Tải bản đầy đủ (.docx) (198 trang)

Trách nhiệm bồi thường thiệt hại thư do vi phạm hợp đồngơng mại theo pháp luật việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (927.33 KB, 198 trang )

LỜI CAM ĐOAN

Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các thông tin, số liệu nêu trong Luận án là trung thực. Các luận
điểm khoa học được kế thừa trong Luận án được trích dẫn nguồn
gốc rõ ràng. Kết quả nghiên cứu của Luận án chưa từng được cơng
bố trong cơng trình nào khác.

TÁC GIẢ LUẬN ÁN

Đinh Văn Cường


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

BLDS

:

Bộ luật Dân sự

BTTH

:

Bồi thường thiệt hại

LTM

:


Luật Thương mại

HĐXX

:

Hội đồng xét xử

HĐTM

:

Hợp đồng thương mại

TNBTTH

:

Trách nhiệm bồi thường thiệt hại

TNHH

:

Trách nhiệm hữu hạn

TAND

:


Toà án nhân dân

UBND

:

Ủy ban nhân dân


MỤC LỤC


4

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Sau hơn 30 năm thực hiện công cuộc đổi mới, nền kinh tế Việt Nam đã có
nhiều chuyển biến tích cực về mọi mặt. Để đạt được những kết quả này, nền kinh tế
Việt Nam đã từng chịu ảnh hưởng bởi rất nhiều yếu tố khác nhau, cả yếu tố chủ
quan và yếu tố khách quan, trong đó, sự hồn thiện của hệ thống pháp luật (khung
pháp lý) cho hoạt động của nền kinh tế chính là một trong những yếu tố quan trọng,
tác động trực tiếp đến việc đảm bảo sự tăng trưởng kinh tế, tạo ra môi trường kinh
doanh thuận lợi cho các doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp nước ngoài
đang hoạt động kinh doanh tại Việt Nam. Một trong những mục tiêu mà hệ thống
pháp luật Việt Nam nói chung, pháp luật thương mại nói riêng hướng tới đó là bảo
đảm sự bình đẳng giữa các nhà kinh doanh trong từng lĩnh vực cụ thể. Điều đó, thể
hiện ở việc pháp luật cho phép các chủ thể được quyền tự do biểu đạt ý chí khi giao
kết các hợp đồng mà khơng chủ thể nào có thể ngăn cản hoặc ép buộc. Tuy nhiên, đi
liền với sự tự do trong giao kết hợp đồng là những quy định có tính ràng buộc đối
với các chủ thể trong việc tôn trọng sự thỏa thuận. Khi thỏa thuận đã có giá trị, các

bên phải tuyệt đối tuân thủ bởi vì bất cứ sự vi phạm nào dù là nhỏ nhất cũng có thể
gây ra những tổn thất cho bên kia. Nhưng trên thực tế, vì những mục tiêu lợi nhuận
tối đa mà các chủ thể có thể bất chấp những quy định pháp luật để vượt qua sự
thỏa thuận, sẵn sàng xâm phạm quyền và lợi ích của chủ thể khác. Điều này không
chỉ gây ảnh hưởng tới lợi ích của đối phương, mà cịn có thể ảnh hưởng tới sự phát
triển của cả nền kinh tế Việt Nam đang trong giai đoạn phát triển. Do đó, bảo đảm
mơi trường kinh doanh lành mạnh, bảo vệ lợi ích hợp pháp của các chủ thể là yếu tố
quan trọng nhằm đảm bảo sự phát triển bền vững của nền kinh tế.
Trải qua các thời kỳ phát triển khác nhau, pháp luật thương mại đã và đang
kiến tạo một hành lang pháp lý an toàn, thuận lợi nhất cho các chủ thể. Trong đó,
cùng với những quy định nhằm cụ thể hóa các hoạt động kinh doanh mà các chủ thể
được phép thực hiện luôn là những chế tài nhằm hạn chế sự vi phạm của mỗi bên.
Một trong những chế tài có tác động lớn đến việc ngăn chặn hành vi vi phạm và bảo
vệ tối đa lợi ích của bên bị vi phạm đó là chế tài bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp


5

đồng thương mại. Đây không phải là chế tài lần đầu tiên xuất hiện trong Luật
Thương mại năm 2005, mà nó đã được quy định cụ thể trong các văn bản pháp luật
trước đó như Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế năm 1989, Luật Thương mại năm 1997...
Qua quá trình phát triển, chế tài bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng thương
mại ngày càng hoàn thiện và được áp dụng hiệu quả. Tuy nhiên, trải qua hơn 10
năm áp dụng vào thực tiễn, chế định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi
phạm hợp đồng thương mại trong Luật Thương mại năm 2005 đã bộc lộ nhiều bất
cập cần phải được nghiên cứu, sửa đổi cho phù hợp với lý luận và thực tiễn. Đặc
biệt, vẫn còn những quan điểm khác nhau liên quan đến sự tồn tại của những quy
định trong Luật này. Cụ thể, có nên quy định riêng về bồi thường thiệt hại do vi
phạm hợp đồng thương mại hay không, khi các bên đã thỏa thuận về mức bồi
thường? Khi thực hiện nghĩa vụ hạn chế tổn thất, bên vi phạm hợp đồng có quyền

giảm bớt giá trị bồi thường thiệt hại hay không? Nếu bên yêu cầu bồi thường thiệt
hại chứng minh được mình khơng biết hoặc biết nhưng khơng có đủ điều kiện để áp
dụng các biện pháp hạn chế tổn thất thì giải quyết như thế nào? Việc khống chế
mức phạt vi phạm mà các bên được quyền thỏa thuận không quá 8% giá trị phần
nghĩa vụ hợp đồng bị vi phạm, nhằm hạn chế bất lợi cho bên yếu thế trong hợp
đồng và bảo đảm dung hịa lợi ích giữa các bên trong hợp đồng, song điều đó có đi
ngược với bản chất quy định vừa áp dụng phạt vi phạm hợp đồng vừa yêu cầu bồi
thường thiệt hại? Cách hiểu khác nhau giữa các chủ thể về “lỗi” trong pháp luật
thương mại có phải là một trong những nguyên nhân dẫn đến việc không thống
nhất trong việc áp dụng luật vào thực tiễn giải quyết tranh chấp? Sử dụng khái niệm
“miễn” trong Luật Thương mại có phù hợp với bản chất của vấn đề khơng?... Chính
những điểm bất cập trong quy định của luật và những ý kiến khác nhau được đề cập
ở trên là một trong những nguyên nhân quan trọng làm ảnh hưởng đến hoạt động
giải quyết tranh chấp của các chủ thể có thẩm quyền. Những điểm bất cập này khiến
cho cơ quan giải quyết tranh chấp bất đắc dĩ phải đóng vai trị là những nhà giải
thích luật, trong khi đó góc nhìn và quan niệm của những người làm công tác giải
quyết tranh chấp không phải lúc nào cũng giống nhau, nên dễ dẫn đến sự chưa
thống nhất trong việc áp dụng pháp luật vào từng vụ việc cụ thể, gây ảnh hưởng đến
quyền và lợi ích hợp pháp của các bên tranh chấp.


