
1 nghìn tiểu thiên vũ trụ = 1 trung thiên vũ trụ.
1 nghìn trung thiên vũ trụ = 1 đại thiên vũ trụ…
Như vậy, mọi cái đều là vô thường, không vĩnh hằng, mà luôn luôn biến đổi
(cả con người lẫn thế giới vật chất)
+ Vô ngã: Ngã là cái tôi (con người), vô ngã tức là cái tơi khơng thường
cịn.
Ngã (con người) theo quan điểm ngũ uẩn được hợp bởi 5 yếu tố: sắc (vật
chất), thụ (cảm giác), tưởng (ấn tượng), hành (suy lý), thức (ý thức).



Theo quan điểm lục đại con người được hợp bởi 6 yếu tố: Địa (đất), thuỷ
(nước), hoả (lửa), phong (gió), không (khoảng không trống rỗng), thức (ý thức).
Dù theo quan điểm nào thì con người cũng do một số yếu tố vật chất gọi
chung là sắc và một số yếu tố tinh thần gọi chung là danh hợp thành. Nhưng
những yếu tố này cũng chỉ tụ hội với nhau trong một khoảng thời gian nhất định
rồi lại tan đi. Vì vậy khơng thể có cái tơi vĩnh hằng, cái tơi trường sinh bất tử hay
trường sinh bất lão được, có sinh ắt có tử. “Duyên hợp ngũ uẩn thành ta, dun
tan ngũ uẩn thì ta khơng cịn”. Như vậy, theo Phật giáo mọi cái đều là vô thường.
+ Vô tạo giả: Phật giáo cho rằng mọi sự vật, hiện tượng trong thế giới kể
cả con người không phải do một lực lượng thần bí nào sinh ra, mà nó vận động và
phát triển tự thân.
3. Nhõn sinh quan Phật giỏo
Nhân sinh quan Phật giáo được thể hiện trong tứ diệu đế (4 chân lý huyền
diệu).
+ Khổ đế: Phật giáo cho rằng đời người là bể khổ. Phật giáo đã tìm ra rất
nhiều nỗi khổ đau của con người trong đó có 8 cái khổ cơ bản: sinh, lão, bệnh, tử,
ái thụ biệt ly, oán tăng hội, sở cầu bất đắc, thủ ngũ uẩn khổ.
+ Tập đế (nhân đế):
Phật giáo cho rằng nỗi khổ của con người là có nguyên nhân và đã tìm ra
12 nguyên nhân gọi là thập nhị nhân duyên:
. Vô minh: không sáng suốt, ngu tối.
. Hành: hành ở đây là hoạt động của ý thức, sự giao động của cái tâm, có
manh nha của nghiệp.
. Thức: tâm thức từ chỗ trong sáng, cân bằng, trở nên ô nhiễm, mất cân
bằng.


. Danh – sắc: là sự tụ hội của các yếu tố vật chất và tinh thần sinh lục căn.
. Lục nhập

. Xúc: sự tiếp xúc, phối hợp giữa lục căn, lục trần và thức.
.Thụ: thụ là cảm giác. Do tiếp xúc mà nảy sinh tình cảm yêu, ghét, vui,
buồn.
. ái: ái là yêu là thích, ở đây chỉ sự nảy sinh dục vọng.
. Thủ: chiếm lấy, giữ lấy. Tức có ái rồi thì có thủ.
. Hữu: sự tồn tại. Muốn chiếm lấy thì phải tồn tại, tức là đã có hoạt động
tạo nghiệp.
. Sinh: sinh ra. Muốn tồn tại thì phải sinh ra.
. Lão – tử: già và chất. Tức là đã có sinh ắt có già và chết đi.
Ngồi ra nỗi khổ của con người cịn do nghiệp báo, luân hồi sinh ra.
Nghiệp (Karma): sự tạo tác (hoạt động, ý nghĩ) gây ra một luân hồi tương
ứng. Con người có 3 nghiệp: thân nghiệp (hành động), khẩu nghiệp (lời nói) và ý
nghiệp (suy nghĩ, tư tưởng).
Vịng ln hồi gồm 6 kiếp: Địa ngục, ma đói, súc vật, Atula, người, trời.
+ Diệt đế: Phật giáo cho rằng nỗi khổ của con người là có thể tiêu diệt
được, con người có thể đạt tới trạng thái Niết bàn (Nirvana) – là nơi hư vơ, tuyệt
diệt, là nơi khơng mà có; là trạng thái chấm dứt vòng luân hồi và nghiệp.
+ Đạo đế:
Đạo đế là con đường để tiêu diệt nỗi khổ, vươn tới Niết bàn.
Phật giáo nhấn mạnh sự hoàn thiện đạo đức cá nhân và đưa ra nhiều
phương pháp để hồn thiện. Trong đó có 8 phương pháp cơ bản gọi là Bát chính
đạo: chính kiến (hiểu biết đúng đắn về tứ diệu đế) ; chính tư duy(suy nghĩ, đúng
đắn) ; chính ngữ (lời nói phải đúng đắn, chân thực); chính nghiệp (giữ cho nghiệp


