Tải bản đầy đủ (.pdf) (13 trang)

QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC LÊNIN VỀ TÍNH TẤT YẾU, đặc ĐIỂM CỦA TKQĐ LÊN CNXH LIÊN HỆ VỚI THỰC TIỄN VIỆT NAM QUÁ độ LÊN CNXH BỎ QUA CHẾ độ TƯ BẢN CHỦ NGHĨA

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (660.42 KB, 13 trang )

1

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TPHCM
KHOA VẬT LÍ

BÀI THI TIỂU LUẬN
ĐỀ TÀI: QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁCLÊNIN VỀ TÍNH TẤT YẾU, ĐẶC ĐIỂM CỦA TKQĐ
LÊN CNXH. LIÊN HỆ VỚI THỰC TIỄN VIỆT NAM
QUÁ ĐỘ LÊN CNXH BỎ QUA CHẾ ĐỘ TƯ BẢN
CHỦ NGHĨA
Sinh viên: VÕ NGỌC TÂN (4501102072)
GVHD: Thầy Nguyễn Ngọc Khá


2

1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin về tính tất yếu, đặc điểm của thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội.
1.1. Tính tất yếu khách quan của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Học thuyết hình thái kinh tế- xã hội (HTKTXH) của chủ nghĩa Mác-Lênin
đã chỉ rõ: lịch sử xã hội đã trải qua 5 HTKTXH: Cộng sản nguyên thủy, chiếm hữu nô
lệ, phong kiến, tư bản chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa. So với các hình thái kinh tế xã
hội đã xuất hiện trong lịch sử, HTKTXH cộng sản chủ nghĩa có sự khác biệt về chất,
trong đó khơng có giai cấp đối kháng, con người từng bước trở thành người tự do...„.
Bởi vậy, theo quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin, từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa
xã hội (CNXH) tất yếu phải trải qua thời kỳ quá độ (TKQĐ) chính trị. C. Mác khẳng
định: “Giữa xã hội tư bản chủ nghĩa và xã hội cộng sản chủ nghĩa là một thời kỳ cải biến
cách mạng từ xã hội này sang xã hội kia. Thích ứng với thời kỳ ấy là một TKQĐ chính
trị, và nhà nước của thời kỳ ấy khơng thể là cái gì khác hơn là nền chun chính cách
mạng của giai cấp vơ sản”, V.I.Lênin trong điều kiện nước Nga Xô- viết cũng khẳng


định: “Về lý luận, khơng thể nghi ngờ gì được rằng giữa chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa
cộng sản, có một TKQĐ nhất định”.
Mong muốn có ngay một chế độ xã hội xã hội chủ nghĩa tốt đẹp để thay thế xã
hội tư bản chủ nghĩa bất công, tàn ác là những điều tốt đẹp, là khát vọng chính đáng,
song theo các nhà kinh điển, điều mong ước ấy khơng thể có cánh với phép màu “cầu
được ước thấy"; giai cấp vô sản cần phải có thời gian để cải tạo xã hội cũ do giai cấp bóc
lột dựng nên và xây dựng trên nền móng ấy lâu dài của CNXH.
Tổng kết kinh nghiệm đấu tranh cách mạng của Công xã Pari (1871), C.Mác và
Ph.Ăngghen khẳng định rằng, xây dựng thành công CNXH và chủ nghĩa cộng sản là một
quá trình biện chứng, lâu dài, gồm nhiêu nấc thang quá độ và ở mỗi nấc thang quá độ ấy
có một kiểu quan hệ sản xuất đặc trưng với một hình thức nhà nước thích hợp. Tính tất
yếu của TKQĐ được qui định một cách cụ thể bởi những đặc điểm văn hóa, những đặc
thù của xuất phát điểm của các nước, các chế độ xã hội khác nhau khi tiến lên CNXH.


