Tải bản đầy đủ (.docx) (13 trang)

Bài thu hoạch xây dựng chính sách việc làm và quan điểm chính sách xã hội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (74.22 KB, 13 trang )

BÀI THU HOẠCH

Câu 1: Thực trạng thực hiện chính sách việc làm và Định hướng
hồn thiện chính sách việc làm
Câu 2:Đảm bảo chất lượng chính sách xã hội là một trong những
vấn đề lý luận và thực tiễn luôn được quan tâm. Nhằm góp phần
nâng cao năng lực hoạch định chính sách hiện nay đưa ra một số cơ
sở hoạch định chính sách xã hội
BÀI LÀM
1. Thực trạng thực hiện chính sách việc làm
* Thành tựu:
Theo báo cáo của Tổng cục Thống kê, tính đến ngày 1 tháng 4 năm
2019, dân số Việt Nam đạt 96.208.984 người, trong đó lực lượng lao
động Việt Nam là 55,4 triệu người, tuy nhiên số người có trình độ
chun mơn kỹ thuật chỉ có 11,39 triệu lao động qua đào tạo có
bằng/chứng chỉ (bao gồm các trình độ sơ cấp nghề, trung cấp, cao đẳng,
đại học và sau đại học), chiếm 20,92% tổng lực lượng lao động là
178000 lao động mang bằng cử nhân, thạc sỹ vẫn chưa có việc làm.
Hiện nay, thị trường lao động của Việt Nam được Ngân hàng Thế giới
đánh giá như sau: chất lượng nguồn nhân lực Việt Nam đang ở mức thấp
trong bậc thang năng lực quốc tế. Việt Nam đang thiếu lao động có trình
độ tay nghề, công nhân kỹ thuật bậc cao. Đặc biệt, lao động Việt Nam


còn thiếu và yếu về ngoại ngữ và các kỳ năng mềm như làm việc nhóm,
giao tiếp, tác phong cơng nghiệp (trách nhiệm và đạo đức nghề nghiệp)
và kỷ luật lao động kém.
Theo báo cáo của Cục Việc làm, năm 2017, cả nước có hơn 1.639 lao
động được tạo việc làm (bằng 102,48% kế hoạch năm 2017), trong đó,
số lao động được tạo việc làm trong nước khoảng 1.505.000 người
Lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng, với trên


134,7 nghìn lao động (bằng 127,6% kế hoạch năm 2017), góp phần quan
trọng trong việc xóa đói giảm nghèo và đem lại cơ hội lớn trong việc
tiếp thu khoa học kỹ thuật tiên tiến của nước ngoài.
Năm 2017 thơng qua Quỹ quốc gia về việc làm góp phần giải quyết việc
làm cho khoảng 110.000 lao động, đạt 110% kế hoạch. Quỹ Quốc gia về
việc làm đã tạo điều kiện cho lao động thanh niên, lao động nữ, lao động
là người khuyết tật, lao động là người dân tộc, lao động vùng chuyển đổi
mục đích sử dụng đất nơng nghiệp có cơ hội vay vốn phát triển sản xuất
kinh doanh, tạo việc làm cho bản thân và cộng đồng.
* Hạn chế trong thực hiện chính sách việc làm
Bên cạnh những thành tựu đã đạt được khi chính sách việc làm được đưa
vào thực tiễn thì vẫn cịn một số hạn chế trong việc thực hiện chính sách
việc làm. Cụ thể:
- Chính sách việc làm hiện nay chủ yếu mới chú trọng đến tạo việc làm
theo chiều rộng, càng nhiều việc làm càng tốt mà chưa chú trọng đến
chất lượng việc làm. Vì vậy, chưa khuyến khích người lao động nâng


