Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

Nâng cao công tác phòng, chống tham nhũng tại việt nam trong thời kỳ hội nhập quốc tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (150.09 KB, 25 trang )

MỤC LỤC
MỤC LỤC................................................................................................................................ 1
LỜI MỞ ĐẦU..........................................................................................................................1
NỘI DUNG.............................................................................................................................. 2
1. Định nghĩa và các đặc trưng của tham nhũng.......................................................................2
1.1. Khái niệm tham nhũng và phòng chống tham nhũng........................................................2
1.1.1. Khái niệm tham nhũng....................................................................................................2
1.1.2. Khái niệm phòng, chống tham nhũng.............................................................................2
1.2. Những đặc trưng cơ bản của tham nhũng..........................................................................3
1.3. Tác hại của tham nhũng.....................................................................................................5
1.3.1. Tác hại về chính trị.........................................................................................................5
1.3.2. Tác hại về kinh tế............................................................................................................8
1.3.3. Tác hại về xã hội.............................................................................................................9
2. Thực tiễn cơng cuộc phịng chống tham nhũng tại Việt Nam trong giai đoạn vừa qua.......10
2.1. Thành tựu đạt được của cơng cuộc phịng chống tham nhũng.........................................10
2.2. Một số hạn chế và nguyên nhân trong việc phòng chống tham nhũng thời gian qua.......12
2.2.1 Một số hạn chế:..............................................................................................................12
2.2.2. Nguyên nhân chủ yếu của những hạn chế:....................................................................13
3. Nâng cao cơng tác phịng, chống tham nhũng tại Việt Nam trong thời kỳ hội nhập quốc tế
................................................................................................................................................ 13
3.1. Dự báo tình hình tác động đến cơng tác phịng, chống tham nhũng trong thời gian tới...13
3.2. Các giải pháp nâng cao cơng tác phịng, chống tham nhũng ở Việt Nam trong thời kỳ hội
nhập quốc tế........................................................................................................................... 15
3.2.1. Hoàn thiện các quy định pháp luật về phịng ngừa tham nhũng....................................15
3.2.2. Hồn thiện các quy định pháp luật về phát hiện tham nhũng........................................17
3.2.3. Hoàn thiện các quy định pháp luật về xử lý tham nhũng..............................................17
3.2.4. Xây dựng cơ quan chuyên trách phòng, chống tham nhũng đủ mạnh, có khả năng độc
lập điều tra để xử lý các hành vi tham nhũng..........................................................................19
3.2.5. Phát huy vai trò của người đúng đầu cơ quan Đảng Nhà nước và xử lý nghiêm minh,
kiên quyết, kịp thời đối với các hành vi tham nhũng..............................................................19
3.2.6. Xây dựng và ban hành cơ chế pháp lý về kiện dân sự để thu hồi tài sản tham nhũng...20




3.2.7. Hồn thiện chế độ, chính sách về tiền lương cho cán bộ, cơng chức, viên chức...........21
3.2.8. Nâng cao trình độ, năng lực, bản lĩnh và có chế độ khen thưởng bảo vệ đối với những
cán bộ, công chức làm cơng tác đấu tranh phịng, chống tham nhũng....................................21
KẾT LUẬN............................................................................................................................ 22
TÀI LIỆU THAM KHẢO......................................................................................................23


LỜI MỞ ĐẦU
Tham nhũng là hiện tượng xã hội tiêu cực tồn tại ở nhiều quốc gia trên thế
giới. Tham nhũng gây thiệt hại nghiêm trọng đến các nguồn lực công, xâm hại đến
hoạt động đúng đắn của bộ máy nhà nước, làm sai lệch công lý, công bằng xã hội,
làm suy giảm niềm tin, cản trở các nỗ lực giảm nghèo và phát triển đất nước, xã hội.
Hiện nay, trên thế giới nói chung và ở Việt Nam nói riêng, tệ nạn tham nhũng đang
ngày càng tăng lên và hết sức phức tạp, khó lường cả về hình thức, tính chất và quy
mơ. Đặc biệt, ở các nước đang phát triển, tham nhũng trở thành một gánh nặng lớn
đối với cơng cuộc chống đói nghèo, lạc hậu. Mặc dù cơng cuộc chống tệ nạn tham
nhũng đã có được những tiến bộ nhất định nhưng tệ nạn này vẫn là một nguy cơ
mang tính tồn cầu, đe dọa sự phát triển của xã hội, do vẫn còn tồn tại rất nhiều rào
cản trong cuộc đấu tranh phịng, chống tham nhũng.
Cơng tác phòng, chống tham nhũng trở thành một yêu cầu bức xúc của tồn
xã hội, địi hỏi phải phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị, tư tưởng,
tổ chức, hành chính, kinh tế, hình sự và của từng thành viên trong xã hội. Muốn
vậy, công việc trước tiên cần phải tiến hành là phải tuyên truyền, giáo dục ý thức
trách nhiệm của mỗi người dân đối với cuộc đấu tranh này. Nhằm phân tích các giải
pháp phịng ngừa, phát hiện tham nhũng; xử lý người có hành vi tham nhũng; đồng
thời đề cập đến vai trò, trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân trong
cuộc đấu tranh phịng, chống tham nhũng, tơi chọn chủ đề “Nâng cao cơng tác
phịng, chống tham nhũng tại Việt Nam trong thời kỳ hội nhập quốc tế” để làm

bài thu hoạch cho môn học Nhà nước và pháp luật Việt Nam. Do kiến thức và tầm
hiểu biết cịn hạn chế nên bài viết của tơi khơng tránh khỏi sai sót rất mong được
các giảng viên góp ý kiến cho bài thu hoạch được hoàn thiện.
Hà Nội, ngày 25 tháng 10 năm 2019

1


NỘI DUNG
1. Định nghĩa và các đặc trưng của tham nhũng
1.1. Khái niệm tham nhũng và phòng chống tham nhũng
1.1.1. Khái niệm tham nhũng
Theo nghĩa rộng, tham nhũng được hiểu là hành vi của bất kỳ người nào có
chức vụ, quyền hạn hoặc được giao nhiệm vụ, quyền hạn và lợi dụng chức vụ,
quyền hạn, hoặc nhiệm vụ được giao để vụ lợi. Theo Từ điển Tiếng Việt, tham
nhũng là lợi dụng quyền hành để nhũng nhiễu nhân dân lấy của . Tài liệu hướng
dẫn của Liên hợp quốc về cuộc đấu tranh quốc tế chống tham nhũng (năm 1969)
định nghĩa tham nhũng trong một phạm vi hẹp, đó là sự lợi dụng quyền lực nhà
nước để trục lợi riêng...
Theo nghĩa hẹp và là khái niệm được pháp luật Việt Nam quy định tại Luật
Phòng, chống tham nhũng (sửa đổi) gồm 10 chương với 96 điều, có hiệu lực thi
hành từ ngày 1/7/2019, tham nhũng là hành vi của người có chức vụ, quyền hạn đã
lợi dụng chức vụ, quyền hạn đó vì vụ lợi . Người có chức vụ, quyền hạn chỉ giới
hạn ở những người làm việc trong các cơ quan, tổ chức, đơn vị thuộc hệ thống
chính trị; nói cách khác là ở các cơ quan, tổ chức, đơn vị có sử dụng ngân sách,
vốn, tài sản của Nhà nước. Việc giới hạn như vậy nhằm tập trung đấu tranh chống
những hành vi tham nhũng ở khu vực xảy ra phổ biến nhất, chống có trọng tâm,
trọng điểm, thích hợp với việc áp dụng các biện pháp phịng, chống tham nhũng
như: kê khai tài sản, cơng khai, minh bạch trong hoạt động của cơ quan, tổ chức,
đơn vị, xử lý trách nhiệm của người đứng đầu.