3

Chính đặc điểm văn hóa và đặc thù của điểm xuất phát khi bước vào TKQĐ sẽ qui định
nội dung, đặc điểm, mục tiêu, nhiệm vụ và độ đài của TKQĐ của mỗi quốc gia. Điều
này cũng có nghĩa, mỗi quốc gia sẽ có TKQĐ từ chủ nghĩa tư bản lên CNXH đặc sắc
riêng của mình.
Khẳng định tính tất yếu của TKQĐ, đồng thời các nhà sáng lập CNXH khoa học
cũng phân biệt có hai loại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa cộng sản, một là quá
độ trực tiếp từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa cộng sản đối với những nước đã trải qua
chủ nghĩa tư bản phát triển. Cho đến nay TKQĐ trực tiếp lên chủ nghĩa cộng sản từ chủ
nghĩa tư bản phát triển chưa từng diễn ra. Hai là quá độ gián tiếp từ chủ nghĩa tư bản lên
chủ nghĩa cộng sản đối với những nước chưa trải qua chủ nghĩa tư bản phát triển. Trên
thế giới một thế kỷ qua, kể cả Liên Xô và các nước Đông Âu trước đây, Trung Quốc,
Việt Nam và một số nước xã hội chủ nghĩa khác ngày nay, theo đúng lý luận Mác- Lênin,
đều đang trải qua TKQĐ gián tiếp với những trình độ phát triển khác nhau.

Xuất phát từ quan điểm cho rằng: chủ nghĩa cộng sản không phải là một trạng
thái cần sáng tạo ra , không phải là một lý tưởng mà hiện thực phải tuân theo mà là kết
quả của phong trào hiện thực, các nhà sáng lập CNXH khoa học cho rằng: Các nước lạc
hậu với sự giúp đỡ của giai cấp vơ sản đã chiến thắng có thể rút ngắn được quá trình phát
triển: “với sự giúp đỡ của giai cấp vô sản đã chiến thắng, các dân tộc lạc hậu có thể rút
ngắn khá nhiều quá trình phát triển của mình lên xã hội xã hội chủ nghĩa và tránh được
phần lớn những đau khổ và phần lớn các cuộc đấu tranh mà chúng ta bắt buộc phải trải
qua ở Tây Âu”. C.Mác, khi tìm hiểu về nước Nga cũng chỉ rõ: “Nước Nga... có thể không
cần trải qua đau khổ của chế độ (chế độ tư bản chủ nghĩa- TG) mà vẫn chiếm đoạt được
mọi thành quả của chế độ ấy".
Vận dụng và phát triển quan điểm của C. Mác và Ph.Ăngghen trong điều kiện
mới, sau cách mạng tháng Mười, V.I.Lênin khẳng định: “với sự giúp đỡ của giai cấp vô
sản các nước tiên tiến, các nước lạc hậu có thể tiến tới chế độ xô- viết, và qua những giai


4

đoạn phát triển nhất định, tiến tới chủ nghĩa cộng sản không phải trải qua giai đoạn phát
triển tư bản chủ nghĩa (hiểu theo nghĩa con đường rút ngắn- TG)”.
Quán triệt và vận dụng, phát tiễn và sáng tạo những lý luận của chủ nghĩa MácLênin, trong thời đại ngay nay, thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên CNXH trên phạm
vi tồn thế giới, chúng ta có thể khẳng định: Với lợi thế của thời đại, trong bối cảnh tồn
cầu hóa và cách mạng cơng nghiệp 4.0, các nước lạc hậu, sau khi giành được chính
quyền, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản có thể tiến thẳng lên CNXH chủ nghĩa bỏ
qua chế độ tư bản chủ nghĩa.
1.2. Đặc điểm TKQĐ lên CNXH.
Thực chất của TKQĐ lên CNXH là thời kỳ cải biến cách mạng từ xã hội
tiền tư bản chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa sang xã hội xã hội chủ nghĩa. Xã hội của TKQĐ
là xã hội có sự đan xen của nhiều tàn dư về mọi phương diện kinh tế, đạo đức, tinh thần
của chủ nghĩa tư bản và những yếu tố mới mang tính chất xã hội chủ nghĩa của CNXH
mới phát sinh chưa phải là CNXH đã phát triển trên cơ sở của chính nó.

