Tải bản đầy đủ (.doc) (93 trang)

LUẬN văn THẠC sĩ phát huy vai trò của nhận thức kinh nghiệm đối với cán bộ đoàn ở các trường sĩ quan quân đội hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (413.43 KB, 93 trang )

MỤC LỤC
Trang
3

MỞ ĐẦU

Chương 1

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN PHÁT HUY VAI TRÒ CỦA
NHẬN THỨC KINH NGHIỆM ĐỐI VỚI CÁN BỘ ĐOÀN

1.1.
1.2.

Ở CÁC TRƯỜNG SĨ QUAN QUÂN ĐỘI

13

Thực chất phát huy vai trò nhận thức kinh nghiệm đối
với cán bộ đoàn ở các trường sĩ quan quân đội
Những vấn đề có tính quy luật phát huy vai trị của

13

nhận thức kinh nghiệm đối với cán bộ đoàn ở các
trường sĩ quan quân đội
Chương 2

36

THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT HUY VAI TRÒ CỦA


NHẬN THỨC KINH NGHIỆM ĐỐI VỚI CÁN BỘ ĐOÀN

2.1.

Ở CÁC TRƯỜNG SĨ QUAN QUÂN ĐỘI HIỆN NAY

48

Thực trạng phát huy vai trò của nhận thức kinh nghiệm
đối với cán bộ đoàn ở các trường sĩ quan quân đội hiện

2.2.

nay
Giải pháp cơ bản phát huy vai trò của nhận thức kinh

48

nghiệm đối với cán bộ đoàn ở các trường sĩ quan quân
đội hiện nay
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

62
80
81
85

2



MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Đội ngũ cán bộ đồn có vai trị quyết định nâng cao chất lượng hoạt
động Đoàn và phong trào thanh niên ở các cấp trong toàn quân. Đại hội Đoàn
Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh quân đội lần thứ VIII chủ trương: “Xây
dựng, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ đồn nhiệt tình, trách nhiệm, có tín nhiệm
cao; nắm vững kiến thức, kỹ năng cơng tác Đồn, có kinh nghiệm tham mưu
cho cấp ủy, chính ủy, chính trị viên và cơ quan chính trị về công tác thanh
niên, chủ động, sáng tạo trong công tác; gương mẫu về mọi mặt” [36, tr.49].
Hoạt động Đoàn ở các trường sĩ quan quân đội có đặc thù địi hỏi
tính thực tiễn và hành động cao, nên để xây dựng đội ngũ cán bộ đồn có
đủ phẩm chất, năng lực đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ hiện nay cần nhiều
yếu tố, trong đó, nhận thức kinh nghiệm có vị trí đặc biệt quan trọng.
Nhận thức kinh nghiệm của cán bộ đồn là q trình thu nhận hệ thống
tri thức phản ánh thực tiễn hoạt động Đoàn một cách trực tiếp, cụ thể, là
sự hiện thực hóa các chủ trương, kế hoạch trong các hoạt động Đoàn
thanh niên. Những kinh nghiệm được hình thành trên các mặt hoạt động
cơng tác Đồn góp phần phát triển năng lực tư duy năng động, sáng tạo
của cán bộ đoàn. Mặt khác, nhận thức kinh nghiệm trong hoạt động của
cán bộ đoàn vừa cần thiết cả về góc độ các hoạt động trực tiếp trong
phong trào thanh niên ở các trường sĩ quan cũng như góc độ là kinh
nghiệm cho học viên - những cán bộ đoàn tương lai của đơn vị cơ sở.
Trong những năm qua, với sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp
ủy Đảng, sự chỉ đạo trực tiếp của đội ngũ chính ủy, chính trị viên ở các cấp,
chất lượng hoạt động nhận thức, thực tiễn của đội ngũ cán bộ đồn khơng
ngừng nâng lên. Tuy nhiên, vấn đề phát huy vai trò của nhận thức kinh
nghiệm trong q trình xây dựng đội ngũ cán bộ đồn có nơi, có lúc chưa