1.1.2. Khái niệm phòng, chống tham nhũng
Khái niệm phòng, chống tham nhũng PCTN là tổng thể các biện pháp mà
một nhà nước áp dụng để phòng ngừa (phòng), phát hiện, ngăn chặn và xử lý
(chống) tham nhũng. Những biện pháp đó có thể là lập pháp (ban hành các văn bản
pháp luật để điều chỉnh những hành vi tham nhũng), hành pháp (thực hiện các quy
định pháp luật về PCTN), tư pháp (xử lý những hành vi tham nhũng theo luật
định), hoặc những biện pháp giáo dục, tuyên truyền để nâng cao nhận thức, ý thức

2


trách nhiệm của những chủ thể có liên quan về vấn đề này. Như vậy, PCTN bao
gồm hai lĩnh vực hoạt động:
Một là, phòng ngừa tham nhũng là hoạt động của các cơ quan, tổ chức, đơn
vị và cá nhân công dân nhằm làm bớt đi các điều kiện tham nhũng, bao gồm các
hoạt động như: Ban hành các văn bản để điều chỉnh hành vi tham nhũng; tuyên
truyền, giáo dục nâng cao nhận thức; công khai minh bạch trong hoạt động của các
cơ quan; minh bạch tài sản thu nhận; xây dựng và thực hiện chế độ, định mức, tiêu
chuẩn, cải cách hành chính…
Hai là, chống tham nhũng là hoạt động cơ quan, tổ chức, đơn vị và cá nhân
công dân trong phát hiện tham nhũng và xử lý tham nhũng, bao gồm các hoạt động
như: khiếu nại, tố cáo và giải quyết khiếu nại, tố cáo; giám sát, kiểm tra, thanh tra;
điều tra, truy tố, xét xử…
1.2. Những đặc trưng cơ bản của tham nhũng
Theo quy định của pháp luật Việt Nam, tham nhũng có những đặc trưng cơ
bản như sau:
a) Chủ thể tham nhũng là người có chức vụ, quyền hạn
Đặc điểm của tham nhũng là chủ thể thực hiện hành vi phải là người có chức
vụ, quyền hạn. Người có chức vụ, quyền hạn bao gồm: cán bộ, công chức, viên
chức; sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, cơng nhân quốc phịng trong cơ quan,

đơn vị thuộc Quân đội nhân dân; sĩ quan, hạ sĩ quan nghiệp vụ, sĩ quan, hạ sĩ quan
chuyên môn - kỹ thuật trong cơ quan, đơn vị thuộc Công an nhân dân; cán bộ lãnh
đạo, quản lý trong doanh nghiệp của Nhà nước; cán bộ lãnh đạo, quản lý là người
đại diện phần vốn góp của Nhà nước tại doanh nghiệp; người được giao thực hiện
nhiệm vụ, cơng vụ có quyền hạn trong khi thực hiện nhiệm vụ, cơng vụ đó (khoản
3, Điều 1, Luật Phòng, chống tham nhũng (sửa đổi) gồm 10 chương với 96 điều, có
hiệu lực thi hành từ ngày 1/7/2019).
Nhìn chung, nhóm đối tượng này có đặc điểm đặc thù so với các nhóm đối
tượng khác như: họ thường là những người có q trình cơng tác và cống hiến nên
có nhiều kinh nghiệm; được đào tạo có hệ thống, là những chuyên gia trên nhiều
lĩnh vực khác nhau; là những người có quan hệ rộng và có uy tín xã hội nhất định
3


và thậm chí có thế mạnh về kinh tế. Những đặc điểm này của chủ thể hành vi tham
nhũng chính là yếu tố gây khó khăn cho việc phát hiện, điều tra, xét xử hành vi
tham nhũng.
b) Chủ thể tham nhũng lợi dụng chức vụ, quyền hạn được giao
“Lợi dụng chức vụ, quyền hạn” để vụ lợi là đặc trưng thứ hai của tham
nhũng. Khi thực hiện hành vi tham nhũng, kẻ tham nhũng phải sử dụng “chức vụ,
quyền hạn của mình” như một phương tiện để mang lại lợi ích cho mình, cho gia
đình mình hoặc cho người khác. Đây là yếu tố cơ bản để xác định hành vi tham
nhũng. Một người có chức vụ, quyền hạn nhưng khơng lợi dụng chức vụ, quyền
hạn đó thì khơng thể có hành vi tham nhũng. Tuy nhiên, khơng phải mọi hành vi
của người có chức vụ, quyền hạn đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn đó đều được coi
là hành vi tham nhũng. Ở đây có sự giao thoa giữa hành vi này với các hành vi tội
phạm khác, do vậy cần lưu ý khi phân biệt hành vi tham nhũng với các hành vi vi
phạm pháp luật khác.
c) Mục đích của hành vi tham nhũng là vụ lợi
Hành vi tham nhũng là hành vi cố ý. Mục đích của hành vi tham nhũng là vụ

lợi. Nếu chủ thể thực hiện hành vi khơng cố ý thì hành vi đó không là hành vi tham
nhũng. Vụ lợi ở đây được hiểu là lợi ích vật chất hoặc lợi ích tinh thần mà người có
chức vụ, quyền hạn đã đạt được hoặc có thể đạt được thơng qua hành vi tham
nhũng. Như vậy, khi xử lý về hành vi tham nhũng, không bắt buộc chủ thể tham
nhũng phải đạt được lợi ích.
Pháp luật Việt Nam hiện nay quy định việc đánh giá tính chất và mức độ
nguy hiểm của hành vi tham nhũng chủ yếu dựa trên căn cứ xác định những lợi ích
vật chất mà kẻ tham nhũng đạt được để từ đó quyết định mức độ xử lý. Lợi ích vật
chất hiện nay trong cơ chế thị trường thể hiện ở rất nhiều dạng khác nhau, nếu chỉ
căn cứ vào những tài sản phát hiện hoặc thu hồi được để đánh giá lợi ích mà kẻ
tham nhũng đạt được thì sẽ là khơng đầy đủ. Thêm nữa, các lợi ích vật chất và tinh
thần đan xen rất khó phân biệt; ví dụ như: việc dùng tài sản của Nhà nước để
khuyếch trương thanh thế, gây dựng uy tín hay các mối quan hệ để thu lợi bất

4


chính. Trong trường hợp này, mục đích của hành vi vừa là lợi ích vật chất, vừa là
lợi ích tinh thần...
Đối với khu vực tư, khi có vụ việc tham nhũng xảy ra, pháp luật đã có
những sự điều chỉnh nhất định. Tuy nhiên, cũng có trường hợp, người có chức vụ,
quyền hạn trong các tổ chức, doanh nghiệp thuộc khu vực tư cấu kết, móc nối với
những người thối hố, biến chất trong khu vực cơng hoặc lợi dụng ảnh hưởng của
những người này để trục lợi. Trong trường hợp đó, họ trở thành đồng phạm khi
người có hành vi tham nhũng bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
1.3. Tác hại của tham nhũng
Tham nhũng có thể gây ra rất nhiều hậu quả nghiêm trọng trên tất cả các lĩnh
vực của đời sống xã hội. Có thể khái quát những tác hại chủ yếu của tham nhũng ở
những điểm chính sau:
1.3.1. Tác hại về chính trị

Tham nhũng là trở lực lớn đối với quá trình đổi mới đất nước và làm xói
mịn lịng tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, đối với sự nghiệp xây dựng
đất nước, tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Tinh thần đổi mới đất nước một cách toàn diện đã mang đến cho đất nước ta
thế và lực mới. Những điều chỉnh đúng đắn về chiến lược và sách lược đã phát huy
tác dụng của nó và tạo đà cho sự phát triển kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, tình trạng
tham nhũng lại là một trở lực lớn đối với quá trình này. Quan điểm và tư duy đổi
mới cùng với cơ chế, pháp luật đúng đắn, phù hợp đã bị tệ tham nhũng làm cho
méo mó. Đối tượng tham nhũng đã lợi dụng sự thơng thống của cơ chế, chính
sách để thực hiện hành vi tham nhũng. Ngược lại, kẻ tham nhũng lại lợi dụng yêu
cầu tăng cường kiểm tra, giám sát và các biện pháp khác để doạ dẫm, đòi hối lộ
của các đối tượng bị thanh tra, kiểm tra. Cơ chế, chính sách đã trở thành cơng cụ
để thực hiện những lợi ích cá nhân.
Trong lĩnh vực đầu tư nước ngồi, tham nhũng sẽ làm nản lịng các nhà đầu
tư nếu chúng ta khơng có biện pháp kịp thời ngăn chặn và đẩy lùi mặc dù Việt
Nam được coi là quốc gia ổn định, an tồn về chính trị, xã hội. Nhìn vào những
thành quả của việc đổi mới có thể nhận thấy chủ trương, đường lối, chính sách của
5