Đặc điểm cơ bản của TKQĐ lên CNXH là thời kỳ cải tạo cách mạng sâu sắc, triệt
để xã hội tư bản chủ nghĩa trên tất cả các lĩnh vực, kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, xây
dựng từng bước cơ sở vật chất kỹ thuật và đời sống tinh thần của CNXH. Đó là thời kỳ
lâu dài, gian khổ bắt đầu từ khi giai cấp cơng nhân và nhân dân lao động giành được
chính quyền đến khi xây dựng thành cơng CNXH. Có thể khái quát những đặc điểm cơ
bản của TKQĐ lên CNXH như sau:
Trên lĩnh vực kinh tế, TKQĐ từ chủ nghĩa tư bản lên CNXH, về phương diện
kinh tế, tất yếu tồn tại nền kinh tế nhiều thành phần, trong đó có thành phản đối lập. Đề
cập tới đặc trưng này, V.I.Lênin cho rằng: “Vậy thì danh từ q độ có nghĩa là gì? Vận
dụng vào kinh tế, có phải nó có nghĩa là trong chế độ hiện nay có những thành phần,
những bộ phận, những mảnh của cả chủ nghĩa tư bản lẫn CNXH không? Bất cứ ai cũng
thừa nhận là có. Song khơng phải mỗi người thừa nhận điểm ấy đều suy nghĩ xem các
thành phần của kết cấu kinh tế- xã hội khác nhau hiện có ở Nga, chính là như thế nào?


5

Mà tất cả then chốt của vấn đề lại chính là ở đó”. Tương ứng với nước Nga, V.I.Lênin
cho rằng TKQĐ tồn tại 5 thành phần kinh tế: Kinh tế gia trưởng; kinh tế hàng hóa nhỏ;
kinh tế tư bản; kinh tế tư bản nhà nước; kinh tế xã hội chủ nghĩa.
Trên lĩnh vực chính trị, TKQĐ từ chủ nghĩa tư bản lên CNXH về phương diện
chính trị, là việc thiết lập, tăng cường chun chính vơ sản mà thực chất của nó là việc
giai cấp cơng nhân nắm và sử dụng quyền lực nhà nước trấn áp giai cấp tư sản, tiến hành
xây dựng một xã hội không giai cấp. Đây là sự thống trị về chính trị của giai cấp công
nhân với chức năng thực hiện dân chủ đối với nhân dân, tổ chức xây dựng và bảo vệ chế
độ mới, chuyên chính với những phần tử thù địch, chống lại nhân dân; là tiếp tục cuộc
đấu tranh giai cấp giữa giai cấp vô sản đã chiến thắng nhưng chưa phải đã toàn thắng với
giai cấp tư sản đã thất bại nhưng chưa phải thất bại hoàn toàn. Cuộc đấu tranh diễn ra
trong điều kiện mới, giai cấp công nhân đã trở thành giai cấp cầm quyền, với nội dung
mới xây dựng toàn diện xã hội mới, trọng tâm là xây dựng nhà nước có tính kinh tế, và

hình thức mới cơ bản là hịa bình tổ chức xây dựng.
Trên lĩnh vực tư tưởng- văn hóa, TKQĐ từ chủ nghĩa tư bản lên CNXH còn tồn
tại nhiều tư tưởng khác nhau, chủ yếu là tư tưởng vô sản và tư tưởng tư sản. Giai cấp
công nhân thông qua đội tiền phong của mình là Đảng Cộng sản từng bước xây dựng
văn hóa vơ sản, nền văn hố mới xã hội chủ nghĩa, tiếp thu giá trị văn hóa dân tộc và
tinh hoa văn hóa nhân loại, bảo đảm đáp ứng nhu câu văn hóa tinh thần ngày càng tăng
của nhân dân.
Trên lĩnh vực xã hội, do kết cấu của nền kinh tế nhiều thành phần qui định nên
trong TKQĐ còn tồn tại nhiều giai cấp, tầng lớp và sự khác biệt giữa các giai cấp tầng
lớp xã hội, các giai cấp, tầng lớp vừa hợp tác, vừa đấu tranh với nhau. Trong xã hội của
TKQĐ còn tồn tại sự khác biệt giữa nông thôn, thành thị, giữa lao động trí óc và lao
động chân tay. Bởi vậy, TKQĐ từ chủ nghĩa tư bản lên CNXH, về phương diện xã hội
là thời kỳ đấu tranh giai cấp chống áp bức, bất cơng, xóa bỏ tệ nạn xã hội và những tàn


