Tải bản đầy đủ (.docx) (12 trang)

Tiểu luận_ Quy tắc đạo đức, ứng xử nghề nghiệp của luật sư

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (154.87 KB, 12 trang )

TRƯỜNG ....

TIỂU LUẬN
Đề tài: Quy tắc đạo đức, ứng xử nghề nghiệp của luật sư Việt Nam –
Thực trạng và hướng hồn thiện
Họ và tên

:

Lớp

:

Mơn

:

Mã học viên

:

......, tháng ..... năm 2021


MỞ ĐẦU
Nghề luật sư được coi là một “nghề danh giá”, bởi lẽ hoạt động nghề nghiệp
của luật sư về bản chất nhằm thực hiện sứ mệnh thiêng liêng mà sự thượng tôn pháp
luật và tinh thần công lý trao cho. Theo quan điểm của một giảng viên, nghề luật sư
chính là “sự hy vọng và tin tưởng của người dân đối với một điểm tựa pháp luật và lẽ
phải vững chắc trên con đường kiếm tìm cơng lý cho bản thân, gia đình và xã hội, để
mang lại sự bình an, hạnh phúc và cơng bằng cho mỗi số phận con người” 1. Để thực


hiện được vai trò và sứ mệnh đó, xứng đáng với sự tin tưởng của xã hội, luật sư khơng
những cần phải có kiến thức, kỹ năng, trình độ chun mơn mà cịn phải ni dưỡng
và duy trì cho mình những chuẩn mực nhất định trong quá trình hoạt động nghề, giao
tiếp xã hội và lối sống. Xuất phát từ lý do đó, Hội đồng Luật sư tồn quốc đã cụ thể
hố các “Quy tắc đạo đức, ứng xử nghề nghiệp của luật sư Việt Nam” cần thiết, quan
trọng và quy định tại “Bộ Quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp luật sư Việt Nam
năm 2019” (sau đây gọi là “Bộ Quy tắc”), theo đó các luật sư trong q trình hành
nghề có nghĩa vụ chấp hành nghiêm túc Bộ Quy tắc nêu trên.
Trong phạm vi bài Tiểu luận này, em sẽ đi phân tích một cách tổng quan về
“Quy tắc đạo đức, ứng xử nghề nghiệp của luật sư Việt Nam” hay cụ thể hơn là về Bộ
Quy tắc; đồng thời chỉ ra thực trạng liên quan đến việc áp dụng những Quy tắc này
trong thực tế hoạt động nghề luật sư hiện nay tại nước ta và đưa ra một số đề xuất hoàn
thiện.

1 TS.Lê Mai Anh, Bài giảng “Những vấn đề chung về luật sư”.

2
2


CHƯƠNG 1.
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ QUY TẮC ĐẠO ĐỨC,
ỨNG XỬ NGHỀ NGHIỆP CỦA LUẬT SƯ VIỆT NAM
1.1.

Định nghĩa về Quy tắc đạo đức, ứng xử nghề nghiệp luật sư Việt Nam

Xuyên suốt quá trình phát triển của khoa học pháp lý cho đến nay, chưa có một
khái niệm nào về “Quy tắc đạo đức, ứng xử nghề luật sư” được thừa nhận rộng rãi tại
Việt Nam, ngay cả đối với Bộ Quy tắc đã được ban hành cũng chưa đưa ra định nghĩa