Đảng là đúng đắn nhưng khi thực hiện thì bị cản trở rất nhiều do người thực hiện
xuất phát từ mưu lợi cá nhân. Mặc dù công cuộc cải cách hành chính đã đạt được
những tiến bộ bước đầu nhưng cho đến nay, cần thừa nhận rằng, tính phục vụ và
tính cơng tâm nhìn chung vẫn cịn là một điều xa lạ của nền hành chính nước ta.
Pháp luật về doanh nghiệp và kinh doanh của chúng ta đã được sửa đổi, bổ sung
tạo ra hành lang pháp lý thông thoáng, cởi mở, tạo điều kiện thuận lợi cho người
dân sản xuất, kinh doanh nhưng trên thực tế các doanh nghiệp vẫn gặp rất nhiều
khó khăn. Luật đất đai thường xuyên được sửa đổi, bổ sung nhưng trong quá trình
thực hiện vẫn xảy ra rất nhiều vi phạm; chính sách ưu tiên cho con em dân tộc
miền núi trong quá trình cử tuyển vào đại học, xét tuyển vào làm công chức, viên

chức trong các cơ quan nhà nước đã bị biến thành đặc quyền, đặc lợi của con cháu
những người có chức, có quyền hoặc của những kẻ có tiền, chính sách thưởng
điểm cho học sinh giỏi khi thi vào đại học bị lợi dụng và trở thành cơ hội cho nạn
mua bán điểm hoạt động…
Hiện nay, tình hình tham nhũng ở nước ta đã ở mức nghiêm trọng, đáng báo
động. Tham nhũng không chỉ xảy ra ở cấp Trung ương, ở những chương trình, dự
án lớn mà cịn xuất hiện nhiều trong các cấp chính quyền cơ sở - là cơ quan tiếp
xúc với nhân dân hằng ngày, giải quyết những công việc liên quan trực tiếp đến lợi
ích của nhân dân. Văn kiện Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung ương
Đảng khố IX chỉ rõ: “... Điều làm cho nhân dân cịn nhiều bất bình, lo lắng, bức
xúc nhất hiện nay là tình trạng quan liêu, tham nhũng, lãng phí, suy thối về tư
tưởng, chính trị và phẩm chất, đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên
vẫn còn rất nghiêm trọng...”.
“Tham nhũng lớn” bị phát hiện ngày càng tăng về số lượng, mức độ thiệt
hại, thất thốt. Đi cùng với nó, nhiều vụ “tham nhũng nhỏ” diễn ra cơng khai. Điều
đó làm giảm lòng tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà
nước, gây ra sự bất bình, bức xúc, thậm chí phản ứng của nhân dân đối với chính
quyền.
Tác hại nguy hiểm của tệ tham nhũng, lãng phí gây ảnh hưởng trực tiếp đến
hiệu quả của việc thực hiện chủ trương, chính sách về kinh tế - xã hội hoặc một
6


nhiệm vụ quản lý nhất định của Nhà nước. Tổng quát hơn, sự nghiệp cách mạng
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là sự nghiệp của tồn Đảng, tồn
dân. Nhân dân chính là động lực, chủ thể, mục đích của cách mạng. Để nhân dân
mất niềm tin, tức là chúng ta đã đánh mất một sức mạnh vơ cùng to lớn, thậm chí
có tính chất quyết định đối với sự nghiệp cách mạng. Năm 1992, tại Hội nghị lần
thứ ba Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá VII, đã nêu: “Tệ tham nhũng, hối lộ,
ăn chơi phung phí tài sản của nhân dân rất nghiêm trọng và kéo dài. Những hiện

tượng đó gây tác hại rất lớn, làm tổn hại thanh danh của Đảng”. Tháng 1-1994, Hội
nghị đại biểu tồn quốc giữa nhiệm kỳ khố VII đánh giá lại: “Tệ quan liêu, tham
nhũng và suy thoái về phẩm chất đạo đức của một bộ phận cán bộ, đảng viên làm
cho bộ máy của Đảng và Nhà nước suy yếu, lòng tin của nhân dân đối với Đảng,
đối với chế độ bị xói mịn”. Tháng 4-2001, Đại hội Đảng lần thứ IX lại tiếp tục
khẳng định: “Điều cần nhấn mạnh là: tình trạng tham nhũng và sự suy thối về tư
tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên
đang cản trở việc thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, gây bất
bình và làm giảm lịng tin trong nhân dân”. “Nạn tham nhũng diễn ra nghiêm
trọng, kéo dài, gây bất bình trong nhân dân và là một nguy cơ lớn đe doạ sự sống
còn của chế độ ta". Nghị quyết số 14 ngày 15-5-1996 của Bộ Chính trị về lãnh đạo
cuộc đấu tranh chống tham nhũng đã nêu khái quát tác hại của tệ tham nhũng như
sau: "Tình trạng tham nhũng đã và đang gây ra hậu quả hết sức nghiêm trọng, làm
xói mịn bản chất của Đảng và Nhà nước, làm tha hoá đội ngũ cán bộ, đảng viên,
tiếp tay cho các thế lực thù địch lợi dụng chống phá ta, uy hiếp sự tồn vong của chế
độ". Nghị quyết số 04/NQ-TW ngày 21-8-2006 của Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp
hành Trung ương Đảng khoá X về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với cơng
tác phịng, chống tham nhũng, lãng phí tiếp tục nhấn mạnh: “Tham nhũng, lãng phí
vẫn diễn ra nghiêm trọng ở nhiều ngành, nhiều cấp, nhiều lĩnh vực với phạm vi
rộng, tính chất phức tạp, gây hậu quả xấu về nhiều mặt, làm giảm sút lòng tin của
nhân dân, là một trong những nguy cơ lớn đe dọa sự tồn vong của Đảng và chế độ
ta”.

7


Chiến lược quốc gia phòng, chống tham nhũng đến năm 2020 tiếp tục khẳng
định: Tình hình tham nhũng vẫn diễn biến phức tạp trên nhiều lĩnh vực, nhất là
trong quản lý, sử dụng đất đai, đầu tư xây dựng, cổ phần hoá doanh nghiệp nhà
nước, quản lý, sử dụng vốn, tài sản nhà nước, gây hậu quả xấu về nhiều mặt, làm

giảm sút lòng tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà
nước, tiềm ẩn các xung đột lợi ích, phản kháng về xã hội, làm tăng thêm khoảng
cách giàu nghèo. Tham nhũng trở thành vật cản lớn cho thành công của công cuộc
đổi mới, cho sức chiến đấu của Đảng, đe dọa sự tồn vong của chế độ.
1.3.2. Tác hại về kinh tế
Tham nhũng gây thiệt hại rất lớn về tài sản của Nhà nước, của tập thể và của
công dân.
Ở nước ta, trong thời gian qua, nạn tham nhũng diễn ra trên tất cả các lĩnh
vực của đời sống xã hội, gây thiệt hại lớn đến tài sản của Nhà nước, tiền của, thời
gian, công sức của nhân dân. Hàng loạt vụ tham nhũng lớn, nghiêm trọng đã bị
phát hiện như: vụ Dệt Nam Định, vụ Tamexco, vụ EPCO Minh Phụng, vụ Mường
Tè, vụ Lã Thị Kim Oanh, vụ việc ăn hối lộ trong đường dây chạy Quota dệt may,
vụ điện kế điện tử tại Thành phố Hồ Chí Minh… Giá trị tài sản bị thiệt hại, bị thất
thoát liên quan tới tham nhũng của mỗi vụ lên tới hàng chục, hàng trăm, thậm chí
là hàng ngàn tỉ đồng. Đó là những con số lớn và đáng lo ngại so với số thu ngân
sách hằng năm của nước ta. Trong điều kiện là một nước đang phát triển, mọi
nguồn lực cần phải huy động tối đa cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá,
đồng thời phải nỗ lực cho việc xố đói, giảm nghèo và thực hiện các chính sách xã
hội khác thì việc lãng phí, thất thốt tài sản, tiền của, thời gian, công sức do tham
nhũng cần được coi là tội ác phải đấu tranh và xử lý mạnh mẽ.
Với động cơ vụ lợi, một số người đã lợi dụng vị trí của mình trong bộ máy
nhà nước hoặc lợi dụng những quyền hạn nhất định được pháp luật hoặc cơ quan
nhà nước có thẩm quyền giao cho để thực hiện các hành vi nhằm chiếm đoạt tài
sản hoặc các lợi ích khác của Nhà nước, của tập thể hoặc cá nhân. Hậu quả của
hành vi tham nhũng khơng chỉ là việc tài sản, lợi ích của Nhà nước, của tập thể
hoặc của cá nhân bị biến thành tài sản riêng của người thực hiện hành vi tham
8