6

dư của xã hội cũ để lại, thiết lập công bằng xã hội trên cơ sở thực hiện nguyên tắc phân
phối theo lao động là chủ đạo.
2. Liên hệ với thực tiễn Việt Nam quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa.
Lịch sử vận động và phát triển của cách mạng Việt Nam, thực tiễn phát
triển của thế giới suốt thế kỷ XX, cũng như thập niên đầu thế kỷ XXI chứng minh rằng,
nước ta quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là một tất yếu khách quan,
phù hợp với xu thế vận động tiến bộ của thời đại và điều kiện lịch sử cụ thể của Việt
Nam. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong TKQĐ lên CNXH (Bổ sung, phát triển năm
2011) khẳng định: “Đặc điểm nổi bật trong giai đoạn hiện nay của thời đại là các nước
với chế độ xã hội và trình độ phát triển khác nhau cùng tồn tại, vừa hợp tác vừa đấu
tranh, cạnh tranh gay gắt vì lợi ích quốc gia, dân tộc. Cuộc đấu tranh của nhân dân các
nước vì hịa bình, độc lập dân tộc, dân chủ, phát triển và tiến bộ xã hội dù gặp nhiều khó
khăn, thách thức, nhưng sẽ có những bước tiến mới. Theo quy luật tiến hóa của lịch sử,

loài người nhất định sẽ tiến tới CNXH”. Trong xu thế vận động chung đó của thế giới,
thì việc Việt Nam đi lên CNXH là khát vọng của nhân dân ta, là sự lựa chọn đúng đắn
của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, phù hợp với xu thế phát triển
của lịch sử… Đây là một quá trình cách mạng sâu sắc, triệt để, đấu tranh phức tạp giữa
cái cũ và cái mới nhằm tạo ra sự biến đổi về chất trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã
hội, nhất thiết phải trải qua một TKQĐ lâu dài với nhiều bước phát triển, nhiều hình thức
tổ chức kinh tế, xã hội đan xen. Điều đó được lý giải bởi những lẽ sau:
Thứ nhất, trong lịch sử xã hội loài người giữa HTKTXH cũ và HTKTXH mới sẽ
thay thế nó bao giờ cũng có một TKQĐ. Lịch sử phát triển của xã hội loài người là lịch
sử phát triển và thay thế nhau của các HTKTXH. Song, khơng phải HTKTXH này kết
thúc hồn toàn rồi HTKTXH tiếp sau mới ra đời. Giữa HTKTXH cũ bị thay thế và
HTKTXH mới sẽ thay thế nó bao giờ cũng có một giai đoạn chuyển tiếp, một TKQĐ.
Xây dựng xã hội cộng sản chủ nghĩa với giai đoạn đầu là CNXH, một chế độ xã hội mới
hoàn toàn về chất so với các chế độ xã hội trước đó lại càng địi hỏi phải trải qua một


7

TKQĐ lâu dài, đầy khó khăn, khó tránh khỏi những va vấp, đổ vỡ tạm thời. Trong “Phê
phán Cương lĩnh Gô-ta”, các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác đã chỉ ra rằng “Giữa xã hội tư
bản chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa là một thời kỳ cải biến cách mạng từ xã hội nọ sang
xã hội kia. Thích ứng với thời kỳ ấy là một TKQĐ chính trị...”.
Thứ hai, học thuyết Mác- Lê-nin chứng minh rằng, loài người với tính cách một
chỉnh thể nhất thiết phải trải qua 5 HTKTXH. Nhưng, do đặc điểm lịch sử- cụ thể về
không gian và thời gian, do những điều kiện đặc thù khách quan và chủ quan, bên ngoài
và bên trong chi phối, nên không phải quốc gia nào cũng tuần tự trải qua tất cả các
HTKTXH từ thấp đến cao theo một trình tự sơ đồ chung. Mà có những nước có thể bỏ
qua một hoặc vài HTKTXH nào đó trong tiến trình phát triển của mình. Sự bỏ qua này
đã và đang diễn ra trong lịch sử. Từ thực tiễn lịch sử xã hội lồi người có thể rút ra ba
nhận xét: một là, khi vạch ra một sơ đồ tiến hóa xã hội từ HTKTXH thấp lên HTKTXH

