Tải bản đầy đủ (.pdf) (25 trang)

Tài liệu Lý luận chung về công ty cổ phần doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (494.5 KB, 25 trang )

LỜI NÓI ĐẦU

Xuất phát từ thực tế khách quan do đòi hỏi của sự hình thành vầ phát triển của
nền kinh tế thị trường . Do đó ,việc hình thành các công ty cổ phần (CTCP ) và vấn
đề cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước (DNNN ) là tất yếu đối với quá trình phát
triển mạnh của nền kinh tế thị trường . Hình thức CTCP đã xuất hiện vào những
năm cuối thế kỷ XVI và đầu thế kỷ XVII , mà trước tiên là ở nước Anh sau đó là
nước Pháp . Trải qua quá trình phát triển của nền kinh tế , nhất là trong giai đoạn
mà cuộc Cách mạng công nghiệp diễn ra thì CTCP phát triển rất mạnh mẽ. Đến
những năm đầu thế kỷ XX thì CTCP đã trở thành hình thức kinh doanh rất phổ biến
ở các nước có nền kinh tế thị trường phát triển mạnh. Với Việt Nam chúng ta, từ
khi đất nước được thống nhất , do phải giải quyết hậu quả nặng nề của chiến tranh .
Mặt khác do cơ chế kinh tế và xuất phát điểm của chúng ta thấp. Chính vì vậy, mà
việc khôi phục nền kinh tế tuy đã đạt được nhiều thành công, song cũng còn nhiều
hạn chế. Do đó mà đại hội Đảng lần thứ VI (12/ 1986) đã đánh dấu sự đổi mới của
nền kinh tế Việt nam. Đó là quá trình chuyển đổi từ nền kinh tế tập trung quan liêu
bao cấp, sang nền kinh tế thị trường, Nó không chỉ làm thay đổi một cách sâu sắc
nền kinh tế nước ta về cơ cấu kinh tế, thành phần kinh tế và quan hệ sở hữu mà còn
làm xuất hiện hình thức tổ chức kinh tế mới đó là CTCP. Nghị quyết Đại hội Đảng
lần thứ VI, VII, VIII và Hiến pháp 1992 đều khẳng định: Nền kinh tế nước ta hiện
nay là nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự
quản lý của Nhà nước theo định hướng Xã hội chủ nghĩa. Trong nền kinh tế nhiều
thành đó, kinh tế quốc doanh được xác định giữ vai trò chủ đạo. Các thành phần
kinh tế khác hoạt động theo luật và bình đẳng trước pháp luật
Công ty cổ phần là loại hình doanh nghiệp đối với nước ta là tương đối mới.
Trước đây chưa có Luật doanh nghiệp thì nó hoạt động theo Luật công ty. Khi Luật
doanh nghiệp ra đời (tháng 12 năm 1999) thì công ty cổ phần được xác định đầy đủ
và rõ ràng hơn, là một trong 4 loại hình doanh nghiệp được quy định trong Luật
doanh nghiệp. Cũng chính từ đó mà công ty cổ phần phát triển mạnh hơn và ngày
càng phát huy được những ưu thế của nó trong nền kinh tế. So với các loại hình
doanh nghiệp khác thì công ty cổ phần rất có ưu thế trong việc huy động nguồn vốn


nhàn rỗi trong công chúng. Mặt khác với việc hình thành thị trường chứng khoán ở
nước ta thì công ty cổ phần là điều kiện quan trọng và tiên quyết cho sự hoạt động
của thị trường này. Từ đó thúc đẩy nền kinh tế phát triển .
Với vai trò và tầm quan trọng của công ty cổ phần ở nước ta trong giai đoạn
hiện nay, em mạnh dạn chọn đề tài "Công ty cổ phần và vai trò của nó trong
phát triển kinh tế ở nước ta hiện nay". Để thực hiện được để tài này em xin chân
thành cảm ơn sự hướng dẫn tận tình của thày giáo Nguyễn Việt Tiến.
§Ò ¸n kinh tÕ chÝnh trÞ
CHƯƠNG I
LÝ LUẬN CHUNG VỀ CÔNG TY CỔ PHẦN

I. KHÁI NIỆM, SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA CÔNG TY CỔ PHẦN
1. Khái niệm
Công ty cổ phần là doanh nghiệp trong đó các cổ đông góp vốn kinh doanh
và chịu trách nhiệm trong phạm vi phần vốn góp của mình trên cơ sở tự nguyện để
tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh nhằm thu lợi nhuận
2. Lịch sử hình thành và phát triển của công ty cổ phần
Công ty cổ phần ra đời từ cuối thế kỷ 16 ở các nước tư bản phát triển như
một nhu cầu khách quan của lịch sử. Trong suốt mấy trăm năm qua các công ty cổ
phần đã chiếm một vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy nền kinh tế thế giới. Quá
trình lịch sử hình thành và phát triển của hình thức công ty cổ phần trên thế giới có
thể được mô tả theo sơ đồ sau:





