nhũng, mà nguy hiểm hơn, hành vi tham nhũng còn gây thiệt hại, gây thất thốt,

lãng phí một lượng lớn tài sản của Nhà nước, của tập thể, của công dân. Vì lợi ích
cá nhân mà những kẻ tham nhũng sẵn sàng nhập cả một dây chuyền sản xuất đã lạc
hậu hay một con tàu mua về chỉ có thể bán sắt vụn, những cơng trình xây dựng
chưa sử dụng đã hư hỏng...
Ở mức độ thấp hơn, việc một số cán bộ, công chức quan liêu, sách nhiễu đối
với nhân dân trong khi thực thi công vụ, lạm dụng quyền hạn trong khi thi hành
công vụ khiến cho nhân dân phải mất rất nhiều thời gian, công sức, tiền bạc để có
thể thực hiện được cơng việc của mình như xin cấp các loại giấy phép, giấy chứng
nhận, hoặc các loại giấy tờ khác. Nếu xét từng trường hợp một thì giá trị vật chất bị
lãng phí có thể khơng quá lớn, nhưng nếu tổng hợp những vụ việc diễn ra thường
xuyên, liên tục trong cuộc sống hằng ngày thì con số bị thất thoát đã ở mức độ
nghiêm trọng.
1.3.3. Tác hại về xã hội
Tham nhũng xâm phạm, thậm chí làm thay đổi, đảo lộn những chuẩn mực
đạo đức xã hội, tha hố đội ngũ cán bộ, cơng chức nhà nước.
Trước những lợi ích bất chính đã hoặc sẽ có được khi thực hiện hành vi tham
nhũng, nhiều cán bộ, công chức đã không giữ được phẩm chất đạo đức của người
cán bộ. Cán bộ, công chức khi thực hiện hành vi tham nhũng đã khơng cịn làm
việc vì mục đích phục vụ nhân dân mà hướng tới việc thu được các lợi ích bất
chính, bất chấp việc vi phạm pháp luật, làm trái công vụ, trái lương tâm, đạo đức
nghề nghiệp. Vì vậy, tham nhũng khơng chỉ phát sinh ở trong các lĩnh vực kinh tế,
tài chính, ngân hàng, đầu tư, xây dựng cơ bản, quản lý đất đai… mà cịn có xu
hướng lan sang các lĩnh vực mà từ trước tới nay ít có khả năng xảy ra tham nhũng
như: văn hoá, y tế, giáo dục, thể dục, thể thao. Hành vi tham nhũng còn xảy ra
trong một số chương trình trợ cấp cho thương binh, liệt sĩ, các gia đình chính sách;
tham nhũng cả tiền, hàng hố cứu trợ cho đồng bào gặp thiên tai; tham nhũng trong
cả xét duyệt cơng nhận di tích lịch sử, văn hố, thi đua khen thưởng. Tham nhũng
cịn xảy ra ở một số cơ quan bảo vệ pháp luật, những cơ quan đại diện cho công lý
và công bằng xã hội.
9



Điều đáng báo động là một số cán bộ, công chức coi việc tham nhũng trở
thành bình thường. Họ cho rằng, đối tượng quản lý đương nhiên phải "bồi dưỡng"
khi muốn thực hiện các công việc thuộc trách nhiệm của người cán bộ, cơng chức.
Đó chính là biểu hiện của sự suy thoái, xuống cấp về đạo đức một cách nghiêm
trọng. Hơn thế, tham nhũng còn xâm phạm những giá trị đạo đức truyền thống của
dân tộc, khi người thực hiện hành vi tham nhũng là giáo viên, bác sĩ, những người
hoạt động trong lĩnh vực giáo dục, y tế, văn hoá, xã hội - những người xây dựng
nền tảng tinh thần cho xã hội.
2. Thực tiễn cơng cuộc phịng chống tham nhũng tại Việt Nam trong giai đoạn
vừa qua
2.1. Thành tựu đạt được của cơng cuộc phịng chống tham nhũng
Sau hơn 33 năm đất nước ta tiến hành công cuộc đổi mới, vận hành nền kinh
tế theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, bên cạnh những thành tựu
to lớn đã đạt được, chúng ta cũng phải đối mặt, thậm chí đã mắc phải một số yếu
kém, khuyết điểm, trong đó, nạn tham nhũng có chiều hướng gia tăng và ngày càng
phức tạp, nặng nề hơn.
Để khắc phục tình trạng này, kiên quyết đấu tranh phịng, chống tham nhũng
(PCTN), Đảng và Nhà nước ta đã ban hành nhiều Nghị quyết, Chỉ thị, bộ Luật cho
công tác PCTN. Từ sau Hội nghị tồn quốc về cơng tác PCTN năm 2014, thực hiện
Nghị quyết Trung ương 3 (khóa X) về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với
công tác PCTN, Đại hội XI và Đại hội XII của Đảng tiếp tục khẳng định quan
điểm, chủ trương, nhiệm vụ, giải pháp lớn về PCTN.
Bộ Chính trị (khóa X) ra Chỉ thị 50-CT/TW ngày 7/12/2015 về tăng cường
sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phát hiện, xử lý các vụ việc, vụ án tham
nhũng; Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 (khóa X) xác định “Một số vấn đề cấp
bách về xây dựng Đảng hiện nay”; Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) “Tăng
cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng, ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng
chính trị, đạo đức lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong

nội bộ”.

10


Từ năm 2014 đến nay, Quốc hội đã xây dựng, bổ sung, sửa đổi và thông qua
94 luật, pháp lệnh, 88 Nghị quyết về các lĩnh vực kinh tế - xã hội và PCTN. Từ
đầu nhiệm kỳ Đại hội XII đến nay, Quốc hội đã thông qua 36 luật, pháp lệnh, 45
Nghị quyết, nhất là Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ Luật hình sự năm
2015; Luật báo chí (sửa đổi); Luật tiếp cận thơng tin; Luật quản lý, sử dụng tài sản
công; Luật đấu giá tài sản; Luật tố cáo (sửa đổi); Luật Doanh nghiệp; Luật Đấu
thầu; Luật Quản lý, sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào sản xuất, kinh doanh tại
doanh nghiệp...; đang tích cực hồn thiện các dự án Luật Phịng chống tham nhũng
(sửa đổi), Luật Công an nhân dân (sửa đổi), Luật Bảo vệ bí mật nhà nước...
Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành 694 Nghị định, 518 Nghị
quyết, 281 quyết định; riêng từ đầu nhiệm kỳ Đại hội XII đến nay đã ban hành 429
Nghị định, 327 Nghị quyết, 134 quyết định tập trung nâng cao hiệu lực, hiệu quả
quản lý nhà nước trên các lĩnh vực của đời sống xã hội, góp phần phịng ngừa tiêu
cực, tham nhũng. Cũng từ năm 2014, cấp ủy, Ủy ban kiểm tra các cấp đã thi hành
kỷ luật hơn 840 tổ chức Đảng và 58.120 đảng viên vi phạm, trong đó có gần 2.720
đảng viên bị thi hành kỷ luật do tham nhũng, cố ý làm trái.
Thanh tra Chính phủ đã tiến hành thanh tra toàn diện 4 dự án lớn; rà soát
việc thanh tra 7 dự án gây thất thoát, thua lỗ nặng, kéo dài, được dư luận xã hội
quan tâm. Từ năm 2014 đến nay, đã triển khai 29.429 cuộc thanh tra hành chính,
872.941 cuộc thanh tra, kiểm tra chuyên ngành; qua đó, đã kiến nghị thu hồi
188.476 tỷ đồng, 9.221 ha đất, chuyển cơ quan điều tra xử lý hình sự 338 vụ/436
đối tượng.
Kiểm tốn Nhà nước đã tiến hành kiểm toán 829 đơn vị đầu mối; kiến nghị
thu hồi cho ngân sách nhà nước 74.897 tỷ đồng, kiến nghị sửa đổi, bổ sung, thay
thế, hủy bỏ 522 văn bản của các cơ quan nhà nước; chuyển 8 vụ việc có dấu hiệu