cao hơn là chúng ta đã trật tự hóa theo thời gian các trình độ phát triển của các nền văn
minh nhân loại nằm rải rác trong không gian. Hai là, khi một HTKTXH đi đến chỗ kết
thúc, thì xã hội có thể tiến lên một trong nhiều HTKTXH cao hơn, chứ không nhất thiết
chỉ tiến lên một HTKTXH cao hơn. Ba là, nhận xét có tính chất khái qt: lồi người nói
chung thì nhất định phải trải qua cả năm HTKTXH, nhưng từng nước cụ thể thì khơng
nhất thiết phải tuần tự trải qua cả năm HTKTXH, mà có thể bỏ qua một hoặc vài
HTKTXH, đi tắt để tiến lên HTKTXH cao hơn, tùy thuộc điều kiện lịch sử- cụ thể đặc
thù của từng nước. Điều đó hồn tồn phù hợp quy luật khách quan. Lê-nin viết "... tính
quy luật chung của sự phát triển trong lịch sử toàn thế giới đã khơng loại trừ, mà trái lại,
cịn bao hàm một số giai đoạn phát triển mang những đặc điểm hoặc về hình thức, hoặc
về trình tự của sự phát triển đó".
Thứ ba, cũng như lịch sử xã hội lồi người nói chung, trong thời đại ngày nay,
việc bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa quá độ lên CNXH ở Việt Nam là hoàn
toàn phù hợp với yêu cầu khách quan của nền kinh tế. Điều đó được quy định bởi: Một
là, trong hoàn cảnh lịch sử cụ thể hiện nay nước ta có những điều kiện khách quan bên


8

ngoài và bên trong để quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa. Điều kiện bên
ngoài là sự phát triển như vũ bão của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ làm cho
lực lượng sản xuất thế giới phát triển đã đạt đến trình độ cao, đã mở đầu giai đoạn mới
của quá trình xã hội hóa sản xuất, tạo ra cuộc cách mạng trong lĩnh vực kinh tế, tạo điều
kiện hiện thực để nước ta có thể tranh thủ vốn, cơ sở vật chất- kỹ thuật, kinh nghiệm
quản lý của thế giới cho sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, nếu chúng ta
thực hiện hiệu quả phương châm đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ hợp tác kinh tế
quốc tế. Trong điều kiện kinh tế thế giới có bước nhảy vọt về cơ sở vật chất- kỹ thuật,
xã hội loài người đòi hỏi phát triển lên một xã hội mới của nền văn minh cao hơn- đó là
nền văn minh của kinh tế tri thức. Do đó, quá độ lên CNXH là con đường phát triển hợp
quy luật khách quan. Sau chủ nghĩa tư bản nhất định phải là một chế độ xã hội tốt đẹp

hơn- chế độ xã hội chủ nghĩa. Bối cảnh, điều kiện quốc tế mới nêu trên đã tạo khả năng
để Việt Nam chúng ta thực hiện quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa. Điều
kiện bên trong là nước ta đã giành được độc lập dân tộc, có chính quyền của giai cấp
công nhân và nhân dân lao động, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Với những
thắng lợi đã giành được trong hơn những năm qua, đặc biệt là những thành tựu to lớn và
có ý nghĩa lịch sử của 25 năm đổi mới, đất nước ta đã ra khỏi tình trạng nước nghèo,
kém phát triển, bước vào nhóm nước đang phát triển có thu nhập trung bình, đang đẩy
mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, có quan hệ quốc tế rộng rãi, có vị thế quốc tế ngày
càng quan trọng trong khu vực và trên thế giới. Đây là điều kiện tiên quyết, quyết định
con đường quá độ lên CNXH ở nước ta. TKQĐ là thời kỳ mà trình độ phát triển kinh tếxã hội chưa vượt hồn tồn khỏi tiến trình phát triển của chủ nghĩa tư bản, tiến trình đó
phải được tiếp tục đẩy mạnh dưới chính quyền của nhân dân, mà hình thức thích hợp
nhất là chủ nghĩa tư bản nhà nước và kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước xã
hội chủ nghĩa theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đó cũng là tư tưởng cốt lõi của Chính
sách kinh tế mới (NEP) trong TKQĐ lên CNXH do Lê-nin vạch ra. Hai là, hai xu hướng
phát triển khách quan của nền kinh tế nước ta và sự lựa chọn một trong hai xu hướng


9

đó. Sau khi giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, từ nền nơng nghiệp lạc hậu,
mang nặng tính chất tự cung tự cấp, nền kinh tế nước ta nảy sinh một yêu cầu khách
quan là: chuyển kinh tế tự nhiên lên kinh tế hàng hóa và thúc đẩy sản xuất hàng hóa nhỏ
phát triển lên thành sản xuất lớn dựa trên cơ sở kỹ thuật, công nghệ hiện đại. Để đáp ứng
yêu cầu khách quan đó, nền kinh tế nước ta chứa đựng trong mình hai khả năng phát
triển, hai xu hướng vận động. Và nền kinh tế nước ta có thể lựa chọn một trong hai hướng
sau đây: Hướng thứ nhất, để nền kinh tế phát triển tự phát chuyển thành nền kinh tế tư
bản chủ nghĩa, trên cơ sở phân hóa những người sản xuất hàng hóa nhỏ, do tác động của
quy luật giá trị. Nhưng, đi theo hướng này, chủ nghĩa tư bản ra đời, sẽ dẫn đến những
hậu quả sau: Chính quyền do chính nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản
Việt Nam đã phải tốn bao xương máu mới giành được, sẽ bị mất; và chính nhân dân lao

