Tải bản đầy đủ (.doc) (92 trang)

LUẬN văn THẠC sĩ phát huy vai trò nhân tố chủ quan của sĩ quan cấp phân đội ở binh chủng đặc công trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền biển, đảo hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (384.81 KB, 92 trang )

MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU

3

Chương 1: THỰC CHẤT VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ CĨ TÍNH QUY LUẬT
PHÁT HUY VAI TRỊ NHÂN TỐ CHỦ QUAN CỦA SĨ QUAN
CẤP PHÂN ĐỘI Ở BINH CHỦNG ĐẶC CÔNG TRONG
THỰC HIỆN NHIỆM VỤ BẢO VỆ CHỦ QUYỀN BIỂN, ĐẢO

1.1.

11

Thực chất phát huy vai trò nhân tố chủ quan của sĩ quan
cấp phân đội ở Binh chủng Đặc công trong thực hiện

1.2.

nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền biển, đảo
Một số vấn đề có tính quy luật phát huy vai trò nhân tố chủ

11

quan của sĩ quan cấp phân đội ở Binh chủng Đặc công
trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền biển, đảo

33

Chương 2: THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP CƠ BẢN PHÁT HUY VAI


TRÒ NHÂN TỐ CHỦ QUAN CỦA SĨ QUAN CẤP PHÂN
ĐỘI Ở BINH CHỦNG ĐẶC CÔNG TRONG THỰC HIỆN
NHIỆM VỤ BẢO VỆ CHỦ QUYỀN BIỂN, ĐẢO HIỆN NAY

2.1.

45

Thực trạng phát huy vai trò nhân tố chủ quan của sĩ quan
cấp phân đội ở Binh chủng Đặc công trong thực hiện

2.2.

nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền biển, đảo hiện nay
Giải pháp cơ bản phát huy vai trò nhân tố chủ quan của sĩ

45

quan cấp phân đội ở Binh chủng Đặc công trong thực hiện
nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền biển, đảo hiện nay
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

62
80
81
85



MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Biển, đảo Việt Nam là một bộ phận lãnh thổ thiêng liêng của Tổ quốc.
Biển, đảo không chỉ chứa đựng tiềm năng kinh tế to lớn mà còn là địa bàn
chiến lược trọng yếu trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Vùng
biển nước ta rất rộng, có diện tích trên 1 triệu km 2, chiếm gần 30% diện tích
Biển Đơng, với đường bờ biển dài trên 3.260km và trên 3.000 đảo lớn, nhỏ.
Do đó, để bảo vệ vững chắc chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc, cần phát huy
sức mạnh tổng hợp của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân, của cả hệ thống
chính trị, trong đó nịng cốt là lực lượng hải qn, biên phịng, cảnh sát biển,
kiểm ngư, đặc cơng nước.
Binh chủng Đặc công là lực lượng đặc biệt tinh nhuệ của QĐND Việt
Nam, với truyền thống 16 chữ vàng: “Đặc biệt tinh nhuệ, anh dũng tuyệt vời,
mưu trí táo bạo, đánh hiểm thắng lớn”, với nhiệm vụ đa dạng, phức tạp, trong
đó có nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền biển, đảo. Huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu
bảo vệ chủ quyền biển, đảo rất khắc nghiệt, vất vả, đòi hỏi người sĩ quan và
phân đội có ý chí cao, chịu đựng được khó khăn, gian khổ, trình độ kỹ chiến
thuật tinh nhuệ, v.v., mới có thể hồn thành tốt nhiệm vụ được giao. Do đó, để
hồn thành tốt nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền biển, đảo mà Đảng, Nhà nước và
nhân dân giao phó, cần phát huy vai trị nhân tố chủ quan của đội ngũ sĩ quan
cấp phân đội, những người trực tiếp quản lý, huấn luyện bộ đội ở đơn vị.
Hiện nay, tình hình Biển Đơng đang diễn biến hết sức phức tạp. Trung
Quốc thường xuyên có những hành động gây hấn trên biển, trực tiếp đe dọa
chủ quyền biển, đảo nước ta. Cuộc đấu tranh bảo vệ chủ quyền biển, đảo còn
gay go, phức tạp, lâu dài, trong khi ưu thế quân sự, kỹ thuật thuộc về các
nước gây chiến, nước ta phải lấy vũ khí, trang bị kém hiện đại chống lại kẻ
thù có vũ khí công nghệ cao, vẫn phải lấy sức mạnh tổng hợp để đánh thắng
kẻ thù có sức mạnh về kinh tế, vũ khí, trang bị hiện đại. Do đó, vấn đề đặt ra

3



là phải phát huy vai trò nhân tố chủ quan của con người Việt Nam nói chung,
sĩ quan cấp phân đội ở Binh chủng Đặc cơng nói riêng, làm cơ sở để chỉ huy,
huấn luyện bộ đội đặc công nước có bản lĩnh chính trị vững vàng, có ý chí
quyết tâm cao, trình độ kỹ chiến thuật tinh nhuệ, hồn thành nhiệm vụ bảo
vệ chủ quyền biển, đảo trong mọi tình huống.
Thời gian qua, các chủ thể ở Binh chủng Đặc cơng đã tích cực, có nhiều
biện pháp phát huy vai trò nhân tố chủ quan của sĩ quan cấp phân đội, góp
phần thực hiện thắng lợi nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền biển, đảo. Tuy nhiên,
việc phát huy vai trò nhân tố chủ quan của sĩ quan cấp phân đội ở Binh chủng
Đặc công trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền biển, đảo thời gian qua
vẫn còn một số hạn chế, bất cập cả trong nhận thức và tổ chức thực hiện. Ở
những thời điểm khác nhau, vẫn cịn tình trạng các chủ thể chưa quan tâm
đúng mức đến việc phát huy tốt vai trò nhân tố chủ quan của sĩ quan cấp phân
đội. Công tác đào tạo, bồi dưỡng sĩ quan cấp phân đội có mặt chưa đáp ứng
được yêu cầu. Bảo đảm cơ sở vật chất phục vụ cho huấn luyện còn hạn chế.
Cơ chế, chính sách đối với sĩ quan cấp phân đội chưa tương xứng với đặc thù
hoạt động. Mặt khác, một số sĩ quan vẫn chưa thật chủ động tận dụng những
điều kiện, khả năng, phát huy nội lực vào thực hiện nhiệm vụ, chưa đáp ứng
được yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền biển, đảo trong giai đoạn hiện nay.
Do đó, nghiên cứu vấn đề: “Phát huy vai trị nhân tố chủ quan của sĩ quan cấp
phân đội ở Binh chủng Đặc công trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền
biển, đảo hiện nay” là vấn đề có tính cấp thiết cả về lý luận và thực tiễn.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Lý luận phát huy nhân tố chủ quan cũng như vận dụng lý luận đó vào
những lĩnh vực cụ thể của đời sống xã hội, hoạt động quân sự là vấn đề đã
được nhiều tác giả đề cập tới. Tuy nhiên, tùy từng hướng tiếp cận mà vấn đề
phát huy nhân tố chủ quan của các chủ thể được tập trung khai thác, lý giải và
vận dụng ở những góc độ khác nhau.


4


* Những cơng trình khoa học tiêu biểu nghiên cứu về nhân tố con
người và vấn đề phát huy nhân tố con người
Phạm Minh Hạc (Chủ nhiệm), “Con người Việt Nam - mục tiêu và động
lực phát triển kinh tế - xã hội” [14]. Tác giả khẳng định mục tiêu và động lực
chính của sự phát triển là vì con người, do con người; con người ở “vị trí
trung tâm của chiến lược kinh tế - xã hội”, của mọi quá trình phát triển kinh
tế, xã hội; mục tiêu và động lực chính của sự phát triển là vì con người, do
con người; phát triển kinh tế - xã hội khơng thể bên ngồi phát triển con
người, phát triển nguồn nhân lực.
Lê Hữu Tầng (Chủ nhiệm)“Vấn đề phát huy và sử dụng đúng đắn vai trò
động lực của con người trong sự phát triển kinh tế - xã hội” [36]. Tác giả đã
khái quát hệ thống những động lực của sự phát triển kinh tế - xã hội, bao gồm
các động lực cơ bản là công bằng xã hội, dân chủ, tạo dựng môi trường tâm lý
xã hội, niềm tin, khoa học, văn hóa. Đồng thời tác giả đã chỉ rõ để sử dụng
đúng đắn tính tích cực của con người trong sự phát triển kinh tế - xã hội cần tôn
trọng và hành động theo quy luật khách quan, chủ động định hướng hoạt động
của con người trên cơ sở nhận thức các nhu cầu và kích thích tính tích cực của
người lao động một cách hợp lý trên cơ sở kết hợp đúng đắn các loại lợi ích.
Tác giả Nguyễn Văn Tài trong luận án Tiến sĩ “Tích cực hóa nhân tố con
người của đội ngũ sĩ quan trong xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam hiện
nay” [35] đã phân tích, luận giải, nghiên cứu vấn đề tích cực hóa nhân tố con
người của đội ngũ sĩ quan trong xây dựng quân đội một cách cơ bản, tồn diện,
có hệ thống; làm rõ thực chất của q trình đó, nội dung, phương thức, phương
tiện để phát huy và sử dụng có hiệu quả tính tự giác, sáng tạo của đội ngũ sĩ
quan, tạo nên động lực phát triển của sự nghiệp xây dựng QĐND Việt Nam
theo phương hướng cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại.