vi phạm pháp luật sang cơ quan có thẩm quyền để điều tra làm rõ và xử lý theo quy
định của pháp luật.
Từ năm 2014 đến nay, cơ quan điều tra trong cả nước đã khởi tố mới 971 vụ
án/2.010 bị can, Viện kiểm sát nhân dân các cấp đã truy tố 1.060 vụ án/2.444 bị
can, Tòa án nhân dân các cấp đã xét xử sơ thẩm 968 vụ án/2.297 bị cáo về các tội
11


tham nhũng. Nổi lên trong số đó là các vụ án Dương Chí Dũng và đồng phạm;
Đinh La Thăng và đồng phạm; Trịnh Xuân Thanh và đồng phạm; Phạm Công
Danh và đồng phạm; Hà Văn Thắm và đồng phạm; Phan Văn Anh Vũ và đồng
phạm; vụ án đánh bạc và tổ chức đánh bạc nghiêm trọng xảy ra tại Phú Thọ và một
số địa phương; Vụ án Đinh Ngọc Hệ và đồng phạm; Vụ án Nguyễn Bắc Son và vụ
AVG...
Riêng trong 2 năm 2017, 2018 và 6 tháng đầu năm 2019 đã chỉ đạo xử lý 52
vụ án, 33 vụ việc, đã xét xử sơ thẩm 21 vụ/ 263 bị cáo (tuyên phạt: 3 bị cáo án tử
hình; 9 bị cáo tù chung thân; 4 bị cáo tù 30 năm; 240 bị cáo tù từ 12 tháng đến dưới
30 năm).
2.2. Một số hạn chế và nguyên nhân trong việc phòng chống tham nhũng thời
gian qua
2.2.1 Một số hạn chế:
Chế độ trách nhiệm, chế độ công vụ đối với nhiều vị trí cơng tác chưa được
minh bạch, rõ ràng, cụ thể, nhất là ở những khâu, quy trình thủ tục liên quan tới
công việc của người dân, doanh nghiệp.
Việc tự kiểm tra, phát hiện tham nhũng của một số cơ quan, tổ chức, đơn vị
còn yếu; việc phát hiện tham nhũng chủ yếu qua dư luận xã hội, đơn thư tố táo, báo
chí phản ánh hoặc khi có cơ quan chức năng vào làm việc kiểm tra, thanh tra, kiểm
toán, điều tra mới phát hiện sai phạm.
Hiệu quả hoạt động của các cơ quan chuyên trách về PCTN còn hạn chế; vai
trị của xã hội trong cơng tác PCTN chưa được phát huy đầy đủ. Công tác giám sát,

kiểm tra, giữ gìn kỷ cương, kỷ luật ở nhiều nơi, nhiều cấp chưa thường xun;
cơng tác kiểm tốn, thanh tra, điều tra hiệu quả chưa cao; việc xử lý hành vi tham
nhũng trong một số trường hợp còn chưa nghiêm, chưa kịp thời, cịn có biểu hiện
nương nhẹ.
Vẫn cịn tình trạng lợi dụng các quy định của pháp luật chưa chặt chẽ để xử
lý hành vi tham nhũng bằng biện pháp kỷ luật hành chính hoặc áp dụng nhiều tình
tiết giảm nhẹ để xử phạt dưới khung hình phạt hoặc hưởng án treo, phạt cảnh cáo,
cải tạo không giam giữ.
12


Hoạt động thanh tra, kiểm toán phát hiện nhiều vi phạm pháp luật trong các
lĩnh vực quản lý kinh tế, xã hội nhưng số vụ việc có dấu hiệu tham nhũng được
phát hiện chuyển sang cơ quan điều tra còn ít; quá trình giải quyết một số vụ án
tham nhũng của các cơ quan tiến hành tố tụng còn chậm, nhất là các vụ án tham
nhũng có nội dung phức tạp; việc xem xét, xử lý các hành vi tham nhũng trong một
số trường hợp chưa nghiêm, nặng về xử lý hành chính, cho hưởng án treo.
2.2.2. Nguyên nhân chủ yếu của những hạn chế:
Một số cơ quan, đơn vị, người đứng đầu chưa quyết liệt trong chỉ đạo, tổ
chức thực hiện công tác PCTN. Nguyên tắc tập trung dân chủ, tự phê bình và phê
bình ở nhiều nơi bị bng lỏng. Tình trạng suy thối đạo đức của một bộ phận
không nhỏ cán bộ, công chức, viên chức, đảng viên, trong đó có cả các cán bộ,
đảng viên cơng tác trong các cơ quan bảo vệ pháp luật.
Một số quy định của pháp luật liên quan tới việc phát hiện, xử lý tham
nhũng cịn khó khăn, vướng mắc trong tổ chức thực hiện. Các văn bản quy phạm
pháp luật về PCTN có nhiều quy định mang tính hình thức, thiếu tính khả thi, thiếu
những giải pháp có tính đột phá; mơ hình, tổ chức các cơ quan chun trách chống
tham nhũng chưa hợp lý, chưa đủ mạnh.
Thể chế, chính sách về quản lý kinh tế - xã hội trên nhiều lĩnh vực còn sơ
hở; chưa giảm được các thủ tục khơng cần thiết có thể làm nẩy sinh tham nhũng,

tiêu cực, nhất là trên lĩnh vực quản lý đất đai, tài ngun, khống sản, đầu tư xây
dựng, tín dụng, ngân hàng, quản lý vốn, tài sản nhà nước tại doanh nghiệp.
3. Nâng cao cơng tác phịng, chống tham nhũng tại Việt Nam trong thời kỳ hội
nhập quốc tế
3.1. Dự báo tình hình tác động đến cơng tác phịng, chống tham nhũng trong
thời gian tới
Trong thực tế, có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến pháp luật về PCTN, nhưng các
yếu tố ảnh hưởng lớn nhất và cơ bản nhất là: Cơ chế quản lý kinh tế; cơ chế tổ
chức thực hiện quyền lực nhà nước; chế độ chính trị và vai trò của đảng cầm
quyền; ý thức pháp luật của các chủ thể có thẩm quyền xây dựng và tổ chức thực

13


hiện pháp luật về PCTN; yếu tố văn hóa, truyền thống dân tộc và hợp tác quốc tế
về PCTN.
Cả nước đang trong q trình hồn thiện cơ chế quản lý kinh tế thị trường
nên còn tiềm ẩn nhiều sự thay đổi, nhiều yếu tố bất định, thậm chí cịn tiếp tục xuất
hiện những sơ hở, yếu kém trong công tác quản lý hoạt động kinh tế, quản lý hành
chính tạo điều kiện cho sự phát triển của tham nhũng… Mặt trái của cơ chế thị
trường đã nảy sinh tham nhũng ở nhiều nơi, nhất là ở những lĩnh vực mà pháp luật
còn quy định thiếu chặt chẽ và sự quản lý của Nhà nước cịn bộc lộ yếu kém,
bng lỏng hoặc không đủ khả năng để theo kịp sự vận động của cơ chế thị trường.
Vì vậy, trong quá trình hoàn thiện pháp luật về PCTN cần dự liệu tối đa được các
dạng của hành vi tham nhũng sẽ nảy sinh trong cơ chế thị trường để xây dựng các
quy định của pháp luật vừa tạo điều kiện thuận lợi cho các quan hệ kinh tế phát
triển nhưng cũng vừa đáp ứng được yêu cầu phòng ngừa, phát hiện, xử lý tham
nhũng một cách nhanh chóng, kịp thời và triệt để. Các yếu tố tiêu cực của lối sống
cá nhân ích kỷ, sống gấp, thực dụng, coi trọng đồng tiền… làm ảnh hưởng tiêu cực
đến tâm lý, thái độ của người dân và các quan chức nhà nước. Họ cho rằng việc

