Tải bản đầy đủ (.docx) (98 trang)

Thạc sĩ quản lý công “năng lực cán bộ ủy ban nhân dân cấp xã, huyện u minh thượng, tỉnh kiên giang”

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (328.84 KB, 98 trang )


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài

Như chúng ta đã biết “Cán bộ là nhân tố quyết định sự thành bại của
cách mạng, là khâu then chốt trong công tác xây dựng Đảng” Nghị quyết Hội
nghị lần thứ ba Ban Chấp hành trung ương Đảng (khoá VIII) về chiến lược cán
bộ thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại hố đã khẳng định [9, tr.66]. Bàn
về cơng tác cán bộ Lênin cũng đã nhận định “trong lịch sử chưa hề có một giai
cấp vơ sản nào giành quyền thống trị nếu không tạo ra trong hàng ngũ của mình
những lãnh tụ chính trị, những đại biểu tiên phong có khả năng tổ chức và lãnh
đạo phong trào”. Sinh thời chủ tịch Hồ Chí Minh, người sáng lập, rèn luyện và
lãnh đạo đảng ta cũng đã nói: “Cán bộ là cái gốc của mọi công việc, công việc
thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hay kém” [14, tr.478-492]. Thấm
nhuần chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trải qua các thời kỳ cách
mạng, đảng ta đã xây dựng được đội ngũ cán bộ lãnh đạo quản lý, nhất là cán bộ
lãnh đạo chủ chốt các cấp trung thành với tổ quốc, hết lòng hết sức phụng sự tổ
quốc phục vụ nhân dân, có phẩm chất năng lực thực tiễn, bản lĩnh chính trị vững
vàng, gần gũi, gắn bó với nhân dân, đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ đặt ra góp
phần thực hiện thắng lợi công cuộc xây dựng và phát triển đất nước trong giai
đoạn hiện nay.
Cấp xã là nơi đại bộ phận nhân dân cư trú, sinh sống. Mọi hoạt động lãnh
đạo, quản lý của chính quyền cấp xã sẽ tác động trực tiếp đến đời sống xã hội và
công dân trên địa bàn lãnh thổ. Chính quyền cấp xã là cầu nối trực tiếp với dân,
là nơi tổ chức, vận động nhân dân thực hiện đường lối chính sách của Đảng,
pháp luật của Nhà nước; tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân, khai thác mọi
tiềm năng ở địa phương để phát triển kinh tế - xã hội, tổ chức cuộc sống của

2



cộng đồng dân cư. Đồng thời cũng là nơi kiểm nghiệm tính đúng đắn, sự phù
hợp của các chủ trương đường lối chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà
nước và cũng là nơi cung cấp nguồn cơ sở thực tiễn để góp phần hồn thiện
chính sách pháp luật. Song theo đó đội ngũ cán bộ Uỷ ban nhân dân xã chính là
những người được giao nhiệm vụ và quyền hạn trực tiếp quản lý, điều hành thực
hiện nhiệm vụ về mặt nhà nước ở địa phương; là những người trực tiếp cụ thể
hóa các chủ trương đường lối của đảng, chính sách pháp luật của nhà nước, là
những người thường xuyên gần gũi, kịp thời nắm bắt tâm tư nguyện vọng của
nhân dân, trực tiếp giải quyết những vấn đề liên quan đến quyền và lợi ích chính
đáng của nhân dân. Có thể nói rằng, chủ trương, đường lối của Đảng và chính
sách pháp luật của Nhà nước có được thực hiện hay khơng, thực hiện đến mức
độ nào hoàn toàn phụ thuộc vào năng lực đội ngũ cán bộ lãnh đạo quản lý ở cơ
sở.
U Minh Thượng là huyện thuộc vùng căn cứ cách mạng của Tỉnh ủy và
mới thành lập (năm 2007) có tốc độ phát triển kinh tế - xã hội thấp so với các
huyện vùng U Minh Thượng, tỉnh Kiên Giang.Với ưu thế về điều kiện tự nhiên
có rừng Tràm trên đất than bùn là hệ sinh thái đặc thù hình thành ở những vùng
đất trũng ngập nước thường xuyên và theo mùa. Đây là hệ sinh thái ngập nước
có giá trị đa dạng sinh học cao. Những hệ sinh thái đất ngập nước đặc thù này
đang được nhiều tổ chức bảo vệ môi trường và bảo tồn thiên nhiên quan tâm bảo
vệ. Song bên cạnh đó địa bàn huyện cịn được thiên nhiên ưu đãi có Vườn Quốc
gia U Minh Thượng được cơng nhận là khu Ramsa, đây là địa danh du lịch có
tiềm năng, mang nhiều lợi ích cho chính quyền huyện U Minh Thượng và nhân
dân địa phương. Mặc dù có nhiều tiềm năng lợi thế để phát triển kinh tế xã hội.
Nhưng do đây là một huyện vùng sâu, xuất phát điểm thấp, cơ sở hạ tầng thiếu
3


đồng bộ, trình độ dân trí thấp, đời sống của một bộ phận nhân dân cịn gặp nhiều
khó khăn. Tuy vậy trong thời gian qua cùng với sự quan tâm của các cấp ủy đảng

đội ngũ cán bộ nói chung và cán bộ ủy ban nhân dân cấp xã trên địa bàn huyện
đã có bước trưởng thành đáng kể, là nguồn nhân lực quan trọng góp phần phát
triển kinh tế, xã hội, giữ vững ổn định chính trị, quốc phịng an ninh ở địa
phương. Song so với yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình hội nhập hiện nay và
trong thời gian tới thì đội ngũ cán bộ hiện nay cịn bộc lộ một số hạn chế: cán bộ
trẻ chiếm đa số, thiếu kinh nghiệm thực tiễn, khả năng dự báo, xữ lý những vấn
đề phức tạp nảy sinh còn hạn chế. Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ III
cũng đã chỉ rõ một trong những nhiệm vụ trong tâm của nhiệm kỳ 2015 -2020 là
quan tâm xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý trong đó có đội ngũ cán bộ
ủy ban nhân dân cấp xã đáp ứng u cầu đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại
hóa nơng nghiệp nơng thơn. Như vậy để thực hiện được mục tiêu mà Đại hội
Đảng bộ lần thứ III đã đề ra, huyện U Minh Thượng cần phải có đội ngũ cán bộ
có phẩm chất đạo đức và có năng lực lãnh đạo, quản lý tốt mới có thể đáp ứng
u cầu.
Chính vì vậy nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt ở huyện
U Minh Thượng trong thời kỳ cơng nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước và hội
nhập kinh tế quốc tế như hiện nay là nhiệm vụ quan trọng, cấp thiết mang tính
chiến lược lâu dài mà các ngành các cấp cần tập trung thực hiện. Từ những vấn
đề nêu trên, bằng những kiến thức đã học tập, nghiên cứu ở Học viện Hành chính
Quốc gia và thực tiễn cơng tác, học viên chọn vấn đề: “Năng lực cán bộ Ủy ban
nhân dân cấp xã, huyện U Minh Thượng, tỉnh Kiên Giang” làm đề tài luận văn
tốt nghiệp thạc sĩ ngành quản lý cơng, với mong muốn góp một phần cơng sức