chính thức về thuật ngữ này. Vì vậy, để định nghĩa được thế nào là “Quy tắc đạo đức,
ứng xử nghề luật sư Việt Nam”, trước hết ta cần hiểu bản chất của từng yếu tố cấu
thành nên thuật ngữ đó:
Thứ nhất, “nghề luật sư” là một trong số những nghề luật, có chức danh tư
pháp, được pháp luật cơng nhận, theo đó tổ chức và luật sư hành nghề cung cấp dịch
vụ pháp lý cho khách hàng một cách độc lập và chuyên nghiệp nhằm “bảo vệ quyền,
lợi ích hợp pháp của khách hàng, góp phần bảo vệ công lý, các quyền tự do, dân chủ
của công dân, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức, phát triển kinh
tế - xã hội, xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa, xã hội dân
chủ, công bằng, văn minh”2.
Thứ hai, về “Quy tắc đạo đức, ứng xử nghề luật sư”, như bất kỳ ngành nghề
khác trong xã hội, để đạt được mục tiêu, sứ mệnh của mình, nghề luật sư cũng có
những quy tắc nhất định về đạo đức, về khuôn mẫu ứng xử yêu cầu người hành nghề
luật phải chấp hành trên tinh thần tự nguyện.
Về mặt đạo đức, những quy tắc này chính là các phép tắc đối xử trong cuộc
sống xã hội nói chung và liên quan đến mối quan hệ giữa luật sư với cá nhân, cơ quan,
tổ chức khác trong từng giai đoạn thực hiện cơng việc nói riêng qua đúc kết từ thực tế
cuộc sống và yêu cầu nghề nghiệp. Trách nhiệm đạo đức nghề nghiệp của luật sư vừa
mang tính đạo lý phổ biến bởi hình thành trên nền tảng đạo đức xã hội, vừa mang tính
đặc thù nghề nghiệp bởi xây dựng dựa trên hoạt động hành nghề của luật sư.
Về mặt ứng xử, các quy tắc được đưa ra không chỉ quy định cụ thể, trói buộc
luật sư trong một cách thức ứng xử trong tình huống nhất định mà có thể bao gồm
nhiều phương án khác nhau, nhằm hướng tới một mục tiêu nhất định. Theo đó quy tắc
về ứng xử nghề nghiệp luật sư là những quy định về hành vi xử sự của luật sư (có thể
mang tính bắt buộc hoặc lựa chọn) thể hiện hành động và thái độ phù hợp của luật sư
trong quá trình hành nghề liên quan đến các mối quan hệ giữa luật sư với các chủ thể
khác.

2 Hội đồng Luật sư toàn quốc (2019), Lời nói đầu “Bộ Quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp luật sư Việt
Nam”.


3
3


Xem xét về bản chất, đạo đức và ứng xử của nghề luật sư có tính tương đồng và
liên quan nhất định, theo đó “ứng xử nghề nghiệp luật sư” chính là sự thể hiện một
cách chi tiết, cụ thể trong từng tình huống nhất định việc thực hiện “Quy tắc đạo đức
nghề nghiệp luật sư”.
Thứ ba, những “Quy tắc đạo đức, ứng xử nghề luật sư” tại từng quốc gia có thể
thực hiện dựa trên nhìn nhận và cách hiểu chung của xã hội hoặc thông qua những quy
phạm cụ thể dưới hình thái văn bản ban hành. Tuy nhiên, xét trên mặt bằng chung, với
vai trò là một nghề đặc biệt, phần lớn các quốc gia đã lựa chọn cụ thể hoá những quy
tắc này thành quy phạm, có thể kể đến như Vương quốc Anh với “Bộ quy tắc đạo đức
nghề nghiệp danh cho luật sư tư vấn”, Hoa Kỳ với “Quy tắc đạo đức của luật sư” hay
Thuỵ Điển và Trung Quốc với từng “Quy tắc đạo đức nghề nghiệp luật sư” riêng. Tuỳ
theo tính chất, đặc điểm văn hoá và thực tế hoạt động nghề luật sư tại từng nước mà
những quốc gia này lại đưa ra những quy tắc, chuẩn mực đạo đức, ứng xử riêng biệt.
Nhận định được sự cần thiết của việc văn bản hoá các quy tắc này, Việt Nam cũng là
một trong số nước lựa chọn quy định những quy tắc này dưới dạng quy phạm cụ thể.
Theo đó, Bộ Quy tắc đã được ban hành và áp dụng thống nhất trên phạm vi cả nước.
Như vậy, từ những phân tích trên có thể đưa ra định nghĩa, “Quy tắc đạo đức,
ứng xử nghề nghiệp của luật sư Việt Nam” chính là những chuẩn mực, giữ vai trị là
kim chỉ nam đối với đạo đức và ứng xử mà luật sư phải tuân theo trong mối quan hệ
giao tiếp xã hội và quá trình hoạt động nghề nghiệp với các chủ thể có liên quan.
Những quy tắc này được cụ thể hố và thể hiện dưới hình thức những quy phạm tại Bộ
Quy tắc do Hội đồng Luật sư toàn quốc ban hành.
1.2.