đưa hối lộ và nhận hối lộ là “chuyện bình thường” trong quan hệ với người có
thẩm quyền giải quyết cơng việc. Cịn việc khơng đưa hối lộ và khơng nhận hối lộ
mới là “chuyện bất bình thường” trong xã hội.
Ngoài ra, các nhân tố khác như thương mại điện tử, mở cửa thị trường tài
chính; sự phát triển mạnh mẽ của thị trường chứng khoán, thị trường bất động
sản… có thể làm cho tệ nạn tham nhũng phát sinh, phát triển theo những hướng
mới.
Do vậy, có thể dự báo trong thời gian tới, tình hình tham nhũng có thể sẽ còn
diễn biến phức tạp với những biểu hiện tinh vi, phức tạp, xảy ra trên nhiều lĩnh
vực, nhiều cấp, nhiều ngành. Tham nhũng có tính “lợi ích nhóm”, tình trạng sách
nhiễu “tham nhũng vặt” trong khu vực cơng gia tăng.
Đối tượng tham nhũng tự rút kinh nghiệm và sẽ sử dụng những phương
thức, thủ đoạn phạm tội đa dạng, tinh vi, khơn khéo hơn nên rất khó phát hiện.
Hình thức có xu hướng phổ biến là các đối tượng tham nhũng sẽ cấu kết, móc
14


ngoặc với nhau thành các đường dây, tập đoàn phạm tội với sự chun mơn hóa và
tính tổ chức cao, nhất là trong các lĩnh vực bị cấm như sản xuất hàng giả, hàng
nhái, bn bán vũ khí, ma túy…
Lĩnh vực mà đối tượng tham nhũng tập trung vào vẫn là quản lý vốn ngân
sách nhà nước, xuất nhập khẩu, xây dựng cơ bản, quản lý đất đai, đầu tư, tài chính,
ngân hàng, bảo hiểm, cấp phép xây dựng, mua sắm công; công tác cán bộ (tuyển
dụng, bổ nhiệm, điều động, luân chuyển, tinh giản biên chế)… Đặc biệt là tham
nhũng trong việc sử dụng vốn cho xây dựng cơ bản mà tiêu biểu nhất là hành vi
đút lót để ăn chia phần trăm, lại quả hay trong quản lý đất đai chưa có hiện tượng
thun giảm. Thậm chí chúng cịn tăng lên theo quy mơ đầu tư cơng của Nhà nước.
Khâu đấu thầu, đền bù vẫn cịn ít nhiều thể hiện tính cục bộ của q trình đầu tư.
Vẫn tồn tại tình trạng chia nhỏ thành các gói thầu để chỉ định thầu, hoặc đấu thầu
một cách hình thức để tạo "công ăn việc làm cho người nhà", cho "sân sau" của các

quan chức có thẩmquyền.
3.2. Các giải pháp nâng cao cơng tác phịng, chống tham nhũng ở Việt Nam
trong thời kỳ hội nhập quốc tế
Tiến hành sửa đổi toàn diện pháp luật về PCTN theo hướng tiếp tục củng cố,
nâng cao hiệu quả của các quy định về phòng ngừa, phát hiện và xử lý tham nhũng
và coi đây là nhiệm vụ then chốt, cơ bản và lâu dài. Việt Nam cần thực hiện đồng
bộ 8 giải pháp sau để cơng tác phịng chống tham nhũng có hiệu quả:
3.2.1. Hồn thiện các quy định pháp luật về phịng ngừa tham nhũng
Mơt là, hồn thiện các quy định về công khai, minh bạch trong hoạt động
của cơ quan, tổ chức, đơn vị theo hướng làm rõ loại thông tin công bố, công khai;
loại thông tin cung cấp theo yêu cầu trong ngành, lĩnh vực; phương thức, phạm vi,
thời gian công bố, công khai; mở rộng nội dung thông tin cung cấp theo yêu cầu,
trình tự, thủ tục yêu cầu cung cấp thông tin và trách nhiệm cung cấp thông tin. Đối
với công khai, minh bạch trong hoạt động của các tổ chức, đơn vị ngoài khu vực
nhà nước, quy định việc cơng khai các thơng tin có tác động đến hoạt động quản lý
nhà nước; quyền, lợi ích hợp pháp của khách hàng, đối tác hoặc người lao động.

15


Hai là, quy định mới về kiểm soát xung đột lợi ích của người có chức vụ,
quyền hạn trên cơ sở các quy định hiện hành; sửa đổi các quy định về tặng quà và
nhận quà tặng, chuyển đổi vị trí cơng tác tiếp nhận theo hướng tăng tính tự giác và
có chế tài nghiêm khắc.
Ba là, hồn thiện các quy định về trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan,
tổ chức, đơn vị về phòng ngừa, phát hiện hành vi tham nhũng trong cơ quan, tổ
chức, đơn vị mình theo hướng: Nếu người đứng đầu làm tốt công tác phịng ngừa,
khơng để xảy ra tham nhũng thì được khen thưởng. Nếu để xảy ra tham nhũng
nhưng tự phát hiện, xử lý, ngăn chặn kịp thời thì được biểu dương. Nếu để xảy ra
tham nhũng nhưng tự xử lý theo thẩm quyền hoặc kiến nghị cơ quan có thẩm

quyền xử lý và khắc phục hậu quả thì tùy theo tính chất, mức độ, người đứng đầu
được xem xét, miễn trách nhiệm. Nếu để xảy ra tham nhũng nhưng không tự xử lý
theo thẩm quyền, khơng khắc phục hậu quả thì bị xử lý theo pháp luật.
Bốn là, sửa đổi, bổ sung nhằm hoàn thiện các quy định về minh bạch tài sản,
thu nhập nhằm kiểm soát biến động tài sản, thu nhập theo hướng cân nhắc mở rộng
phạm vi đối tượng có nghĩa vụ kê khai, mở rộng diện tài sản, thu nhập phải kê
khai, hình thức cơng khai bản kê khai; cơ quan có thẩm quyền định kỳ tiến hành
xác minh tài sản, thu nhập; trình tự, thủ tục tiến hành xác minh và kết quả xác
minh tài sản, thu nhập; quy định các biện pháp kiểm soát thu nhập như: xây dựng
cơ sở dữ liệu về tài sản, thu nhập; thực hiện việc giải trình về nguồn gốc thu nhập
đối với những giao dịch, khoản chi tiêu có giá trị lớn hoặc có dấu hiệu bất thường;
bổ sung các chế tài xử lý đối với người kê khai tài sản khơng trung thực, khơng
giải trình được nguồn gốc của tài sản tăng thêm; chế tài xử lý đối với tài sản không
kê khai, tài sản tăng theo nhưng khơng giải trình được.
Năm là, quy định mới một số biện pháp phòng ngừa khác mà thực tế cho
thấy là cần thiết, có hiệu quả, mang tính phịng ngừa lâu dài, bao gồm: xây dựng,
thực hiện quy tắc ứng xử, đạo đức nghề nghiệp; đưa nội dung PCTN vào chương
trình giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức; khuyến khích cơ
quan, tổ chức, đơn vị trong việc ký kếtvi à thực hiện các cam kết, sáng kiến về