4


để nâng cao hơn nữa chất lượng, năng lực lãnh đạo, quản lý, điều hành của cán
bộ Ủy ban nhân dân cấp xã của huyện trong thời gian tới.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn


Trong những năm qua, đã có một số đề tài khoa học, một số cơng trình
nghiên cứu về cơng tác cán bộ nói chung và nâng cao năng lực cán bộ nói riêng
ở nhiều khía cạnh, phạm vi và những địa phương khác nhau. Dưới đây là một số
cơng trình khoa học tiêu biểu liên quan trực tiếp đến đề tài luận văn như:
-

GS.TSKH Vũ Huy Từ (2002): “Một số giải pháp tăng cường năng lực đội
ngũ cán bộ cơ sở”, Tạp chí Quản lý nhà nước số 5.

-

Nguyễn Phú Trọng, Trần Xuân Sầm (2003). Luận cứ khoa học cho việc
nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ trong thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

-

Bùi Ngọc Thanh (2007).Vấn đề thực hiện tiêu chuẩn cán bộ trong thời kỳ
đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, Tạp chí Cộng sản số 781.

-

TS Trần Nho Thìn: “ Đổi mới tổ chức và hoạt động của Ủy ban nhân dân
xã”, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

-

Thang Văn Phúc, Chu Văn Thành (đồng chủ biên, 2000). “Chính quyền
cấp xã và quản lý nhà nước ở cấp xã ”, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.


-

Lê Văn Hòa. “Nâng cao năng lực lãnh đạo của đội ngũ cán bộ chủ chốt
chính quyền cơ sở”, luận văn Thạc sĩ khóa 5, Học viện Hành chính Quốc
gia.
Có thể nói các cơng trình khoa học, nghiên cứu chuyên khảo, các luận văn

và bài viết chuyên đề nêu trên đã đề cập và giải quyết những vấn đề liên quan
đến công tác cán bộ. Mỗi đề tài có một hướng nghiên cứu khác nhau và tiếp cận
ở góc độ khác nhau về cơng tác cán bộ. Tổng hợp kết quả nghiên cứu những
5


cơng trình trên cho thấy chưa có cơng trình nào nghiên cứu một cách tồn diện,
có hệ thống dưới góc độ lý luận và thực trạng năng lực của cán bộ Uỷ ban nhân
dân cấp xã ở huyện U Minh Thượng tỉnh Kiên Giang. Luận văn là cơng trình đầu
tiên nghiên cứu vấn đề này. Tuy nhiên những cơng trình nghiên cứu tiêu biểu
trên có những cơ sở khoa học quan trọng để tác giả kế thừa và vận dụng trong
việc thực hiện đề tài luận văn của mình.
3. Mục đích và nhiệm vụ, nghiên cứu
a)

Mục đích nghiên cứu

Trên cơ sở nghiên cứu lý luận, khảo sát thực trạng năng lực cán bộ Ủy ban
nhân dân cấp xã ở huyện U Minh Thượng, tác giả luận văn đề xuất những mục
tiêu, phương hướng và giải pháp nhằm góp phần nâng cao năng lực cán bộ Ủy
ban nhân dân cấp xã đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ phát triển của địa phương trong
thời gian tới.
b)

-

Nhiệm vụ nghiên cứu

Phân tích làm rõ một số vấn đề lý luận về năng lực cán bộ Ủy ban nhân
dân cấp xã;

-

Khảo sát thực trạng năng lực cán bộ Ủy ban nhân dân cấp xã, huyện U
Minh Thượng tỉnh Kiên Giang, nêu rõ những vấn đề đặt ra;

-

Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ Ủy ban
nhân dân cấp xã, huyện U Minh Thượng, tỉnh Kiên Giang đáp ứng yêu cầu
nhiệm vụ trong tình hình mới và xây dựng nông thôn mới ở địa phương.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
a) Đối tượng nghiên cứu

6


Luận văn giới hạn nghiên cứu thực trạng về năng lực cán bộ Ủy ban nhân
dân cấp xã, huyện U Minh Thượng, tỉnh Kiên Giang gồm các chức danh Chủ
tịch, Phó chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã.
b) Phạm vi nghiên cứu
-


Về thời gian: Luận văn nghiên cứu và xem xét, đánh giá năng lực của cán
bộ Ủy ban nhân dân cấp xã, huyện U Minh Thượng, tỉnh Kiên Giang từ
năm 2010-2015.

-

Về không gian: Luận văn nghiên cứu và xem xét, đánh giá năng lực của
cán bộ Ủy ban nhân dân cấp xã, huyện U Minh Thượng, tỉnh Kiên Giang.

5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
a) Phương pháp luận

Luận văn dựa trên cơ sở quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh và quan điểm đổi mới của Đảng cộng sản Việt Nam về cán bộ,
cơng tác cán bộ nói chung và năng lực cán bộ Ủy ban nhân cấp xã nói riêng.
b) Phương pháp nghiên cứu

Đề tài sử dụng các phương pháp nghiên cứu như: phân tích và tổng hợp,
nghiên cứu tài liệu, khảo sát thực tiễn.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
a) Ý nghĩa về mặt lý luận

Luận văn là cơng trình nghiên cứu nhằm nâng cao năng lực quản lý, điều
hành của cán bộ Ủy ban nhân cấp xã ở huyện U Minh Thượng. Kết quả nghiên
cứu của luận văn góp phần làm phong phú thêm những vấn đề về lý luận và thực
tiễn, đồng thời đề xuất một số giải pháp có tính khả thi góp phần nâng cao năng
lực cán bộ Ủy ban nhân dân cấp xã nói chung và Cán bộ Ủy ban nhân dân cấp xã
ở huyện U Minh Thượng, tỉnh Kiên Giang nói riêng.
7



b) Ý nghĩa về mặt thực tiễn

Kết quả nghiên cứu luận văn góp phần làm rõ năng lực của cán bộ Ủy ban
nhân dân cấp xã từ đó đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao năng lực của cán bộ
Ủy ban nhân dân cấp xã ở huyện U Minh Thượng, tỉnh Kiên Giang trong thời
gian tới. Kết quả nghiên cứu của luận văn cũng có thể là tài liệu cung cấp cơ sở
khoa học cho huyện U Minh Thượng tham khảo và căn cứ vào tình hình thực tế
áp dụng đối với từng xã trên địa bàn huyện. Đồng thời có thể sử dụng luận văn
làm tài liệu tham khảo trong các khóa đào tạo bồi dưỡng cho các chức danh chủ
tịch, phó chủ tịch xã ở Trường Chính trị tỉnh và cácTrung tâm bồi dưỡng chính
trị cấp huyện nói chung.
7. Kết cấu của luận văn

Ngồi phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, kết
cấu của luận văn gồm 3 chương.
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về năng lực cán bộ Ủy ban nhân dân cấp
xã.
Chương 2: Thực trạng năng lực và những vấn đề đặt ra đối với cán bộ Ủy
ban nhân dân cấp xã, huyện U Minh Thượng, tỉnh Kiên Giang.
Chương 3: Phương hướng và một số giải pháp nâng cao năng lực cán bộ
Ủy ban nhân dân cấp xã, huyện U Minh Thượng, tỉnh Kiên Giang trong thời gian
tới.