6

Bởi vậy, việc khắc phục những hạn chế, bất cập trong quy định của pháp luật
thương mại nói chung, quy định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm
hợp đồng thương mại là đòi hỏi bức thiết, nhất là trong bối cảnh hội nhập quốc tế
sâu rộng, các quan hệ thương mại, đặc biệt là các quan hệ thương mại quốc tế ngày
càng đa dạng, phức tạp, thì những bất cập trên trở thành rào cản cho sự phát triển
và hội nhập với nền kinh tế thế giới. Cho nên, việc nghiên cứu nhằm hoàn thiện quy
định pháp luật thương mại nói chung, pháp luật về bồi thường thiệt hại do vi phạm

hợp đồng thương mại nói riêng là một trong những vấn đề cấp thiết hiện nay. Do
đó, việc nghiên cứu đề tài: “Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng
thương mại theo pháp luật Việt Nam” sẽ mang lại những giá trị lý luận và thực tiễn
thiết thực, góp phần tạo dựng cơ sở khoa học cho việc tiếp tục đổi mới, hoàn thiện
chế định quan trọng này. Đây cũng là lý do mà tác giả lựa chọn đề tài này để nghiên
cứu và làm Luận án Tiến sĩ luật học.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận án là làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn
pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng thương mại, từ
đó, đề xuất các giải pháp nhằm hồn thiện pháp luật về trách nhiệm bồi thường
thiệt hại do vi phạm hợp đồng thương mại ở Việt Nam hiện nay.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu ở trên, luận án xác định những nhiệm vụ
nghiên cứu sau đây:
-

Thực hiện tổng quan và đánh giá tình hình nghiên cứu các vấn đề liên quan

đến đề tài luận án, từ đó, chỉ ra các vấn đề, luận điểm cần tiếp tục triển khai làm rõ
trong phạm vi và nội dung nghiên cứu của luận án; khái quát về các lý thuyết nghiên
cứu áp dụng, đặt ra câu hỏi nghiên cứu và giả thuyết nghiên cứu, chỉ ra hướng tiếp
cận nghiên cứu đề tài luận án.
-

Làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi

phạm hợp đồng thương mại theo quy định của pháp luật như bản chất pháp lý,



7

chức năng của chế tài bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng thương mại, cấu
trúc pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại, nguyên tắc bồi thường thiệt hại
do vi phạm hợp đồng thương mại ở Việt Nam.
- Khái quát thực trạng pháp luật hiện hành về trách nhiệm bồi thường thiệt hại
do vi phạm hợp đồng thương mại trong tương quan so sánh với các quy định của
pháp luật quốc tế và một số quốc gia về chế tài này. Đánh giá thực trạng pháp luật
và thực tiễn thực thi pháp luật để chỉ rõ những bất cập, hạn chế và nguyên nhân của
các quy định pháp luật về vấn đề này.
- Kiến nghị các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả áp
dụng pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng thương
mại để đáp ứng những yêu cầu mới đặt ra trong thực tiễn ở Việt Nam hiện nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án bao gồm:
- Các quan điểm, học thuyết liên quan đến trách nhiệm dân sự nói chung và
trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng thương mại nói riêng;
- Hệ thống các quy định của pháp luật Việt Nam và pháp luật nước ngoài,
pháp luật quốc tế về bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng thương mại;
- Thực tiễn thực hiện pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi
phạm hợp đồng thương mại ở Việt Nam thời gian qua.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của luận án được xác định như sau:
- Về phạm vi nội dung nghiên cứu: Luận án nghiên cứu những vấn đề cơ bản
và chuyên sâu về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng thương
mại theo quy định của pháp luật hiện hành trên phương diện lý luận và thực tiễn.
- Về phạm vi không gian và thời gian thực hiện nghiên cứu: Luận án nghiên



8

cứu vấn đề trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng thương mại theo
quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành, trong đó đặc biệt nhấn mạnh đến giai
đoạn từ khi Luật Thương mại năm 2005 được ban hành cho đến nay.
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Phương pháp luận
Luận án được thực hiện dựa trên phương pháp luận nền tảng của học thuyết
Mác-Lê nin về Nhà nước và pháp luật, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối, chủ
trương của Đảng và chính sách pháp luật của Nhà nước về thương mại, hợp đồng
thương mại, trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng thương mại.
Đây là phương pháp luận chủ đạo xun suốt tồn bộ q trình nghiên cứu của luận
án, đưa ra những nhận định, kết luận khoa học đảm bảo tính khách quan, chân
thực.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận án sử dụng các phương pháp nghiên cứu có tính phổ quát trong khoa
học xã hội và nhân văn như: Tiếp cận hệ thống, liên ngành (kinh tế học, chính trị
học, lịch sử, luật học); phân tích, tổng hợp; luật học so sánh; thống kê và xã hội học
pháp luật…
Để đạt được mục đích nghiên cứu, luận án sử dụng phối hợp các phương
pháp nói trên trong suốt quá trình nghiên cứu luận án. Cụ thể là:
Ở Chương 1, tác giả sử dụng chủ yếu phương pháp tổng hợp, phân tích, tiếp
cận hệ thống, liên ngành (kinh tế, chính trị, lịch sử, luật học), luật học so sánh... để
làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản về hợp đồng thương mại, chế tài thương mại và
trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng thương mại, những nguyên
tắc cơ bản và nội dung pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm
hợp đồng thương mại.
Ở Chương 2, tác giả sử dụng chủ yếu phương pháp tổng hợp, phân tích, lịch
sử, thống kê để làm rõ thực trạng pháp luật và thực tiễn thực thi pháp luật hiện
hành về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng thương mại ở Việt



9

Nam và đưa ra những đánh giá, nhận xét về ưu nhược điểm và nguyên nhân.
Ở Chương 3, tác giả sử dụng phương pháp khái quát hóa, tổng hợp và
phương pháp dự báo để đưa ra định hướng và các giải pháp hoàn thiện pháp luật
cũng như nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại
do vi phạm hợp đồng thương mại ở Việt Nam.
5. Những đóng góp mới về khoa học của luận án
Kết quả nghiên cứu của luận án đã thể hiện những điểm mới sau đây:
Thứ nhất, luận án đã tiếp cận và làm sâu sắc hơn các vấn đề lý luận về trách
nhiệm bồi thường thiệt hại nói chung và trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi
phạm hợp đồng thương mại nói riêng; nhận diện và làm rõ bản chất pháp lý của
trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng thương mại. Kết quả nghiên
cứu của luận án góp phần làm rõ những đặc điểm của trách nhiệm bồi thường thiệt
hại do vi phạm hợp đồng thương mại so với các loại hình trách nhiệm khác về điều
kiện phát sinh, nguyên tắc, chủ thể của trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm
hợp đồng thương mại trong điều kiện Việt Nam hội nhập kinh tế quốc tế.
Thứ hai, qua phân tích thực trạng pháp luật và đánh giá thực tiễn thực hiện
pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng thương mại của
Việt Nam hiện hành, luận án chỉ rõ những bất cập, hạn chế của pháp luật về trách
nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng thương mại cùng các nguyên nhân
chủ yếu dẫn đến những bất cập, hạn chế này.
Thứ ba, từ kết quả nghiên cứu lý luận và thực tiễn, luận án xác định các định
hướng cơ bản, từ đó đề xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu
quả thực hiện pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng
thương mại ở Việt Nam hiện nay.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
Về mặt lý luận, kết quả nghiên cứu của luận án sẽ cung cấp thêm những

thông tin, nội dung quan trọng, góp phần làm phong phú thêm những vấn đề lý luận
pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng thương mại ở


10

Việt Nam, góp phần nhận diện trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp
đồng thương mại trên nền tảng các quy định của Bộ luật Dân sự, Luật Thương mại
và các văn bản pháp luật khác có liên quan, phù hợp với bản chất của trách nhiệm
bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng thương mại trong điều kiện nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Về mặt thực tiễn, kết quả nghiên cứu của luận án sẽ là tài liệu tham khảo có
giá trị cho các cơ quan nghiên cứu lập pháp và thực thi pháp luật, là tài liệu tham
khảo cho nghiên cứu, học tập và giảng dạy tại các cơ sở đào tạo về luật học ở Việt
Nam
7. Kết cấu của luận án
Ngồi phần mở đầu, phần tổng quan tình hình nghiên cứu và cơ sở lý thuyết
nghiên cứu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận án được thiết kế bao gồm
ba chương như sau:
Chương 1: Những vấn đề lý luận liên quan đến trách nhiệm bồi thường thiệt
hại do vi phạm hợp đồng thương mại và pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt
hại do vi phạm hợp đồng thương mại.
Chương 2: Thực trạng pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi
phạm hợp đồng thương mại và thực tiễn thực hiện ở Việt Nam.
Chương 3: Định hướng, giải pháp hoàn thiện và nâng cao hiệu quả thực hiện
pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng thương mại ở
Việt Nam .