2.1. Giai đoạn mầm mống
Các giai đoạn hình
thnh CTCP trên thế giới
Giai đoạn
mầm mống
- Góp vốn
theo nhóm
bạn
- Hoạt
động liên

kết lỏng
lẻo
Giai đoạn
hình
thnh
- Bắt đầu
phát hnh
cổ phiếu
- Bước đầu
xuất hiện
giao dịch
chứng
khoán
- Hoạt
động có tổ
chức lớn
hơn
Giai doạn
phát triển
- Công ty cổ
phần phổ
biến ở các
nước tư bản
chủ nghĩa
-Các hình
thức đa
quốc gia
- Hình
thnh trung
tâm ti

chính quốc
tế -Giao dịch
Giai đoạn
trưởng thnh
- Hình thức
công ty xuyên
quốc gia, đa
quốc gia
- Thu hút
công nhân
mua cổ phiếu
- Cơ cấu công
ty cổ phần
hon thiện,
pháp luật
hon thiện
Trong những năm đầu của phuơng thứ
c sản xuất TBCN các nhà tư bản lập ra
các xí nghiệp TBCN riêng lẻ, hoạt động độc lập thuê mướn công nhân và bóc lột

1
§Ò ¸n kinh tÕ chÝnh trÞ
lao động làm thuê. Dần dần cùng với sự phát triển của sức sản xuất và chế độ tín
dụng họ đã liên kết với nhau, dựa trên quan hệ nhân thân (gia đình) và chữ tín góp
vốn kinh doanh nhằm mục đích sinh lợi. Từ doanh nghiệp nhóm bạn dần dần phát
triển thành doanh nghiệp góp vốn. Năm 1553 công ty cổ phần đầu tiên ở Anh thành
lập với số vôn 6000 bảng Anh phát hành 240 cổ phiếu, mỗi cổ phiếu là 25 bảng
Anh để tổ chức đội buôn gồm 3 chiếc thuyền lớn tìm đường sang Ấn Độ theo h-
ướng Đông Bắc.
Năm 1801 tại Luân Đôn sở giao dịch chứng khoán chính thức ra đời tạo ra

thị trường chứng khoán. Thị truờng chứng khoán liên quan tới doanh nghiệp cổ
phần bao gồm cả cổ phần tư nhân và doanh nghiệp cổ phần do Nhà nước đứng ra
thành lập. Theo Các Mác "Trong bước đầu của nền sản xuất TBCN một số ngành
sản xuất đòi hỏi một số tư bản tối thiểu mà lúc đó từng cá nhân riêng lẻ chưa thực
hiện được. Tình hình đó dẫn đến Nhà nước phải trợ cấp... Mặt khác điều đó cũng
dẫn đến việc thành lập những nơi nắm giữ độc quyền do pháp luật thừa nhận để
kinh doanh trong những ngành công nghiệp và thương nghiệp nhất định". Như vậy
trong giai đoạn này công ty cổ phần có hai loại:
+ Doanh nghiệp góp vốn hoặc doanh nghiệp nhóm bạn
+ Doanh nghiệp do Nhà nước lập bằng hình thức phát hành trái khoán (Ở Mỹ
gọi là cổ phần công cộng) hoặc doanh nghiệp Nhà nước góp vốn.
2.2. Giai đoạn hình thành
Trong nửa đầu thé kỷ XIX các công ty cổ phần chính thức lần lượt ra đời
với hình thức tổ chức và hình thức phân phối riêng của chúng. Những quy định cơ
bản về công ty cổ phần đã ra đời (ở Pháp vào những năm 1806). Công ty cổ phần
được thành lập rộng khắp trong các ngành nghề không chỉ trong thương nghiệp mà
trong giai đoạn trước ở các ngành chế tạo, các lĩnh vực giao thông vận tải đường
sông, đưòng sắt.
Cổ phiếu phát hành có thể bán trao tay, loại giao dịch chứng khoán này có
lúc vượt ra ngoài biên giới quốc gia thu lợi nhuận theo hình thức lợi tức định kỳ.
Một số doanh nghiệp lớn của tư bản tư nhân bắt đầu phát hành cổ phần, tách người
đại biểu quyền sở hữu (hội đồng quản trị) và người kinh doanh (giám đốc) ra làm
hai. Các sở giao dịch chứng khoán cũng hình thành phổ biến ở các nước Phương
Tây tuy nhiên trước những năm 70 của thế kỷ XIX công ty cổ phần còn ít và hình
thức chưa đa dạng, quy mô còn nhỏ.
2.3. Giai đoạn phát triển
Sau những năm 70 của thế kỷ XIX công ty cổ phần phát triển rất nhanh phổ
biến ở tất cả các nước tư bản, các ngành có quy mô sản xuất mở rộng, tập trung tư
bản diễn ra với tốc độ chưa từng có, ra đời các tổ chức độc quyền như Các ten –
Xanh đê ca – Cơ vốt. Các công ty nắm giữ cổ phần khống chế ra đời tạo thành kết