8


Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NĂNG LỰC CÁN BỘ UỶ BAN
NHÂN DÂN CẤP XÃ

1.1.

Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và

của Đảng Cộng sản Việt Nam về cán bộ
1.1.1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về cán bộ

Chủ nghĩa Mác- Lênin một hệ thống lý luận khoa học tiên tiến của xã hội
lồi người, trong đó cơng tác xây dựng Đảng của giai cấp vô sản là một trong
những yếu tố quan trọng cấu thành của hệ thống lý luận đó. Đảng ở đây khơng
phải là một khái niệm trừu tượng mà Đảng là những con người cụ thể, những đại
biểu ưu tú của giai cấp, trong đó họ nổi lên những lãnh tụ, những người chủ chốt
đứng đầu phong trào cách mạng vô sản. Thực tiễn trong lịch sử một giai cấp nào
muốn trở thành giai cấp thống trị xã hội cũng đều phải tạo ra những lãnh tụ chính
trị đủ sức lãnh đạo phong trào theo ý chí của giai cấp mình.
Về phẩm chất của người cán bộ, cán bộ lãnh đạo, quản lý, C.Mác và
Ph.Ăngghen là những người đặt nền móng cho sự phát triển lý luận và thực tiễn
về công tác cán bộ của giai cấp vô sản. Hai ông không chỉ là những người sáng
lập ra chủ nghĩa xã hội khoa học mà còn là những người đem lý luận khoa học
kết hợp với phong trào công nhân lập nên tổ chức cộng sản đầu tiên trên thế giới.
Từ kinh nghiệm lịch sử của xã hội lồi người và chính q trình truyền bá lý luận
khoa học vào phong trào cơng nhân, C.Mác có quan điểm: “Bất cứ một tư tưởng
nào, dẫu có cao siêu vĩ đại đến đâu thì tư tưởng vẫn mãi mãi là tư tưởng, nếu tư
tưởng đó khơng có con người truyền bá, vận dụng nó vào đời sống xã hội”. [19,
tr. 154]. Còn Lênin đã kế thừa và phát huy sáng tạo chủ nghĩa Mác trong tư
tưởng và đạo đức của Lênin, Người luôn thấm nhuần đến phẩm chất cách mạng
9


và sự giác ngộ về lý tưởng cộng sản chủ nghĩa của người cán bộ đó là: Người cán

bộ, đảng viên đảng cộng sản phải là người có giác ngộ về lý tưởng cộng sản chủ
nghĩa, có lịng trung thành vô hạn với chủ nghĩa Mác- Lênin, với sự nghiệp của
giai cấp vô sản, suốt đời phấn đấu hy sinh cho sự nghiệp của giai cấp vơ sản vì
hạnh phúc của nhân dân lao động. Lênin đặc biệt nhấn mạnh đến trách nhiệm
đảng viên là phải đảm đương trọng trách quản lý đất nước, quản lý xã hội. Hết
lòng, hết sức phục vụ giai cấp vô sản, phục vụ nhân dân lao động.
Người cán bộ, đảng viên phải là người có năng lực hồn thành tốt nhiệm
vụ được giao. Đó là trình độ hiểu biết, nắm những quy luật phát triển của sự vật
để cải tạo sự vật; là trình độ nhận thức lý luận và vận dụng lý luận vào thực tiển
công tác; là khả năng chuyên môn, là bản lĩnh trong hoạt đơng thực tiễn để hồn
thành tốt mọi nhiệm vụ được giao.
Đào tạo,bồi dưỡng cán bộ là công tác thường xuyên và phải được đầu tư
quan tâm thích đáng. Trong cơng tác này V.I.Lênin rất chú ý đến nội dung và
cách thức, phương pháp dạy và học sao cho có hiệu quả và thiết thực đáp ứng tốt
nhất yêu cầu nhiệm vụ chính trị trong từng giai đoạn. Theo Lênin, với từng đối
tượng cán bộ khác nhau thì nội dung đào tạo, bồi dưỡng cũng khác nhau. Trong
giai đoạn đầu khi cách mạng mới thành công, hầu hết cán bộ đều phải học văn
hoá, học lý luận. Đồng thời, cần khơng ngừng nâng cao trình độ cho cán bộ lãnh
đạo, quản lý, bồi dưỡng kiến thức về quản lý kinh tế, quản lý xã hội. “Nhiệm vụ
của chúng ta là qua thí nghiệm mà thu hút nhiều chuyên gia, rồi bồi dưỡng lớp
cán bộ lãnh đạo mới, lớp chuyên gia mới để họ học cho bằng được cơng tác quản
lý, một cơng tác mới, hết sức khó khăn, phức tạp, để thay thế chuyên gia cũ”[18,
t39, tr. 489].

1
0


Điều động, luân chuyển cán bộ: Khi cách mạng vô sản mới thành công,
khối lượng công việc rất nhiều nhưng khơng đủ cán bộ. Vì vậy, để đáp ứng được