11


TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
VÀ CƠ SỞ LÝ THUYẾT NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI LUẬN ÁN

1. Tổng quan tình hình nghiên cứu trong và ngoài nước liên quan đến đề tài
luận án
BTTH là một biện pháp kinh tế được áp dụng với nhiều loại quan hệ xã h ôi
nhằm mục đích bù đắp một khoản vật chất, tinh thần và sức khoẻ cho chủ thể bị
thiệt hại. TNBTTH do vi phạm HĐTM là trách nhiệm pháp lý mà bên vi phạm HĐTM
phải gánh chịu bồi thường những tổn thất do hành vi vi phạm hợp đồng gây ra cho
bên bị vi phạm. Trong khoa học pháp lý hiện nay, chế định BTTH do vi phạm hợp
đồng luôn thu hút sự quan tâm của nhiều học giả trong và ngoài nước ở nhiều
phương diện khác nhau.
Qua khảo cứu các cơng trình nghiên cứu đã công bố, tác giả luận án cho rằng
các kết quả nghiên cứu liên quan đến chủ đề nghiên cứu của đề tài luận án được
thể hiện ở một số cơng trình nghiên cứu tiêu biểu sau đây:
1.1. Tình hình nghiên cứu lý luận pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt
hại do vi phạm hợp đồng thương mại
1.1.1. Các nghiên cứu về khái niệm, đặc điểm của vi phạm hợp đồng thương
mại và chế tài trong hoạt động thương mại


12

Nghiên cứu định danh về khái niệm, đặc điểm của vi phạm HĐTM và chế tài
trong hoạt động thương mại là việc nhận diện để xác định căn cứ áp dụng trách
nhiệm pháp lý BTTH do vi phạm HĐTM. Liên quan đến chủ đề vi phạm HĐTM và chế
tài trong hoạt động thương mại, có thể kể đến một số cơng trình tiêu biểu sau:
“Chế định hợp đồng trong Bộ luật Dân sự Việt Nam” là cơng trình nghiên cứu
chun sâu các vấn đề lý luận chung về luật hợp đồng của tác giả Nguyễn Ngọc

Khánh (Nxb Tư pháp, Hà Nội, năm 2007), tác giả đã phân tích, lý giải một số nội
dung cơ bản của chế định hợp đồng như: Khái niệm, chức năng, vị trí của hợp đồng;
ý chí và tự do ý chí trong hợp đồng; giao kết hợp đồng, thực hiện hợp đồng và sửa
đổi, hủy bỏ hợp đồng và trách nhiệm dân sự. Liên quan đến TNBTTH do vi phạm
hợp đồng, tác giả đã chỉ ra cơ sở của trách nhiệm do vi phạm hợp đồng nói chung,
TNBTTH nói riêng trên cơ sở đối chiếu, so sánh giữa BLDS năm 2005 với một số hệ
thống pháp luật cũng như các văn bản pháp lý quốc tế về hợp đồng như UPICC hay
CISG, tác giả đã chỉ ra có ba yếu tố dẫn đến TNBTTH do vi phạm hợp đồng gồm: (i)
Có hành vi vi phạm nghĩa vụ hợp đồng; (ii) Có lỗi của người vi phạm nghĩa vụ hợp
đồng; (iii) Có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm nghĩa vụ hợp đồng và
thiệt hại xảy ra.
Trong cơng trình nghiên cứu “Chế tài do vi phạm hợp đồng thương mại Những vấn đề lý luận và thực tiễn”, (Luận văn Thạc sĩ luật học, Trường Đại học Luật
Hà Nội, năm 2012), tác giả Hoàng Thị Hà Phương đã nghiên cứu tổng hợp các vấn đề
lý luận và thực tiễn liên quan đến các chế tài do vi phạm HĐTM, bao gồm chế tài
buộc thực hiện đúng hợp đồng, chế tài phạt vi phạm, chế tài BTTH, chế tài tạm
ngừng, đình chỉ thực hiện hợp đồng, huỷ bỏ hợp đồng. Liên quan đến chế tài BTTH
do vi phạm hợp đồng, tác giả khẳng định: “Để áp dụng chế tài BTTH, ngoài căn cứ
chung là có hành vi vi phạm hợp đồng và bên vi phạm khơng được miễn trách
nhiệm theo Điều 294, thì cịn cần hai căn cứ khác là phải có thiệt hại thực tế xảy ra
và hành vi vi phạm hợp đồng là nguyên nhân trực tiếp gây ra thiệt hại (Điều 303 LTM
năm 2005)” (tr. 45). Cũng tại trang này, tác giả khẳng định: “Trong thực tế, chưa có
pháp luật của quốc gia nào quy định một cách cụ thể cách thức để xác định mức độ
thiệt hại phải đền bù, mà chỉ có thể quy định những nguyên tắc mang tính chất
chung, việc xác định thiệt hại trong từng trường hợp cụ thể sẽ dựa trên những


13

nguyên tắc này”. Từ đó, tác giả đã cung cấp những kinh nghiệm quý, gợi mở hướng
giải quyết vấn đề nêu trên như sau (tr. 46 ): “Công ước Viên 1980 (Điều 75, 76) và Bộ

nguyên tắc Unidroit về HĐTM quốc tế (Điều 7.4.5 và 7.4.6) đều đưa ra phương thức
tính tốn thiệt hại trong trường hợp hợp đồng bị huỷ bỏ, theo đó, có sự phân chia
giữa trường hợp bên bị vi phạm đã ký hợp đồng thay thế hoặc không. Nếu bên bị vi
phạm đã ký một hợp đồng thay thế sẽ được bồi thường khoản chênh lệch giữa giá
theo hợp đồng và giá của giao dịch thay thế. Trong LTM Việt Nam khơng có quy định
về vấn đề này dù trong thực tế cách tính tốn thiệt hại như trên là khá thơng dụng”.
Trong cơng trình nghiên cứu “Chế tài do vi phạm hợp đồng thương mại dưới
góc độ so sánh pháp luật Việt Nam và Bộ Nguyên tắc UNIDROIT về hợp đồng
thương mại quốc tế”, (Luận văn Thạc sĩ luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, năm
2016), tác giả Phan Thuỳ Linh đã nghiên cứu dưới góc độ so sánh giữa quy định của
pháp luật Việt Nam và Bộ Nguyên tắc UNIDROIT về HĐTM quốc tế. Liên quan đến
TNBTTH do vi phạm HĐTM, tại tr. 49 của Luận văn, tác giả khẳng định: “BTTH là chế
tài được áp dụng trong trường hợp hành vi vi phạm hợp đồng dẫn đến thiệt hại
thực tế. Trong trường hợp hành vi của bên vi phạm dẫn đến những tổn thất cho bên
bị vi phạm thì chế tài BTTH sẽ có chức năng bù đắp bồi hồn cho bên bị vi phạm đối
với các lợi ích bị tổn thất. Chế tài BTTH sẽ được áp dụng mà không cần đến sự thoả
thuận của các bên”. Tại các tr. 50 và 51 của Luận văn, tác giả trích dẫn nhiều quan
điểm khác nhau liên quan đến thiệt hại được bồi thường, trong đó, chủ yếu là hai
quan điểm: (i) Tổn thất được bồi thường phải là tổn thất vật chất; (ii) Tổn thất được
bồi thường nếu dẫn chiếu đến quy định về TNBTTH trong BLDS, thì thiệt hại có thể
bao gồm cả những thiệt hại về danh dự, nhân phẩm. Mặc dù đưa ra các quan điểm
khác nhau, song tác giả lại không đưa ra quan điểm cá nhân về vấn đề này, khiến
cho giá trị nghiên cứu có phần chưa trọn vẹn. Liên quan đến các căn cứ áp dụng chế
tài do vi phạm hợp đồng (trong đó có chế tài BTTH), tác giả khẳng định: “Chế tài là
hình thức của trách nhiệm pháp lý, do đó, khi xem xét căn cứ áp dụng chế tài cũng
cần xem xét các căn cứ bao gồm hành vi vi phạm hợp đồng, thiệt hại vật chất thực
tế, mối quan hệ giữa hành vi vi phạm và thiệt hại vật chất, yếu tố lỗi của bên vi
phạm” (tr. 23). Theo đó, tác giả đã gián tiếp khẳng định lỗi là một trong các căn cứ
làm phát sinh TNBTTH do vi phạm HĐTM.