cấu chuỗi. Công ty mẹ công - ty con – công ty cháu hình thành một tập đoàn doanh
nghiệp xuyên quốc gia.
Đến năm 1930 số công ty cổ phần của Anh là 86000, 90% tư bản chịu sự
khống chế của công ty cổ phần. Ở Mỹ 1909 có tổng số 262000 công ty cổ phần.
Đến năm 1939 số công ty cổ phần ở Mỹ chiếm 51,7% trong tổng số các xí nghiệp
nông nghiệp và 92,6% giá trị tổng sản lượng công nghiệp.
2.4. Giai đoạn hình thành
Sau chiến tranh thế giớ thứ hai công ty cổ phần có những đặc điểm mới:

2
§Ò ¸n kinh tÕ chÝnh trÞ
- Dùng hình thức cổ phần để lập ra các công ty xuyên quốc gia và đa quốc gia để
liên hợp kinh tế và quốc tế hoá cổ phần hình thành các tập đoàn doanh nghiệp quốc
tế
- Thu hút công nhân viên chức mua cổ phần thực hiện " chủ nghĩa tư bản nhân
dân" để làm dịu mâu thuẫn giữa lao động và tư bản đồng thời thu hút vốn một cách
thuận lợi
- Cơ cấu tổ chức của công ty cổ phần tại các nước ngày càng hoàn thiện, pháp luật
ngày càng kiện toàn và mỗi nước đều có những đặc điểm riêng
3. Điều kiện để hình thành công ty cổ phần
Muốn hình thành công ty cổ phần phải có một số điều kiện nhất định trong
đó những điều kiện sau là thiết yếu :
3.1. Tồn tại sở hữu khác nhau về vốn
Công ty cổ phần là công ty có nhiều người đứng sở hữu. Nếu công ty chỉ
thuộc một chủ sở hữu thì dù chủ sở hữu đó là một cá nhân hay một tổ chức thì đó
không phải là công ty cổ phần mà thuộc một loại hình công ty khác có thể là công
ty tư nhân, công ty TNHH một thành viên hay Công ty liên doanh ( nếu chủ sở hữu
là Nhà nước)
3.2. Những người có vốn muốn tham gia đầu tư để kinh doanh thu lợi nhuận
Đây là hình thức đầu tư mạo hiểm nhất so với các hình thức đầu tư khác như

mua công trái, trái phiếu, gửi ngân hàng... Trong kinh doanh có khả năng bị phá sản
nhưng bù lại là hình thức đầu tư có hứa hẹn nhất và không bị lạm phát với món tiền
lớn
3.3. Lợi nhuận thu được phải có đủ sức hấp dẫn người có vốn tham gia kinh
doanh
Nếu lợi nhuận trong kinh doanh mang lại lớn hơn lợi tức ngân hàng hoặc lợi
tức do đầu tư vào các lĩnh vực khác và lớn hơn đủ mức cần thiết thì người có vốn
mới sẵn sàng góp vốn vào công ty cổ phần để tham gia kinh doanh
3.4. Phải có sự nhất trí thành lập công ty
Những người có vốn muốn tham gia kinh doanh phải thoả thuận được với
nhau để cùng góp vốn và đứng ra thành lập công ty cổ phần trên cơ sở những quy
định của pháp luật. Nếu không thoả thuận được thì công ty cổ phần không thể thành
lập được
4. Cơ cấu tổ chức và hoạt động của công ty cổ phần
4.1. Cổ phần, cổ phiếu và cổ đông
Vốn của công ty cổ phần được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là các
cổ phần. Chứng chỉ do công ty cổ phần phát hành hoặc bút toán ghi sổ xác nhận
quyền sở hữu một hoặc một số cổ phần của công ty gọi là cổ phiếu. Cổ phiếu có thể
ghi tên hoặc không ghi tên. Giá trị của mỗi cổ phiếu gọi là mệnh giá cổ phiếu. Cổ
phiếu bảo đảm cho người chủ sở hữu có quyền lĩnh một phần thu nhập của công ty
tương ứng với số tiền ghi trên cổ phiếu
Một công ty chỉ được phép phát hành một số lượng cổ phiếu nhất định. Cổ
phiếu thường và cổ phiếu ưu đãi do công ty phát hành hình thành nên vốn cổ phần
của công ty. Cổ phiếu chứng minh tư cách thành viên của những người góp vốn vào
công ty cổ phần, những thành viên này gọi là cổ đông. Mỗi cổ đông có thể mua một
hoặc nhiều cổ phiếu. Quyền và trách nhiệm, lợi ích của mỗi cổ đông phụ thuộc vào
số lượng cổ phiếu của họ trong công ty. Cổ đông nắm được số lượng cổ phiếu