Qua những cơng trình trên các tác giả đã luận giải sâu sắc về nhân tố con
người và vấn đề phát huy nhân tố con người trong phát triển kinh tế - xã hội, trong
xây dựng quân đội. Đây chính là các cơng trình có giá trị, giúp tác giả tiếp cận
đúng đắn nhân tố chủ quan của sĩ quan cấp phân đội ở Binh chủng Đặc công.

5


* Những cơng trình khoa học tiêu biểu nghiên cứu vấn đề nhân tố
chủ quan và vai trò nhân tố chủ quan trong quân đội
Tác giả Nguyễn Phi Cẩn trong đề tài “Nâng cao vai trò nhân tố chủ
quan trong sức mạnh chiến đấu của Quân đội ta hiện nay” [6] đã chỉ rõ sức
mạnh chiến đấu của Quân đội ta chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố, trong đó
nhân tố chủ quan của mỗi cán bộ, chiến sĩ trong quân đội là nhân tố có ý nghĩa
trực tiếp quyết định. Tác giả đã làm rõ khái niệm nhân tố chủ quan là tổng hoà
những phẩm chất và năng lực của mỗi quân nhân được huy động vào thực hiện
nhiệm vụ cụ thể. Qua đó tác giả đã đề xuất hệ thống giải pháp nhằm nâng cao
vai trò nhân tố chủ quan trong sức mạnh chiến đấu của Quân đội ta.
Tác giả Đặng Quốc Cẩm trong đề tài “Phát huy nhân tố chủ quan trong
tự học của học viên đào tạo sĩ quan công binh hiện nay” [5] đã đề cập nhiều
vấn đề khá sâu sắc xung quanh nhân tố chủ quan và chất lượng tự học của học
viên đào tạo sĩ quan cơng binh, trong đó nhấn mạnh sự nỗ lực, sáng tạo, tự
chủ của chính bản thân người học. Theo đó, phát huy nhân tố chủ quan trong
tự học của học viên đào tạo sĩ quan công binh là nhằm mục đích nâng cao tính
tích cực chủ động của người học viên, nâng cao chất lượng lĩnh hội kiến thức,
rèn luyện kỹ năng, kỹ xảo của chính họ.
Tác giả Đinh Xuân Khuê trong luận văn thạc sĩ “Phát huy vai trò nhân
tố chủ quan của đội ngũ giáo viên trong giáo dục và đào tạo ở Trường sĩ
quan Lục quân 2 hiện nay” [18] đã khẳng định nhân tố chủ quan của đội ngũ
giáo viên có vai trị to lớn trong q trình giáo dục, đào tạo góp phần xây

dựng nhà trường theo hướng chính quy, tiên tiến, mẫu mực. Đồng thời nhấn
mạnh mục đích của q trình này là “nhằm nâng cao trình độ tri thức, phẩm
chất, năng lực và khơi dậy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của đội ngũ giáo
viên, nâng cao chất lượng truyền thụ tri thức, rèn luyện kỹ năng, kỹ xảo, xây
dựng phẩm chất nhân cách cho người học viên” [tr. 30].
Luận văn thạc sĩ của Nguyễn Văn Kiều“Phát huy vai trò nhân tố chủ
quan của cán bộ hậu cần Quân đội nhân dân Việt Nam trong hoạt động hậu

6


cần quân đội hiện nay” [19] xác định trong điều kiện nước ta đang đẩy mạnh
cơng nghiệp hố, hiện đại hoá, thực hiện nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa càng đòi hỏi cao vai trò nhân tố chủ quan của cán bộ hậu cần,
nhằm đem lại hiệu quả cao nhất trong hoạt động hậu cần đáp ứng nhiệm vụ
xây dựng và chiến đấu của Quân đội ta trong giai đoạn mới.
Tác giả Phạm Việt Hùng trong luận văn thạc sĩ “Phát huy nhân tố chủ
quan của cán bộ quản lý học viên trong nâng cao chất lượng giáo dục - đào
tạo ở Trường sĩ quan Lục quân 1 hiện nay” [17] đã xác định: “phát huy nhân tố
chủ quan của cán bộ quản lý học viên trong nâng cao chất lượng giáo dục - đào
tạo ở Trường sĩ quan Lục quân 1 là quá trình làm biến đổi, phát triển các yếu tố
tri thức, tình cảm, ý chí, thái độ, động cơ và năng lực lãnh đạo, tổ chức, quản
lý, chỉ huy của cán bộ quản lý học viên trong thực hiện chức trách, nhiệm vụ
nhằm góp phần nâng cao chất lượng giáo dục - đào tạo của nhà trường” [tr. 22].
Đồng thời khẳng định đây là q trình tích cực hóa các yếu tố cấu thành nhân
tố chủ quan, là q trình hồn thiện bản thân người cán bộ quản lý học viên.
Nhóm các cơng trình trên đã làm rõ nhân tố chủ quan và vai trò nhân tố
chủ quan ở một số đơn vị trong qn đội. Những cơng trình trên có giá trị,
liên quan đến đề tài, giúp tác giả khái quát, làm rõ vai trò nhân tố chủ quan
của sĩ quan cấp phân đội ở Binh chủng Đặc cơng.

* Những cơng trình khoa học tiêu biểu nghiên cứu về nhiệm vụ bảo vệ
chủ quyền biển, đảo
Tiếp cận quá trình bảo vệ chủ quyền biển, đảo theo chiều dài lịch sử dưới sự
lãnh đạo của Đảng, tác giả Nguyễn Đức Phương trong đề tài “Đảng Cộng sản
Việt Nam lãnh đạo bảo vệ chủ quyền biển, đảo Tổ quốc từ năm 1986 đến năm
2001” [33] đã làm rõ chủ quyền biển, đảo nước ta trên cơ sở các chứng cứ lịch sử
và luật pháp quốc tế, đồng thời luận giải sâu sắc những vấn đề lý luận, thực tiễn
của quá trình Đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo bảo vệ chủ quyền biển, đảo Tổ
quốc từ sau Đổi mới đến năm 2001. Tác giả nhấn mạnh vấn đề Đảng lãnh đạo