14

Trong “Damages for Breach of Contract”, California Law Review (1985),
Robert Cooter and Melvin Aron Vol. 73, No. 5 (Oct., 1985), pp. 1432-1481 1, cũng đã
đề cập nghiên cứu chung về thiệt hại do vi phạm hợp đồng. Bài viết đã đưa ra được
định nghĩa về thiệt hại và BTTH và trên cơ sở đó, nhóm tác giả phân tích các loại
thiệt hại thường có do vi phạm hợp đồng bao gồm các tổn thất do phải thay đổi về
giá do thay thế nghĩa vụ, những tổn thất do mất mát giá trị thặng dư, những tổn
thất do mất đi cơ hội, tổn thất do giá trị bị giảm, chi phí cho ngăn chặn thiệt hại…
Bài viết cũng chỉ ra các yếu tố ảnh hưởng đến việc tính tốn thiệt hại xảy ra do vi
phạm hợp đồng và đưa ra công thức để tính tốn và đo lường thiệt hại một cách
chính xác nhất. Cuối cùng bài viết đề xuất các biện pháp mà pháp luật nên sử dụng
để phòng ngừa thiệt hại ngay từ ban đầu.
1.1.2. Tình hình nghiên cứu về khái niệm, đặc điểm của trách nhiệm bồi
thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng thương mại
Các nghiên cứu về khái niệm, đặc điểm của TNBTTH do vi phạm HĐTM trong
thời gian qua là khá đa dạng và phong phú. Tuy nhiên, từ góc độ tiếp cận của luận
án này thì có thể kể đến một số cơng trình tiêu biểu sau đây:
Cơng trình nghiên cứu ở cấp độ Luận án tiến sĩ của tác giả Trương Văn Dũng
(Luận án tiến sĩ luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, năm 2003) với đề tài: “Trách
nhiệm do vi phạm hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế”. Luận án này được thực
hiện ở thời điểm LTM năm 1997 đang có hiệu lực thi hành, tuy nhiên, tác giả luận án
đã tập trung nghiên cứu so sánh quy định của pháp luật Việt Nam, Công ước Viên
năm 1980 và pháp luật một số quốc gia về trách nhiệm do vi phạm hợp đồng mua
bán hàng hố quốc tế. Trong đó, tác giả khẳng định điểm chung của pháp luật Việt
Nam, Công ước Viên và pháp luật các nước là để quy trách nhiệm cho bên vi phạm
hợp đồng, thì cần có đủ các điều kiện (yếu tố) sau: (i) Có sự vi phạm hợp đồng mua
bán hàng hoá quốc tế; (ii) Có thiệt hại về tài sản của bên bị vi phạm; (iii) Có hành vi
vi phạm hợp đồng và thiệt hại về tài sản; (iv) Có lỗi của bên vi phạm hợp đồng. Liên

quan đến TNBTTH do vi phạm hợp đồng, Luận án này khẳng định: “BTTH và phạt có
điểm giống nhau là bên vi phạm trả cho bên bị vi phạm một khoản tiền nhất định, vì
1 Accessed: 17-02-2019 19:56 UTC.


15

thế, đơi khi coi phạt là BTTH được tính trước. Nhưng giữa hai chế tài này khác nhau
ở chỗ, BTTH phải dựa vào thiệt hại thực tế phát sinh của bên bị vi phạm, có thiệt hại
thì mới có bồi thường; cịn chế tài phạt thì cứ bên nào vi phạm là phải nộp, khơng
phụ thuộc vào có thiệt hại hay không. Hơn nữa, BTTH được áp dụng với mọi hành vi
vi phạm không cần thoả thuận trước trong hợp đồng. Trong khi đó, phạt chỉ được áp
dụng khi có quy định trong hợp đồng”.
Cơng trình nghiên cứu ở cấp độ Luận án Tiến sĩ của tác giả Bùi Thị Thanh
Hằng, Trường Đại học Luật Hà Nội (năm 2018) với tên đề tài: “Bồi thường thiệt hại
do vi phạm hợp đồng” cũng đã đề cập nghiên cứu một cách cơ bản nhất về BTTH do
vi phạm hợp đồng nói chung. Tuy nhiên, trong cơng trình này, tác giả khơng nghiên
cứu về BTTH dưới góc độ của một loại trách nhiệm pháp lý, mà nghiên cứu dưới góc
độ của một biện pháp khắc phục hậu quả của sự vi phạm. Tác giả nghiên cứu về
BTTH do vi phạm hợp đồng nói chung mà không đề cập chuyên sâu về TNBTTH do vi
phạm HĐTM. Tuy nhiên theo tác giả, vấn đề BTTH do vi phạm hợp đồng được thể
hiện ở những nội dung cơ bản sau: Về khái niệm, tác giả cho rằng: “BTTH do vi phạm
hợp đồng là biện pháp khắc phục hậu quả của hành vi vi phạm hợp đồng, nhằm bảo
đảm cho trách nhiệm dân sự theo hợp đồng được thực hiện bằng cách bù đắp
những tổn thất là hậu quả của hành vi vi phạm hợp đồng do bên vi phạm hợp đồng
gây ra cho bên bị vi phạm” (tr. 31). Ngoài ra, tác giả cũng khẳng định: “BTTH có bản
chất chung của các biện pháp khắc phục là một phương thức bảo vệ quyền phát
sinh từ hợp đồng. Tuy nhiên, khác với các biện pháp khắc phục khác, bản chất của
BTTH do vi phạm hợp đồng là phương thức bảo vệ quyền cho phép bù đắp cho bên
bị thiệt hại toàn bộ thiệt hại mà bên bị thiệt hại phải gánh chịu do hành vi không

thực hiện đúng nghĩa vụ của bên vi phạm hợp đồng gây ra, nhằm đưa bên bị thiệt
hại vào vị trí mà bên này đáng lẽ đạt được nếu hợp đồng được thực hiện đúng” (tr.
33).
Về nghĩa vụ hạn chế thiệt hại, tác giả chỉ tập trung phân tích quy định về
nghĩa vụ hạn chế thiệt hại trong Công ước Viên 1980 về hợp đồng mua bán hàng
hoá quốc tế, Bộ nguyên tắc về luật hợp đồng châu Âu, Bộ nguyên tắc của UNIDROIT
về HĐTM quốc tế mà không tập trung nhiều vào việc phân tích quy định của pháp
luật Việt Nam. Pháp luật Việt Nam về nghĩa vụ hạn chế thiệt hại dường như chỉ