cao trình độ và tay nghề. Giải quyết việc làm hiện nay cịn mang tính
liên ngành, tổng hợp, chưa rõ rệt, địi hỏi phải có sự phối hợp chặt chẽ
hơn giữa các ngành, giữa Trung ương với địa phương, cơ sở, nhưng
đồng thời cũng phải phân định rồ ràng vai trị, trách nhiệm của các bên
liên quan.
- Chính sách việc làm ban hành còn tản mạn ở nhiều văn bản gây chồng
chéo. Việc vận dụng các chính sách việc làm trong thực hiện cịn nhiều
bất cập, một số chính sách chưa phát huy được hiệu quả đích thực.
Nhiều nội dung của việc làm cịn bng lỏng, kém hiệu quả. Đáng chú ý
là trong các kế hoạch, các chương trình, dự án phát triển kinh tế chưa
được giao và thẩm định chỉ tiêu chỗ làm việc mới, chỉ tiêu đào tạo nghề,
quản lý thị trường lao động còn yếu kém. Hệ thống dạy nghề còn hạn

chế về chất lượng đầu ra
- Chính sách tín dụng chưa phù hợp về điều kiện vay và mức vay, thiếu
gắn kết giữa cho vay vốn và hỗ trợ đầu tư vào tiếp cận thị trường nên
hiệu quả sử dụng vốn chưa cao.
5. Định hướng hoàn thiện chính sách việc làm
Trong hoạch định chính sách việc làm, nguyên tắc cơ bản được thực
hiện là đảm bảo cơng bằng xã hội, từ đó, Nhà nước sẽ tạo ra những điều
kiện thuận lợi hơn cho người lao động tìm kiếm việc làm, tự tạo việc
làm để đảm bảo chủ trương của Nhà nước đề ra. Để đảm bảo thực hiện
tốt chính sách việc làm cần quán triệt và định hướng cụ thể như sau:


Thứ nhất, hồn thiện hệ thống chính sách pháp luật về việc làm. Chính
sách việc làm phải tiếp tục hướng vào giải phóng lao động, khuyến
khích các lĩnh vực, ngành nghề và các hình thức hoạt động có khả năng
thu hút người lao động. Giải quyết việc làm phải gắn liền với các
chương trương trình chiến lược phát triển kinh tế - xã hội cũng như các
chương trình quốc gia khác. Chính sách khuyến khích sự phát triển kinh
tế tư nhân như: chính sách thuế, thị trường, cơng nghệ, tín dụng, hợp tác
quốc tế cần được thúc đẩy hoàn thiện. Chính sách thị trường lao động
phải được hồn thiện theo định hướng thơng thống, thơng suốt, thống
nhất, đảm bảo người lao động được tự do di chuyển và hành nghề, tự do
ký kết họp đồng lao động theo quy định của pháp luật Nhà nước. Chính
sách tiền lương, tiền cơng cũng cần được hoàn thiện để điều tiết thị
trường lao động
Thứ hai, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực góp phần nâng cao chất
lượng việc làm. Gắn với chất lượng nguồn nhân lực phải phát triển toàn
bộ hệ thống giáo dục và đào tạo nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhận
lực, bồi dưỡng nhân tài, đáp ứng yêu cầu của thị trường lao động về
nhân lực chuyên môn kỹ thuật cao trong q trình cơng nghiệp hóa, hiện

đại hóa; đồng thời, tạo điều kiện cho người lao động tự tạo việc làm, tìm
kiếm việc làm dễ dàng hơn trong thị trường lao động. Mở rộng, củng cố
và nâng cấp các cơ sở dạy nghề hiện có xây dựng thêm các trường dạy
nghề mới hoạt động chính quy, hiện đại theo tiêu chuẩn quốc tế, xây