3
§Ò ¸n kinh tÕ chÝnh trÞ

khống chế thì có thể nắm được quyền chi phối mọi hoạt động cuả công ty.Theo
điều 51 và 53 của Luật doanh nghiệp Việt Nam thì :
- Cổ đông có quyền tự do chuyển nhượng cổ phần cho người khác trừ cổ đông sở
hữu cổ phần ưu đãi. Và trong ba năm đầu từ khi thành lập công ty cổ đông sáng lập
chỉ được chuyển nhượng cổ phần nếu được sự đồng ý của Đại hội Đồng cổ đông
- Cổ đông có thể là tổ chức, cá nhân số lượng cổ đông tối thiểu là 3 và không hạn
chế số lượng tối đa
- Cổ đông có hai loại là cổ đông ưu đãi và cổ đông phổ thông. Cổ đông phổ thông
có các quyền cơ bản như : tham dự và biểu quyết tất cả các vấn đề thuộc thẩm
quyền của Đại hội đồng cổ đông ( mỗi cổ phần có một phiếu biểu quyết), được
nhân cổ tức với mức theo quy định của Đại hội đồng cổ đông... Cổ đông hoặc nhóm
cổ đông sở hữu trên 10% số cổ phần phổ thông trong thời hạn liên tục ít nhất là 6
tháng hoặc tỷ lệ khác nhỏ hơn theo quy định của điều lệ công ty có quyền đề cử
người vào Hội đồng Quản trị và Ban kiểm soát, yêu cầu triệu tập họp Đại hội đồng
cổ đông ....
4.2. Cơ cấu tổ chức và điều hành hoạt động của công ty cổ phần
Do đặc điểm nhiều chủ sở hữu trong công ty cổ phần nên các cổ đông không
thể trực tiếp thực hiện vai trò chủ sở hữu của mình mà phải thông qua tổ chức đại
diện làm nhiệm vụ trực tiếp quản lý công ty bao gồm: Đại hội cổ đông, Hội đồng
quản trị, Giám đốc điều hành và Ban kiểm soát. Đại hội cổ đông là cơ quan quyết
định cao nhất của công ty, là Đại hội của những cổ đông sở hữu đối với công ty cổ
phần. Đại hội cổ đông có 3 hình thức là: Đại hội hội đồng cổ đông thành lập, Đại
hội đồng cổ đông bất thường và Đại hội hội đồng cổ đông. Hội đồng quản trị là bộ
máy quản lý của công ty cổ phần bao gồm những thành viên có trình độ chuyên
môn cao và quản lý giỏi để có thể hoàn thành tốt nhiệm vụ do Đại hội hội đồng cổ
đông giao phó. Số thành viên do Đại hội cổ đông quyết định và được ghi vào điều
lệ của công ty. Hội đồng quản trị có toàn quyền nhân danh công ty để quyết định
mọi vấn đề liên quan đến mục đích, quyền lợi của công ty, trừ các vấn đề thuộc
thẩm quyền của Đại hội đồng cổ đông. Hội đồng Quản trị tự bầu chủ tịch Hội đồng
và chủ tịch Hội đồng Quản trị có thể kiêm Tổng giám đốc công ty nếu điều lệ công