u cầu của nhiệm vụ chính trị, việc điều chuyển cán bộ từ vị trí này, nơi này
sang vị trí khác, nơi khác là điều không thể tránh khỏi. V.I.Lênin cho rằng người
cán bộ, đảng viên, nhất là các ủy viên trong Xơ-viết phải đa năng, có thể nhận và
hồn thành nhiệm vụ ở nhiều lĩnh vực khác nhau, đặc biệt là cơng việc quản lý
của chính quyền Xơ- viết, Người yêu cầu: “Trước hết phải làm cho mỗi ủy viên
trong Xô-viết nhất thiết phải gánh vác một công tác nào đó trong lĩnh vực quản
lý nhà nước; hai là, làm cho người cán bộ đó được thay đổi liên tiếp để mỗi uỷ
viên đều nắm được tồn bộ các cơng việc quản lý nhà nước và tất cả các ngành
của cơng tác đó”[18, t38,tr. 115-116].
Nhiều nội dung trong tư tưởng của V.I.Lênin về cán bộ và công tác cán bộ
cho đến nay vẫn giữ nguyên giá trị, có ý nghĩa thực tiễn sâu sắc. Những chỉ dẫn
đó, trong thực tế chúng ta vẫn chưa thực hiện được triệt để. Những luận điểm về
vai trị, vị trí của đội ngũ cán bộ, xây dựng tiêu chuẩn cán bộ, tuyển chọn cán bộ
từ giai cấp công nhân, nông dân, coi trọng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ về văn hóa,
kiến thức quản lý kinh tế; trong đó Người yêu cầu học phải đi đôi với hành, lý
thuyết kết hợp với thực tiễn..., coi trọng nhân tài và mạnh dạn sử dụng chuyên
gia tư sản vào công cuộc xây dựng và kiến thiết đất nước; xây dựng chế độ,
chính sách đối với cán bộ đồng thời kiên quyết xử lý nghiêm đối với các cán bộ
vi phạm. Những vận dụng tư tưởng của V.I.Lênin về cán bộ và công tác cán bộ
đã giúp Đảng ta xây dựng được đội ngũ cán bộ ngày càng trưởng thành đưa sự
nghiệp cách mạng của nước ta tiến lên. Hiện nay, sự nghiệp đổi mới đang đi vào
chiều sâu, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa trong bối
cảnh quốc tế hóa, tồn cầu hóa - vừa hợp tác, vừa đấu tranh, đặc biệt các thế lực
1
1


thù địch đang điên cuồng chống phá cách mạng nước ta bằng chiến lược diễn
biến hịa bình, mua chuộc, lối kéo cán bộ... thì việc xây dựng đội ngũ cán bộ đủ
phẩm chất, năng lực và trí tuệ là vấn đề then chốt, quyết định sự tồn tại của chế

độ, vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Vì vậy, hơn lúc nào hết,
nghiên cứu và vận dụng sáng tạo những tư tưởng của V.I.Lênin về cán bộ và
công tác cán bộ là rất cần thiết.
1.1.2.

Tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ
Hồ Chí Minh đánh giá rất cao vai trò của cán bộ. Theo người, vấn đề cán

bộ là một vấn đề trọng yếu, rất cần kíp. Vấn đề cán bộ quyết định mọi việc,
Người coi cán bộ là cái gốc của mọi công việc. “Gốc” là từ đó sinh ra. Cây thì
phải có gốc, khơng có gốc thì cây héo. Gốc có vững thì cây mới bền. Như vậy
cây vừa phải có gốc vừa phải gốc vững. Cơng việc cách mạng vừa phải có cán
bộ và cán bộ phải tốt. Người khẳng định: “Muốn thành công hoặc thất bại, đều
do cán bộ tốt hoặc kém”[15, tr,280].
Cán bộ được coi là cái dây truyền của bộ máy. Nếu dây truyền khơng tốt,
khơng chạy thì động cơ dù tốt, dù chạy toàn bộ máy cũng tê liệt. Đời sống chính
trị, kinh tế xã hội được coi như một “cỗ máy”. Trong “cỗ máy” đó có ba bộ phận:
Một là chính sách, đường lối của Đảng và Chính phủ. Hai là, quần chúng nhân
dân, những người thi hành chính sách đó. Ba là, cán bộ. Vị trí, vai trị của cán bộ
là cái “dây truyền”, “cầu nối” giữa Đảng, Chính phủ với nhân dân nhưng khơng
phải là “cầu nối”cơ học mà là một “dây truyền”, “cầu nối” đặc biệt. Người cán
bộ trở thành “cầu nối” thì phải có đủ phẩm chất, đạo đức, trí tuệ, bản lĩnh,
phương pháp và phong cách, tức là một “con người hoàn toàn” theo cách nói của
Hồ Chí Minh thì mới giải thích cho dân chúng hiểu rõ chính sách của Đảng và
Chính phủ; góp phần giáo dục, động viên, tập hợp quần chúng nhân dân tham gia
1
2


tích cực vào phong trào cách mạng. Nếu dây truyền đó dở thì một mặt, chính

sách của Đảng và Chính phủ có hay mấy cũng khơng thực hiện được; mặt khác,
nếu hoạch định, xây dựng chính sách mới cũng gặp khó khăn, khơng phù hợp,
thậm chí sai lầm. Hồ Chí Minh chỉ ra rằng: Cán bộ là những người đem chính
sách của Đảng, của Chính phủ giải thích cho dân chúng hiểu rõ và thi hành.
Đồng thời đem tình hình của dân chúng báo cáo cho Đảng, cho Chính phủ hiểu
rõ để đặt chính sách cho đúng.
Hồ Chí Minh cịn dùng kiến thức kinh tế học để bàn về vai trò của cán bộ.
Người cho rằng: “Cán bộ là tiền vốn của đồn thể. Có vốn mới làm ra lãi. Bất cứ
chính sách, cơng tác gì nếu có cán bộ thì thành cơng, tức là có lãi. Khơng có cán
bộ tốt thì hỏng việc, tức lỗ vốn”[15, t6, tr. 356].
Hồ Chí Minh đặt vị trí của cán bộ bên cạnh các tổ chức công việc và công
tác kiểm tra sau khi đã có chính sách đúng. Một trong ba khâu ấy kém thì chính
sách cũng khơng thi hành được. Người viết: “Khi đã có chính sách đúng, thì sự
thành cơng hay thất bại của chính sách đó là do nơi, cách tổ chức công việc, nơi
lực chọn cán bộ và do nơi kiểm tra. Nếu ba điều ấy sơ sài, thì chính sách đúng
mấy cũng vơ ích”[15, t5, tr. 363].
Ở một cách nhìn khác. Người cho rằng: “Cán bộ quyết định mọi việc. Các
đồng chí đều là cán bộ cao cấp, đều giữ những trách nhiệm quan trọng. Công
việc thành hay là bại một phần lớn là do nơi tư tưởng, đạo đức, thái độ và lề lối
làm việc của các đồng chí”[15, t7, tr. 415].
Theo Hồ Chí Minh, đạo đức là gốc, nền tảng của người cách mạng: “Cũng
như sơng thì có nguồn mới có nước, khơng có nguồn thì sơng cạn. Cây phải có
gốc, khơng có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, khơng có đạo
đức thì dù tài giỏi cách mấy cũng khơng lãnh đạo được nhân dân. Vì muốn giải
1
3


phóng cho dân tộc, giải phóng cho lồi người là một cơng việc to tát, mà tự mình
khơng có đạo đức, khơng có căn bản, tự mình đã hủ hóa, xấu xa thì cịn làm nổi