dựng các trường đào tạo kỹ thuật cao, phát triển nguồn nhân lực chất
lượng cao.
Thứ ba, nâng cao chất lượng việc làm khu vực nông thôn. Thực tế cho
thấy, các nhà máy, khu công nghiệp đang hoạt động rất hiệu quả tại các
khu vực nông thôn, là một trong những địa chỉ cung cấp việc làm số
lượng lớn cho người lao động. Chính vì vậy, nâng cao chất lượng việc
làm ở khu vực nông thôn sẽ giúp thu hút sự tham gia của người lao động
và nâng cao mức thu nhập của người lao động thơng qua các cơng việc
có tiêu chuẩn và chất lượng cao.
Thứ tư, tăng năng suất lao động. Năng suất lao động và việc làm là các
yếu tố tác động đến tăng trưởng GDP. Tăng trưởng GDP dựa trên tăng
việc làm giản đơn, khơng có trình độ công nghệ và tay nghề thường
không cao và thiếu bền vững, trong khi tăng trưởng GDP theo hướng
tăng năng suất lao động tuy là một thách thức nhưng đầy tiềm năng để
tạo ra tăng trưởng cao, bền vững và nâng cao năng lực cạnh tranh của
nền kinh tế. Trong điều kiện tự do hóa thương mại và Cách mạng công
nghiệp 4.0 vừa tạo cơ hội phát triển cho kinh tế Việt Nam, đồng thời
cũng có nguy cơ Việt Nam bị bỏ lại xa hơn các quốc gia trên thế giới. Để
nâng cao năng suất lao động góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bền
vững, trong thời gian tới cần tập trung thực hiện các nhóm giải pháp về
thể chế, chính sách; giải pháp chung cho nền kinh tế và giải pháp cho
khu vực doanh nghiệp. Cùng với đó là ban hành và thực thi các giải
pháp mang tính đột phá, tạo áp lực để các tổ chức kinh tế tiếp cận, ứng



dụng công nghệ, từng bước nâng cao năng lực đổi mới sáng tạo trong
hoạt động sản xuất kinh doanh; đồng thời, cần đặt doanh nghiệp vào vị
trí trung tâm của các chính sách đổi mới, tạo mơi trường chính sách hỗ
trợ nâng cao năng lực công nghệ cho doanh nghiệp nhằm tăng năng suất
lao động với các sản phẩm mới, cơng nghệ cao. Có giải pháp khuyến
khích các doanh nghiệp sắp xếp lại để có quy mơ lao động tối ưu nhằm
đạt được năng suất lao động cao nhất (doanh nghiệp có quy mơ từ 100299 lao động).
Thứ năm, tăng cường kết nối cung - cầu lao động. Đa dạng các hình thức
tư vấn, giới thiệu việc làm, ký kết thỏa thuận cung ứng lao động với
doanh nghiệp, tăng cường đưa thông tin lao động, việc làm về cơ sở,
vùng sâu, vùng xa... chính là những hình thức đổi mới nhằm nâng cao
hiệu quả tư vấn, giới thiệu việc của Trung tâm Dịch vụ việc làm
(DVVL). Qua đó, nâng cao hiệu quả kết nối cung - cầu lao động, thực
hiện tốt công tác giới thiệu việc làm.

Câu 2:Đảm bảo chất lượng chính sách xã hội là một trong những
vấn đề lý luận và thực tiễn luôn được quan tâm. Nhằm góp phần
nâng cao năng lực hoạch định chính sách hiện nay đưa ra một số cơ
sở hoạch định chính sách xã hội
1. Căn cứ khoa học nhân văn


Tính khoa học nhân văn thể hiện ở việc khi hoạch định thiết kế chính
sách phải coi trọng yếu tố con người. Các chính sách xã hội phải con
người vị trí trung tâm xuất phát, con người và phục vụ con người. Mục
tiêu cuối cùng và cao nhất của mọi chính sách xã hội là vì con người vì
sự tiến bộ xã hội. Nước ta là một nước của dân do dân vì dân vì thế các
chính sách xã hội của nhà nước đều hướng tới mục đích là phục vụ nhân
dân phục vụ sự phát triển của con người đảm bảo cho mọi cơng dân đều