Vai trò của Quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp luật sư Việt Nam


Được nhận định và đánh giá là một nghề cao quý trong những nghề cao quý tại
Việt Nam, nghề luật sư cũng vì thế mà mang trong mình trọng trách, sứ mệnh vơ cùng
quan trọng: “Luật sư có sứ mệnh bảo vệ quyền con người, quyền cơng dân, bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của các nhân, tổ chức, cơ quan, bảo vệ sự độc lập của tư
pháp, góp phần bảo vệ công lý, công bằng, phát triển kinh tế - xã hội và xây dựng nhà
nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa” 3. Chính bởi lẽ đó, u cầu giữ gìn và
thực hiện trách nhiệm đạo đức, ứng xử nghề nghiệp luật sư là điều rất cần thiết; theo
đó, đạo đức nghề nghiệp luật sư được ví như nguồn của dịng sơng, gốc rễ của cây hay
nền móng của một ngôi nhà, được coi là cái nền, là gốc, là nguồn cơ bản của nghề luật
sư. Để thực hiện được chức năng, được sứ mệnh của mình luật sư cần hình thành, rèn
luyện và duy trì trách nhiệm đạo đức và hành vi ứng xử phù hợp.

3 Hội đồng Luật sư toàn quốc (2019), Quy tắc 1 thuộc “Bộ Quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp luật sư Việt
Nam”.

4
4


“Quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp luật sư Việt Nam” giữ vai trò và mang
giá trị định hướng, là thước đo, chuẩn mực đánh giá đạo đức của luật sư. Qua đó, luật
sư có cơ sở để hình thành tính tự giác, tinh thần tự nguyện tu dưỡng, rèn giũa đạo đức
trong hành nghề và lối sống; đồng thời nhằm gìn giữ hình ảnh và uy tín nghề nghiệp,
xứng đáng với lịng tin và sự tơn trọng mà người dân, nhà nước và toàn xã hội dành
cho luật sư. Mặt khác, Bộ Quy tắc cũng chính là “một văn bản mang tính quy phạm
nội bộ thể hiện rõ nét nhất cơ chế quản lý theo phương thức tự quản kết hợp với quản
lý nhà nước”4 do Hội đồng Luật sư toàn quốc ban hành.
1.3.


Quan điểm tư tưởng và yêu cầu của việc xây dựng Bộ Quy tắc đạo đức và
ứng xử nghề nghiệp luật sư Việt Nam

Như đã phân tích ở trên, những “Quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp luật
sư Việt Nam” được xây dựng không những dựa trên “nền tảng xã hội” mà còn dựa trên
“đặc thù nghề nghiệp luật sư”. “Nền tảng xã hội” là đặc điểm văn hố, định hướng và
trình độ phát triển của đất nước; “đặc thù nghề nghiệp luật sư” là chức năng, sứ mệnh,
thực tiễn hoạt động, yêu cầu của nghề nghiệp luật sư trong phạm vi Việt Nam nói riêng
và phạm vi quốc tế nói chung.
Nhìn nhận một cách tổng quan, Bộ Quy tắc của Hội đồng Luật sư toàn quốc
được xây dựng dựa trên hệ tư tưởng, quan điểm và các yêu cầu nhất như sau:
Một là, Bộ Quy tắc phải phù hợp với thông lệ quốc tế về nghề nghiệp luật sư.
Trong xu thế hội nhập và định hướng phát triển của nước ta hiện nay, việc xem xét, coi
trọng những quy định và thơng lệ quốc tế nói chung là một điều thực sự cần thiết. Bên
cạnh đó, nghề nghiệp luật sư khơng phải ngành nghề chỉ gói gọn trong phạm vi lãnh
thổ một quốc gia hay một khu vực mà còn mang tính chất quốc tế (về quốc tịch khách
hàng, luật nước ngoài, ...), do vậy những “Quy tắc đạo đức, ứng xử nghề nghiệp luật
sư tại Việt Nam” được xây dựng có sự xem xét những thơng lệ quốc tế liên quan sẽ
giúp các luật sư Việt Nam dễ thích nghi hơn trong quá trình hoạt động trên phạm vi
quốc tế và trong thời đại quốc tế hoá hiện nay.
Hai là, Bộ Quy tắc phải dựa trên nền tảng chính trị-xã hội, đặc điểm pháp luật,
văn hoá và đạo đức của Việt Nam và phù hợp với trình độ và xu hướng phát triển của
nghề luật sư tại Việt Nam. Đây có thể coi là một yêu cầu đương nhiên với bất kỳ Bộ
Quy tắc về đạo đức nghề nghiệp tại bất kỳ quốc gia nào, bởi lẽ ngay từ tên của Bộ Quy
tắc đã thể hiện rõ đặc tính “quốc gia” và “nghề nghiệp – nghề luật sư”.
Ba là, các chuẩn mực đạo đức và lối ứng xử nghề nghiệp luật sư phải được cụ
thể hoá tại Bộ Quy tắc. Với một phạm trù rất rộng và mang tính định hình đó là “đạo
4 Luật sư Nguyễn Minh Tâm – Đồn luật sư Thành phố Hồ Chí Minh, “Tổng quan về Quy tắc đạo đức và ứng
xử nghề nghiệp luật sư”.
Link: />