7


phát huy sức mạnh tổng hợp của cả nước, của cả hệ thống chính trị, tranh thủ sự
ủng hộ của cộng đồng quốc tế để bảo vệ chủ quyền biển, đảo Tổ quốc.
Tác giả Nguyễn Văn Tôn trong luận văn thạc sĩ “Phát huy vai trò nhân
tố con người Bộ đội Hải quân trong bảo vệ Quần đảo Trường Sa hiện nay” đã
chỉ rõ phát huy vai trò nhân tố con người Bộ đội Hải quân trong bảo vệ Quần
đảo Trường Sa là “phát hiện ra những yếu tố, những khâu then chốt để hướng
dẫn bộ đội Hải quân Trường Sa vào những hành động tích cực, tự giác, sáng
tạo trong thực tiễn của sự nghiệp bảo vệ quần đảo Trường Sa và biển đảo Tổ
quốc hiện nay” [tr. 44].
Các bài báo của Bùi Thanh Sơn, “Phát huy bài học thành công trong
cách mạng tháng Tám bảo vệ vững chắc chủ quyền biển, đảo Tổ quốc” [34];
Phạm Huy Tập, “Nâng cao chất lượng cơng tác đảng, cơng tác chính trị
trong quản lý, bảo vệ chủ quyền biên giới biển, đảo của Tổ quốc” [37]; Hà
Sơn Thái, “Vai trò của thanh niên Quân đội trong bảo vệ chủ quyền biển đảo
hiện nay” [39]; Nguyễn Trung Thành, “Quán triệt quan điểm của Chủ tịch
Hồ Chí Minh về ngoại giao nhân dân trong đấu tranh bảo vệ chủ quyền biển,
đảo hiện nay” [42]; Hồng Quốc Trình, “Từ sự kiện Vịnh Bắc Bộ - Suy nghĩ

về xây dựng thế trận chiến tranh nhân dân bảo vệ chủ quyền biển, đảo hôm
nay” [45] đã khám phá và làm rõ nhiều vấn đề về bảo vệ chủ quyền biển, đảo,
đã đề cập và luận giải vấn đề bảo vệ chủ quyền biển, đảo ở nhiều góc độ tiếp
cận với độ sâu, độ rộng khác nhau, bước đầu đề xuất những giải pháp để bảo
vệ vững chắc chủ quyền biển, đảo thiêng liêng của Tổ quốc.
Tuy nhiên, chưa có cơng trình nào nghiên cứu một cách cơ bản, hệ thống
về vấn đề phát huy vai trò nhân tố chủ quan của sĩ quan cấp phân đội trong
thực hiện nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền biển, đảo ở Binh chủng Đặc cơng. Do đó
vấn đề phát huy vai trò nhân tố chủ quan của sĩ quan cấp phân đội ở Binh
chủng Đặc công trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền biển, đảo hiện nay
cần được nghiên cứu, làm rõ cả về lý luận và thực tiễn. Các cơng trình khoa
học có liên quan là cơ sở để tác giả tiếp thu, phát triển trong luận văn của mình.

8


3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
* Mục đích nghiên cứu
Làm rõ một số vấn đề lý luận, thực tiễn về phát huy vai trò nhân tố chủ
quan của sĩ quan cấp phân đội ở Binh chủng Đặc công trong thực hiện nhiệm
vụ bảo vệ chủ quyền biển, đảo, trên cơ sở đó đề xuất giải pháp cơ bản phát
huy vai trò nhân tố chủ quan của sĩ quan cấp phân đội ở Binh chủng Đặc công
trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền biển, đảo hiện nay.
* Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm rõ thực chất và một số vấn đề có tính quy luật của việc phát huy
vai trò nhân tố chủ quan của sĩ quan cấp phân đội ở Binh chủng Đặc công
trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền biển, đảo.
- Đánh giá thực trạng phát huy vai trò nhân tố chủ quan của sĩ quan cấp
phân đội ở Binh chủng Đặc công trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền
biển, đảo và những nguyên nhân của thực trạng đó.

- Đề xuất giải pháp cơ bản phát huy vai trò nhân tố chủ quan của sĩ quan
cấp phân đội ở Binh chủng Đặc công trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ chủ
quyền biển, đảo hiện nay.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của đề tài
* Đối tượng nghiên cứu
Thực chất và những vấn đề có tính quy luật của việc phát huy vai trò
nhân tố chủ quan của sĩ quan cấp phân đội ở Binh chủng Đặc công trong thực
hiện nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền biển, đảo.
* Phạm vi nghiên cứu
Vấn đề được giới hạn nghiên cứu ở sĩ quan cấp phân đội ở Binh chủng
Đặc công (sĩ quan từ cấp Mũi, cấp Đội, Liên đội và tương đương, giáo viên ở
nhà trường, trợ lý các cơ quan hiện đang công tác ở Binh chủng Đặc công),
đặc biệt tập trung vào sĩ quan cấp phân đội ở Lữ Đoàn 5 Đặc công nước, số
liệu nghiên cứu, khảo sát từ năm 2010 đến nay.

9


5. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu của đề tài
* Cơ sở lý luận
Cơ sở lý luận của đề tài là hệ thống lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh về nhân tố con người, nhân tố chủ quan; đường lối,
quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam; các nghị quyết của Quân ủy Trung
ương về nhân tố con người, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ chủ quyền biển,
đảo và xây dựng đội ngũ cán bộ, xây dựng quân đội trong tình hình mới.
* Cơ sở thực tiễn
Cơ sở thực tiễn của đề tài là thực tiễn hoạt động công tác, huấn luyện,
thực hiện nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền biển, đảo ở Binh chủng Đặc công; các
báo cáo tổng kết; các số liệu điều tra xã hội học của tác giả.
* Phương pháp nghiên cứu

Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ
nghĩa duy vật lịch sử, đề tài sử dụng hệ thống phương pháp nghiên cứu của
các khoa học liên ngành và khoa học chuyên ngành: phương pháp điều tra xã
hội học; thống kê và so sánh; lịch sử và lơgíc; phân tích, tổng hợp; tổng kết
thực tiễn; phương pháp chuyên gia, v.v..
6. Ý nghĩa của đề tài
Kết quả nghiên cứu của đề tài góp phần cung cấp cơ sở lý luận, thực
tiễn và giải pháp cơ bản phát huy vai trò nhân tố chủ quan của sĩ quan cấp
phân đội ở Binh chủng Đặc công trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền
biển, đảo hiện nay.
Đề tài có thể được dùng làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu và vận
dụng vào cơng tác đảng, cơng tác chính trị, huấn luyện chiến đấu ở các đơn vị
cơ sở của Binh chủng Đặc công.
7. Kết cấu của đề tài
Kết cấu của đề tài gồm: mở đầu, 2 chương (4 tiết), kết luận, danh mục tài
liệu tham khảo và phụ lục.

10


Chương 1
THỰC CHẤT VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ CĨ TÍNH QUY LUẬT
PHÁT HUY VAI TRÒ NHÂN TỐ CHỦ QUAN CỦA SĨ QUAN CẤP PHÂN ĐỘI
Ở BINH CHỦNG ĐẶC CÔNG TRONG THỰC HIỆN NHIỆM VỤ
BẢO VỆ CHỦ QUYỀN BIỂN, ĐẢO

1.1. Thực chất phát huy vai trò nhân tố chủ quan của sĩ quan cấp
phân đội ở Binh chủng Đặc công trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ chủ
quyền biển, đảo
1.1.1. Vai trò nhân tố chủ quan của sĩ quan cấp phân đội ở Binh

chủng Đặc công trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền biển, đảo
Quan niệm về nhân tố chủ quan
Lịch sử loài người là lịch sử chinh phục, cải tạo tự nhiên, xã hội và bản
thân mình. Trong quá trình hoạt động thực tiễn, con người đã tác động vào thế
giới khách quan, cải tạo thế giới khách quan nhằm phục vụ lợi ích của mình.
Khẳng định điều này, trong tác phẩm “Bút ký triết học”, V.I. Lênin viết: “Thế
giới không thỏa mãn con người và con người quyết định biến đổi thế giới
bằng hành động của mình” [21, tr. 229]. Vì vậy, con người vừa là sản phẩm
của hoàn cảnh, vừa là chủ thể của hoạt động cải tạo hoàn cảnh.
Con người với tư cách là chủ thể có thể là cả lồi người, một nhóm người,
một giai cấp, dân tộc, một tổ chức chính trị - xã hội hay một cá nhân thực hiện
việc nhận thức hoặc cải tạo khách thể nhất định. Con người chủ thể là con
người hoạt động, chính thơng qua hoạt động mà con người thể hiện mình với tư
cách là chủ thể. Đặc trưng chủ yếu nhất của con người với tư cách là chủ thể là
năng lực hoạt động. Năng lực đó của chủ thể được thể hiện bằng phương pháp,
cách thức tác động vào khách thể nhằm đạt được mục đích đề ra. Khách thể
khơng phải là tồn bộ hiện thực khách quan, mà chỉ là những hiện thực khách
quan nào con người hướng vào tác động và cải biến nó.
Khái niệm khách thể, chủ thể có quan hệ chặt chẽ với khái niệm khách
quan, chủ quan. Song, giữa nhân tố chủ quan và chủ thể có sự thống nhất