có cuộc sống ấm no an toàn cơ hội phát triển toàn diện hơn là mục tiêu
phấn đấu của việc đổi mới hoàn thiện các chính sách xã hội ở Việt Nam.
2. Tính hệ thống trong hoạch định chính sách xã hội
Ở nước ta tất cả chính sách bao giờ cũng có quan hệ mật thiết với nhau
cùng hướng tới mục tiêu chung là phát triển xã hội, phát triển con người.
Các nhà hoạch định chính sách xã hội cần phải có cách nhìn tổng thể,
đặt chính sách xã hội được thiết kế trong mối quan hệ với các chính sách
khác. Ví dụ chính sách xóa đói giảm nghèo liên quan đến chính sách
giáo dục và đào tạo, chăm sóc y tế, phịng chống tệ nạn xã hội, tín
dụng... Việc hoạch định một chính sách xã hội cần bổ sung và các hệ
thống chính sách hiện hành có thể tăng hiệu quả hiệu lực của cán bộ
chính sách. Mặt khác nếu xây dựng chính sách xã hội mà thiếu tính hệ
thống thì chính sách xã hội có thể mâu thuẫn với các chính sách hiện
hành gây nên khó khăn cho cơng tác quản lý.
Chính sách xã hội thường bao gồm nhiều mục tiêu có thể lập thành cây
mục tiêu, trong đó có một số mục tiêu trọng điểm. Các mục tiêu này phải


được thiết kế trong mối tương quan với mục tiêu chính sách hiện có,
khơng được mâu thuẫn với nhau và đều phải hướng vào mục tiêu xã hội
tổng thể của đất nước. Ví dụ mục tiêu đảm bảo việc làm cho tất cả người
lao động và mục tiêu trợ cấp xã hội đối với người thất nghiệp nhằm vào
mục tiêu xã hội tong thể của quốc gia là đảm bảo mức sống cho các tầng
lớp dân cư...
Tính hệ thống cho hoạch định chính sách xã hội cịn địi hỏi các nhà
quản lý, hoạch định chính sách xã hội phải thấy được mối quan hệ và hỗ
trợ lẫn nhau từ chính sách xã hội với các công cụ quản lý của Nhà nước,
như công cụ pháp luật, kế hoạch, dự án xã hội... Chính sách xã hội được
ban hành phải phù họp với quy định của hệ thống pháp luật hiện hành.
Mặt khác các chính sách xã hội cần phải được thể chế hóa bằng luật,

mang tính bắt buộc thực hiện.
3. Những căn cứ định hướng chính trị trong hoạch định chính sách
xã hội
Đối với mỗi quốc gia, trong hoạch định chính trị xã hội cần phải dựa vào
các căn cứ định hướng đường lối, chính sách của Đảng cầm quyền và
phải căn cứ vào hệ thống pháp luật của nhà nước và phải tuân thủ quy
định của pháp luật. Hệ thống luật pháp do nhà nước ban hành ở nước ta
là sự thể chế hóa cương lĩnh chiến lược và các định hướng chính sách
của Đảng. Vì vậy, rõ ràng là hoạch định chính sách xã hội phải căn cứ
vào những quan điểm đường lối của Đảng và tuân thủ những quy phạm
pháp luật được thể chế hóa từ đường lối chính trị đó.