việc gì”[15,t5,tr. 292-293]. Hồ Chí Minh coi đạo đức là sức mạnh của con người.
Làm cách mạng là một việc lớn nên càng phải có sức mạnh. Người viết:“Làm
cách mạng để cải tạo xã hội cũ thành xã hội mới là một sự nghiệp rất vẻ vang
nhưng nó cũng là một nhiệm vụ rất nặng nề, một cuộc đấu tranh rất phức tạp, lâu
dài, gian khổ. Sức có mạnh thì mới gánh được nặng và đi được xa. Người cách
mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng, mới hoàn thành được nhiệm vụ
cách mạng vẻ vang”[15, t11, tr.601].
Theo Hồ Chí Minh, có đạo đức cách mạng thì khi gặp khó khăn, gian khổ,
thất bại, cũng không sợ sệt, rụt rè, lùi bước. Khi cần thì sẵn sàng hy sinh cả tính
mạng của mình cũng khơng tiếc. Có đạo đức cách mạng thì khi gặp thuận lợi và
thành công vẫn giữ vững tinh thần gian khổ, chất phác khiêm tốn, “lo trước thiên
hạ, vui sau thiên hạ”, lo hoàn thành nhiệm vụ cho tốt chứ không kèn cựa về mặt
hưởng thụ; không công thần, khơng quan liêu, khơng kêu ngạo, khơng hủ hóa.
Hồ Chí Minh chỉ rõ, “tuy năng lực và công việc của mỗi người khác nhau,
người làm việc to, người làm việc nhỏ nhưng ai giữ được đạo đức đều là người
cao thượng”[14, t9, tr. 508].
Tóm lại, đạo đức là một đặc trưng cơ bản của xã hội chủ nghĩa; là thước
đo chất người của mỗi người; là sức mạnh trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc, liên quan đến sự thành bại của cách mạng. Trong thư gửi các nhân viên
Cơ quan Chính phủ (16-6-1947), Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Chúng ta đem tinh thần
mà chiến thắng vật chất, chúng ta vì nước, vì dân mà chịu khổ, một cái khổ rất có
giá trị, thì vật chất càng khổ tinh thần càng sướng”. “Mọi việc thành hay bại, chủ

1
4


chốt là do cán bộ có thấm nhuần đạo đức cách mạng hay là không”. [15, t5, tr.
176].
Trên nền tảng đạo đức là gốc, người cán bộ phải có năng lực lãnh đạo và

tổ chức thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Chính phủ.
Thực chất đó là năng lực tổ chức và động viên quần chúng thực hiện chính sách
của Đảng và Chính phủ. Năng lực lãnh đạo của người cán bộ xét đến cùng là
năng lực phục vụ nhân dân, đem lại lợi ích vật chất và tinh thần tốt nhất cho
nhân dân. Muốn như vậy thì người cán bộ phải có năng lực học dân chúng, hỏi
dân chúng, hiểu dân chúng. Bởi vì, “khơng hỏi dân thì khơng lãnh đạo được dân.
Có biết làm học trò dân, mới làm được thầy học dân”[15, t6, tr. 342]. Theo Hồ
Chí Minh, “dân chúng biết giải quyết nhiều vấn đề một cách đơn giản, mau
chóng, đầy đủ mà những người tài giỏi, những đoàn thể to lớn, nghĩ mãi khơng
ra”[15, t5, tr. 335].
Tồn bộ di sản của Hồ Chí Minh cho thấy, điều căn cốt về năng lực của
người cán bộ không nằm ở lý luận mà nằm ở thực tiễn; phải từ trong quần chúng
ra, trở lại nơi quần chúng. Việc gì cũng phải học hỏi và bàn bạc với dân chúng,
giải thích cho dân chúng. Đưa mọi vấn đề cho dân chúng thảo luận và tìm cách
giải quyết. “Nghị quyết gì mà dân chúng cho là khơng hợp thì họ có thể sữa
chữa. Dựa vào ý kiến dân chúng mà sữa chữa cán bộ và tổ chức của ta” [15, t5,
tr. 338]. Chúng ta tuyệt đối không nên theo đuôi quần chúng nhưng phải khéo tập
trung ý kiến của quần chúng, hóa nó thành cái đường lối để lãnh đạo quần chúng.
1.1.3.

Quan điểm của đảng và nhà nước ta về cán bộ
Đảng Cộng sản Việt nam lấy chủ nghĩa Mác- Lênin và tư tưởng Hồ Chí

Minh làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho mọi hành động. Đó là nhân tố
đảm bảo cho sự thắng lợi của cách mạng và tương lai của dân tộc Việt Nam. Vận
1
5


dụng sáng tạo chủ nghĩa chủ nghĩa Mác- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về cán

bộ và cơng tác cán bộ trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta luôn quan
tâm xây dựng đội ngũ cán bộ, đặt ra nhiều nghị quyết về công tác cán bộ và luôn
xem công tác cán bộ là một trong những vấn đề đặc biệt quan trọng đối với toàn
bộ sự nghiệp cách mạng của đảng.
Để thực hiện chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước Đảng ta đã khẳng định: “Cán bộ là sự thành bại của cách mạng,
gắn liền với vận mệnh của đảng, của đất nước và của chế độ, là khâu then chốt
trong việc xây dựng đảng”[9, tr. 1]. Chính vì lẽ đó mà qua các kỳ đại hội Đảng ta
đã ban hành nhiều nghị quyết về công tác cán bộ và luôn khẳng định công tác
cán bộ là một trong những vấn đề đặc biệt quan trọng đối với toàn sự nghiệp
cách mạng của Đảng. Chẳn hạn, như Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI
(1986) của Đảng là một bước ngoặt có ý nghĩa chiến lược đối với quá trình phát
triển của cách mạng Việt Nam, là đại hội đề ra công cuộc đổi mới đất nước.
Đảng ta coi cán bộ và công tác cán bộ là nguyên nhân của mọi nguyên nhân làm
nên những thành tựu đạt được cũng như những tồn tại, yếu kém. Đại hội đã nhấn
mạnh: “Phải đổi mới cán bộ lãnh đạo các cấp là mắt xích quan trọng nhất mà
Đảng ta phải nắm chắc để thúc đẩy những cuộc cải cách có ý nghĩa cách mạng”
[7, tr. 132]. Đại hội lần VII Đảng ta khẳng định: “Tiếp tục đổi mới cán bộ và
công tác cán bộ, xây dựng cho được đội ngũ cán bộ vững mạnh và đồng bộ, đáp
ứng yêu cầu của sự nghiệp đổi mới” [8, tr. 98]. Đại hội X tiếp tục nhấn mạnh:
“Đổi mới mạnh mẽ công tác cán bộ, đảm bảo thật sự dân chủ, khoa học, cơng
minh. Xây dựng và hồn thiện chế độ bầu cử, cơ chế bổ nhiệm và miễn nhiệm
cán bộ; mở rộng quyền đề cử và tự ứng cử, giới thiệu nhiều phương án nhân sự
để lựa chọn” [11, tr. 136-137]. Hiện nay đất nước ta đang bước vào thời kỳ đẩy
1
6


mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế;
thì vai trị của cán bộ nhất là cán bộ lãnh đạo quản lý càng đặc biệt quan trọng