11


nhưng không đồng nhất. Nhân tố chủ quan là thuộc về chủ thể, song trong quá
trình hoạt động cụ thể của chủ thể nhất định nhằm nhận thức và cải tạo thế
giới, không phải lúc nào chủ thể hoạt động cũng huy động tất cả những thuộc
tính, phẩm chất của mình, mà có thể chỉ dùng một phần, một bộ phận các yếu
tố tạo thành cái chủ quan trong quá trình tương tác với khách thể. Nhân tố chủ
quan là khái niệm chỉ những yếu tố thuộc về chủ thể, được chủ thể huy động

vào nhận thức hoặc biến đổi khách thể cụ thể. Đặc trưng cơ bản của “nhân tố
chủ quan” chính là tính tích cực, sáng tạo của chủ thể hoạt động.
Như vậy, nhân tố chủ quan được thể hiện thơng qua tính chủ động, tích
cực, tự giác, sáng tạo của chủ thể trong hoạt động nhận thức và cải tạo khách
thể xác định. Cấu trúc nhân tố chủ quan bao gồm các phẩm chất và năng lực
của chủ thể, được chủ thể huy động vào nhận thức hoặc biến đổi khách thể.
Các phẩm chất trong nhân tố chủ quan bao gồm tri thức, tình cảm, ý chí, niềm
tin. Năng lực trong nhân tố chủ quan của chủ thể biểu hiện qua năng lực hoạt
động. Năng lực hoạt động là rất quan trọng, bởi vì bản thân tri thức, tình cảm,
ý chí, niềm tin nếu thiếu hoạt động của con người thì khơng thể làm thay đổi
được hiện thực, không thể trở thành nhân tố chủ quan.
Tri thức là sự hiểu biết của con người về sự vật, hiện tượng trong thế giới
khách quan, là kết quả của quá trình nhận thức của con người về thế giới hiện
thực, khám phá, khái quát những thuộc tính, những đặc trưng, quy luật của thế
giới và diễn đạt chúng dưới hình thức ngơn ngữ, chữ viết hoặc các hệ thống
ký hiệu khác. Tri thức là tiền đề hình thành ý thức. Nội dung và phương thức
tồn tại cơ bản của ý thức là tri thức. Ý thức mà không bao hàm tri thức, khơng
dựa vào tri thức thì ý thức đó là một sự trừu tượng trống rỗng, khơng giúp ích
gì cho con người trong hoạt động thực tiễn. Tri thức có nhiều lĩnh vực khác
nhau như tri thức về tự nhiên, xã hội, con người và có nhiều cấp độ khác nhau
như: tri thức kinh nghiệm và tri thức lý luận; tri thức tiền khoa học và tri thức
khoa học, v.v.. Tri thức là công cụ và điều kiện để con người thể hiện vai trị
tích cực của mình trong nhận thức và cải tạo hiện thực.

12


Tình cảm là một hình thái đặc biệt của sự phản ánh thế giới khách quan.
Tình cảm phản ánh quan hệ giữa người với người và quan hệ giữa người với
thế giới khách quan. Tình cảm là nguồn động lực mạnh mẽ kích thích con

người học tập nâng cao trình độ tri thức, đồng thời chiếm vị trí quan trọng
trong số những động lực và nhân tố điều chỉnh hành vi và hoạt động của con
người. Tình cảm nảy sinh, biểu hiện, thúc đẩy con người hoạt động, giúp con
người vượt qua những khó khăn, trở ngại để đạt được mục đích hoạt động.
Ý chí là mặt năng động của ý thức, biểu hiện ở năng lực thực hiện những
hành động có mục đích, chính là những cố gắng, nỗ lực, khả năng huy động
mọi tiềm năng trong mỗi con người vào hoạt động để có thể vượt qua mọi trở
ngại đạt mục đích đề ra. Ý chí tạo nên sự định hướng, thôi thúc bên trong,
giúp con người chuyển hoá hiểu biết thành quyết tâm hành động; thiếu ý chí,
hoạt động thực tiễn của con người sẽ khơng thể đạt kết quả cao.
Niềm tin là sự hoà quyện giữa tri thức, tình cảm, ý chí của con người,
trong q trình hướng tới một đối tượng, một quá trình hay một vấn đề nào
đó. Niềm tin cịn là sự biểu lộ khuynh hướng thúc đẩy chủ thể hành động phù
hợp với những định hướng, những giá trị đã được xác định.
Năng lực hoạt động là sự thể hiện của mục đích nhận thức, trong đó con
người thơng qua nhận thức của mình, tiến hành cải tạo, biến đổi thế giới theo
nhu cầu, mục đích đã đề ra. Ý thức của con người sẽ chỉ là “ý thức thuần tuý”
nếu không sử dụng để cải tạo, biến đổi thực tiễn. Chính vì vậy, C.Mác viết: “tư
tưởng căn bản khơng thể thực hiện được cái gì hết. Muốn thực hiện tư tưởng thì
cần có những con người sử dụng lực lượng thực tiễn” [24, tr. 181]. Thông qua
hoạt động thực tiễn, con người buộc thế giới khách quan bộc lộ bản chất, quy
luật của nó. Con người cải tạo thực tiễn nhưng không phải đi ngược lại quy luật
khách quan mà là nhận thức và hành động theo những quy luật khách quan.
Sự hoà quyện của hệ thống phẩm chất bao gồm tri thức, tình cảm, ý chí,
niềm tin và năng lực hoạt động đã tạo ra những tiềm năng to lớn của chủ thể,

13


thơi thúc con người vươn lên trong mọi hồn cảnh. Sự huy động, kết hợp các

phẩm chất với động lực đó vào trong mỗi hoạt động xác định của chủ thể, sẽ
tạo ra những năng lực, tính tích cực, chủ động, sáng tạo mới phù hợp với yêu
cầu hoạt động của chủ thể.
Từ sự phân tích trên, có thể hiểu nhân tố chủ quan là toàn bộ những
phẩm chất và năng lực của chủ thể được huy động vào quá trình nhận thức
và hoạt động thực tiễn, nhằm cải tạo hiện thực khách quan theo nhu cầu, lợi
ích và mục đích của chủ thể.
Những quan điểm cơ bản của triết học Mác - Lênin về nhân tố chủ quan
là cơ sở lý luận, phương pháp luận khoa học giúp chúng ta tiếp cận đúng đắn
nhân tố chủ quan của các chủ thể trong đời sống hiện thực.
Nhân tố chủ quan của sĩ quan cấp phân đội ở Binh chủng Đặc công
Binh chủng Đặc công là binh chủng chiến đấu đặc biệt tinh nhuệ của
QĐND Việt Nam, là lực lượng được tổ chức, trang bị và huấn luyện đặc biệt,
có phương pháp tác chiến linh hoạt, táo bạo, bất ngờ, thường dùng để đánh
các mục tiêu hiểm yếu nằm sâu trong đội hình chiến đấu, bố trí chiến dịch và
hậu phương của địch. Đặc cơng bao gồm ba lực lượng chính đó là đặc cơng
bộ, đặc cơng nước và đặc cơng biệt động.
Trải qua gần 50 năm xây dựng, chiến đấu và trưởng thành, Binh chủng
Đặc công phát triển thành 7 đầu mối lớn, đóng quân dọc theo chiều dài đất
nước, thực hiện những chức năng, nhiệm vụ khác nhau. Hiện nay, Binh chủng
Đặc công là trung tâm đào tạo cán bộ đặc công và chỉ đạo kỹ, chiến thuật đặc
công cho lực lượng Đặc cơng tồn qn; huấn luyện sẵn sàng chiến đấu với
các mục tiêu biển, đảo; huấn luyện sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu với các
mục tiêu trong thành phố, thị xã; là lực lượng cơ động nhanh của Bộ với các
trang bị đặc biệt phục vụ nhiệm vụ chống khủng bố, chống “diễn biến hịa
bình”, bạo loạn lật đổ; làm công tác vận động quần chúng trên địa bàn đóng
quân, v.v.. Trong đó, nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền biển, đảo là nhiệm vụ quan
trọng hàng đầu, nhất là trong tình hình hiện nay, trên biển Đông và khu vực
chủ quyền biển, đảo của nước ta có nhiều diễn biến phức tạp.