5
5


đức nghề nghiệp luật sư”, việc quy định cụ thể, rõ ràng tại Bộ Quy tắc sẽ tạo điều kiện
thuận lợi cho công tác quản lý và thực hiện của luật sư cũng như các tổ chức có liên
quan.
Bốn là, việc xây dựng Bộ Quy tắc và sửa đổi, bổ sung, hồn thiện gắn chặt với
q trình phát triển của nghề luật sư Việt Nam và mang tính chất thường xuyên, lâu
dài. Đây là quan điểm, tư tưởng mà chúng ta cần phải thừa nhận và không thể chối bỏ,
bởi lẽ sự vận động và thay đổi của nghề luật sư nói chung và nghề luật sư tại Việt Nam
nói riêng là khơng ngừng và khơng có giới hạn. Chính vì vậy, trong quá trình xây dựng
và áp dụng Bộ Quy tắc không thể đảm bảo chỉ trong một sớm một chiều hay tại một
lần duy nhất có thể thành cơng mà cũng cần có sự vận động, sửa đổi, bổ sung nhằm
hồn thiện và tương hợp với trình độ phát triển của nghề tại từng thời điểm nhất định.
Có như vậy, Bộ Quy tắc mới đạt được hiệu quả và mục đích hình thành của mình.
1.4.

Nội dung quy tắc đạo đức, ứng xử nghề nghiệp của luật sư Việt Nam

Theo hành trình phát triển của nghề luật sư tại Việt Nam có thể thấy, thực tế
“Quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp của luật sư Việt Nam” có độ tuổi cịn khá
non trẻ. Theo đó, mặc dù từ năm 1945 nghề luật sư của chế độ mới đã được ra đời theo
Sắc lệnh số 97/SL do Chủ tịch Hồ Chí Minh ký, nhưng mãi đến năm 2002 nước ta mới
có “Quy tắc mẫu về đạo đức nghề nghiệp luật sư” được Bộ trưởng Bộ Tư pháp ký ban
hành kèm theo Quyết định số 356b/2002/QĐ-BT. Suốt từ khoảng thời gian đó đến nay,
nhằm phù hợp với sự phát triển của nghề luật sư, Bộ Quy tắc đã được nhiều lần sửa
đổi, bổ sung, ban hành thay thế mới và đến nay đang áp dụng “Bộ Quy tắc đạo đức và
ứng xử nghề nghiệp luật sư Việt Nam được Hội đồng Luật sư tồn quốc thơng qua và
ban hành ngày 13/12/2019 kèm theo Quyết định số 201/QĐ-HĐTLSTQ”.