ty không có qui định khác.
Giám đốc điều hành là người điều hành hoạt động hàng ngày của công ty và
chịu trách nhiệm trước hội đồng quản trị về việc thực hiện các nhiệm vụ và quyền
hạn được giao. Về thực chất giám đốc điều hành là người làm thuê cho chủ tịch Hội
đồng Quản trị. Giám đốc không làm việc theo nhiệm kỳ mà theo thời hạn hợp đồng
ký kết với chủ tịch Hội đồng Quản trị.
Ban kiểm soát có vai trò giám sát các hoạt động của công ty. Số lượng uỷ
viên kiểm soát theo qui định trong điều lệ của công ty. Những người này không
phải là thành viên của Hội đồng Quản trị và giám đốc.
Phân chia lợi nhuận trong công ty cổ phần: Trong công ty cổ phần quan hệ
phân phối được thực hiện theo nguyên tắc vốn góp của các cổ đông và phụ thuộc
vào lợi nhuận của công ty. Lợi nhuận của công ty sau khi dùng cho các khoản
chung cần thiết, phần còn lại được chia đều cho các cổ đông tỷ lệ với phần vốn góp
của họ và gọi là cổ tức.
5. Các loại công ty cổ phần trên thế giới.
Ở các nước khác nhau công ty cổ phần có thể khác nhau về tên gọi. Ở Pháp
là công ty vô danh, ở Anh là công ty TNHH ( company Ltd ). Ở Mỹ nó được gọi là

4
§Ò ¸n kinh tÕ chÝnh trÞ
công ty kinh doanh ( comercial – coorporation). Ở Nhật Bản là công ty chung cổ
phần ( Habusiki Haishu) ... Tuy nhiên xét về bản chất chung không có gì khác
nhau lớn.
II. VAI TRÒ CỦA CÔNG TY CỔ PHẦN TRONG NỀN KINH TẾ QUỐC DÂN
1. Sự ra đời của công ty cổ phần là tất yếu khách quan
Công ty cổ phần là sự hình thành một kiểu tổ chức doanh nghiệp trong nền
kinh tế thị trường. Nó ra đời không nằm trong ý muốn chủ quan của bất cứ lực
lượng nào mà là một quá trình kinh tế khách quan do các nguyên nhân sau:
1.1. Quá trình xã hội hoá tư bản, tăng cường tích tụ và tập trung tư bản ngày
càng cao

Trong nền sản xuất hàng hoá quy luật giá trị tác động mạnh đến sự cạnh
tranh khốc liệt giữa các nhà tư bản buộc họ phải tìm cách cải tiến nâng cao trình độ
kỹ thuật nâng cao năng suất lao động, giảm chi phí sản xuất nhằm tạo cho giá trị
hàng hoá cá biệt của mình thấp hơn giá trị hàng hoá xã hội thì mới có thể tiếp tục
tồn tại và phát triển. Điều này thường chỉ những nhà tư bản lớn, có quy mô sản xuất
ở mức độ nhất định mới có đủ khả năng để trang bị kỹ thuật hiện đại làm cho năng
suất lao động tăng lên do đó mới có thể thắng được trong cạnh tranh. Còn nhứng
nhà tư bản nào có giá trị hàng hoá cá biệt cao hơn mức giá trị hàng hoá xã hội thì sẽ
bị thua lỗ và phá sản. Để tránh điều này các nhà tư bản vừa và nhỏ phải tự tích tụ
vốn để mở rộng quy mô sản xuất và hiện đại hoá các trang thiết bị tạo điều kiện
nâng cao năng suất lao động hạ giá thành sản phẩm. Song đây là một biện pháp rất
khó thực hiện do việc tích tụ vốn phải mất một thời gian khá dài, vì thế các nhà tư
bản vừavà nhỏ phải thoả hiệp liên minh với nhau để tập trung tư bản cá biệt của họ
lại thành một tư bản lớn đủ sức cạnh tranh và dành ưu thế với các nhà tư bản khác.
Chính từ hình thức tập trung vốn này các công ty cổ phần dần dần hình thành và
phát triển ngày càng mạnh mẽ


5
§Ò ¸n kinh tÕ chÝnh trÞ
1.2. Sự ra đời và phát triển của nền đại công nghiệp cơ khí, của tiến bộ kỹ thuật tạo
động lực thúc đẩy công ty cổ phần hình thành và phảt triển
Công ty cổ phần ra đời rất sớm ( thế kỷ 16) nhưng phải đợi đến cuối thế kỷ
19 mới phát triển một cách rộng rãi và trở thành phổ biến trong các nước tư bản.
Công ty cổ phần hình thành và phát triển mạnh mẽ phù hợp với tính chất và trình
độ phát triển của lực lượng sản xuất và yêu cầu khắc nghiệt của cạnh tranh trong
nền kinh tế thị trường
Sự phát triển của lực lượng sản xuất và do trình độ kỹ thuật ngày càng phát
triển cao đòi hỏi tư bản cố định tăng lên và vì thế quy mô tối thiếu mà một nhà tư
bản phải có để có thể kinh doanh trong điều kiện bình thường cũng như ngày càng