14


Lịch sử xây dựng và chiến đấu của quân đội ta đã chứng minh vai trò to
lớn của Bộ đội Đặc công vào chiến thắng của quân đội ta trong chiến tranh
bảo vệ Tổ quốc cũng như trong thời bình, xây dựng đất nước. Binh chủng
Đặc cơng đã làm trịn chức năng của một binh chủng chiến đấu đặc biệt tinh
nhuệ của QĐND Việt Nam.
Sĩ quan cấp phân đội ở Binh chủng Đặc công là một đối tượng đặc thù,
vừa mang những điểm chung của sĩ quan cấp phân đội trong QĐND Việt
Nam, vừa mang những đặc điểm của sĩ quan ở một binh chủng đặc biệt. Họ là
lớp người trẻ nên rất nhiệt tình, trách nhiệm, năng động, sáng tạo trong công
tác, đã tốt nghiệp cao đẳng, đại học qn sự, được phong hàm sĩ quan, có
trình độ nhận thức và sức khỏe tốt; được đào tạo theo chuyên ngành đặc công
bộ, đặc công nước và đặc công biệt động với trình độ tri thức tốt, trình độ kỹ,
chiến thuật tinh nhuệ; họ có khả năng sử dụng nhiều loại vũ khí, phương tiện
chiến đấu, giỏi võ thuật, có sự quyết đốn và lịng quả cảm; có khả năng huy
động đến mức tối đa mọi tiềm năng của con người: thần kinh, cơ bắp, thể lực,
trí tuệ, phẩm chất, năng lực, v.v., vào thực hiện nhiệm vụ; họ đã trải qua huấn
luyện, rèn luyện vô cùng gian khổ trên nhiều địa hình và mọi điều kiện thời
tiết, tơi rèn nên phẩm chất kiên cường, chịu đựng khó khăn, gian khổ và vươn
lên thích nghi, chiến thắng hồn cảnh; ở họ kinh nghiệm thực tiễn quân sự,
thực tiễn nghề nghiệp chiến đấu cịn ít và thiếu.
Đây là những người trực tiếp quản lý con người, vũ khí trang bị ở các đơn
vị đặc công; trực tiếp giáo dục, huấn luyện bộ đội sẵn sàng chiến đấu, công tác
và thực hiện mọi nhiệm vụ liên quan đến chủ quyền biển, đảo; là những người
trực tiếp giáo dục, rèn luyện, có ảnh hưởng không nhỏ trong việc xây dựng
nhân cách cho cán bộ, chiến sĩ thuộc quyền. Hoạt động của họ nhằm góp phần
giúp cho cán bộ, chiến sĩ hồn thành tốt nhiệm vụ huấn luyện, sẵn sàng chiến
đấu và chiến đấu bảo vệ chủ quyền biển, đảo. Như vậy, sĩ quan cấp phân đội là

một bộ phận quan trọng của đội ngũ sĩ quan, trực tiếp xây dựng Binh chủng về

15


mọi mặt, góp phần thực hiện thắng lợi mọi nhiệm vụ được giao của Binh chủng
Đặc cơng nói chung, nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền biển, đảo nói riêng.
Để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ, sĩ quan cấp phân đội ở Binh chủng Đặc
cơng cần có sự phát triển tồn diện cả về trình độ tri thức, tình cảm, ý chí,
niềm tin và năng lực tổ chức thực tiễn, có khả năng cảm hóa con người, có
tính kế hoạch, có sức khỏe tốt để bám sát mọi hoạt động của đơn vị. Điều đó
địi hỏi sĩ quan cấp phân đội phải thường xuyên rèn luyện, phấn đấu nâng cao
phẩm chất, năng lực, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.
Thực tiễn đã chứng minh rằng, đội ngũ sĩ quan cấp phân đội ở Binh
chủng Đặc cơng đã, đang có vị trí quan trọng đối với quá trình xây dựng và
chiến đấu bảo vệ chủ quyền biển, đảo của Binh chủng Đặc cơng nói riêng,
qn đội ta nói chung.
Từ quan niệm về nhân tố chủ quan của con người trong hoạt động và đặc
điểm của sĩ quan cấp phân đội ở Binh chủng Đặc cơng, có thể quan niệm:
Nhân tố chủ quan của sĩ quan cấp phân đội ở Binh chủng Đặc công trong
thực hiện nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền biển, đảo là tổng hòa những yếu tố
phẩm chất và năng lực của sĩ quan đặc công cấp phân đội được huy động vào
quá trình thực hiện nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền biển, đảo.
Trong nhân tố chủ quan của sĩ quan cấp phân đội, phẩm chất của họ bao
gồm trình độ tri thức, tình cảm, ý chí, niềm tin. Năng lực của họ là năng lực tổ
chức thực tiễn. Các yếu tố cấu thành nhân tố chủ quan của sĩ quan cấp phân
đội ở Binh chủng Đặc công trong nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền biển, đảo là một
thể thống nhất biện chứng, tác động qua lại lẫn nhau, tuy nhiên vai trị của các
yếu tố khơng ngang bằng nhau mà mỗi yếu tố có vị trí, vai trị riêng.
Tri thức của sĩ quan cấp phân đội bao gồm tri thức về khoa học tự nhiên,

tri thức khoa học xã hội và nhân văn quân sự, tri thức về khoa học quân sự, tri
thức nghệ thuật quân sự, tri thức thực tiễn qn sự. Các loại hình tri thức trên
có vị trí, vai trị riêng trong nhân tố chủ quan của sĩ quan cấp phân đội, trong

16


đó tri thức khoa học xã hội và nhân văn quân sự và tri thức quân sự có ý nghĩa
quyết định nhất. Bởi vì, nó là nhân tố quan trọng hàng đầu định hướng chính
trị, động cơ, thái độ, trách nhiệm và quy định trình độ, khả năng, phương
pháp, tác phong công tác của sĩ quan cấp phân đội trong nhiệm vụ bảo vệ chủ
quyền biển, đảo. V.I. Lênin viết: “Người ta chỉ có thể trở thành người cộng
sản khi biết làm giàu trí óc của mình bằng sự hiểu biết tất cả những kho tàng
trí thức mà nhân loại đã tạo ra” [22, tr. 362].
Tình cảm của sĩ quan cấp phân đội biểu hiện ở sự tin yêu chế độ XHCN,
lòng tin vào sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý và điều hành của Nhà nước, tình
yêu đối với Tổ quốc, nhân dân, với quân đội và đơn vị, v.v.. Tình cảm là một
động lực quan trọng giúp sĩ quan cấp phân đội có định hướng đúng, tích cực nỗ
lực nâng cao trình độ mọi mặt, điều chỉnh thái độ, hành vi của họ cho phù hợp
với yêu cầu chung của quân đội và xã hội. Sĩ quan cấp phân đội có tình cảm sâu
sắc sẽ có động cơ, thái độ đúng đắn, mục đích trong sáng, rõ ràng, có niềm hứng
thú, nhiệt tình, say mê cơng tác, tích cực, chủ động, sáng tạo trong huấn luyện,
rèn luyện, quản lý bộ đội, hoàn thành tốt nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền biển, đảo
được giao. Ngược lại, nếu động cơ, thái độ khơng đúng đắn, mục đích khơng
trong sáng, rõ ràng, sĩ quan cấp phân đội sẽ thiếu gắn bó với nghề nghiệp, khơng
vượt qua được những khó khăn, vất vả đặc thù trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ
chủ quyền biển, đảo. V.I. Lênin viết: “Khơng có sự xúc cảm của con người thì
xưa nay khơng có và khơng thể có sự tìm tịi chân lý” [20, tr. 131].
Ý chí của sĩ quan cấp phân đội là nhân tố tạo nên sự cố gắng, nỗ lực
khắc phục khó khăn, phấn đấu hoàn thành nhiệm vụ được giao của sĩ quan

cấp phân đội. Ý chí của sĩ quan cấp phân đội ở Binh chủng Đặc công là sự kết
hợp nhuần nhuyễn giữa nhận thức khoa học với niềm tin cộng sản của người
quân nhân cách mạng. Đây là động lực quan trọng giúp sĩ quan cấp phân đội
ln có ý chí vươn lên, vượt qua mọi khó khăn, thử thách trong huấn luyện và
cơng tác, hồn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao.