Bộ quy tắc đưa ra những quy tắc chung với vai trò là trách nhiệm đạo đức cơ
bản, chung nhất của người luật sư và các quy tắc cụ thể của luật sư trong các mối quan
hệ xã hội nhất định khi hành nghề. Cụ thể như sau:
1.4.1. Quy tắc chung
Đúng như tên gọi của nó, Quy tắc chung về đạo đức và ứng xử nghề luật sư
được được coi là nền móng, là những nguyên tắc cơ bản, hệ thống tư tưởng dẫn
hướng, chỉ đạo cho toàn bộ hệ thống quy tắc đạo đức và ứng xử cụ thể của luật sư
trong các mối quan hệ khác. Các quy tắc chung được quy định trọn vẹn tại Chương I
của Bộ Quy tắc từ Quy tắc 1 đến Quy tắc 4.
1.4.2. Quy tắc trong quan hệ với khách hàng
Khách hàng là một trong những chủ thể quan trọng nhất hình thành nên nghề
luật sư, đó có thể là các cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân sử dụng dịch vụ pháp lý của
luật sư. Dước góc độ kinh tế, khách hàng là bên có nhu cầu sử dụng dịch vụ, quyết
6
6


định việc thực hiện hoạt động cung cấp dịch vụ pháp lý của luật sư. Dưới góc độ pháp
lý, mối quan hệ giữ luật sư và khách hàng là một loại quan hệ dân sự, theo đó hai chủ
thể này có các quyền và nghĩa vụ được thoả thuận trên cơ sở bình đẳng và phù hợp với
nguyện vọng của từng bên. Trong mối quan hệ với khách hàng, Bộ Quy tắc chia ra làm
4 nhóm quy tắc về đạo đức, ứng xử đối với luật sư. Theo đó những nhóm này được
phân chia rõ ràng và cụ thể về ranh giới, theo thứ tự gồm: những quy tắc cơ bản, quy
tắc liên quan đến nhận vụ việc, quy tắc liên quan đến thực hiện vụ việc, quy tắc liên
quan đến kết thúc vụ việc được quy định lần lượt tại Mục 1, Mục 2, Mục 3 và Mục 4
của Chương II Bộ Quy tắc.
1.4.3. Quy tắc trong quan hệ với đồng nghiệp
Trong cùng một môi trường việc làm không thể tránh khỏi những trường hợp,
thời điểm, tình huống xảy ra va chạm hay các mối liên hệ qua lại giữa những luật sư
với nhau. Nhằm củng cố vị trí, vai trò của nghề luật trong xã hội và giữ gìn hình ảnh

của người luật sư, cần thiết phải có những quy tắc được đặt ra trong mối quan hệ giữa
luật sư với đồng nghiệp. Theo đó, mỗi luật sư cần có nghĩa vụ “tơn trọng, hợp tác với
đồng nghiệp”, bảo vệ uy tín, danh dự của đồng nghiệp mình cũng như chính bản thân.
Đồng nghiệp ở đây được hiểu là những luật sư có thể đang hoạt động trong tổ chức
hành nghề luật sư, hành nghề với tư cách cá nhân, đang tập sự hoặc các tổ chức xã hội
– nghề nghiệp của luật sư. Tại Bộ Quy tắc, những quy tắc này được quy định tại
Chương III từ Quy tắc 17 đến Quy tắc 25.
1.4.4. Quy tắc trong quan hệ với cơ quan, người tiến hành tố tụng
Một trong những hình thức cung cấp dịch vụ pháp lý của luật sư bao gồm cả
hoạt động tham gia tố tụng, do vậy việc tiếp xúc, làm việc với cơ quan, người tiến
hành tố tụng là điều thường xuyên diễn ra. Thực chất mối quan hệ với cơ quan, người
tiến hành tố tụng chính là với những người có thẩm quyền tại các cơ quan này. Hay nói
cách khác, đây là “mối quan hệ giữa một bên đại diện Nhà nước thực thi quyền lực tư
pháp mà hệ thống Toà án nhân dân là Trung tâm của hệ thống tư pháp” và “một bên
khác là đại diện cho khách hàng trong vụ án”.
Đây là một trong những mối quan hệ đặc biệt của luật sư, mang tính chất đặc
thù vừa đấu tranh vừa hợp tác. Hợp tác ở chỗ luật sư và cơ quan, người tiến hành tố
tụng cùng chấp hành nghiêm chỉnh quy định của pháp luật, tôn trong lẫn nhau, cùng
hướng tới mục tiêu tìm ra sự thật, bản chất của vấn đề vì một phán quyết cuối cùng
hợp tình hợp lý. Mặt khác, tính đấu tranh lại thể hiện trong quá trình thực hiện quyền
và nghĩa vụ của từng chủ thể, luật sư và cơ quan, người tiến hành tố tụng ln có sự
giám sát qua lại lẫn nhau. Như vậy, với luật sư, không chỉ đặt ra yêu cầu phải có kiến
thức pháp lý vững chắc, có thể áp dụng pháp luật đúng mà cịn địi hỏi phải có lịng tự
7
7