đỏi hỏi Đảng ta phải xây dựng một đội ngũ cán bộ ngang tầm, góp phần thực
hiện thắng lợi hai nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Đại
hội XII của Đảng chỉ rõ: “Quán triệt và nghiêm túc thực hiện quan điểm thống
nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ, đi đôi với phát huy
quyền và trách nhiệm của các tổ chức người đứng đầu các tổ chức trong hệ thống
chính trị về cơng tác cán bộ”[13, tr. 206]. Vì thế Đảng phải trực tiếp nắm vấn đề
cán bộ, từ việc định ra đường lối, chính sách cán bộ xây dựng tiêu chí, tiêu
chuẩn, cơ chế chính sách về cán bộ, cơng chức; quyết định bố trí cán bộ lãnh đạo
chủ chốt trong các cơ quan nhà nước và đoàn thể nhân dân, chuẩn bị cán bộ cho
cả hệ thống chính trị, trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội; thông qua hoạt động
thực tiển để tuyển chọn, giáo dục, rèn luyện, bồi dưỡng cán bộ. Phải dựa vào
nhân dân để phát hiện, kiểm tra, giám sát cán bộ. Đẩy mạnh dân chủ hóa cơng
tác cán bộ, quy định rõ trách nhiệm, thẩm quyền của mỗi tổ chức trong xây dựng
đội ngũ cán bộ có bản lĩnh chính trị vững vàng, phẩm chất đạo đức trong sáng,
có trình độ, năng lực chun mơn phù hợp đáp ứng yêu cầu của giai đoạn mới.
1.2.

Khái niệm, nhiệm vụ và vai trò của cán bộ và cán bộ Ủy ban nhân

dân cấp xã
1.2.1.

Khái niệm về cán bộ
Theo quy định tại khoản 1, Điều 4 Luật Cán bộ công chức năm 2008 quy

định: “ Cán bộ là công dân Việt Nam, được bầu cử, phê chuẩn, bổ nhiệm giữ
chức vụ, chức danh theo nhiệm kỳ trong cơ quan của Đảng cộng sản Việt Nam,
Nhà nước, tổ chức chính trị xã hội ở tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (sau
đây gọi chung là cấp tỉnh), ở quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (sau đây
1

7


gọi chung là cấp huyện), trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà
nước”[20, tr.6].
Khái niệm cán bộ Ủy ban nhân cấp xã

1.2.2.

Cán bộ Ủy ban nhân dân xã phường, thị trấn (gọi chung là cấp xã) là công
dân Việt Nam, được bầu cử giữ vụ theo nhiệm kỳ trong thường trực Ủy ban nhân
dân.
Theo Điều 34 Luật Tổ chức chính quyền địa phương số 77/2015/QH13
19.6.2015 quy định cơ cấu tổ chức của Ủy ban nhân xã gồm chủ tịch, phó chủ
tịch, uỷ viên phụ trách quân sự, uỷ viên phụ trách cơng an.
Điều 7 Luật Tổ chức chính quyền địa phương quy định về tiêu chuẩn của
đại biểu Hội đồng nhân dân như sau:
“1. Trung thành với Tổ quốc, Nhân dân và Hiến pháp, phấn đấu thực hiện
công cuộc đổi mới, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, cơng bằng, văn
minh.
2. Có phẩm chất đạo đức tốt, cần, kiệm, liêm, chính, chí cơng vơ tư, gương

mẫu chấp hành pháp luật; có bản lĩnh, kiên quyết đấu tranh chống tham
nhũng, lãng phí, mọi biểu hiện quan liêu, hách dịch, cửa quyền và các
hành vi vi phạm pháp luật khác.
3.

Có trình độ văn hóa, chun mơn, đủ năng lực, sức khỏe, kinh nghiệm
cơng tác và uy tín để thực hiện nhiệm vụ đại biểu; có điều kiện tham gia
các hoạt động của Hội đồng nhân dân.


4. Liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe ý kiến của nhân dân, được nhân

dân tín nhiệm.”
Theo Quyết định số 04/2004/QĐ-BNV, ngày 16 tháng 01 năm 2004 của
Bộ Nội vụ về việc ban hành quy định chuẩn chức chức danh đối với cán bộ, công
1
8


chức xã phường thị trấn thì: “Chủ tịch và phó chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã là
cán bộ chuyên trách lãnh đạo, chỉ đạo điều hành mọi hoạt động của Ủy ban nhân
và hoạt động quản lý nhà nước đối với các lĩnh vực kinh tế - xã hội, an ninh,
quốc phòng đã được phân cấp trên địa bàn xã, phường, thị trấn”.
Từ những luận cứ trên ta có thể suy ra rằng “Cán bộ Ủy ban nhân xã” là
tên gọi chung đối với hai chức danh chủ tịch và phó chủ tịch Ủy ban nhân dân
cấp xã.
Nhiệm vụ của chủ tịch, phó chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã

1.2.3.

Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã có nhiệm vụ lãnh đạo phân cơng cơng
tác của Ủy ban nhân dân xã, chịu trách nhiệm lãnh đạo chỉ đạo, điều hành hoạt
động của Ủy ban nhân dân và hoạt động quản lý nhà nước đối với các lĩnh vực
kinh tế - xã hội, an ninh quốc phòng đã được phân công trên địa bàn xã gồm:
-Tổ chức chỉ đạo, đôn đốc, kiểm tra đối với công tác chuyên mơn thuộc
Ủy ban nhân dân trong việc thực hiện chính sách, pháp luật của cơ quan nhà
nước cấp trên, nghị quyết của Hội đồng nhân dân và các quyết định của Ủy ban
nhân dân xã.
-


Quyết định các vấn đề thuộc nhiệm vụ, quyền hạn của chủ tịch Ủy ban
nhân dân cấp xã, tham gia quyết định các vấn đề thuộc thẩm quyền tập thể
Ủy ban nhân dân.

-

Áp dụng các biện pháp cải tiến lề lối làm việc, quản lý và điều hành bộ
máy hành chính ở xã hoạt động có hiệu quả.

-

Ngăn ngừa, đấu tranh chống biểu hiện tiêu cực trong cán bộ công chức
nhà nước và trong bộ máy chính quyền địa phương cấp xã; tiếp dân, xem
xét giải quyết kiến nghị, khiếu nại, tố cáo của công dân theo quy định của

1
9


pháp luật; giải quyết và trả lời các kiến nghị của Ủy ban nhân dân, Mặt
trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân ở xã.
-

Trực tiếp quản lý, chỉ đạo thực hiện một số nhiệm vụ theo quy định của
pháp luật.