17


Niềm tin của sĩ quan cấp phân đội là sự hồ quyện giữa tri thức, tình
cảm, ý chí của họ. Đó là niềm tin khoa học, hình thành trên cơ sở tri thức
khoa học và sự giác ngộ cao độ về mục tiêu, lý tưởng cách mạng. Niềm tin
thúc đẩy sĩ quan cấp phân đội hành động phù hợp với những định hướng,
những giá trị chuẩn mực của quân đội và tồn xã hội. Có niềm tin, sĩ quan cấp
phân đội mới tin tưởng vào khả năng hoàn thành nhiệm vụ của bản thân và
đơn vị, có sức mạnh hồn thành nhiệm vụ được giao.
Năng lực tổ chức thực tiễn là khả năng của sĩ quan cấp phân đội trong
lãnh đạo, quản lý, chỉ huy, huấn luyện đơn vị sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu
bảo vệ chủ quyền biển, đảo. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Năng lực của
người khơng phải hồn tồn do tự nhiên mà có mà một phần lớn do công tác,
do tập luyện mà có…” [27, tr. 320]. Năng lực tổ chức thực tiễn biểu hiện hiệu
suất và chất lượng hoạt động của sĩ quan cấp phân đội, do đó năng lực tổ chức
thực tiễn là biểu hiện trực tiếp nhân tố chủ quan của sĩ quan cấp phân đội
trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền biển, đảo.
Năng lực tổ chức thực tiễn của sĩ quan cấp phân đội ở Binh chủng Đặc
công được biểu hiện ở khả năng liên kết các cá nhân trong đơn vị, liên kết
giữa con người với vũ khí, trang bị, phương tiện, tạo thành sức mạnh để thực
hiện nhiệm vụ; ở khả năng vận dụng kiến thức vào quản lý và điều hành mọi
công việc ở đơn vị; trong trình độ xây dựng kế hoạch, khả năng tư duy nhạy
bén, linh hoạt, sáng tạo trong công tác; trong nghệ thuật tổ chức quản lý, chỉ

huy đơn vị và sử dụng con người; trong kỹ năng nắm bắt và giải quyết các
vấn đề tâm lý của cán bộ, chiến sĩ thuộc quyền; ở trình độ huấn luyện và tổ
chức huấn luyện cho cán bộ, chiến sĩ trong đơn vị có bản lĩnh chính trị vững
vàng, tinh nhuệ về kỹ, chiến thuật, luôn chấp hành nghiêm kỷ luật,v.v..
Năng lực tổ chức thực tiễn của sĩ quan cấp phân đội còn biểu hiện ở sự
nhanh nhạy trong nắm bắt và xử trí các tình huống nảy sinh trong thực tiễn
hoạt động quân sự; khả năng kết hợp giữa huấn luyện các tri thức quân sự với
giáo dục đạo đức, nhân cách cho cán bộ, chiến sĩ trong đơn vị.

18


Như vậy, nhân tố chủ quan của sĩ quan cấp phân đội ở Binh chủng Đặc
công trong nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền biển, đảo là sự thống nhất biện chứng
giữa tri thức, tình cảm, ý chí, niềm tin, năng lực tổ chức thực tiễn, tạo nên những
phẩm chất, năng lực bên trong của họ. Hệ thống các yếu tố tạo thành nhân tố chủ
quan của sĩ quan cấp phân đội ln được biểu hiện ra bên ngồi thơng qua kết
quả lãnh đạo, quản lý, chỉ huy, huấn luyện đơn vị bảo vệ chủ quyền biển, đảo.
Quá trình hình thành, phát triển nhân tố chủ quan của sĩ quan cấp phân đội
ở Binh chủng Đặc công trong nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền biển, đảo thường
xuyên chịu sự tác động của nhiều yếu tố khách quan. Các yếu tố khách quan đó
thường xuyên biến đổi, phát triển theo theo sự phát triển của điều kiện kinh tế xã hội và yêu cầu ngày càng cao của nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền biển, đảo. Sự
biến đổi của các yếu tố khách quan làm cho nhân tố chủ quan của sĩ quan cấp
phân đội khơng ngừng biến đổi, phát triển. Vì vậy, để hoàn thành nhiệm vụ bảo
vệ chủ quyền biển, đảo được giao, mỗi sĩ quan cấp phân đội phải không ngừng
vươn lên, phát huy tối đa “nội lực”, không thụ động máy móc, ỷ lại mà phải
tích cực, chủ động, sáng tạo, vượt khó trong cơng tác, phát huy cao độ nhân tố
chủ quan của bản thân đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ.
Từ sự phân tích đặc điểm của sĩ quan cấp phân đội ở Binh chủng Đặc
công và kết cấu nhân tố chủ quan của sĩ quan cấp phân đội cho thấy nhân tố

chủ quan của sĩ quan cấp phân đội có vai trị to lớn trong thực hiện nhiệm vụ
bảo vệ chủ quyền biển, đảo của đơn vị.
Nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền biển, đảo của sĩ quan cấp phân đội ở Binh
chủng Đặc công trên những nội dung chủ yếu sau: huấn luyện và tăng cường
cán bộ, chiến sĩ đặc cơng nước cho tồn qn; làm tham mưu cho Bộ Quốc
phòng về xây dựng lực lượng và tác chiến đặc công nước; là lực lượng sẵn
sàng chiến đấu, chiến đấu trên hướng biển đảo, nhằm vào các mục tiêu quan
trọng như kho tàng, bến cảng, sân bay, tàu thủy, cầu giao thông, biển đảo, v.v..
của đối phương và nhiệm vụ tác chiến A2, A3, chống khủng bố trên biển; lãnh

19


đạo, chỉ huy, quản lý và huấn luyện bộ đội đặc công nước sẵn sàng chiến đấu
và chiến đấu theo các hình thức chiến thuật; tham gia tích cực trong phòng
chống thiên tai, cứu hộ, cứu nạn, xử lý các sự cố xảy ra trên sông, trên biển; tổ
chức cho bộ đội đặc công nước lao động sản xuất, học tập và cơng tác; giữ
vững mơi trường hịa bình, ổn định để phát triển kinh tế biển.
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, nhân tố chủ quan do
điều kiện khách quan quy định cả về nội dung và phương hướng tổ chức hoạt
động thực tiễn, song nhân tố chủ quan khơng bị động trước hồn cảnh khách
quan mà có thể phát hiện, nắm bắt những khả năng khách quan, tạo ra những
tiền đề biến khả năng khách quan thành hiện thực, đồng thời, nhân tố chủ
quan còn vận động, phát triển, tự hoàn thiện những phẩm chất, nâng cao nhận
thức, khả năng vận dụng, tổ chức hoạt động thực tiễn của mình cho phù hợp
với những quy luật vốn có của thế giới khách quan. V.I. Lênin viết: “ý thức
con người không phải chỉ phản ánh thế giới khách quan, mà còn tạo ra thế
giới khách quan” [21, tr. 228]. Do đó, nhân tố chủ quan có vai trò to lớn trong
các hoạt động của chủ thể.
Vai trò theo Đại Từ điển Tiếng Việt: là “chức năng, tác dụng của cái gì

hoặc của ai trong sự vận động, phát triển của tổ chức, tập thể nói chung” [47,
tr. 1788]. Nói đến vai trị nhân tố chủ quan là nói đến mặt tích cực, chủ động, sáng
tạo của chủ thể trong nhận thức và trong hoạt động thực tiễn cơng tác của họ.
Vai trị nhân tố chủ quan của sĩ quan cấp phân đội ở Binh chủng Đặc
công trong nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền biển, đảo được biểu hiện:
Một là, nhân tố chủ quan của sĩ quan cấp phân đội góp phần huy động
trình độ tri thức, tình cảm, ý chí, niềm tin và năng lực hoạt động thực tiễn của
bộ đội vào thực hiện nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền biển, đảo
Để hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền biển, đảo ở Binh
chủng Đặc cơng, cần có sự tác động tổng hợp, đồng bộ của nhiều yếu tố, cả
những điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan. Trong đó, đội ngũ sĩ quan
cấp phân đội có vai trị quan trọng, là những người trực tiếp lãnh đạo, chỉ huy,