16


liêm chính và PCTN; tăng cường cải cách hành chính thực hành tiết kiệm, chống
lãng phí.
3.2.2. Hồn thiện các quy định pháp luật về phát hiện tham nhũng
Một là, sửa đổi, hoàn thiện các quy định pháp luật về tố cáo và giải quyết tố
cáo, tiếp nhận, xử lý thông tin về hành vi có dấu hiệu tham nhũng theo hướng quy
định các biện pháp bảo vệ người tố cáo, người cung cấp thơng tin và người thân
thích của người tố cáo, người cung cấp thông tin; khen thưởng người có thành tích

trong tố cáo, cung cấp thơng tin về hành vi có dấu hiệu tham nhũng; quy định hình
thức tố cáo và trình tự, thủ tục giải quyết tố cáo, tiếp nhận thơng tin về hành vi có
dấu hiệu tham nhũng trong nội bộ cơ quan, tổ chức, đơn vị; quy định cụ thể về
trình tự, thủ tục và thẩm quyền tiếp nhận, giải quyết tố cáo, thông tin về hành vi có
dấu hiệu tham nhũng thơng qua đường dây nóng hoặc bằng các phương thức thơng
tin hợp pháp khác.
Hai là, chỉnh lý và hoàn thiện cơ chế phối hợp giữa các cơ quan có thẩm
quyền thanh tra, kiểm tra, kiểm toán, điều tra, kiểm sát, xét xử trong phát hiện
tham nhũng; quy định phương thức phối hợp giữa cơ quan có chức năng kiểm tra,
thanh tra, kiểm tốn với các cơ quan điều tra, kiểm sát ngay trong q trình kiểm
tra, thanh tra, kiểm tốn khi phát hiện có dấu hiệu tội phạm nhằm xử lý nhanh
chóng vụ việc; quy định việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn của cơ quan có
thẩm quyền nhằm tránh tẩu tán tài sản hoặc xóa dấu vết vi phạm và các biện pháp
thu hồi tài sản tham nhũng.
3.2.3. Hoàn thiện các quy định pháp luật về xử lý tham nhũng
Một là, tăng chế tài xử kỷ luật và xử lý hình sự đối với các hành vi tham
nhũng, bao gồm 12 hành vi tham nhũng được quy định trong Luật Phòng, chống
tham nhũng (sửa đổi) gồm 10 chương với 96 điều, có hiệu lực thi hành từ ngày
1/7/2019. Theo đó, Bộ luật Hình sự cần thiết phải quy định 12 tội danh tham nhũng
tương ứng với 12 hành vi tham nhũng.
Hai là, quy định bổ sung quyền hạn cho các cơ quan có thẩm quyền trong
quản lý, sử dụng bản kê khai tài sản, thu nhập và khi tiến hành kiểm tra, xác minh

17


tài sản, thu nhập nhằm kịp thời ngăn chặn hành vi tẩu tán, che giấu hoặc chuyển
dịch tài sản, qua đó nâng cao hiệu quả phát hiện và thu hồi tài sản tham nhũng.
Ba là, quy định bổ sung phương án xử lý kết quả xác minh khi có kết luận
về việc kê khai khơng trung thực, khơng giải trình được một cách hợp lý theo

hướng: yêu cầu Tòa án cấp có thẩm quyền xem xét, quyết định về quyền sở hữu
hợp pháp đối với tài sản, thu nhập để có cơ sở xử lý theo quy định của pháp luật.
Bốn là, quy định cụ thể cơ chế xử lý tài sản, thu nhập kê khai không trung
thực và không được giải trình một cách hợp lý.
Năm là, cần đưa ra cơ chế thừa nhận việc tố cáo tham nhũng nặc danh thi sẽ
phát huy hiệu quả, tạo điều kiện cho người dưới quyền, người dân dám nói lên sự
thật, dám tố cáo người có hành vi tham nhũng
Sáu là, cần cụ thể hóa trách nhiệm của người đứng đầu để xảy ra tham
nhũng:
Chỉ rõ và cụ thể hóa những người được gọi là “người đứng đầu cơ quan, tổ
chức, đơn vị” trong Luật PCTN để thuận lợi cho việc áp dụng và cá thể hóa trách
nhiệm trong PCTN. Nghiên cứu bổ sung các tình tiết tăng nặng trách nhiệm đối với
người đứng đầu tham nhũng.
Phân định rõ trách nhiệm tập thể và trách nhiệm cá nhân trong việc thực hiện
các biện pháp phòng, chống tham nhũng, cần quy định rõ theo hướng liệt kê trách
nhiệm của thủ trưởng cơ quan, tổ chức đơn vị trong thực hiện các biện pháp
PCTN. Nghiên cứu, bổ sung quy định để làm rõ trách nhiệm của người đúng đầu
cơ quan, tổ chức, đơn vị cấp trên trực tiếp trong việc xem xét xử lý kỷ luật đối với
người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị cấp dưới khi để xảy ra tham nhũng; bổ
sung quy định chế tài xử lý đối với người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị cấp
trên trực tiếp trong trường hợp biết, nhưng không xem xét, xử lý kỷ luật hoặc cố
tình kéo dài thời gian so với quy định, khi xử lý trách nhiệm người đứng đầu, cấp
phó của người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị cấp dưới.
Bảy là, cần quy định cụ thể hơn trách nhiệm của từng cơ quan, tổ chức trong
PCTN; quy định cụ thể cơ chế phối hợp hoạt động giữa các cơ quan kiểm ừa của

18


Đảng, cơ quan Thanh tra nhà nước, Kiểm toán nhà nước, cơ quan điều tra, Viện

Kiểm sát nhân dân, Tòa án nhân dân.
3.2.4. Xây dựng cơ quan chuyên trách phòng, chống tham nhũng đủ mạnh, có
khả năng độc lập điều tra để xử lý các hành vi tham nhũng
Học tập kinh nghiệm của Xingapo và một số nước trên thế giói, ở Việt Nam,
để phịng, chống tham nhũng có hiệu quả, cần xây dựng cơ quan phòng, chống
tham nhũng riêng. Nên thành lập một cơ quan phòng, chống tham nhũng trực thuộc
Tổng Bí thư. Cơ quan này có quyền thanh tra, kiểm tra, khởi tố các hành vi có dấu
hiệu tham nhũng đối với tất cả các cán bộ, công chức trong bộ máy nhà nước và hệ
thống chính trị từ Trung ương đến địa phương. Những người làm việc trong các cơ
quan này phải có trình độ, năng lực chun mơn nghiệp vụ sâu trong nhiều lĩnh
vực, có phẩm chất đạo đức tốt, trung thành tuyệt đối vói Đảng, Nhà nước và nhân
dân; có bản lĩnh chính trị vững vàng, sẵn sàng đối mặt với những khó khăn, thách
thức và nguy hiểm trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng. Có cơ chế pháp lý
đặc biệt riêng cho cơ quan này để đảm bảo cho cơ quan này hoạt động có hiệu quả.
3.2.5. Phát huy vai trị của người đúng đầu cơ quan Đảng Nhà nước và xử lý
nghiêm minh, kiên quyết, kịp thời đối với các hành vi tham nhũng
Thực tiễn PCTN ở các nước cũng như ở nước ta cho thấy, hiệu quả của cuộc
đấu tranh này cũng phụ thuộc rất lớn vào thái độ của người đứng đầu cơ quan
Đảng và Nhà nước cũng như chế tài xử phạt. Nếu người đứng đầu có thái độ kiên
quyết không nửa vời, lại là tấm gương mẫu mực không tham nhũng và có sự đồng
thuận, hỗ trợ của tồn xã hội, thi đấu tranh phòng, chống tham nhũng sẽ có chuyển
biến tích cực và hiệu quả rõ rệt.
Mặt khác, thái độ kiên quyết của người đứng đầu phải được thể hiện ở các
chế tài xử phạt đối với hành vi tham nhũng. Đối với các vụ án tham nhũng cần xét
xử nghiêm minh, kịp thời và công khai với những mức hình phạt thích đáng đối
với các hành vi và hậu quả đã gây ra, áp dụng các biện pháp trừng phạt một cách
triệt để và có hệ thống đối với các hành vi tham nhũng thì sẽ có tác dụng to lớn đối
với việc phòng, chống tham nhũng.