Những chính sách quy định hiện hành cung cấp cho các nhà hoạch định
chính sách xã hội cần phải quy chuẩn xây dựng chính sách, đề ra các
mục tiêu, xây dựng chương trình, dự án... để thực thi chính sách trong
khuôn khổ pháp luật phù hợp với thể chế.
Pháp luật Việt Nam là một hệ thống pháp luật thống nhất, phản ánh ý chí
nguyện vọng và lợi ích giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Hệ
thống pháp luật ấy đã trải qua từng bước phát triển để vừa thích nghi với
bối cảnh kinh tế - xã hội của thời đại và phù họp với định hướng xã hội
chủ nghĩa mà Đảng ta đã đề ra. Hiến pháp là đạo luật cơ bản của Nhà
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Cho đến nay Nhà nước Việt
Nam đã ban hành một số hệ thống lập pháp bao quát và điều chỉnh các
quan hệ xã hội trên nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội những văn bản
pháp luật này đã tạo ra những cơ sở pháp lý cho việc hình thành và phát
triển các chính sách xã hội trong nền kinh tế thị trường ở nước ta.
4. Điều kiện kinh tế hiện có trong mỗi quốc gia
Khi hoạch định một chính sách xã hội cần phải xem xét khả năng mức
độ của nền kinh tế, mức độ tăng trưởng và phát triển của chính sách kinh

tế. Bởi vì hoạch định chính sách xã hội cũng phải tính đến khả năng đáp
ứng tài chính của nền kinh tế cũng như thu nhập và mức sống của dân cư
người lao động khi tham gia và các chính sách xã hội.
Ở nước ta trong quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường với việc
đổi mới hệ thống chính sách kinh tế đã và đang đem lại những thành tựu
quan trọng. Tuy nhiên cho đến nay nước ta vẫn làm nước có thu nhập rất


thấp, trình độ phát triển kinh tế, năng suất lao động, chất lượng và hiệu
quả sản xuất kinh doanh, khả năng cạnh tranh còn thấp, hạ tầng cơ sở xã
hội cịn lạc hậu... Trong mơi trường đó của nền kinh tế, việc xác định các
chính sách xã hội phải có sự phù hợp với những điều kiện kinh tế hiện
có.
5. Tính lịch sử trong hoạch định chính sách xã hội
Các chính sách xã hội được hoạch định phù họp cho từng thời kỳ phát
triển kinh tế - xã hội nhất định, nhằm thực hiện những mục tiêu xã hội
nhất định trong từng thời kỳ lịch sử của một quốc gia. Đối với từng quốc
gia các vấn đề xã hội luôn có sự vận động phát triển, nên khi có một
chính sách xã hội không phù hợp hoặc khiếm khuyết lớn, Nhà nước cần
có chính sách mới hoặc thực hiện điều chỉnh bổ sung các chính sách. Do
đó, trong q trình nghiên cứu hoạch định và thực thi chính sách xã hội
cần phải có sự phân tích đánh giá đúng điều kiện lịch sử cụ thể để đưa ra
những chính sách phù họp với từng thời kỳ, tránh hoạch định chính sách
xã hội mang tính chủ quan duy ý chí.
6. Đặc trưng của việc xây dựng và đề xuất phương án chính sách
Xây dựng và đề xuất phương án chính sách có ba đặc trưng sau:
- Mục đích của việc xây dựng và đề xuất phương án chính sách là giải
quyết vấn đề chính sách cụ thể. Sự tồn tại khách quan của vấn đề chính
sách là tiền đề và cơ sở của việc xây dựng và đề xuất phương án chính
sách. Tính chất, phạm vi và mức độ của vấn đề chính sách quyết định

nội dung chủ yếu của phương án chính sách;