20


quản lý, huấn luyện cán bộ, chiến sĩ, trực tiếp thực hiện nhiệm vụ bảo vệ chủ
quyền biển, đảo. Được đào tạo cơ bản, ngồi trình độ tri thức, sĩ quan cấp
phân đội cịn có nhiều kinh nghiệm và vốn sống thực tiễn. Họ hội tụ đủ những
điều kiện để giáo dục nâng cao trình độ tri thức, xây dựng bản lĩnh chính trị,
bồi dưỡng tình cảm, phẩm chất đạo đức, huấn luyện kỹ, chiến thuật đặc công
nước cho cán bộ, chiến sĩ trong đơn vị.
Thơng qua giáo dục chính trị và các hoạt động ở đơn vị, sĩ quan cấp phân
đội trang bị cho cán bộ, chiến sĩ trong đơn vị chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh, đường lối quan điểm của Đảng về xây dựng và bảo vệ Tổ quốc,
về nhiệm vụ quốc phòng, chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo
Trường Sa và Hồng Sa, các tri thức chun ngành đặc cơng, qua đó nâng cao
trình độ tri thức mọi mặt của bộ đội.
Cùng với trình độ tri thức, sĩ quan cấp phân đội cịn bồi đắp tình cảm của
bộ đội, xây dựng cho họ lòng yêu nước, yêu chủ quyền biển, đảo, lòng trung

thành tuyệt đối với Đảng, với Tổ quốc và nhân dân, tình cảm u mến, gắn bó
với qn đội và đơn vị. Tình cảm đúng đắn là động lực quan trọng để cán bộ,
chiến sĩ tích cực học tập, nâng cao trình độ mọi mặt, điều chỉnh hành vi và
hoạt động họ cho đúng với những chuẩn mực của xã hội và quân đội.
Điều kiện huấn luyện đặc cơng khó khăn, vất vả, nhiệm vụ nặng nề, địi
hỏi bộ đội phải có ý chí rất cao mới hồn thành tốt nhiệm vụ được giao. Quá
trình sĩ quan cấp phân đội quản lý, giáo dục, huấn luyện, rèn luyện bộ đội
cũng đồng thời là q trình tơi rèn, hun đúc ý chí của họ. Ý chí kiên định của
cán bộ, chiến sĩ là yếu tố bảo đảm cho họ ln tồn tâm, tồn ý trong thực
hiện nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền biển, đảo, luôn nỗ lực, cố gắng, vượt qua
mọi khó khăn, vất vả để hồn thành tốt nhiệm vụ được giao.
Nhân tố chủ quan của sĩ quan cấp phân đội ở Binh chủng Đặc cơng cịn
có vai trò nâng cao năng lực hoạt động thực tiễn của bộ đội trong bảo vệ chủ
quyền biển, đảo. Kế hoạch, chương trình, mục tiêu phương châm huấn luyện
là điều tối quan trọng tác động tới kết quả huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu bảo

21


vệ chủ quyền biển, đảo, tuy nhiên tầm quan trọng đó có được thể hiện, được
bộc lộ hết ý nghĩa của nó hay khơng phải thơng qua hoạt động chủ quan của sĩ
quan cấp phân đội. Trên cơ sở kế hoạch huấn luyện, công tác đã được phê
duyệt, sĩ quan cấp phân đội soạn thảo giáo án huấn luyện, chuẩn bị vật chất,
học cụ, thục luyện giáo án, tìm kiếm cách thức, biện pháp để huấn luyện,
trang bị tri thức và rèn luyện kỹ, chiến thuật của cán bộ, chiến sĩ sao cho có
hiệu quả cao nhất, phù hợp với đặc điểm đối tượng và tình hình nhiệm vụ cụ
thể của đơn vị. Huấn luyện tác chiến ở trên bờ đã khó khăn vất vả, huấn luyện
các kỹ thuật dưới nước lại càng khó khăn vất vả hơn, với nhiều kỹ thuật phức
tạp như bơi ếch dai sức, bơi ngửa ngầm, thả ống, dong kéo vũ khí trang bị, kỹ
thuật đánh tàu, đánh nhà giàn, v.v., đòi hỏi cả người huấn luyện và người được

huấn luyện phải hết sức kiên trì, tỉ mỉ. Nếu khơng có vai trị chủ động, sáng tạo,
vượt khó của sĩ quan cấp phân đội thì khơng thể đạt được mục đích, u cầu đề
ra. Vai trò nhân tố chủ quan của sĩ quan cấp phân đội còn được biểu hiện ở việc
kiểm tra đánh giá kết quả lĩnh hội, rèn luyện tri thức, kỹ, chiến thuật và trình độ
sẵn sàng chiến đấu của cán bộ, chiến sĩ trong đơn vị, qua đó thấy được kết quả
các mặt của đơn vị, đề xuất và tổ chức thực hiện các giải pháp phát huy điểm
mạnh, khắc phục điểm yếu, xây dựng đơn vị ngày càng vững mạnh.
Nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền biển, đảo ở Binh chủng Đặc cơng hết sức
khó khăn, vất vả, vì vậy cần có sự năng động, sáng tạo nhân tố chủ quan của
sĩ quan cấp phân đội. Vai trò nhân tố chủ quan của sĩ quan cấp phân đội được
thể hiện ở mọi khâu, mọi bước trong quá trình nâng cao, huy động trình độ
nhận thức, tình cảm, ý chí, niềm tin và năng lực hoạt động thực tiễn của bộ
đội vào thực hiện nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền biển, đảo.
Hai là, nhân tố chủ quan của sĩ quan cấp phân đội ở Binh chủng Đặc
công là động lực tinh thần thúc đẩy họ luôn chủ động, sáng tạo, vượt mọi khó
khăn hồn thành nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền biển, đảo.
Binh chủng Đặc công được thành lập ngày 19 tháng 3 năm 1967, nhưng
từ những năm kháng chiến chống Pháp, cách đánh “công đồn đặc biệt” ở

22


chiến trường Nam bộ, cách đánh và tổ chức đặc cơng đã phát triển nhanh
chóng, hình thành 3 lực lượng: Đặc cơng bộ, Đặc cơng nước, Đặc cơng biệt
động. Hình thành và phát triển trong thực tiễn chiến đấu, cách đánh đặc công
là sản phẩm của chiến tranh nhân dân Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Đó là cách đánh tiêu biểu cho lối đánh lấy ít đánh nhiều, lấy nhỏ thắng lớn,
một cách đánh hay của chiến tranh nhân dân Việt Nam. Trong tác chiến, bộ
đội đặc công triệt để sử dụng yếu tố bất ngờ, tiến sát mục tiêu, bất ngờ tập
kích nhanh, chính xác, đạt hiệu suất chiến đấu cao. Bộ đội đặc cơng có thể tác

chiến độc lập hoặc hiệp đồng với các quân, binh chủng khác.
Binh chủng Đặc công được Đảng, Nhà nước, Quân đội giao nhiều nhiệm
vụ quan trọng, trong đó có nhiệm vụ huấn luyện sẵn sàng chiến đấu, chiến đấu
trên hướng biển đảo, nhà giàn DK1, nhằm vào các mục tiêu quan trọng như
kho tàng, bến cảng, sân bay, tàu thủy, cầu giao thông, biển đảo, v.v., của đối
phương và nhiệm vụ tác chiến A2, A3, chống khủng bố trên biển, v.v.. Mục
tiêu, nhiệm vụ được giao trong giai đoạn mới hết sức nặng nề, trong khi đó
điều kiện cơng tác của sĩ quan cấp phân đội cịn nhiều khó khăn, vất vả. Thao
trường bãi tập, cơ sở vật chất phục vụ huấn huyện cịn thơ sơ, thiếu thốn. Điều
kiện thiên nhiên tại tỉnh Ninh Thuận - nơi Lữ đoàn Đặc cơng nước đóng qn nắng nóng gay gắt quanh năm; mặc dù sĩ quan cấp phân đội luôn được trên
quan tâm bổ sung, nhưng vẫn còn thiếu về số lượng, hạn chế về chất lượng;
Điều kiện huấn luyện cả trên bộ và ngoài biển, cả ban ngày và ban đêm, cả trên
mặt biển và lặn sâu dưới đáy, cả vùng biển gần bờ và ngồi đảo xa, sóng to gió
lớn bất thường với nhiều sinh vật biển có thể gây tổn thương, hy sinh như sứa
lửa, cầu gai, cá mập, v.v.; vật chất bảo đảm an tồn cịn thiếu thốn, lạc hậu; điều
kiện hậu phương gia đình của sĩ quan cịn nhiều khó khăn, v.v.. Tất cả những
điều đó vừa là sự đòi hỏi, vừa là sự chứng minh cho vai trò to lớn của nhân tố
chủ quan của sĩ quan cấp phân đội ở Binh chủng Đặc cơng.
Để hồn thành tốt nhiệm vụ của mình địi hỏi sĩ quan cấp phân đội phải
học tập không ngừng, rèn luyện phấn đấu vươn lên với ý chí quyết tâm cao,