lớn hơn. Một nhà tư bản cá biệt không thể đáp ứng được số vốn đó phải có sự liên
minh tập trung nhiều tư bản cá biệt còn đang phân tán trong nền kinh tế bằng cách
góp vốn để cùng kinh doanh. Với sự tập trung vốn như vậy đã hình thành công ty
cổ phần. Mặt khác do kỹ thuật ngày càng phát triển làm xuất hiện ngày càng nhiều
ngành, nhiều lĩnh vực kinh doanh và những mặt hàng mới có hiệu quả hơn đã thu
hút được các nhà tư bản đổ xô vào các ngành, lĩnh vực và các mặt hàng mới này
bằng cách di chuyển tư bản từ các ngành, lĩnh vực và các ngành kinh doanh kém
hiệu quả. Điều này càng gây ra nhiều khó khăn cho các nhà tư bản khi thực hiện di
chuyển vốn bởi vì họ không thể bỗng chốc xoá bỏ ngay các xí nghiệp đang có để
thu hồi và chuyển vốn sang xây dựng ngay một doanh nghiệp mới mà chỉ có thể rút
bớt và chuyển dần từng bộ phận mà thôi. Quy luật đó có thể kéo dài và do vậy họ
có thể mất thời cơ. Mâu thuẫn đó chỉ được giải quyết bằng cách các nhà tư bản cá
biệt liên minh với nhau, cùng nhau góp vốn để xây dựng các doanh nghiệp lớn,
cùng chung mục tiêu đi tìm lợi nhuận siêu ngạch họ đã gặp nhau và nhanh chóng
thoả thuận cùng nhau góp vốn để thành lập công ty cổ phần để cùng kinh doanh
1.3. Sự phân tán tư bản để tránh rủi ro trong cạnh tranh và tạo thế mạnh về
quản lý
Sản xuất càng phát triển, trình độ kỹ thuật ngày càng cao, cạnh tranh càng
khốc liệt thì sự rủi ro trong kinh doanh đe doạ phá sản đối với các doanh nghiệp
ngày càng lớn. Để tránh những rủi ro này các nhà tư bản đã phải phân tán tư bản
của mình tham gia đầu tư kinh doanh ở nhiều ngành, nhiều công ty khác nhau. Điều
này có thể làm cho họ chia sể sự thiệt hại cho nhiều người khi gặp rủi ro. Mặt khác
do cùng được một số đông người quản lý nên tập trung phát huy được sức mạnh trí
tuệ của nhiều người trách được rủi ro và thành công hơn trong kinh doanh
1.4. Sự phát triển của tín dụng tạo động lực thúc đẩy công ty cổ phần ra đời và
phảt triển
Kinh tế hàng hoá phát triển dẫn tới sự ra đời và phát triển của nhiều loại thị
trường trong đó có thị trường vốn . Tín dụng là quan hệ kinh tế dưới hình thức quan
hệ tiền tệ mà người chủ sở hữu tiền tệ cho người khác vay trong một thời gian nhất
định để thu hồi một món lời gọi đó là lợi tức

Trong nền kinh tế thị trường tín dụng có một vai trò to lớn trong quá trình
cạnh tranh làm giam chi phí lưu thông và đẩy nhanh quá trình tái sản xuất.Tín dụng
còn có vai trò, động lực thúc đẩy việc hình thành và phát triển các công ty cổ phần
bởi vì:
-Việc phát hành cổ phiếu trong công ty cổ phần không thể thực hiện được nếu
không có thị trường tiền tệ phát phát triển, nếu không có những doanh nghiệp và
dân cư có nhu cầu sử dụng vốn tiền tệ trên thị trường.

6
§Ò ¸n kinh tÕ chÝnh trÞ
-Thực tiễn lịch sử ra đời và phát triển của các công ty cổ phần trên thế giới đều
chứng tỏ việc phát hành cổ phiếu chỉ được thực hiện thông qua các ngân hàng, đôi
khi còn do bản thân ngân hàng tiến hành.
Tóm lại, công ty cổ phần là quá trình kinh tế khách quan do đòi hỏi của sự
hình thành và phát triển kinh tế thị trường , nó là kết quả tất yếu của quá trình tập
trung tư bản. nó diễn ra một cách mạnh mẽ cùng với sự phát triển nền đại công
nghiệp cơ khí và sự tự do cạnh tranh dưới chủ nghĩa tư bản.
2.Vai trò của công ty cổ phần đối với sự phát triển nền kinh tế quốc dân.
Với những đặc điểm rất riêng của mình công ty cổ phần có vai trò quan
trong đối với việc thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế quốc dân, cụ thể là:
- Công ty cổ phần có khả năng tập trung vốn nhanh chóng với quy mô lớn để thực
hiện các hoạt động sản xuất kinh doanh khổng lồ mà không nhà tư bản riêng biệt
nào có thể tự mình làm nổi. Các Mác đã đánh giá vai trò nàycủa công ty cổ phần
như sau: "Nếu như cứ phải chờ cho đến khi tích luỹ làm cho một nhà tư bản riêng
lẻ lớn lên đến mức có thể đảm đương việc xây dựng đường sắt thì có lẽ đến ngày
nay thế giới vẫn không có đường sắt. Ngược lại qua công ty cổ phần sự tập trung đã
thực hiện được việc đó chỉ trong nháy mắt"
- Công ty cổ phần góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng của đồng vốn bởi vì : Thứ
nhất, do hình thức tự cấp phát tài chính bằng huy động vốn đã đề cao trách nhiệm
của doanh nghiệp nâng cao sự quan tâm đến sử dụng hiệu quả nguồn vốn. Mặt khác