động lại rơi xuống địa vị người làm thuê và bị bóc lột. Đi theo con đường tư bản chủ
nghĩa thì khơng thể thực hiện được mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng,
văn minh. Chúng ta không đi theo con đường tư bản chủ nghĩa vì thời đại ngày nay
khơng phải là thời đại của chủ nghĩa tư bản, mặc dù chủ nghĩa tư bản đang có sự điều
chỉnh để thích nghi với cuộc cách mạng khoa học- cơng nghệ, nhưng chủ nghĩa tư bản
vẫn không thể khắc phục được những mâu thuẫn, bất công xã hội thuộc về bản chất của
chế độ tư bản chủ nghĩa. Theo quy luật phát triển của lịch sử thì chủ nghĩa tư bản khơng
thể khơng bị phủ định. Đó là xu thế khách quan. Chủ nghĩa tư bản là chế độ xã hội đã lỗi
thời về mặt lịch sử, sớm hay muộn cũng phải được thay thế bằng một chế độ xã hội mới,
phát triển ở trình độ cao hơn, với giai đoạn đầu là CNXH. Với sự phát triển mạnh mẽ
của toàn cầu hóa, chính chủ nghĩa tư bản cũng đã và đang tạo ra những tiền đề vật chấtkỹ thuật để chuyển sang CNXH. Hướng thứ hai, là thực hiện quá độ lên CNXH bỏ qua
chế độ tư bản chủ nghĩa dựa trên cơ sở củng cố chính quyền của nhân dân, do nhân dân
và vì nhân dân; dựa vào khối liên minh cơng- nơng- trí thức để tổ chức và huy động mọi
tiềm lực của các tầng lớp nhân dân, tiến hành cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước,
phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, tạo lập cơ sở vật chất- kỹ


10

thuật cho CNXH. Con đường này hoàn toàn mới mẻ và khơng ít khó khăn, nhưng giảm
bớt được đau khổ cho nhân dân lao động. "Động lực chủ yếu để phát triển đất nước là
đại đoàn kết toàn dân trên cơ sở liên minh giữa công nhân với nông dân và trí thức do
Đảng lãnh đạo, kết hợp hài hịa các lợi ích cá nhân, tập thể và xã hội, phát huy mọi tiềm
năng và nguồn lực của các thành phần kinh tế, của toàn xã hội...". Những thành tựu đã
đạt được qua 25 năm đổi mới đã chứng tỏ: chọn con đường thứ hai này là đúng hướng,
phù hợp với lợi ích của cả dân tộc và hồn cảnh lịch sử- cụ thể của nước ta, phù hợp với
xu thế phát triển của thời đại. Bởi lẽ, chỉ có CNXH mới giải phóng được nhân dân lao
động khỏi mọi áp bức, bất công, mới đem lại cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc cho
nhân dân. Toàn bộ lịch sử cách mạng Việt Nam đã chứng minh: quy luật của cách mạng
Việt Nam là độc lập dân tộc gắn liền với CNXH. Chỉ có đi lên CNXH mới giữ được độc