23


luôn chủ động, sáng tạo trong thực hiện nhiệm vụ, có tinh thần khắc phục khó
khăn, có lịng say mê nghề nghiệp, lịng nhiệt tình trách nhiệm và động cơ,
thái độ đúng đắn. Thiếu một trong những yếu tố trên là biểu hiện của nhân tố
chủ quan phát triển chưa xứng tầm, chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ, sẽ dẫn
đến việc sĩ quan cấp phân đội thối chí, lùi bước trước những khó khăn nảy
sinh trong q trình thực hiện nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền biển, đảo. Điều đó

cho thấy nhân tố chủ quan của sĩ quan cấp phân đội là động lực tinh thần thúc
đẩy họ luôn chủ động, sáng tạo, vượt mọi khó khăn hồn thành nhiệm vụ bảo
vệ chủ quyền biển, đảo.
Ba là, nhân tố chủ quan của sĩ quan cấp phân đội là động lực tinh thần
góp phần gắn kết, thống nhất ý chí và hành động của mọi cán bộ, chiến sĩ
trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền biển, đảo.
Sự đoàn kết, nhất trí, thống nhất ý chí và hành động của cán bộ, chiến sĩ
trong đơn vị là cội nguồn sức mạnh để hoàn thành thắng lợi mọi nhiệm vụ. Sĩ
quan cấp phân đội là hạt nhân đoàn kết của đơn vị, bằng những phẩm chất và
năng lực của mình để giáo dục, thu hút, tập hợp bộ đội thuộc quyền thành một
khối thống nhất, phát huy sức mạnh của tập thể vào thực hiện nhiệm vụ bảo
vệ chủ quyền biển, đảo được giao.
Đặc thù hoạt động huấn luyện bảo vệ chủ quyền biển, đảo, đặc biệt là huấn
luyện môi trường nước rất khó khăn, vất vả, nhiều tình huống bất ngờ nảy sinh
như: dòng chảy, gặp sứa, đứt dây, đứt phao, chiến sĩ say sóng, ngất, v.v., địi hỏi
sĩ quan cấp phân đội phải xử lý nhanh chóng, kịp thời. Đặc thù đó đã quy định
hoạt động của sĩ quan cấp phân đội ở Binh chủng Đặc công phải luôn bám sát
mọi hoạt động của bộ đội, với cường độ hoạt động cao không kém hạ sĩ quan,
binh sĩ. Huấn luyện bơi ếch dai sức từ 10 - 12km thì sĩ quan cấp phân đội cùng
bơi với đơn vị tồn bộ cự ly, v.v.. Ln sâu sát, đồng cam cộng khổ với bộ đội
nên giữa sĩ quan cấp phân đội và chiến đấu viên, hạ sĩ quan, binh sĩ thuộc quyền
có sự gắn bó sâu sắc, ln đồn kết, nhất trí trong mọi hoạt động nói chung,
trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền biển, đảo nói riêng.

24


Người sĩ quan cấp phân đội có sự phát triển cao về nhân tố chủ quan cả
về trình độ tri thức, tình cảm, ý chí, niềm tin, năng lực tổ chức thực tiễn sẽ
có uy tín trước tập thể, tạo nên sức thu hút mọi thành viên trong đơn vị vào

thực hiện kế hoạch, nhiệm vụ đã đề ra. Sự tin tưởng vào những phẩm chất,
năng lực của sĩ quan cấp phân đội là cơ sở để bộ đội giác ngộ về nhiệm vụ,
ln tự giác, tích cực, cố gắng, vượt qua khó khăn hồn thành tốt nhiệm vụ
được giao trong mọi tình huống.
Mối đồn kết, nhất trí trong đơn vị càng được củng cố thông qua việc sĩ
quan cấp phân đội duy trì chấp hành kỷ luật của bộ đội. Chủ tịch Hồ Chí
Minh viết: “Quân đội mạnh là nhờ giáo dục khéo, nhờ chính sách đúng và
nhờ kỷ luật nghiêm” [28, tr. 483]. Trên cơ sở pháp luật của Nhà nước, kỷ luật,
điều lệnh, điều lệ của quân đội và các quy định của đơn vị, sĩ quan cấp phân
đội giáo dục, duy trì kỷ luật trong đơn vị, kết hợp giữa giáo dục, thuyết phục
với xử lý nghiêm những trường hợp vi phạm, bảo đảm cả đơn vị là một khối
thống nhất cả về ý chí và hành động. Thực tế ở Binh chủng Đặc công chỉ rõ,
một đơn vị có kỷ luật kém thì kết quả thực hiện nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền
biển, đảo và các nhiệm vụ khác không cao.
Cần lưu ý rằng vai trò nhân tố chủ quan của sĩ quan cấp phân đội ở Binh
chủng Đặc cơng có thể biểu hiện thành những tác động tích cực hoặc tiêu cực.
Nhân tố chủ quan của sĩ quan cấp phân đội khi được huy động đúng chỗ, đúng
lúc, đúng cách sẽ có tác dụng tích cực tới nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền biển, đảo.
Ngược lại, khi nhân tố chủ quan của sĩ quan cấp phân đội được huy động không
đúng chỗ, không đầy đủ, không đúng thời điểm, phương pháp huy động không
đúng thì khơng phát huy được vào nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền biển, đảo, hoặc
phát huy nhưng hiệu quả không cao, thậm chí đưa đến những tác động tiêu cực.
Như vậy, nhân tố chủ quan của sĩ quan cấp phân đội ở Binh chủng Đặc
công trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền biển, đảo là tổng hợp những
phẩm chất, năng lực của họ được huy động vào nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền
biển, đảo. Thực chất vai trò nhân tố chủ quan của sĩ quan cấp phân đội là chức
năng, tác dụng của những phẩm chất, năng lực của họ được thể hiện trong quá

25



trình lãnh đạo, chỉ huy, quản lý, huấn luyện đơn vị, nhằm hoàn thành tốt
nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc.
1.1.2. Quan niệm về phát huy vai trò nhân tố chủ quan của sĩ quan
cấp phân đội ở Binh chủng Đặc công trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ chủ
quyền biển, đảo
Sĩ quan cấp phân đội ở Binh chủng Đặc công là những người trực tiếp
lãnh đạo, quản lý, chỉ huy, huấn luyện đơn vị sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu
bảo vệ chủ quyền biển, đảo. Họ có những tiềm năng to lớn về phẩm chất,
năng lực phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ đề ra, tuy nhiên, để nâng cao và huy
động những tiềm năng đó vào nhiệm vụ thì cần sự quan tâm, tạo điều kiện của
các chủ thể liên quan. Do vậy, mọi kế hoạch, mục tiêu nâng cao chất lượng
bảo vệ chủ quyền biển, đảo của Binh chủng Đặc công đều cần tập trung cho
việc bồi dưỡng, đào tạo xây dựng sĩ quan cấp phân đội, coi đây là nguồn lực
nội sinh quyết định việc thực hiện nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền biển, đảo.
Hiện nay có nhiều quan niệm về phát huy như: phát huy là quá trình tác
động làm biến đổi, phát triển những phẩm chất, năng lực của mỗi người; phát
huy phẩm chất và năng lực người là quá trình khơi dậy và khai thác những
khả năng ở mỗi người để nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động thực tiễn
của họ. Theo Đại từ điển Tiếng Việt thì phát huy là “làm cho cái hay, cái tốt
nhân thêm tác dụng, thúc đẩy tiếp tục nảy nở nhiều hơn” [47, tr. 1321]. Theo
đó, phát huy chính là q trình khơi dậy, bồi đắp và phát triển các yếu tố tích
cực, tiến bộ và hữu ích trong sự vật, hiện tượng vào một mục đích nhất định.
Q trình phát huy cần có sự tác động một cách tích cực, khoa học và hợp lý
của các chủ thể, với những nội dung, hình thức và phương pháp phù hợp.
Từ góc độ tiếp cận như trên, có thể quan niệm: Phát huy vai trò nhân tố
chủ quan của sĩ quan cấp phân đội ở Binh chủng Đặc công trong thực hiện
nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền biển, đảo là quá trình khơi dậy, bồi đắp, phát triển
và huy động trình độ tri thức, tình cảm, ý chí, niềm tin và năng lực tổ chức thực
tiễn của sĩ quan cấp phân đội ở Binh chủng Đặc công vào thực hiện nhiệm vụ

bảo vệ chủ quyền biển, đảo ở đơn vị.

26


×