do sức ép của cổ đông do việc đòi chia lãi cổ phần và muốn duy trì giá cổ phiếu cao
trên thị trường chứng khoán khiến doanh nghiệp phải phấn đấu nâng cao hiêụ quả
sử dụng đồng vốn. Thứ hai, là do lợi nhuận của các công ty cổ phần là khác nhau
trong các lĩnh vực khác nhau thúc đẩy nên có thể dẫn dắt tiền vốn nhàn rỗi từ nhiều
kênh khác nhau trong xã hội vào các ngành, các lĩnh vực có năng suất lao động và
tỷ suất lợi nhuận cao làm cho vốn được phân bổ và sử dụng có hiệu quả trong nền
kinh tế
- Công ty cổ phần tạo ra một cơ chế phân bổ rủi ro đặc thù đã hạn chế được
những tác động tiêu cực về kinh tế xã hội khi một doanh nghiệp lâm vào tình trạng
khủng hoảng. Chế độ đã hạn chế đến mức thấp nhất những thiệt hại của rủi ro thua
lỗ. Vốn tự có của công ty huy động thông qua việc phát hành cổ phiếu là vốn của
nhiều cổ đông do đó san sẻ rủi ro cho nhiều cổ đông. Nhờ vậy khi công ty cổ phần
phá sản hậu quả về mặt kinh tế xã hội được hạn chế ở mức thấp nhất. Cách thức
huy động vốn của công ty cổ phần đã tạo điều kiện cho các nhà đầu tư tài chính có
thể mua cổ phiếu, trái phiếu ở các công ty ở nhiều ngành khác nhau nên giảm bớt
được tổn thất khi công ty bị phá sản so với việc đầu tư vào một công ty. Cơ chế
phân bổ rủi ro này đã tạo điều kiện cho những người có vốn mạnh dạn đầu tư vào
một công ty làm cho nền kinh tế phát triển và có xu hướng ổn định hơn.
- Việc phát hành chứng khoán của công ty cổ phần cùng với việc chuyển nhượng
mua bán chứng khoán đến một mức độ nhất định sẽ tạo điều kiện cho sự ra đời của
thị trường chứng khoán – trái tim của thị trường vốn. Ý nghĩa căn bản của thị
trường chứng khoán là ở chỗ : Đó là nơi các nhà kinh doanh có thể tìm kiếm được
nguồn tài trợ cho hoạt động đầu tư sản xuất kinh doanh, là nơi khai thông các
nguồn tiết kiệm của những người tích luỹ đến các nhà đầu tư, là cơ chế phân bổ các
nguồn vốn đầu tư phù hợp với yêu cầu của một nền kinh tế thị trường, và còn là cơ
sở quan trọng để Nhà nước qua đó sử dụng các chính sách tiền tệ can thiệp vào hoạt
động của nền kinh tế nhằm đạt được mục tiêu lựa chọn

7
§Ò ¸n kinh tÕ chÝnh trÞ

- Công ty cổ phần đảm bảo sự tham gia của đông đảo của công chúng, lại có cơ
cấu tổ chức quản lý chắt chẽ, phân định rõ ràng giữa quyền sở hữu và quyền kinh
doanh nên đã tạo điều kiện cho người lao động tham gia quản lý công ty một cách
thực sự, sử dụng được những giám đốc tài năng, đảm bảo được quyền lợi, lợi ích và
trách nhiêm của chủ sở hữu, đẩy nhanh quá trình phân công lao động xã hội, thực
hiện tốt nguyên tắc " ai giỏi nghề gì làm nghề ấy " giúp mọi người được làm việc ở
vị trí thích hợp để có thể phát huy hết tài năng sáng tạo vốn có của mình
- Công ty cổ phần là hình thức liên doanh tốt nhất để tranh thủ sự tham gia đầu tư
của nước ngoài. Với một nền kinh tế đặc biệt là nền kinh tế đang phát triển thì việc
đó thu hút nguồn vốn, khoa học kỹ thuật, trình độ quản lý thông qua liên doanh liên
kết với nước ngoài là vô cùng cần thiết để phát triển kinh tế trong nước