trọng, sự độc lập nhất định và tôn trọng chủ thể con lại trong quan hệ trên tinh thần
thượng tôn pháp luật.
Trong mối quan hệ này, Bộ Quy tắc đề cập đến những quy tắc cho luật sư gồm:

“Quy tắc chung khi tham gia tố tụng; Ứng xử tại phiên tồ; Những việc luật sư khơng
được làm trong quan hệ với các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng” 5
tại Quy tắc 26 đến Quy tắc 28.
1.4.5. Quy tắc trong quan hệ với các cơ quan nhà nước, tổ chức cá nhân khác và
các quy tắc khác
Ngoài cơ quan tiến hành tố tụng, khi hành nghề luật sư cũng thường xuyên tiếp
xúc với các cơ quan quản lý nhà nước, các tổ chức, cá nhân khác. Mối quan hệ này
xuất phát từ sự uỷ quyền của khách hàng cho luật sư nhằm giao tiếp với các cơ quan,
tổ chức, cá nhân đó để thực hiện nhu cầu pháp lý của khách hàng, do vậy thường phát
sinh đối với những luật sư cung cấp dịch vụ pháp lý đại diện ngoài tố tụng.
Bộ Quy tắc quy định những chuẩn mực trong mối quan hệ này tại Chương V
trong hai quy tắc: Quy tắc 29 và Quy tắc 30.
Mặt khác, tại Chương VI của Bộ Quy tắc cũng đưa ra hai Quy tắc liên quan đến
hoạt động ngồi lệ khác của luật sư gồm: “Thơng tin, truyền thơng và Quảng cáo”.

5 Hội đồng Luật sư tồn quốc (2019), Quy tắc 1 thuộc “Bộ Quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp luật sư Việt
Nam”.

8
8


CHƯƠNG 2.
THỰC TRẠNG ÁP DỤNG QUY TẮC ĐẠO ĐỨC, ỨNG XỬ
NGHỀ NGHIỆP CỦA LUẬT SƯ VIỆT NAM VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ
HOÀN THIỆN
2.1.

Thực trạng áp dụng Quy tắc đạo đức, ứng xử nghề nghiệp luật sư Việt
Nam


Mang ý nghĩa và vai trò quan trọng đối với nghề luật sư và xã hội, Bộ Quy tắc
hiện đã và đang ngày càng được các luật sư quan tâm và có ý thức tuân thủ. Tuy nhiên
trên thực tế vẫn tồn tại một số lượng khơng nhỏ những trường hợp luật sư vì lợi ích cá
nhân mà vi phạm những quy tắc đạo đức và ứng xử, gây ảnh hưởng đến quyền lợi của
các chủ thể khác và làm xấu hình ảnh nghề luật sư trong mắt xã hội, đặc biệt là trong
quan hệ giữa luật sư với khách hàng.
Cụ thể theo số liệu thống kê của Liên đoàn Luật sư Việt Nam “từ năm 2009 đến
năm 2020, Liên đoàn Luật sư Việt Nam đã nhận được khoảng 1.500 trường hợp khiếu
nại, tố cáo đối với Luật sư, người tập sự hành nghề luật sư, các Ban Chủ nhiệm, thành
viên Ban Chủ nhiệm đồn luật sư”6. Trong đó, các khiếu nại phần lớn thuộc các trường
hợp liên quan đến những vấn đề sau:
-