16

được liệt kê mà khơng có những phân tích, đánh giá của tác giả.
Về các căn cứ áp dụng biện pháp BTTH do vi phạm hợp đồng, tác giả luận án
khẳng định có bốn căn cứ, đó là: có hành vi vi phạm hợp đồng; có thiệt hại xảy ra; có
mối quan hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm hợp đồng và thiệt hại xảy ra; có lỗi của
bên gây thiệt hại.
Về thiệt hại, tác giả khẳng định: “Thiệt hại là bất kỳ tổn thất nào mà một
người phải gánh chịu do các quyền, tài sản và lợi ích hợp pháp của họ bị xâm phạm
hay nói cách khác thiệt hại là bất kỳ sự thay đổi tiêu cực nào đối với các quyền, tài
sản và lợi ích hợp pháp của bên có quyền”. Đồng thời, tác giả đưa ra hai cách phân
loại thiệt hại, đó là: thiệt hại trực tiếp và thiệt hại gián tiếp; thiệt hại vật chất và
thiệt hại tinh thần. Theo cách phân loại và những phân tích đưa ra, có thể nhận thấy
tác giả cũng khẳng định thiệt hại do vi phạm hợp đồng bao gồm cả những thiệt hại
về tinh thần. Đặc biệt, tác giả cịn khẳng định: “Sẽ là hồn thiện hơn nếu BLDS Việt
Nam bổ sung thiệt hại về tinh thần bao hàm cả thiệt hại là hệ quả của thiệt hại về tài
sản do vi phạm hợp đồng gây ra” (tr. 84).
Về việc xác định mức bồi thường, tác giả phân tích theo hai khía cạnh đó là
xác định mức bồi thường trong trường hợp các bên có thoả thuận trước và xác định
mức bồi thường trong trường hợp không có thoả thuận trước. Trong đó, với trường

hợp khơng có thoả thuận trước về mức bồi thường, tác giả chỉ ra hai điều kiện để
xác định mức bồi thường, đó là thiệt hại phải mang tính chắc chắn và thiệt hại phải
dự đốn được trước.
Trong cơng trình nghiên cứu: “Pháp luật về bồi thường thiệt hại do vi phạm
hợp đồng trong kinh doanh - Thực trạng và phương hướng hoàn thiện” (Luận văn
Thạc sĩ luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, năm 2005), tác giả Quách Thúy Quỳnh
có đề cập nghiên cứu TNBTTH do vi phạm hợp đồng kinh doanh được thực hiện ở
thời điểm LTM năm 1997 đang có hiệu lực thi hành, các phân tích, đánh giá của tác
giả hầu hết dựa trên nền tảng của các quy định trong Luật này, có những phân tích,
đánh giá so sánh với Dự thảo LTM năm 2005. Tác giả đưa ra khái niệm về BTTH do vi
phạm hợp đồng trong kinh doanh như sau: “BTTH do vi phạm hợp đồng trong kinh
doanh là việc một bên trong hợp đồng phải bù đắp các tổn thất thực tế do hành vi


17

không thực hiện hoặc thực hiện không đúng, không đầy đủ các điều khoản hợp
đồng của mình gây ra cho phía bên kia” (tr.18). Về đặc điểm của loại chế tài này, tác
giả khẳng định: “BTTH do vi phạm hợp đồng trong kinh doanh là một chế tài tiền tệ”
(tr. 19). Lý giải cho khẳng định này, tác giả đưa ra hai khía cạnh để giải thích đó là: (i)
BTTH do vi phạm hợp đồng trong kinh doanh chỉ chấp nhận bồi thường các thiệt hại
vật chất; (ii) Về cách thức áp dụng chế tài và mức độ bù đắp lợi ích vật chất là phải
dùng các tài sản thuộc quyền sở hữu của mình để bù đắp.
Trong cơng trình nghiên cứu: “Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm
hợp đồng trong hoạt động thương mại” của tác giả Nguyễn Thị Thu Huyền ( Luận
văn Thạc sĩ luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, năm 2013) cũng đề cập nghiên
cứu về các vấn đề lý luận, thực trạng pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật về
BTTH do vi phạm hợp đồng trong hoạt động thương mại. Trong đó tác giả xây dựng
khái niệm: “BTTH do vi phạm hợp đồng trong hoạt động thương mại là việc một bên
trong hợp đồng phải bù đắp các tổn thất thực tế trực tiếp do hành vi không thực

hiện, thực hiện không đúng, không đầy đủ các điều khoản hợp đồng mà mình gây ra
cho phía bên kia” (tr.18). Tác giả cũng chỉ ra một số đặc trưng của loại TNBTTH do vi
phạm hợp đồng trong hoạt động thương mại như: phát sinh khi hợp đồng đã được
ký kết và có hiệu lực pháp luật; là một chế tài mang tính chất tài sản; bảo đảm lợi ích
tối đa cho các bên liên quan trong quan hệ hợp đồng (tr.19 - tr.22). Về các căn cứ
phát sinh trách nhiệm, tác giả khẳng định TNBTTH do vi phạm hợp đồng trong hoạt
động thương mại phát sinh khi có đủ ba căn cứ, đó là: Có hành vi vi phạm hợp đồng;
có thiệt hại vật chất thực tế phát sinh; hành vi vi phạm hợp đồng là nguyên nhân
trực tiếp gây ra thiệt hại. Tác giả cũng đi vào phân tích giới hạn TNBTTH do vi phạm
hợp đồng trong hoạt động thương mại. Tuy nhiên, thực chất của vấn đề là tác giả
đang phân tích quy định về nghĩa vụ hạn chế tổn thất của bên yêu cầu BTTH.
Trong cuốn sách “Các biện pháp xử lý việc không thực hiện đúng hợp đồng
trong pháp luật Việt Nam” (Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, năm 2013), tác giả Đỗ
Văn Đại có đề cập phân tích các loại trách nhiệm do vi phạm hợp đồng theo thứ tự
dựa trên logic, biện pháp nào tạo điều kiện cho các bên đạt được lợi ích mà họ
mong đợi khi giao kết hợp đồng được ưu tiên nghiên cứu trước. Theo đó, các biện
pháp được xem xét theo thứ tự sau: buộc tiếp tục thực hiện đúng hợp đồng, buộc


18

BTTH, buộc trả lãi chậm thanh toán, yêu cầu giảm giá, hoãn thực hiện hợp đồng,
cầm giữ tài sản, đơn phương chấm dứt, hủy bỏ hợp đồng, thay thế việc thực hiện
nghĩa vụ của bên có nghĩa vụ. Tác giả cũng chỉ ra đây chính là thứ tự mang tính
khuyến nghị bên có quyền sử dụng. Tác giả cũng đề xuất một số giải pháp nhằm
hoàn thiện pháp luật dựa trên kết quả phân tích, so sánh, đối chiếu giữa các quy
định của LTM năm 2005 và BLDS năm 2005 với chế định trách nhiệm do vi phạm
hợp đồng trong một số văn bản pháp lý quốc tế như UPICC và PECL để đưa ra các
kết luận và kiến nghị dưới ba góc độ: về chính sách lập pháp, về nội dung lập pháp
và về vận dụng quy định pháp luật.