khơng bị tác động xấu); chính mệnh (giữ ngăn dục vọng, phải biết tiết chế dục
vọng); chính tinh tiến (rèn luyện, tu tập khơng mệt mỏi, hăng hái tích cực tìm
kiếm và truyền bá chân lý nhà Phật); chính niệm (có niềm tin bền vững vào sự
giải thốt, thường xun thờ Phật, niệm Phật); chính định (tập trung tư tưởng cao
độ, duy nghĩ về tứ diệu đế, về vô thường, vơ ngã).

Ngồi ra cịn có con đường tam học: Học giới, học tuệ, học định.
. Học giới: Những điều răn cần tránh đối với nữ có 348 điều, nam có 250
điều. Trong đó có 8 điều răn cơ bản gọi là Bát giới: không sát sinh, không trộm
cắp, không tà dâm, khơng nói dối, khơng uống rượu, khơng xem ca nhạc, không
nằm giường sang, không ăn quá giờ ngọ.
. Học tuệ: Nghe, nhìn, suy nghĩ sáng suốt để chống vơ minh.
. Học định: (Thiền định): Học trạng thái tu luyện, tập trung tinh thần (ngồi
chắp bằng, 2 tay để trước ngực).
Ngồi ra cịn có 6 phương pháp bổ trợ: Bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tiến,
thiền định, trí tuệ.
Tóm lại, Phật giáo là một tôn giáo đặc biệt, khác với các tơn giáo khác, nó
phủ nhận sự tồn tại của thần thánh, dạy con người ta tự cứu lấy mình, chứa đựng
nhiều yếu tố biện chứng. Tuy nhiên, Phật giáo vẫn mang tinh yếm thế.

Chương II
Lịch sử tư tưởng Trung Quốc cổ - trung đại
I. Những tiền đề cơ bản cho sự ra đời tư tưởng triết học Trung Quốc
1. Điều kiện kinh tế xó hội thời Xũn thu – Chiến quốc
- Từ TK VIII – III TCN xã hội Tây Chu bước vào tời kỳ có nhiều biến động
to lớn, toàn diện. Lịch sử gọi là thời kỳ Xn thu – Chiến quốc (Đơng chu). Đó là


giai đoạn tan rã của chế độ chiếm hữu nô lệ và hình thành chế độ phong kiến
Trung Quốc (Xuân thu từ 722 – 481 TCN, Chiến quốc từ 480 – 221 TCN).
- Về kinh tế : Lúc này đồ sắt xuất hiện phổ biến làm cho nền nông nghiệp
và thủ công nghiệp phát triển mạnh mẽ như nghề luyện sắt, nghề rèn, nghề đúc,
nghề mộc, nghề làm gốm… Kinh tế thương nghiệp cũng bắt đầu phát triển , hình
thành nhiều thành thị buôn bán nhộn nhịp như Tần, Hán, Tề, Sở…
- Về xã hội: Giai cấp quý tộc nhà Chu mất dần vai trị chính trị và kinh tế.
Các nước chư hầu không chịu khuất phục nhà Chu nữa, mang qn tơn tính lẫn

nhau. Xã hội cũ, mới tồn tại đan xen vào nhau, vì vậy trong xã hội tồn tại nhiều
mâu thuẫn phức tạp.
- Về khoa học và văn hoá:
Khoa học tự nhiên phát triển mạnh như địa lý, thiên văn, vật lý, toán học, y
học, sinh vật học, nông học và đã đạt được những thành tựu đáng kể như biết giải
phẫu cơ thể người, biết các phương pháp chẩn đốn bệnh.
Văn hố thời kỳ này có nhiều tác phẩm nổi tiếng như “Kinh thi và Sở từ”.
. Về sử học: có nhiều bộ sử có giá trị như Xuân thu, Tả truyện, Quốc ngữ
ghi chép tình hình xã hội từ Xuân thu đến đầu Chiến quốc.
. Về triết học: Giai đoạn này là thời kỳ hoàng kim của triết học Trung
Quốc. Lịch sử gọi thời kỳ này là “Bách gia chư tử”, “Bách gia tranh minh” đã sản
sinh ra nhiều nhà tư tưởng vĩ đại, nhiều học thuyết triết học, chính trị, đạo đức có
giá trị.
2. Tiền đề tư tưởng: Thuyết Âm dương – Ngũ hành.
Đại biểu tiêu biểu của phái này là Trâu Diễn ở TK III TCN.
Người Trung Quốc cổ đại cho rằng khởi nguyên của thế giới là 2 yếu tố âm
và dương. Âm là bóng tối và tất cả những gì thuộc về bóng tối; Dương là ánh