Khách hàng khơng hài lịng đối với chất lượng cung cấp dịch vụ pháp lý.
Luật sư không thực hiện được nội dung công việc đã hứa hẹn kết quả với khách hàng
(vi pham Quy tắc 9.8).
Luật sư làm việc tắc trách hoặc có thái độ khơng đúng với khách hàng (vi phạm Quy
tắc 3, Quy tắc 6).
Ngoài ra, trong thời gian năm 2020 có những trường hợp một số Luật sư có những
phát biểu với nội dung, và sử dụng ngơn ngữ sai trái, lệch lạc về chuẩn mực đạo đức
nghề nghiệp luật sư và gây hậu quả xấu đối với hình ảnh và uy tín của nghề nghiệp nói
chung (vi phạm Quy tắc 3).
Theo báo cáo của các Đoàn Luật sư, từ năm 2009 đến tháng 6/2020, có 84 luật
sư vì lý do vi phạm nghiêm trọng Đạo đức nghề nghiệp luật sư và Luật Luật sư đã bị
xoá tên khỏi danh sách luật sư. Trong đó, đối với vi phạm đạo đức chủ yếu liên quan
đến “việc nhận, chiếm giữ tiền của khách hàng không đúng quy định và một số trường
hợp có biểu hiện tiêu cực trong hành nghề”.
Việc vi phạm Bộ Quy tắc ngoài lý do liên quan đến ý chí chủ quan của luật sư,
khơng thể khơng nhắc đến những bất cập, khó khăn xuất phát từ những chủ thể khác.

Cụ thể, mặc dù vai trò và tầm quan trọng của nghề Luật sư đang ngày được khẳng định
vững chắc tại Việt Nam, tuy nhiên điều này chưa được thể hiện trong các văn bản pháp
6 Luật sư Nguyễn Thế Phong (2020), Đạo đức nghề nghiệp Luật sư trong quan hệ khách hàng – những điểm cần
lưu ý.
Link: />
9
9


lý cũng như nhìn nhận của các cơ quan, tổ chức khác. Đây cũng là một trong những lý
do ảnh hưởng, tác động đến quá trình chấp hành quy tắc đạo đức và ứng xử nghề
nghiệp luật sư tại Việt Nam. Cụ thể: Điều 72 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy
định luật sư được coi là người bào chữa trong quá trình tố tụng hình sự. Vậy nhưng
trên thực tế, chất lượng vai trò bào chữa của luật sư phải phụ thuộc vào rất nhiều yếu
tố và chủ thể khác; đồng thời cũng gặp khơng ít khó khăn từ phía những chủ thể này.
Ví dụ, đối với việc gặp thân chủ trong trại giam để lấy ý kiến hay trao đổi thông tin,
luật sư cũng thường xuyên gặp phải rất nhiều khó dễ từ cơ quan tiến hành tố tụng.
Chính vì vậy, nhiều luật sư phải chọn “con đường phụ” bất chấp việc vi phạm đạo đức
luật sư để có thể thực hiện được vai trị người bào chữa của mình.
2.2.

Một số kiến nghị hồn thiện

Có thể thấy những thực trạng tồn tại trên xuất phát chính từ các chủ thể liên
quan trong quá trình hành nghề luật sư. Vì vậy, để nâng cao hiệu quả chấp hành và
thực hiện Bộ Quy tắc cần chú trọng xây dựng ý thức và nhìn nhận từ phía các chủ thể.
Có thể xem xét một số kiến nghị mặc dù mang tính xuyên suốt đã được đề cập nhiều
lần, nhưng thực tế áp dụng vẫn rất hiệu quả và cần được nhắc lại để chú trọng đổi mới
và nâng cao chất lượng, phương thức thực hiện:
Một là, nâng cao ý thức tuân thủ “Quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp luật