Trong cơng trình nghiên cứu: “Bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng dân
sự - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn” của tác giả Lê Thị Yến (Luận văn Thạc sĩ luật
học, Trường Đại học Luật Hà Nội, năm 2013) đề cập nghiên cứu chủ yếu về TNBTTH
do vi phạm hợp đồng dân sự theo BLDS. Tác giả có đối chiếu so sánh với quy định
pháp luật liên quan và chỉ ra một số vấn đề liên quan đến TNBTTH do vi phạm HĐTM
như sau: Thứ nhất, có bốn điều kiện làm phát sinh TNBTTH do vi phạm hợp đồng đó
là: (i) Hành vi vi phạm hợp đồng; (ii) Thiệt hại thực tế; (iii) Mối quan hệ nhân quả
giữa hành vi vi phạm và thiệt hại; (iv) Yếu tố lỗi; Thứ hai, hành vi vi phạm hợp đồng
là điều kiện tiên quyết để xem xét TNBTTH; Thứ ba, giá trị BTTH là tổn thất thực tế,
trực tiếp bao gồm: thu nhập thực tế bị mất; giá trị tài sản bị mất mát, hư hỏng; chi
phí đã được sử dụng hay sẽ được sử dụng để ngăn chặn, hạn chế, khắc phục thiệt
hại; khoản tiền mà bên bị vi phạm phải đền bù cho cho đối tác do khơng thực hiện
được nghĩa vụ của mình; khoản lợi mà bên bị vi phạm đáng lẽ được hưởng nếu
không có hành vi vi phạm hợp đồng; Thứ tư, việc chứng minh thiệt hại vừa là nghĩa
vụ vừa là quyền của bên bị thiệt hại. Là nghĩa vụ bởi vì họ là người đưa ra yêu cầu,
nên phải chứng minh cho yêu cầu của mình; là quyền bởi vì họ là người nắm rõ nhất
thiệt hại mình phải gánh chịu do sự vi phạm của bên có nghĩa vụ, nên quyền chứng
minh thiệt hại sẽ đảm bảo họ được đền bù tương xứng nhất; Thứ năm, có bốn
trường hợp được miễn trách nhiệm bồi thường bao gồm: (i) xảy ra sự kiện bất khả
kháng; (ii) hành vi vi phạm của một bên hoàn toàn do lỗi của bên kia; (iii) các bên có
thoả thuận trong hợp đồng; (iv) hành vi vi phạm của một bên do thực hiện quyết
định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền mà các bên không thể biết vào thời điểm


19

giao kết hợp đồng. Đồng thời, tác giả chỉ ra hai trường hợp giảm TNBTTH do vi
phạm hợp đồng: các bên thoả thuận trong hợp đồng; nghĩa vụ hạn chế tổn thất.
Trong cơng trình nghiên cứu: “Trách nhiệm tài sản do vi phạm hợp đồng
trong hoạt động thương mại - Những vấn đề lý luận và thực tiễn” của tác giả Hoàng

Thị Lan Phương (Luận văn Thạc sĩ luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, năm 2014),
tác giả cũng đề cập về những vấn đề lý luận, thực trạng pháp luật và thực tiễn áp
dụng pháp luật về trách nhiệm tài sản do vi phạm hợp đồng trong hoạt động
thương mại. Tuy nhiên, việc đề cập chỉ dừng ở mức hạn chế, cụ thể, tác giả khẳng
định như sau: “Chế tài này được áp dụng khi có đủ các căn cứ sau: (i) Có hành vi vi
phạm hợp đồng trong hoạt động thương mại; (ii) Có thiệt hại thực tế; (iii) Hành vi vi
phạm hợp đồng là nguyên nhân trực tiếp gây ra thiệt hại”, song tác giả không đi vào
phân tích cụ thể các căn cứ này (tr.16). Đặc biệt, tác giả khơng phân tích về yếu tố
lỗi. Ngoài ra, cũng tại trang 16 của Luận văn, tác giả khẳng định: “Thiệt hại ở đây
được hiểu là thiệt hại vật chất bao gồm giá trị tổn thất do hành vi vi phạm hợp đồng
gây ra và khoản lợi trực tiếp mà bên vi phạm đáng lẽ được hưởng nếu khơng có
hành vi vi phạm hợp đồng. Tuy nhiên, trên thực tế là khoản thiệt hại địi bồi thường
khơng thể cao hơn giá trị tổn thất thực tế và khoản lợi đáng lẽ được hưởng”.
Trong tác phẩm: “Termination clauses in international contracts” (1997), Filip
de ly, RDAI/IBLJ, N° 7 - “Các điều khoản dừng hợp đồng trong các hợp đồng quốc
tế”, tác giả là Filip de Ly, giáo sư khoa luật, Đại học Erasmus University, Rotterdam, là
người soạn báo cáo về vấn đề này cho Nhóm cơng tác về hợp đồng quốc tế (Groupe
de Travail Contrats Internationaux), nhóm này đã họp vào các năm 1990, 1991, 1996
tại Barcelona, Geneva và Knokke và hai lần tại Louvain-La-Neuve, Bỉ. Tài liệu nằm
trong cuốn RDAI/IBLJ, N° 7, 1997.
Báo cáo của Nhóm cơng tác về hợp đồng quốc tế (Groupe de Travail Contrats
Internationaux) đưa ra những nhận định và phân tích đối với điều khoản dừng hợp
đồng trong các hoàn cảnh khác nhau. Một điều khoản dừng hợp đồng sẽ là thiếu sót
nếu khơng có điều khoản thích hợp về xung đột luật pháp và không đề cập đến thủ
tục giải quyết tranh chấp. Thơng thường ít khi điều khoản dừng hợp đồng đề cập
đến hậu quả khi dừng hợp đồng. Trên thực tế, có hai quan điểm khác nhau nổi bật


20


về ảnh hưởng của việc dừng hợp đồng đối với quyền và nghĩa vụ của các bên ký kết.
Theo quan điểm thứ nhất, tất cả quyền và nghĩa vụ theo hợp đồng kết thúc, ngoại
trừ những gì được liệt kê trong hợp đồng. Theo quan điểm thứ hai, hợp đồng tiếp
tục tồn tại cho đến khi giải quyết xong mọi xung đột và tranh chấp. Theo cách này,
điều khoản dừng hợp đồng thường quy định các điều kiện cụ thể như việc kéo dài
thời gian hợp đồng, các biện pháp và quy trình khắc phục, BTTH trong trường hợp
hủy hay dừng hợp đồng. Đối với BTTH hợp đồng, một trong những biện pháp được
áp dụng là các bên tham gia ký kết hợp đồng xác định trước một khoản tiền bồi
thường một lần khi có vi phạm. Trong một số trường hợp, một mức trần bồi thường
được xác định theo điều khoản dừng hợp đồng, với một điều khoản chung về bồi
thường một lần khi có bản án hình sự. Các biện pháp khác thường dựa trên giá trị
hợp đồng để tính tốn mức BTTH.
Trong tài liệu có tên gọi “Dừng hợp đồng hoặc chấm dứt hợp đồng”. Đây là
Luận án Tiến sĩ của Hariz Saidani, năm 2016, Đại học Toulon, Pháp (Hariz Saidani
(2016), La rupture du contrat, Université de Toulon, Franỗais2). Tỏc gi cho rng, hp
ng mt khi ó được kí kết trở thành luật của các bên tham gia ký kết. Nghĩa vụ
ràng buộc của hợp đồng buộc các bên ký kết thực hiện các nghĩa vụ theo thỏa
thuận. Nếu hợp đồng được thực hiện bình thường, Thẩm phán khơng có vai trị gì
và do đó khơng thể tự mình can thiệp vào nghĩa vụ hợp đồng. Tuy nhiên, tranh chấp
hợp đồng phát sinh khi một trong các bên khơng thực hiện nghĩa vụ của mình. Từ
đó các mối liên kết theo hợp đồng có thể bị phá vỡ và dẫn tới dừng hợp đồng. Việc
thừa nhận chấm dứt hợp đồng đơn phương theo luật án lệ và theo sắc lệnh ngày
10/2/2016, khi một bên không thực hiện hợp đồng, cho phép bên có quyền đối với
nghĩa vụ phá vỡ hợp đồng bằng một thông báo đơn giản. Trong trường hợp khơng
có thỏa thuận trước về dừng hợp đồng, Thẩm phán sẽ đánh giá sự tồn tại thực sự
của việc một bên không thực hiện nghĩa vụ của mình, với mức độ nghiêm trọng của
vi phạm, làm cơ sở quyết định dừng hợp đồng và xác định hậu quả của vi phạm.
Một bên đơn phương dừng hợp đồng có thể phải chịu một số hình phạt trong
trường hợp vi phạm các điều khoản về dừng hợp đồng: BTTH, duy trì hợp đồng thực hiện hợp đồng bằng hiện vật. Hình thức BTTH là thơng dụng nhất. Duy trì hp
2


(La rupture du contrat. Droit. Universitộ de Toulon, 2016. Franỗais. <NNT: 2016TOUL0101>. <tel01522102>).