sáng và tất cả những gì thuộc về ánh sáng. Âm – dương là 2 mặt đối lập nhưng lại
thống nhất với nhau, ràng buộc vào nhau, là cơ sở điều kiện tiền đề tồn tại của
nhau và của mọi sự vật đồng thời là nguyên nhân của mọi sự vật động và phát
triển.
Biểu hiện cụ thể của âm – dương là các mặt đối lập như: Mặt trời – mặt
trăng, sáng – tối, dài – ngắn, rộng – hẹp, nhanh – chậm, nóng – lạnh, quân tử –
tiểu nhân, nam – nữ, thơng minh – ngu đần… Trong đó mặt một thuộc về dương,
mặt 2 thuộc về âm. Mỗi sự vật, hiện tượng đều là thể thống nhất của âm và
dương, trong dương có âm, trong âm có dương, âm – dương ln ln tương tác,
chuyển hố lẫn nhau, khơng có gì là thuần âm hoặc thuần dương cả.
Có thể biểu thị mối quan hệ âm – dương bằng sau đồ sau:



Phần sáng nhiều gọi là thái dương, phần sáng ít gọi là thiếu dương. Phần
tối nhiều gọi là thái âm, phần tối ít gọi là thiếu âm. Trong thái dương có thiếu âm
và trong thái âm có thiếu dương. Âm – dương xoay vần, đắp đổi không ngừng,
thiếu dương trong thái âm phát triển đến cùng thì có sự chuyển hoá âm thành
dương và ngược lại. Trong mối quan hệ âm – dương thì dương được coi là mặt
năng động, tích cực cịn âm là mặt thụ động, tiêu cực. Nhưng khơng phải hồn


toàn như vậy mà phải xem xét chúng trong những mục đích, điều kiện, địa điểm,
thời gian cụ thể để chỉ ra cái gì mang tính tích cực hay tiêu cực.
Người Trung Quốc cho rằng tốt nhất là đạt được sự cân bằng âm – dương,
mọi sự thái quá về âm hoặc về dương đều là không tốt.
Biểu hiện cụ thể hơn nữa của âm – dương là ngũ hành – 5 yếu tố vật chất
đầu tiên của vũ trụ: kim, mộc, thuỷ, hoả, thổ. Mỗi yếu tố có tính chất riêng biệt
chẳng hạn: thuỷ (nước) thì lạnh và ln ln chảy về chỗ thấp; hoả (lửa) thì nóng
và ln ln bốc lên cao; mộc (gỗ) có tính chất đàn hồi; kim (kim loại) thì có tính
chất phụ thuộc; thổ (đất) thì tiếp nhận hạt giống và làm mùa. 5 yếu tố này luôn
luôn vận động, biến đổi và chuyển hố khơng ngừng. Cơ chế của sự chuyển hố
là cái này thắng (khắc) cái kia gọi là quá trình tương khắc, cái này sinh cái kia gọi
là quá trình tương sinh.
+ Thổ sinh kim, kim sinh thuỷ, thuỷ sinh mộc, mộc sinh hoả, hoả sinh thổ
rồi lại thổ sinh kim.
+ Thổ khắc thuỷ, thuỷ khắc hoả, hoả khắc kim, kim khắc mộc, mộc khắc
thổ rồi lại thổ khắc thuỷ. Đây là kết quả của quá trình quan sát trực quan và đúc
kết kinh nghiệm đời sống lâu dài của người Trung Quốc. VD: Thổ khắc thuỷ vì
đất thấm được nước và ngăn chặn dịng nước, thuỷ khắc hoả vì nước có thể dập
tắt lửa…
Những người theo thuyết Ngũ hành dùng 5 yếu tố này để giải thích nguồn

gốc, chủng loại của các hiện tượng tự nhiên.
. Ngũ sắc: Vàng (do thổ sinh ra) – trắng (do kim) - đen (do thuỷ) – xanh
(do mộc) - đỏ (do hoả).
. Ngũ vị: Ngọt (do thổ sinh ra) – cay (do kim) – mặn (do thuỷ) – chua (do
mộc) - đắng (do hoả).