lập, tự do cho dân tộc, như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: muốn cứu nước và giải
phóng dân tộc khơng có con đường nào khác con đường cách mạng vơ sản. Chỉ có CNXH
mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi
ách nô lệ. Và trong thực tiễn, CNXH không những đã trở thành động lực tinh thần, mà
còn là sức mạnh vật chất to lớn góp phần đưa sự nghiệp cách mạng dân tộc dân chủ nhân
dân ở nước ta đến thắng lợi. Quá trình cách mạng do Đảng ta lãnh đạo đã tạo những tiền
đề cả vật chất và tinh thần để có thể "rút ngắn" tiến trình phát triển lịch sử- tự nhiên của
xã hội. Vì thế, trong sự lựa chọn con đường đi lên cho mình, dân tộc ta đã chọn con
đường quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa. Đó là con đường phù hợp cả
về lý luận và thực tiễn, cả về đặc điểm lịch sử- cụ thể trong nước và hồn cảnh quốc tế.
Nói "nước ta quá độ lên CNXH, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa" chỉ có nghĩa là trong
lịch sử nước ta khơng có một giai đoạn, trong đó giai cấp tư sản nắm chính quyền và
quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa giữ địa vị thống trị trong nền kinh tế quốc dân. "Con
đường đi lên của nước ta là sự phát triển quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ tư bản chủ
nghĩa, tức là bỏ qua việc xác lập vị thế thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng
tầng tư bản chủ nghĩa, nhưng tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được


11

dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, đặc biệt về khoa học và công nghệ, để phát triển nhanh
lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại". Con đường đi lên CNXH ở nước ta,
gọi là TKQĐ với ý nghĩa là đất nước ta phải trải qua một trạng thái xã hội mang tính
trung gian, chuyển tiếp giữa HTKTXH cũ và HTKTXH mới, trong đó nền kinh tế là nền
kinh tế quá độ gồm nhiều thành phần kinh tế. TKQĐ lên CNXH bỏ qua chế độ tư bản
chủ nghĩa thực chất là Nhà nước ta tự đảm nhận nhiệm vụ lịch sử phát triển sức sản xuất
của xã hội, tự tạo lập những điều kiện vật chất của sản xuất và những quan hệ xã hội
tương ứng với điều kiện vật chất ấy, làm cơ sở hiện thực cho CNXH. Nghĩa là, dù nước
ta không qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa với tư cách là một HTKTXH thống
trị, nhưng, về phương diện kinh tế phải tơn trọng q trình phát triển tự nhiên của nền

kinh tế, không thể bỏ qua việc phát triển sức sản xuất xã hội, xã hội hóa sản xuất trong
thực tế. Song, những thành tựu của cuộc cách mạng khoa học- công nghệ hiện đại, sự
hợp tác kinh tế quốc tế đa phương, đa dạng cho phép chúng ta tận dụng đại cơng nghiệp
của cả thế giới để có thể "rút ngắn" quá trình phát triển kinh tế đất nước. Sự phát triển
"rút ngắn" chỉ có nghĩa là đẩy nhanh tương đối quá trình phát triển lịch sử tự nhiên, bằng
những khâu trung gian, những hình thức, bước đi quá độ- được coi là cực kỳ cần thiết và
có tác dụng sắc bén đối với những nước mà sản xuất nhỏ là phổ biến đi lên CNXH. Hình
thức kinh tế trung gian, q độ điển hình- đó là chủ nghĩa tư bản nhà nước. Đồng thời,
phải tôn trọng và vận dụng sáng tạo những tính quy luật của q trình phát triển từ sản
xuất nhỏ lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa.
Thứ tư, lịch sử đấu tranh giải phóng dân tộc khỏi ách nô lệ thực dân của nước ta
chứng minh rằng, quá độ lên CNXH là con đường duy nhất để nước ta thốt khỏi ách đơ
hộ của thực dân đế quốc, để thực hiện thành công cách mạng giải phóng dân tộc. Trước
khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, các phong trào yêu nước chống Pháp diễn ra sôi
nổi, không ngừng khắp Bắc, Trung, Nam. Các phong ấy thấm đượm tinh thần yêu nước,
bất khuất, song đều lâm vào bế tắc và cuối cùng thất bại. Đó là sự bế tắc và thất bại về
đường lối chiến lược. Và như vậy, tất cả các phương án chính trị của các giai cấp, từ


12

đường lối cứu nước theo hệ tư tưởng phong kiến, đến những đường lối theo lập trường
nông dân, lập trường tiểu tư sản, lập trường tư sản, đều đã áp dụng và trải qua khảo
nghiệm của lịch sử, rốt cuộc đều thất bại. Trong bối cảnh sự nghiệp đấu tranh giải phóng
dân tộc khỏi ách thực dân đế quốc ở Việt Nam bị bế tắc về đường lối chiến lược, thì
chính Nguyễn Ái Quốc đã đáp ứng trúng nhu cầu lịch sử dân tộc, đưa đất nước đi vào
đúng quỹ đạo thời đại mới. Nguyễn Ái Quốc khẳng định: “Muốn cứu nước và giải phóng
dân tộc khơng có con đường nào khác con đường cách mạng vơ sản”, “chỉ có CNXH,
chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động
trên thế giới khỏi ách nô lệ”. Người lập ra Đảng Cộng sản Việt Nam với Cương lĩnh độc