21

đồng là giải pháp được áp dụng khi bên có nghĩa vụ khơng ngay tình, dẫn đến rủi ro
khơng thực hiện hợp đồng, và do đó bên chịu thiệt hại có khả năng khơng nhận
được bồi thường. Giải pháp thứ ba là tổng hợp hình phạt bao gồm duy trì thực hiện
hợp đồng và BTTH, áp dụng trong trường hợp vi phạm nghiêm trọng (ít khi được các
Thẩm phán sử dụng).
Trong cơng trình nghiên cứu có tên gọi là “Đơn phương dừng hợp đồng theo
luật Quebec”. Đây là bài viết của tác giả Claude Fabien, nằm trong tạp chí luật, năm
2006 (Claude Fabien (2006), La rupture du contrat par volonté unilatérale en droit
québécois, Revue générale de droit, 36(1), 85–109 3). Tác giả chủ yếu đề cập đến 3
loại hợp đồng trong lĩnh vực xe dịch vụ (ô tô, các loại xe cộ - trong tiếng pháp là từ
vehicule; vehicle trong tiếng Anh): hợp đồng lao động (thuê nhân viên lái), hợp
đồng dịch vụ, và hợp đồng ủy quyền. Và tác giả đi sâu vào phân tích khi dừng hợp
đồng trong từng trường hợp thì như thế nào, chủ yếu là đối với hợp đồng lao động
(không đi sâu vào hợp đồng dịch vụ - thương mại). Đơn phương dừng hợp đồng là
một nội dung quan trọng trong lĩnh vực hợp đồng. Tác giả đề cập đến hai phương
thức dừng hợp đồng của các bên tham gia ký kết: (i) Dừng hợp đồng - chấm dứt
nghĩa vụ; (ii) Dừng hợp đồng - bảo vệ quyền lợi.
Trong lĩnh vực xe dịch vụ, hợp đồng có thể tồn tại dưới dạng hợp đồng lao
động, hợp đồng dịch vụ, hợp đồng thực hiện công việc hoặc hợp đồng ủy quyền.
Trong các trường hợp này, các bên tham gia ký kết hợp đồng đều có quyền dừng
hợp đồng. Ngay cả khi việc chấm dứt hợp đồng là bất hợp pháp, Tịa án khơng thể
u cầu việc thực hiện nghĩa vụ hợp đồng bằng hiện vật. Hình phạt sẽ giới hạn ở
việc BTTH. Thiệt hại được tính trên cơ sở tính chất hợp pháp hay khơng hợp pháp
của việc dừng hợp đồng. Tính chất hợp pháp hay không hợp pháp được xác định

dựa trên một lý do nghiêm túc. Nếu việc dừng hợp đồng là hợp pháp, về nguyên
tắc, hậu quả sẽ được giới hạn ở việc thực hiện nghĩa vụ đối ứng cho đến thời điểm
chấm dứt. Nếu như việc dừng hợp đồng là bất hợp pháp, hậu quả sẽ tính là lỗi
khơng thực hiện hợp đồng của bên có nghĩa vụ. Bên có nghĩa vụ phải bồi thường
toàn bộ thiệt hại từ hậu quả trực tiếp của việc không thực hiện nghĩa vụ và bồi
thường cả khoản lợi đáng nhẽ bên kia sẽ có được từ việc hợp đồng được thực hiện.
3

https:// doi.org/10.7202/1027103ar.


22

Khác với trường hợp trên khi các bên tham gia ký kết hợp đồng đều có thể dừng
hợp đồng, trong một số trường hợp, việc dừng hợp đồng chỉ là đặc quyền của một
bên nhằm bảo vệ những lợi ích riêng của bên này (hợp đồng cho vay, mượn sử
dụng, hợp đồng ký gửi). Tuy nhiên, luật pháp cũng đưa ra nhiều biện pháp để bảo vệ
những bên yếu hơn vì sẽ có khả năng chịu nhiều rủi ro hơn khi tham gia ký kết
những hợp đồng loại này.
Trong tài liệu: “Les dommages et interets pour rupture de contrat
commercial”, Murielle CAHEN, là tài liệu tổng hợp thông tin từ báo L'expresse, ý
kiến của một nữ Luật sư có tên Murielle CAHEN và trang web legifrance (một trang
chuyên về luật của Pháp). Nội dung của tài liệu là khi vi phạm hợp đồng, một bên
dừng hợp đồng thì sẽ xử lý như thế nào, bên nào phải bồi thường, quy trình xử lý
theo luật pháp của Pháp trong một số trường hợp cụ thể. Việc vi phạm HĐTM không
tự động làm phát sinh bồi thường vì lợi ích của bên được coi là chịu thiệt hại. Các
thiệt hại được ước tính trên cơ sở từng trường hợp. Trên thực tế, khó khăn thường
gặp phải chủ yếu là đối với các hợp đồng vô thời hạn. Bộ luật Thương mại cấm các
trường hợp dừng hợp đồng đột ngột mà không báo trước bằng văn bản theo thời
hạn quy định. Bên vi phạm có thể được yêu cầu BTTH cho đối tác cũ của mình, với

điều kiện là bên bị thiệt hại cung cấp bằng chứng về những tổn thất do việc dừng
hợp đồng đột ngột gây ra. Việc xác định giá trị bồi thường được thực hiện trên cơ sở
từng trường hợp. Điều L442 - 6 Bộ luật Thương mại quy định trách nhiệm phải BTTH
cho dù trong hợp đồng có điều khoản về dừng hợp đồng. Do đó, nghĩa vụ phải bồi
thường là hợp pháp. Trong trường hợp cần thiết, Thẩm phán xét xử có thể ra lệnh
chấm dứt các hành vi lạm dụng hoặc đưa ra các biện pháp tạm thời. Mức độ đột
ngột khi dừng hợp đồng là cơ sở để tính thiệt hại, dựa trên tính chất phụ thuộc kinh
tế giữa các bên tham gia hợp đồng. Bên bị hại có thể yêu cầu nối lại hợp đồng.
1.1.3. Tình hình nghiên cứu về vấn đề miễn trách nhiệm bồi thường thiệt hại
do vi phạm hợp đồng thương mại
Về vấn đề miễn TNBTTH do vi phạm HĐTM có thể kể đến một số cơng trình
tiêu biểu sau đây:
Trong Luận án của tác giả Bùi Thị Thanh Hằng với đề tài “Bồi thường thiệt hại


23

do vi phạm hợp đồng” (Luận án Tiến sĩ luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, năm
2018) cũng đề cập nghiên cứu về vấn đề miễn TNBTTH do vi phạm hợp đồng, tác giả
đi vào nghiên cứu, phân tích và chỉ ra ba căn cứ miễn trách nhiệm bồi thường, đó là:
do các bên thoả thuận, do trở ngại khách quan, hoàn toàn do lỗi của bên bị thiệt hại
hoặc của người thứ ba. Đồng thời, tác giả còn khẳng định rằng: “Tuy nhiên, sẽ là đầy
đủ hơn nếu BLDS năm 2015 và LTM năm 2005 ngoài việc ghi nhận lỗi là căn cứ miễn
TNBTTH do vi phạm hợp đồng còn bổ sung thêm căn cứ miễn TNBTTH do lỗi của
người thứ ba” (tr.57).
Luận văn Thạc sĩ luật học của tác giả Nguyễn Thị Thu Huyền về đề tài “Trách
nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng trong hoạt động thương mại”,
(Trường Đại học Luật Hà Nội, năm 2013) có những phân tích, bình luận về các
trường hợp miễn TNBTTH do vi phạm hợp đồng trong hoạt động thương mại, theo
đó tác giả đi vào phân tích và nghiên cứu bốn căn cứ miễn trách nhiệm bồi thường,