-

Tổ chức quản lý, điều hành hoạt động của Trưởng, Phó ấp, Tổ nhân dân tự

quản theo quy định của pháp luật.

-

Báo cáo công tác trước Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân cùng
cấp.

-

Triệu tập và chủ tọa phiên họp của Ủy ban nhân dân xã.
-

Thực hiện việc bố trí sử dụng, khen thưởng, kỹ luật cán bộ, công chức ở
cơ sở theo sự phân cấp quản lý.

-

Đình chỉ hoặc bãi bỏ quy định trái pháp luật của Trưởng thơn, Tổ nhân
dân tự quản.
Phó chủ tịch ủy ban nhân dân cấp xã có nhiệm vụ: tổ chức quản lý, chỉ đạo

thực hiện nhiêm vụ theo khối công việc ( khối kinh tế - tài chính, khối văn hóa xã hội...) của chủ tịch Ủy ban nhân dân do chủ tịch Ủy ban nhân dân phân công
và những công việc do chủ tịch Ủy ban nhân dân ủy nhiệm khi chủ tịch Ủy ban
nhân dân đi vắng.
1.2.4.

Vai trò của Ủy ban nhân dân cấp xã
Ủy ban nhân dân cấp xã là cơ quan hành chính quản lý nhà nước ở địa

phương, thực hiện chức năng quản lý hành chính nhà nước, chịu trách nhiệm

chấp hành Hiến pháp, luật, các văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên. Là nơi
trực tiếp thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế văn hóa xã hội ở địa phương. Tính
hiệu quả trong hoạt động quản lý nhà nước của Ủy ban nhân dân xã đóng vai trị
quan trọng, chủ yếu trong việc cung cấp các dịch vụ công phục vụ nhân dân và
2
0


bộ máy nhà nước. Từ đó Ủy ban nhân dân cấp xã giúp cho nhà nước cấp trên có
những căn cứ để hoạch định các chính sách phát triển kinh tế - xã hội sát với tình
hình thực tế.
Ủy ban nhân dân cấp xã là một bộ phận quan trọng của hệ thống chính trị
cơ sở. Tất cả các tổ chức quyền lực nhà nước cấp trên cuối cùng đều phải thơng
qua vai trị của hệ thống chính quyền xã nói chung và Ủy ban nhân dân xã nói
riêng; nếu Ủy ban nhân dân xã không vững mạnh, các tổ chức chính quyền cấp
trên khó có thể phát huy tác dụng. Các quan hệ với nhân dân, với Đảng, với Nhà
nước thể hiện trước hết thông qua và trực tiếp thông qua quan hệ của nhân dân
với Ủy ban nhân dân cấp xã. Sức mạnh của hệ thống chính trị được chứng minh
qua sức mạnh của chính quyền cơ sở. Cơ sở và Ủy ban nhân dân cấp cơ sở là yếu
tố quyết định sự thành bại của sự nghiệp đổi mới của cả nước nói chung và cơng
cuộc cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước nói riêng.
Ủy ban nhân dân cấp xã là nơi trực tiếp, nắm bắt tâm tư, nguyện vọng của
nhân dân địa phương để kịp thời phản ánh với các cơ quan nhà nước cấp trên
những vấn đề liên quan đến quyền, lợi ích hợp pháp và nguyện vọng chính đáng
của nhân dân.Chính quyền địa phương cấp xã là cầu nối giữa Nhà nước, các tổ
chức và cá nhân trong xã, đại diện cho Nhà nước, nhân danh Nhà nước để thực
thi quyền lực nhà nước. Triển khai, tổ chức thực hiện những chủ trương, chính
sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước ở xã, cho nên vừa phải đủ mạnh, vừa
thể hiện sức mạnh uy quyền của mình mới có thể thực hiện được chức năng,
nhiệm vụ mà Nhà nước giao phó; đồng thời cũng phải thể hiện tính mềm dẻo,

linh hoạt khi tiếp xúc làm việc với dân; phải đáp ứng nhu cầu, đòi hỏi đa dạng
của mỗi người dân sao cho vừa đúng pháp luật, vừa phù hợp với truyền thống và
điều kiện của mỗi người dân, mỗi địa phương. Do vậy, việc tổ chức và hoạt động
2
1


của cơ quan chính quyền cấp xã ở nước ta rất phức tạp, dễ dẫn đến tình trạng
hình thức, kém hiệu lực, hiệu quả hoặc lạm quyền, tùy tiện.
1.2.5.
1.25.1.

Vai trò của chủ tịch, phó chủ tịch ủy ban nhân dân cấp xã
Vai trò của chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã
Trong bộ máy chính quyền cấp xã thì chủ tịch ủy ban nhân dân cấp xã, là

người đứng đầu cơ quan hành chính nhà nước trực tiếp chịu trách nhiệm trước
cấp ủy cùng cấp và Ủy ban nhân dân cấp trên về việc cụ thể hóa thực hiện các
chủ trương đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước. Có thể xem
chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã là “trụ cột” trong hoạt động quản lý điều hành ở
cấp xã, là nhân tố quan trọng để quyết định thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính
trị ở địa phương.
Trên cương vị là người đứng đầu cơ quan hành chính nhà nước cấp xã cho
nên việc hồn thiện chế độ công vụ và quy định trách nhiệm, quyền hạn của chủ
tịch Ủy ban nhân xã là rất quan trọng. Bởi vì, Nhà nước Việt Nam là nhà nước
pháp quyền của dân do dân, vì dân được tổ chức và hoạt động theo khuôn khổ
của Hiến pháp và pháp luật, quản lý xã hội bằng Hiến pháp và pháp luật, thực
hiện nguyên tắc tập trung dân chủ. Các cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức,
viên chức phải tôn trọng, tận tụy phục vụ nhân dân, liên hệ chặt chẽ với nh ân
dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự giám sát của nhân dân; kiên quyết đấu tranh

chống tham nhũng lãng phí và mọi biểu hiện hách dịch,cửa quyền [23, tr.11].
Các quy định nói trên của Hiến pháp địi hỏi chúng ta phải tiếp tục xây dựng và
hồn thiện hệ thống pháp luật đồng bộ, thống nhất, công khai minh bạch đáp ứng
trước yêu cầu cải cách nền hành chính nhà nước, xây dựng tiêu chuẩn về trình độ
năng lực, phẩm chất, đạo đức lối sống cho từng cán bộ, cơng chức trong đó có
chủ tịch Ủy ban nhân dân. Thực hiện những vấn đề này cũng chính là sự khẳng
2
2