8
§Ò ¸n kinh tÕ chÝnh trÞ

CHƯƠNG II

VAI TRÒ CỦA CÔNG TY CỔ PHẦN
ĐỐI VỚI PHÁT TRIỂN KINH TẾ Ở NƯỚC TA HIỆN NAY

I. QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH CÔNG TY CỔ PHẦN Ở VIỆT NAM
1. Quá trình hình thành là tất yếu khách quan.
Công ty cổ phần là hình thức kinh tế mới xuất hiện khi nước ta chuyển sang
nền kinh tế nhiều thành phần. Sự hình thành công ty cổ phần ở nước ta là một thực
tế khách quan, một xu hướng tất yếu trong quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá
đất nước la phát triển kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Do vậy
nước ta cần phải hình thành công ty cổ phần dựa trên một số căn cứ sau :
1.1. Sự hạn chế và kém hiệu quả trong sản xuất kinh doanh của một số doanh
nghiệp Nhà nước.

Trong thời gian 10 năm đổi mới một số doanh nghiệp Nhà nước hoạt động
không hiệu quả còn nhiều hạn chế. Nằm nâng cao hiệu quả hoạt động của các
doang nghiệp trong nước đặc biệt là các doanh nghiệp Nhà nước. Động lực lợi ích
là mục tiêu cao nhất của doanh nghiệp, của người có vốn cũng như người lao động.
Nó là cơ sở bên trong thúc đẩy việc nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của các
doanh nghiệp, đòi hỏi phải tìm đến một hình thức kinh tế thích hợp là công ty cổ
phần bởi trong công ty cổ phần quyền sở hữu và quyền sử dụng tài sản được phân
tách rõ ràng nên cơ chế phân phối lợi ích được giải quyết tương đối ổn thoả.
1.2 Nhu cầu cải cách hệ thống DNNN để nâng cao vai trò chủ đạo của Kinh tế
Nhà nước.
Hiện nay khu vực DNNN kinh doanh với hiệu quả rất kém ( Chiếm 70%
tổng số vốn của nền kinh tế xong chỉ tạo ra 40% GDP ). Vì vậy việc cải cách hệ
thống DNNN theo hướng đa dạng hoá sở hữu, cải tiến quản lý và nâng cao hiệu quả
là cấp bách hơn bao giờ hết, bởi có như thế DNNN mới vươn lên giữ vai trò chủ
đạo, đảm bảo cho các thành phần kinh tế khác đi theo quỹ đạo XHCN, ổn định
chính trị – xã hội và vững bước đi lên XHCN. Một trong những biện pháp cải cách
DNNN hiện nay ở Việt nam là cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước. Như vậy quá
trình hình thành công ty cổ phần từ cổ phần hoá DNNN là xu hướng tất yếu hiện
nay.
1.3. Nhu cầu huy động vốn của các tổ chức, các cá nhân trong và ngoài nước để
phục vụ cho sự nghiệp CNH – HĐH Đất nước.
Đặc biệt của cơ chế huy động vốn của công ty cổ phần là có thể thu hút các
nguồn vốn quy mô lớn của các ngân hàng đến các nguồn vốn vô cùng nhỏ của các
tầng lớp dân cư. Cơ chế huy động vốn của công ty cổ phần ở trình độ xã hội hoá rất
cao so với huy động vốn của ngân hàng, đây là cách huy động vốn tiên tiến nhất
phù hợp với xu hướng phát triển của nền kinh tế hiện đại.
1.4. Sự hình thành công ty cổ phần là sự phát triển hợp với xu thế thời đại
Hiện nay xu hướng quốc tế hoá đời sống kinh tế và cổ phần hoá doanh
nghiệp nhà nước đã diễn ra ở mọi nước trên thế giới . Trong bối cảnh đó, sự giao
lưu, hoà nhập, hợp tác kinh tế giữa các quốc gia là tất yếu khách quan. Một trong

các hình thức liên kết kinh tế giữa các quốc gia dưới hình thức góp vốn kinh doanh
là công ty cổ phần vì đây là hình thức kinh tế có trình độ xã hội hoá rất cao, phù

9

×