đó là: miễn trách nhiệm bồi thường trong trường hợp các bên đã thoả thuận; miễn
trách nhiệm trong trường hợp xảy ra sự kiện bất khả kháng; miễn trách nhiệm trong
trường hợp hành vi vi phạm của một bên hoàn toàn do lỗi của bên kia; miễn trách
nhiệm bồi thường trong trường hợp hành vi vi phạm của một bên do thực hiện
quyết định của cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền mà các bên khơng thể biết
được vào thời điểm giao kết hợp đồng.
Ngoài việc nghiên cứu chuyên sâu các vấn đề lý luận chung về luật hợp đồng,
trong “Chế định hợp đồng trong Bộ luật Dân sự Việt Nam” (Nxb Tư pháp, Hà Nội,
năm 2007), tác giả Nguyễn Ngọc Khánh cũng đã có những phân tích khá sâu sắc về
căn cứ miễn trừ trách nhiệm, tác giả đề cập đến các căn cứ miễn trách nhiệm do vi
phạm nghĩa vụ hợp đồng trong hệ thống luật lục địa (Civil law), hệ thống Anh – Mỹ
(Common law), CISG và pháp luật Việt Nam. Trên cơ sở những phân tích, lý giải và so
sánh đối chiếu, tác giả đã đưa ra nhiều nhận xét, đánh giá mang tính định hướng
quan trọng cho các nghiên cứu sau này về trách nhiệm do vi phạm hợp đồng nói
chung và BTTH do vi phạm hợp đồng nói riêng4.
Bài viết “Thỏa thuận hạn chế hay miễn trừ trách nhiệm do vi phạm hợp
4

Nguyễn Ngọc Khánh (2007), Chế định hợp đồng trong Bộ luật Dân sự Việt Nam, Nxb Tư pháp, Hà Nội,
tr. 415-466.


24

đồng” trên Tạp chí Nghiên cứu lập pháp (số 3), năm 2005, tác giả Dương Anh Sơn đã
tập trung phân tích quy định của pháp luật một số quốc gia như Anh, Hoa Kỳ, Pháp,
Đức, Nga và quy định trong Công ước Viên 1980 liên quan đến vấn đề thoả thuận về
miễn trừ trách nhiệm do vi phạm hợp đồng. Từ đó, tác giả đi vào phân tích quy định
của LTM năm 1997 và đưa ra kiến nghị đối với Dự thảo LTM năm 2005. Đặc biệt, tác
giả đưa ra kiến nghị: “Bổ sung vào khoản 1 Điều 77 LTM năm 1997 hay điểm a khoản

1 Điều 280 Dự thảo LTM sửa đổi lần Thứ tám, với nội dung sau: Thoả thuận của các
bên về miễn trừ trách nhiệm sẽ khơng có giá trị pháp lý nếu thoả thuận đó liên quan
đến vi phạm hợp đồng do cố ý”. Mặc dù LTM năm 2005 đã được thông qua và thi
hành hơn mười năm nay, nhưng rõ ràng, kiến nghị của tác giả bài viết vẫn thể hiện
quan điểm khoa học riêng trong việc xác định phạm vi các thoả thuận mà các bên
trong quan hệ hợp đồng được phép thực hiện.
1.2. Các nghiên cứu liên quan đến thực trạng pháp luật về trách nhiệm bồi
thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng thương mại
Các nghiên cứu liên quan đến vấn đề thực trạng pháp luật về TNBTTH do vi
phạm HĐTM, có thể nhắc đến các cơng trình tiêu biểu sau:
Cơng trình với đề tài “Bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng” tác giả Bùi
Thị Thanh Hằng (Luận án Tiến sĩ luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, năm 2018)
đã có những bàn luận khá sâu về thực tiễn áp dụng pháp luật, trong đó vấn đề căn
cứ áp dụng biện pháp BTTH và thực tiễn áp dụng pháp luật liên quan đến việc xác
định thiệt hại. Ngoài ra, Luận án cũng đề xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật,
bao gồm kiến nghị liên quan đến hoàn thiện pháp luật về căn cứ áp dụng biện pháp
BTTH do vi phạm hợp đồng và nhóm kiến nghị hồn thiện pháp luật về xác định mức
BTTH.
Bài viết của tác giả Nguyễn Thị Hằng Nga “Về việc áp dụng chế tài phạt hợp
đồng và bồi thường thiệt hại vào thực tiễn giải quyết tranh chấp hợp đồng trong
hoạt động thương mại” trên Tạp chí Tịa án nhân dân, số 09, tr.25-27, năm 2006
cũng đã phân tích một số vấn đề liên quan đến việc áp dụng chế tài phạt hợp đồng
và BTTH vào thực tiễn giải quyết tranh chấp hợp đồng trong hoạt động thương mại.
Bài viết có sự phân tích kết hợp giữa quy định trong LTM năm 2005 và một số ví dụ


25

điển hình.
Trong bài viết “Một số ý kiến liên quan đến các quy định về chế tài trong

thương mại theo quy định của Luật Thương mại”, Tạp chí Nhà nước và pháp luật,
Viện Nhà nước và pháp luật, số 1, tr.43-46, năm 2008, tác giả Nguyễn Thị Khế khẳng
định: “Các hình thức chế tài trong pháp luật nói chung và trong LTM có một vai trị
đặc biệt quan trọng. Song, các quy định về các hình thức chế tài trong thương mại
chưa thực sự rõ ràng, có thể gây khó khăn cho việc áp dụng”. Liên quan đến chế tài
BTTH trong LTM năm 2005, tác giả đưa ra một số quan điểm như sau: (i) Về bản
chất, hình thức chế tài này là khơi phục, bù đắp nhưng lợi ích vật chất bị mất cho
bên bị vi phạm; (ii) Chế tài BTTH chỉ được áp dụng khi hành vi vi phạm gây ra thiệt
hại thực tế; (iii) Tác giả chỉ ra rằng, theo quy định tại Điều 302 LTM năm 2005, căn cứ
để áp dụng chế tài BTTH là có hành vi vi phạm hợp đồng, có thiệt hại thực tế và có
quan hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm và thiệt hại thực tế. Tác giả cho rằng, mặc
dù Điều 302 LTM năm 2005 không đề cập đến điều kiện về lỗi nhưng tại một số điều
lại đề cập đến yếu tố lỗi như Điều 236, Điều 266. Đồng thời, tác giả khẳng định rằng:
“Việc quy định không khoa học và không thống nhất như vậy là một nguyên nhân
gây ra những cách hiểu khác nhau làm cho luật không được áp dụng một cách thống
nhất”.
Trong bài viết “Nguyên tắc lỗi trong pháp luật thương mại Việt Nam” trên Tạp
chí Nhà nước và pháp luật, Viện Nhà nước và Pháp luật, số 11, tr. 28-37, năm 2010,
tác giả Phan Huy Hồng đã hướng tới việc giải quyết câu hỏi TNBTTH trong LTM có
dựa trên điều kiện về lỗi khơng? Tác giả đã trích dẫn quy định tại Điều 303 LTM năm
2005 để khẳng định theo quy định này, chỉ có ba điều kiện làm phát sinh TNBTTH do
vi phạm HĐTM là: có hành vi vi phạm hợp đồng; có thiệt hại xảy ra; có mối quan hệ
nhân quả giữa hành vi vi phạm và thiệt hại xảy ra. Tác giả đã khẳng định: “Các phân
tích trên đây cho thấy theo quy định tại Điều 303 LTM năm 2005, lỗi khơng cịn
được nêu ra là một trong các căn cứ phát sinh TNBTTH, không phải là lỗi biên tập
trong q trình soạn thảo, cũng khơng phải vì các nhà làm luật cho rằng đó là lỗi suy
đốn nên khơng cần phải nêu ra”5.
5

Phan Huy Hồng (2010), Nguyên tắc lỗi trong pháp luật thương mại Việt Nam, Tạp chí Nhà nước và Pháp

luật, Viện Nhà nước và Pháp luật, (số 11), tr.36.


×