sư Việt Nam” của cá nhân luật sư.
Mặc dù liên quan đến ý chí chủ quan của luật sư, tuy nhiên việc nâng cao ý thức
vẫn có thể thực hiện được thông qua việc thực hiện các hoạt động nhằm tạo động lực,
phổ biến tầm quan trọng, giá trị đối với bản thân luật sư khi chấp hành các Quy tắc đó.
Một số hoạt động có thể kể đến như: Tuyên truyền phổ biến các quy tắc đạo đức dưới
dạng chương trình hội thảo; Tuyên dương những cá nhân luật sư hoặc tổ chức hành
nghề luật tiêu biểu luôn tuân thủ và thực hiện tốt các quy tắc đạo đức, nhận được phản
hồi tốt của khách hàng; Tổ chức các khoá đào tạo kỹ năng mềm, giải đáp thắc mắc cho
những luật sư mới vào nghề nhằm xử lý các tình huống trong mối quan hệ của luật sư
với khách hàng, cơ quan tổ chức có liên quan dựa trên tinh thần quy tắc đạo đức và
ứng xử.
Hai là, xoá bỏ tối đa những hạn chế, rào cản không cần thiết đối với hoạt động
của luật sư trong quy định pháp luật.
Những rào cản ở đây có thể là các quy định về thủ tục, quy trình rườm rà liên
quan đến việc thực hiện cung cấp dịch vụ pháp lý của luật sư hay khơng ghi nhận vai
trị của luật sư trong một số hoạt động nhất định. Với kiến nghị này, luật sư có thể dễ
dàng, chủ động hơn trong khuôn khổ của pháp luật, hạn chế các trường hợp lách luật,
sử dụng “lối tắt” để hành nghề dẫn tới vi phạm Quy tắc đạo đức nghề nghiệp.
10
10


Ba là, nâng cao nhận thức của cơ quan nhà nước và các chủ thể khác về tầm
quan trọng của nghề luật sư.
Việc nâng cao nhận thức của cơ quan nhà nước và các chủ thể khác về tầm quan
trọng của nghề luật sư không chỉ dựa trên các hoạt động phổ biến, tuyên truyền mà còn
liên quan đến việc tăng hiệu quả áp dụng quy định pháp luật đối với những chủ thể
này. Cụ thể, những quyền lợi của luật sư được thực hiện trong quá trình hành nghề đã
được pháp luật ghi nhận cần được phổ biến để áp dụng chính xác vào thực tế tại các cơ
quan nhà nước, loại bỏ các trường hợp tự thêm quy định, yêu cầu phi lý nhằm gây khó

dễ cho luật sư trong quá tình tác nghiệp. Để tăng hiệu quả áp dụng pháp luật cần đưa
ra cơ chế giám sát, kiểm tra, xử lý hay đầu mối để các luật sư phản ánh trực tiếp khi bị
gây khó dễ, qua đó vừa tăng tính chủ động cho luật sư đồng thời tạo nền cơ bản, tính
răn đe đối với những cá nhân, tổ chức vi phạm.

11
11


KẾT LUẬN
Trong thực tế hoạt động của nghề luật sư nói chung, khơng thể phủ nhận tầm
quan trọng của một hệ thống quy tắc nhất định về chuẩn mực đạo đức đối với luật sư,
nó được coi như một la bàn chỉ đường cho luật sư trong quá trình hành nghề luật. Nhìn
riêng ở phạm vi Việt Nam, sự ra đời của “Bộ Quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp
luật sư Việt Nam” đã tạo một nền móng vững chắc, là kim chỉ nam cho quá trình hành
nghề của mỗi luật sư, giúp các luật sư dễ dàng hơn khi xây dựng định hướng nghề
nghiệp đúng đắn, phù hợp; đồng thời nâng cao vị trí, vai trị và chức năng của nghề
luật trong xã hội.
Mặc dù thực tế hiện nay, việc tuân thủ Bộ Quy tắc chưa đạt được mức độ thực
sự đáng mong đợi, cụ thể vẫn cịn tồn tại khơng ít trường hợp vi phạm và bị xử lý kỷ
luật hay không thiếu những trường hợp vi phạm nhưng chưa bị phát giác, tố cáo; tuy
nhiên với sự phát triển ngày càng cao của xã hội nói chung, khi mà nhận thức của con
người ngày càng tăng dẫn tới nghề luật sư được coi trọng hơn và đồng nghĩa với việc
tính sàng lọc sẽ cao hơn. Hay nói cách khác, những luật sư có tư cách đạo đức và hành
vi ứng xử không tốt chắc chắn sẽ bị khách hàng nói riêng và xã hội nói chung đào thải.
Nhưng cũng cần phải giải thích rằng, chúng ta không thể cứ mãi chờ xã hội phát triển,
mà song song với đó phải xây dựng tinh thần chủ động hoàn thiện bản thân (đối với
luật sư), điều chỉnh hệ thống quy phạm phù hợp để từ đó có thể phát huy tối đa hiệu
quả và mục tiêu xây dựng Bộ Quy tắc hướng đến.


12
12



×