. Ngũ tạng: Tỳ vị (lá nách, dạ dày) – phế (phổi) – thận – can (gan) – tâm
(tim).
. 4 mùa: Xuân (do mộc sinh ra) – hạ (do hoả) – thu (do kim) - đơng (do
thuỷ) - điều hồ 4 mùa (do thổ).
. 4 phương: Đông (do mộc sinh ra)– Tây (do kim)– Nam (do hoả)– Bắc (do
thuỷ) – ở giữa các phương (do thổ).
Tóm lại, thuyết âm - dương, ngũ hành đã giải thích nguồn gốc và sự vận
hành của thế giới trên lập trường duy vật, mặc dù đây chỉ là duy vật ngây thơ,
chất phác, giản đơn, mang tính chất máy móc nhưng nó có ý nghĩa thế giới quan
quan trọng chống lại quan điểm duy tâm tơn giáo và mục đích luận về tự nhiên.
Nó là cơ sở lý luận quan trọng cho những phát minh vĩ đại của khoa học tự nhiên
như Thiên văn, Lịch pháp, Y học…Tuy nhiên, khi vận dụng nó vào các vấn đề
lịch sử xã hội thì các nhà triết học đã làm mất đi tính duy vật, làm nghèo nàn đi
tính biện chứng ban đầu của nó.
II. Các đặc điểm của tư tưởng triết học Trung Quốc
1. Triết học Trung Quốc cổ đại là một nền triết học xuất hiện rất sớm
(khoảng 2000 năm TCN) đồng thời là một nền triết học đồ sộ, gồm nhiều trường
phái khác nhau như: Âm dương gia, Nho gia, Mặc gia, Đạo gia, Pháp gia, Danh
gia, Tạp gia, Nơng gia, Tung hồnh gia.
2. Triết học Trung Quốc cổ đại phát triển mạnh vào thời kỳ tan rã của chế
độ chiếm hữu nô lệ và bắt đầu hình thành chế độ phong kiến.
3. Triết học Trung Quốc cổ đại đề cập nhiều đến vấn đề chính trị, xã hội,
đạo đức của con người mà ít chú ý nghiên cứu các vấn đề thuộc về bản thể luận,

nhận thức luận, lôgic học.
4. Triết học Trung Quốc cổ đại nhấn mạnh sự hài hoà thống nhất giữa tự
nhiên và xã hội. Hầu hết các trường phái đều phản đối cái thái quá, cái bất cập,


mà thường xuất hiện các phạm trù: “Thiên nhân hợp nhất”, “Tri hành hợp nhất”,
“Thể dụng như nhất”, “Tâm vật dung hợp”.
5. Trong triết học Trung Quốc cổ đại nổi lên lối tư duy trực giác tức là
thông qua cảm nhận và thể nghiệm lâu dài, bỗng chốc giác ngộ. Chính vì vậy các
nhà triết học thường coi trọng cái Tâm, coi Tâm là gốc rễ của nhận thức, lấy
“Tâm để bao quát vật”.
6. Trong triết học Trung Quốc cổ đại các yếu tố duy vật và duy tâm, vô
thần và hữu thần thường tồn tại đan xen vào nhau, nhiều khi rất khó nhận thấy.
III. Các trường phái triết học chính trị - xó hội và đạo đức ở Trung Quốc
1. Nho gia
1.1. Nguồn gốc, sự hình thành và phát triển của Nho giáo
Nho giáo là một học thuyết chính trị, xã hội được Khổng Tử (551-479 TCN)
sáng lập vào khoảng thế kỷ VI TCN. Đây là một học thuyết chính trị xã hội có
ảnh hưởng rất sâu rộng trong xã hội Trung Hoa cổ đại cũng như sau này, nó
được phát triển qua 4 thời kỳ:
Nho giáo sơ kỳ với các đại biểu: Khổng tử, Mạnh tử và Tuân tử bàn về các
vấn đề Nhân, Lễ, Chính danh, về bản tính con người, về Thiên mệnh.
Hán nho (Thế kỷ II TCN) với các đại biểu: Đổng Trọng Thư, Lưu Hướng,
Lưu Hâm. ở thời kỳ này Nho giáo bị đẩy tới mức cực đoan theo hướng duy tâm,
xuất hiện các khái niệm “Tam cương, Ngũ thường”, “Thiên nhân tương cảm”
nhằm củng cố vai trò của chế độ phong kiến trung ương tập quyền.
- Tống nho (Thế kỷ X) với các đại biểu: Chu Đơn Di, Trình Hạo, Trình Di,
Trương Tải, Chu Hy bàn về vấn đề bản thể thế giới, vũ trụ. Khái niệm chủ yếu của
Tống nho là “Khí” và “Lý”. Xây dựng lập trường của các nhà nho. Đây là thời kỳ
Nho học được phát triển theo hướng duy vật.



×