định vai trò, trách nhiệm của chủ tịch Ủy ban nhân dân xã trong việc thực hiện
nhiệm vụ chính trị, kinh tế xã hội, có ý nghĩa đến sự phát triển của địa phương.
Vị trí, vai trị của chủ tịch Ủy ban nhân cấp xã được thể hiện thông qua
nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm được Đảng, Nhà nước và nhân dân giao phó
cho họ phải thực hiện trong cơng tác lãnh đạo quản lý, đều hành phát triển kinh
tế - xã hội, quốc phòng - an ninh trên địa bàn của xã mình phụ trách theo đúng
chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật và ý chí nguyện vọng của nhân dân.
Họ chính là cầu nối trực tiếp giữa nguyện vọng của nhân dân với thực hiện
đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước; trực tiếp giải quyết mọi
công việc liên quan đến quyền và lợi ích của nhân dân trong xây dựng và phát
triển kinh tế xã hội ở địa phương.
Để thực hiện đầy đủ quyền hạn, nghĩa vụ và phát huy vai trò của chủ tịch
Ủy ban nhân xã thì trước hết chủ tịch Ủy ban nhân dân xã phải có đủ năng lực,
uy tín, gương mẫu, cơng minh như vậy mới có thể đại diện cho Nhà nước để thực
thi quyền lực nhà nước trong đời sống xã hội; kịp thời cụ thể hóa, triển khai thực
hiện có hiệu quả các chủ trương, nghị quyết của Đảng, chính sách pháp luật của
Nhà nước; phải gần dân, sát dân, thường xuyên lắng nghe tâm tư nguyện vọng,
kịp thời giải quyết những khó khăn, bức xúc và u cầu chính đáng của nhân
dân; ln tơn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân gắn với thực hiện
tốt quy chế dân chủ cơ sở, thực hiện tốt phương châm “dân biết, dân bàn, dân

làm, dân kiểm tra”; huy động tối ưu các nguồn lực phát triển kinh - xã hội và
tiềm năng thế mạnh của địa phương.
1.2.5.2.

Vai trị của phó chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã

Theo quy định tại khoản 3 Điều 8 Quyết định số 04/2004/QĐ-BNV, ngày
16 tháng 01 năm 2004 của Bộ trưởng Bộ Nội vụ về việc ban hành quy định, tiêu
2
3


chuẩn cụ thể đối với cán bộ, công chức xã, phường, thị trấn quy định phó chủ
tịch ủy ban nhân dân cấp xã tổ chức quản lý, chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ theo
khối công việc ( khối kinh tế - tài chính, khối văn hóa - xã hội) của Ủy ban nhân
dân do chủ tịch Ủy ban nhân dân phân công và những công việc do chủ tịch Ủy
ban nhân dân ủy nhiệm khi chủ tịch Ủy ban nhân dân đi vắng. Theo đó có thể
khẳng định vị trí, vai trị của phó chủ tịch Ủy ban nhân xã trong hoạt động quản
lý nhà nước và phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh ở địa phương. Bởi
vì, đây là người trực tiếp tham mưu chỉ đạo các lĩnh vực và địa bàn công tác do
chủ tịch phân cơng, chủ động xây dựng chương trình, kế hoạch triển khai các
công việc theo lĩnh vực được phân công trên địa bàn.
Chịu trách nhiệm cá nhân trước chủ tịch Ủy ban nhân dân, trước Ủy ban
nhân dân và Hội đồng nhân dân cùng cấp về lĩnh vực được giao, về những quyết
định chỉ đạo, điều hành của mình; cùng với chủ tịch và thành viên khác của Ủy
ban nhân dân chịu trách nhiệm tập thể về toàn bộ hoạt động của Ủy ban nhân
dân trước Đảng ủy, Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân cấp huyện. Đối với
những vấn đề vượt quá giới hạn, phạm vi, thẩm quyền thì phải báo cáo chủ tịch
quyết định.
Kiểm tra đôn đốc cán bộ, công chức, Ban lãnh đạo các ấp thực hiện các

chủ trương, chính sách pháp luật thuộc lĩnh vực được giao.
Phó chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã cũng phải chịu trách nhiệm như chủ
tịch Ủy ban nhân dân cấp xã trong việc thực hiện trách nhiệm trong quá trình đề
xuất, tham mưu, trình, triển khai thực hiện các nhiệm vụ được phân công liên
quan đến chế độ, trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan đơn vị nhà nước.
Phó chủ Ủy ban nhân dân cấp xã cũng có chức trách như chủ tịch Ủy ban
nhân dân cấp xã là cán bộ chuyên trách lãnh đạo Ủy ban nhân dân cấp xã, chịu
2
4


trách nhiệm lãnh đạo điều hành hoạt động của Ủy ban nhân dân và hoạt động
quản lý nhà nước đối với các lĩnh vực kinh tế - văn hóa, quốc phịng - an ninh đã
được phân cơng trên địa bàn xã. Phó chủ tịch Ủy ban nhân dân xã tổ chức quản
lý, chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ theo khối cơng việc (khối kinh tế - tài chính, khối
văn hóa xã hội...) của Ủy ban nhân dân do chủ tịch Ủy ban nhân dân phân công
và những công việc do chủ tịch Ủy ban nhân dân ủy quyền trong lúc chủ tịch Ủy
ban nhân dân đi vắng.
Từ phân tích trên cho thấy vị trí, vai trị của phó chủ tịch Ủy ban nhân cấp
xã cũng được thể hiện thông qua nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm được Đảng,
Nhà nước và nhân dân giao phó giống như chủ tịch Ủy ban nhân dân trong công
tác lãnh đạo quản lý, đều hành phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh
trên địa bàn của xã mình phụ trách theo đúng chủ trương, đường lối, chính sách,
pháp luật và ý chí nguyện vọng của nhân dân. Do vậy để phát huy vai trị của
phó chủ tịch Ủy ban nhân dân thì trước hết phó chủ tịch Ủy ban nhân dân phải có
bản lĩnh chính trị, năng lực thực thi cơng vụ, trách nhiệm, tư duy sáng tạo, có
phẩm chất đạo đức, gần gũi lắng nghe tâm tư nguyện vọng của nhân dân, nhất là
phải phát huy vai trò tham mưu cho chủ tịch Ủy ban nhân dân xã trong việc phát
triển kinh tế - xã hội ở địa phương.
1.3.

1.3.1.

Năng lực và năng lực của cán bộ Ủy ban nhân dân xã
Quan niệm về năng lực
Có rất nhiều định nghĩa, khái niệm về thuật ngữ năng lực:
Theo Từ điển tiếng Việt của viện ngôn ngữ học do Nhà xuất bản Đà Nẳng

ấn hành năm 1997 thì: “Năng lực được hiểu là khả năng, điều kiện chủ quan
hoặc tự nhiên sẳn có, phẩm chất tâm lý và sinh lý tạo cho con người khả năng
hồn thành một loại hoạt động nào đó với chất lượng cao” hay “Năng lực khả
2
5


×