- Nội dung cơ bản của xây dựng phương án chính sách là thiết kế
phương án và lựa chọn phương án. Việc thiết kế phương án chính sách
chính là nhằm giải quyết vấn đề chính sách; đó là việc dựa trên các
phương pháp định tính và định lượng để đề xuất ra các phương án chính
sách khác nhau. Trên cơ sở các phương án chính sách đó, người thiết kế
chính sách thơng qua việc phân tích, so sánh và luận chứng một cách
đầy đủ để lựa chọn một phương án chính sách có khả năng thực hiện
được mục tiêu của chính sách một cách tốt nhất. Khi thiết kế phương án
chính sách, cần quan tâm đến mục tiêu chính sách. Mục tiêu chính sách
rõ ràng hay khơng sẽ trực tiếp ảnh hưởng đến chất lượng phương án
chính sách cũng như ảnh hưởng đến việc thực thi. Việc đánh giá và xác
định phương án chính sách ưu tiên cần quan tâm phân tích và luận
chứng tính khả thi của phương án chính sách (tính khả thi về chính trị,
kinh tế, kỹ thuật, hành chính, pháp luật…); đồng thời cần đánh giá sự
ảnh hưởng của nhân tố tương lai đối với chính sách;
- Xây dựng và đề xuất phương án chính sách vừa là một hoạt động
nghiên cứu, vừa là một hành vi chính trị. Xây dựng và đề xuất phương
án chính sách là một quá trình hoạt động rất phức tạp. Một mặt, cần phát
huy vai trò và sự tham gia của các nhà khoa học, tuân thủ các nguyên
tắc, phương pháp khoa học để phân tích vấn đề chính sách, xác định mục
tiêu chính sách, thiết kế phương án, đánh giá phương án và lựa chọn
phương án phù hợp. Mặt khác, do chính sách liên quan đến việc điều
chỉnh và phân phối lợi ích của những đối tượng liên quan trong xã hội,


do đó cần coi trọng và đảm bảo sự tham gia của những đối tượng liên
quan.

7. Những nguyên tắc cơ bản trong việc xây dựng và đề xuất phương
án chính sách
- Nguyên tắc đầy đủ về thông tin: Thông tin là cơ sở và căn cứ của việc
xây dựng và đề xuất phương án chính sách; do đó, người thiết kế chính
sách cần thơng qua nhiều phương thức khác nhau để có được thơng tin
tồn diện và chính xác;
- Ngun tắc hệ thống: Khi xây dựng và đề xuất phương án chính sách,
người thiết kế chính sách cần xuất phát từ quan điểm hệ thống để phân
tích tổng hợp đối với phương án chính sách, cần giải quyết hài hịa mối
quan hệ giữa lợi ích chỉnh thể và lợi ích bộ phận, giữa điều kiện bên
trong và điều kiện bên ngồi, giữa lợi ích trước mắt và lợi ích lâu dài,
giữa mục tiêu chủ yếu và mục tiêu thứ yếu. Đặc biệt, nguyên tắc hệ
thống còn yêu cầu, người thiết kế chính sách cần thấy được mối quan hệ
và sự ảnh hưởng lẫn nhau giữa các chính sách, hạn chế tình trạng xung
đột chính sách;
- Ngun tắc dự báo khoa học: Có nghĩa là việc thiết kế và đề xuất
phương án chính sách cần đặt nó trong xu thế vận động và nhu cầu của
tương lai;
- Nguyên tắc khả thi: Có nghĩa là việc đề xuất và thiết kế phương án
chính sách cần phân tích một cách tồn diện để xác định có khả thi hay


không, nhất là với điều kiện và nguồn lực hiện tại, có thực hiện được
hay khơng, hiệu quả có đảm bảo hay khơng;
- Ngun tắc hợp pháp: Có nghĩa là việc thiết kế và đề xuất phương án
chính sách cần phù hợp với pháp luật quốc gia và pháp luật quốc tế;
- Nguyên tắc dân chủ: Có nghĩa là, việc thiết kế và đề xuất bất cứ
phương án chính sách nào cần phải xem liệu có lợi cho lợi ích cơng hay
khơng, có phản ánh thật sự nhu cầu và lợi ích của người dân hay khơng.
Ngun tắc dân chủ cịn u cầu việc thiết kế phương án chính sách cần

công khai, minh bạch, cần đảm bảo sự tham gia của những đối tượng
liên quan đối với quá trình này, nhất là phát huy vai trò và sự tham gia
của các tổ chức tư vấn chính sách. Việc thực hiện tốt ngun tắc dân
chủ, nhất là đảm bảo tính cơng khai, minh bạch và sự tham gia của
người dân có tác dụng quan trọng đối với việc thực hiện các nguyên tắc
nói trên.



×