19



Thêm vào đó, cần đào tạo một đội ngũ thẩm phán chuyên xét xử các tội
phạm tham nhũng. Đội ngũ này gồm những người thực sự trung thực, trong sạch,
có bản lĩnh chính trị, có kiến thức và kinh nghiệm chuyên môn để xử lý nghiêm
minh đối với các tội phạm tham nhũng.
3.2.6. Xây dựng và ban hành cơ chế pháp lý về kiện dân sự để thu hồi tài sản
tham nhũng
Thông thường cách thức tốt nhất để xử lý tham nhũng và thu hồi tải sản
tham nhũng là điều tra và truy tố hình sự. Tuy nhiên biện pháp hình sự này cũng có
một số hạn chế, bao gồm yêu cầu tiêu chuẩn cao về bằng chứng buộc tội và chi phí
liên quan đến các nguồn lực và thời gian, điều tra mang tính liên quốc gia. Ngồi
ra truy tố hình sự sẽ khơng có giá trị hoặc gặp trở ngại lớn trong trường hợp người
phạm tội chết hoặc bỏ trốn hoặc được hường quyền miễn trừ.
Theo kinh nghiệm quốc tế, việc thu hồi tài sản tham nhũng có thể khởi kiện
vụ án về tài sản theo trình tự tố tang dân sự. Việc áp dụng các vụ kiện dân sự để
thu hồi tài sản tham nhũng sẽ rất hữu ích trong trường hợp các hành vi tham nhũng
đã được thực hiện trong một thời gian dài, không xử lý được bằng biện pháp hinh
sự. Trước mắt, có thể ắp dụng thu hồi tài sản tham nhũng theo quy trình khởi kiện
dân sự đối với các trường hợp mà nếu áp dụng quy trình tố tụng hình sự để thu hồi
tài sản tham nhũng sẽ không thể thực hiện được hoặc quá khó khăn và tốn kém,
như những trường hợp sau đây:
- Người phạm tội bỏ trốn, không thể mở phiên tịa để phán xử hình sự.
- Người phạm tội chểt hoặc chết trước khi ra phán quyết buộc tội. Sự kiện này
dẫn đến việc két thúc tiến trình tố tụng hình sự.
- Người phạm tội mắc bệnh tâm thần hoặc một bệnh khác làm mất khả năng
nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình.
- Khơng xác định được người phạm tội nhưng phát hiện được tài sản phạm
tội. Nếu tài sản có nguồn gốc từ tội phạm, chủ sờ hữu hoặc người phạm tội có thể
không sẵn sàng bảo vệ theo thù tac dân sự đòi lại tài sản, bởi lo sợ việc này sẽ dẫn

đến truy cứu hình sự.

20


- Khơng đủ chứng cứ để tiếp tục tiến trình truy cứu hỉnh sự đối với người tình
nghi phạm tội.
3.2.7. Hồn thiện chế độ, chính sách về tiền lương cho cán bộ, công chức, viên
chức
Đây được xem là một phương án phòng, chống hữu hiệu đối với nạn tham
nhũng. Bởi một trong những nguyên nhân sâu xa của những hiện tượng tham
nhũng, đó là chế độ tiền lương đối với đội ngũ cán bộ cơng chức cịn bất hợp lý,
chưa đáp ứng được những nhu cầu cơ bản thiết yếu của họ. Vì vậy, cần hồn thiện
các chế độ, chính sách đãi ngộ đối với cán bộ, công chức; nâng mức lương của cán
bộ công chức đủ nuôi sống bản thân, gia đình và có tích lũy thì mới hạn chế được
tham nhũng.
3.2.8. Nâng cao trình độ, năng lực, bản lĩnh và có chế độ khen thưởng bảo vệ đối
với những cán bộ, công chức làm công tác đấu tranh phòng, chống tham
nhũng
Đảng và Nhà nước cầa đào tạo, bồi đường, nâng cao trình độ năng lực
chun mơn, nghiệp vụ cho những cán bộ, công chức thực hiện nhiệm vụ phịng,
chống tham nhũng. Rèn luyện bản lĩnh chính trị khơng khoan nhượng trong phịng,
chống tham nhũng. Có chế độ khen thưởng, đề bạt kịp thời những cán bộ, cơng
chức có thành tích trong phịng, chống tham nhũng. Đồng thời, có cơ chế bảo vệ
đối với những cán bộ, công chức phịng, chống tham nhũng cũng như gia đình họ.

21


KẾT LUẬN

Tham nhũng là một hiện tượng xã hội có tính lịch sử, gắn liền với sự ra đời
và tồn tại của nhà nước. Nó hiện hữu ở tất cả các quốc gia, khơng phân biệt chế độ
chính trị, giàu nghèo, phát triển hay đang phát triển hoặc kém phát triển. Tham
nhũng là hệ quả của quyền lực bị lạm dụng, bị tha hóa. Tham nhũng nảy sinh, tồn
tại và hồnh hành do sự hư hỏng, biến chất khơng chỉ của những người có chức
quyền mà cịn của cả những người được giao thực hiện những cơng vụ bình thường
đã làm biến dạng quyền hạn và công vụ được giao phó. Nói cách khác, quyền hạn
hay cơng vụ trao cho họ đáng lý ra phải được thực hiện vì lợi ích chung của cả xã
hội thì lại bị lạm dụng vào mục đích trục lợi cho riêng cá nhân.
Tham nhũng gây ra nhiều tác hại nghiêm trọng về kinh tế, chính trị, văn hóa
– xã hội, làm mất lịng tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, là một nguy cơ
lớn đe dọa sự tồn vong của chế độ ta. Chính vì thế, PCTN là nhiệm vụ của mọi
quốc gia, mọi cấp, mọi ngành, mọi người dân.
Việt Nam phải thực hiện đồng bộ cả những giải pháp phòng ngừa hữu hiệu
nạn tham nhũng lẫn tích cực đấu tranh chống tham nhũng. Trong đó cần đặc biệt
chú trọng thực hiện các giải pháp như: hoàn thiện các quy định pháp luật về PCTN;
củng cố, kiện toàn cơ quan PCTN; cải cách thủ tục hành chính, xây dựng nền hành
hiện đại, công khai minh bạch; xây dựng đội ngũ CBCCVC chuyên nghiệp và có
phẩm chất đạo đức tốt, kiểm sốt chặt chẽ thu nhập của CBCCVC đi đôi với phát
hiện và xử lý nghiêm minh người có hành vi tham nhũng; huy động sự tham gia
của toàn xã hội trong PCTN. Chú trọng cả các giải pháp PCTN ngay trong cơ
quan, tổ chức, đơn vị chống tham nhũng. Mọi giải pháp trên đây sẽ chỉ là hình thức
nếu thiếu sự quyết tâm chính trị Tỉnh ủy, chính quyền địa phương; sự gương mẫu
và quyết liệt chỉ đạo của người đứng đầu các cấp, các ngành đối với công tác
PCTN. Do vậy, muốn đạt được mục tiêu “ngăn chặn, từng bước đẩy lùi tham
nhũng” phải thực hiện đồng bộ các giải pháp nêu trên.

22



TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
VI, Sđd, tr.86.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
VI, Sđd, tr.86.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam (2008), Văn kiện Hội nghị lần thứ sáu Ban
Chấp hành Trung ương khóa X, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội,
tr45.
4. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XI, Nxb CTQG, H.2011, tr.171-172.
5. Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, (2018), Giáo trình Nhà nước
và pháp luật Việt Nam (dành cho hệ đào tạo Cao cấp lý luận chính trị),
Nxb Lý luận chính trị, tr.415- tr.467.
6. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc
lần thứ XII, Văn phịng Trung ương Đảng, Hà Nội, tr.175 – 176.
7. Quốc Hội (2012), Luật Phòng, chống tham nhũng (sửa đổi) gồm 10
chương với 96 điều, có hiệu lực thi hành từ ngày 1/7/2019.
8. Tổng kết một số vấn đề lý luận, thực tiễn 30 năm đổi mới (1986-2016) về
Tư pháp-Nội chính- Phịng chống tham nhũng. Nxb Chính trị Quốc gia,
Hà Nội, 2014.
9. Nguyễn Văn Kim, Nguyễn Huy Hoàng: Pháp luật chống tham nhũng của
các nước trên thế giới
10.Thanh tra Chính phủ (2014), Một số kinh nghiệm quốc tế về cơng tác
phịng chống tham nhũng, Nxb Lao động

23


×