lập dân tộc gắn liền với CNXH- đường lối đã đưa sự nghiệp Cách mạng Việt Nam không
ngừng phát triển đi lên, không thế lực nào ngăn cản nổi.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân cả nước đã tiến hành
thắng lợi cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945. Sau Cách mạng Tháng Tám,
Đảng ta và nhân dân ta thiết tha mong muốn hịa bình để xây dựng đất nước, song bọn
thực dân đế quốc đã đem quân xâm lược nước ta một lần nữa. Vì độc lập tự do của Tổ
quốc, nhân dân ta buộc phải tiến hành 9 năm kháng chiến chống thực dân Pháp, 20 năm
chống đế quốc Mỹ. Với chiến thắng oanh liệt mùa Xuân năm 1975, cả nước độc lập,
thống nhất, bước vào thời kỳ xây dựng, từng bước quá độ lên CNXH. Từ năm 1975 đến
1985, sự nghiệp xây dựng đạt những thành tựu nhất định. Đại hội VI là mốc lịch sử rất
quan trọng trên con đường xây dựng và phát triển Đảng ta và đất nước ta. Tổng kết 20
năm đổi mới, Đại hội Đảng lần thứ X, năm 2006 đánh giá công cuộc đổi mới đã giành
“những thắng lợi to lớn, có ý nghĩa lịch sử”. Tổng kết 20 năm thực hiện Cương lĩnh xây
dựng đất nước trong TKQĐ lên CNXH (năm 1991), 10 năm thực hiện Chiến lược phát
triển kinh tế- xã hội 2001- 2010, năm năm thực hiện Nghị quyết Đại hội X của Đảng,
Đại hội XI của Đảng ta đánh giá: “Nhìn tổng quát, 5 năm qua (2010- 2015)… toàn Đảng,
toàn dân ta đã nỗ lực phấn đấu đạt được những thành tựu quan trọng… Mười năm thực
hiện Chiến lược phát triển kinh tế- xã hội 2001- 2010… đã đạt được những thành tựu to


13

lớn và rất quan trọng…. Những thành tựu đạt được trong 20 năm thực hiện Cương lĩnh
là to lớn và có ý nghĩa lịch sử”. Nhờ có đường lối cách mạng đúng đắn, được xây dựng
trên cơ sở khoa học là chủ nghĩa Mác- Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, dưới sự lãnh
đạo đúng đắn của Đảng Cộng sản, với sự nỗ lực vượt bậc của toàn Đảng, toàn dân và
toàn quân, “đất nước bước đầu thực hiện thành cơng cơng cuộc đổi mới, ra khỏi tình
trạng kém phát triển, bộ mặt của đất nước và đời sống của nhân dân có nhiều thay đổi;
sức mạnh về mọi mặt được tăng cường, độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh
thổ và chế độ xã hội chủ nghĩa được giữ vững, vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường

quốc tế được nâng cao; tạo tiền đề để nước ta tiếp tục phát triển mạnh mẽ hơn trong giai
đoạn mới”.
Như vậy, cả từ phương diện lý luận, cả từ phương diện thực tiễn vận động
của lịch sử nhân loại suốt thế kỷ XX, thập niên đầu thế kỷ XXI và đặc biệt từ thực tiễn
lịch sử đấu tranh giải phóng, xây dựng đất nước ở Việt Nam, việc nước ta quá độ lên
CNXH bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là một tất yếu khách quan, là hoàn toàn phù hợp
với xu thế của thời đại, với đặc điểm lịch sử- cụ thể của cách mạng Việt Nam, đáp ứng
đúng khát vọng của nhân dân ta.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tài liệu sách báo:
- Giáo trình chủ nghĩa xã hội khoa học (dùng trong các trường đại học, cao đẳng) (tái
bản lần thứ 2)
- Giáo trình học phần chủ nghĩa xã hội khoa học.
- C. Mác và Ph. Ăng-ghen, Tồn tập, Nxb. Chính trị quốc gia sự thật, Hà Nội, 1995.
- Một vài văn kiện chuyên đề của Đảng.
Tài liệu internet:
- />- />


×