3


được chú trọng đúng mức, còn biểu hiện xem nhẹ nên hiệu quả cơng tác Đồn
và phong trào thanh niên cịn hạn chế. Điều đó, dẫn đến tình trạng cán bộ
đồn cịn những điểm hạn chế trong nhận thức, thực tiễn và tổ chức các phong
trào cho đoàn viên, thanh niên ở các đơn vị cơ sở trong các trường sĩ quan
quân đội. Văn kiện Đại hội Đoàn toàn quân lần thứ VIII nhận định: “Cán bộ
đoàn các cấp ở một số đơn vị chưa phát huy hết trách nhiệm, kiến thức và
kinh nghiệm tiến hành cơng tác Đồn và phong trào thanh niên có mặt cịn
hạn chế” [36, tr.45].
Để đáp ứng với yêu cầu đòi hỏi xây dựng đội ngũ cán bộ đồn trong
tình hình mới ở các trường sĩ quan quân đội cần quan tâm phát huy vai trò của
nhận thức kinh nghiệm đối với đội ngũ này để họ có đủ phẩm chất và năng
lực, là kiểu mẫu cho học viên, đoàn viên, thanh niên học tập, tích lũy kinh
nghiệm cho các hoạt động đồn ở đơn vị sau này. Vì vậy, tác giả chọn Phát
huy vai trò của nhận thức kinh nghiệm đối với cán bộ đoàn ở các trường sĩ
quan quân đội hiện nay làm đề tài luận văn của mình.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
* Nhóm cơng trình nghiên cứu về kinh nghiệm, tư duy kinh nghiệm, nhận
thức kinh nghiệm
Bàn về kinh nghiệm có các cơng trình tiêu biểu: Bùi Mạnh Hùng
(2010), Vai trò nhận thức khoa học trong hoạt động quân sự của sĩ quan phân
đội hiện nay, Sách chuyên khảo [13]; Bùi Đình Luận (1992), “Về ranh giới
giữa kinh nghiệm và lý luận trong nhận thức khoa học và hoạt động thực
tiễn”, Tạp chí Triết học [19], Vũ Anh Tuấn (1993), “Kinh nghiệm - thực chất
và ý nghĩa), Tạp chí Triết học [37]…
Về vấn đề nhận thức khoa học đề cập trong sách chuyên khảo “Vai trò
nhận thức khoa học trong hoạt động quân sự của sĩ quan phân đội hiện nay”,
tác giả Bùi Mạnh Hùng đã tiếp cận nhận thức là sự thu nhận tri thức vào ý

thức con người; đời sống xã hội về bản chất là có tính thực tiễn; ý thức, nhận
4


thức chỉ là sự phản ánh hiện thực khách quan vào đầu óc con người. Từ đó,
tác giả quan niệm: nhận thức khoa học là quá trình phản ánh tự giác, tích cực,
sáng tạo hiện thực khách quan của con người thông qua thực tiễn; nhằm đạt
tới hệ thống tri thức đúng đắn về tự nhiên, xã hội và các lĩnh vực khác, nâng
cao khả năng tư duy và hiệu quả hoạt động thực tiễn. Nhận thức khoa học có
cấu trúc phức tạp và có thể tiếp cận theo nhiều góc độ. Nếu tiếp cận theo trình
độ thì nhận thức khoa học bao gồm trực quan khoa học, kinh nghiệm khoa
học, lý luận khoa học. Kinh nghiệm khoa học là những tri thức khoa học được
đúc rút trực tiếp từ lao động sản xuất, hoạt động chính trị - xã hội hoặc thực
nghiệm khoa học dưới sự chỉ đạo của nhận thức lý tính. Tuy nhiên, tác giả
cũng khẳng định kinh nghiệm khoa học chưa đạt tới trình độ khái quát thành
hệ thống lý luận, mà chỉ là sự tiếp tục với chất lượng mới của trực quan khoa
học, vẫn dựa trên cơ sở cảm tính nhưng đồng thời là cơ sở, điều kiện của nhận
thức lý luận, là cầu nối giữa thực tiễn với lý luận khoa học.
Với cách tiếp cận dựa vào trình độ phát triển của tư duy, Bùi Đình
Luận trong Về ranh giới giữa kinh nghiệm và lý luận trong nhận thức khoa
học và hoạt động thực tiễn, coi kinh nghiệm và lý luận là hai cấp độ của quá
trình tư duy của con người. Tác giả cũng cho rằng tri thức kinh nghiệm khác
biệt không chỉ với tri thức lý luận mà còn khác biệt với tri thức cảm tính.
Xét từ phương diện lịch sử thì tri thức kinh nghiệm xuất hiện từ tri thức cảm
tính, cịn tri thức lý luận xuất hiện từ tri thức kinh nghiệm. Và như vậy, tri
thức kinh nghiệm là cái thứ hai so với tri thức cảm tính, nhưng là cái thứ
nhất so với tri thức lý luận, làm cơ sở cho sự hình thành và kiểm tra lý luận.
Quá trình hình thành tri thức kinh nghiệm là quá trình cải tạo, cải biến
những tư liệu cảm tính thơng qua sự phân loại, hệ thống hóa và khái quát
hóa những tài liệu do nhận thức ở trình độ cảm tính đem lại. Tác giả cịn đề

cập đến trên thực tế có ít nhất hai dạng của tri thức kinh nghiệm khoa học:
trước lý luận và sau lý luận. Do vậy, theo tác giả, việc phân định ranh giới
5


giữa kinh nghiệm và lý luận chỉ là tạm thời, tương đối, bởi lẽ, kinh nghiệm
khoa học sau lý luận tiếp tục trở thành tiền đề để hình thành lý luận ở trình
độ cao hơn trong quá trình tư duy con người tiến tới nhận thức bản chất thế
giới một cách sâu sắc hơn.
Về vấn đề tư duy kinh nghiệm có các cơng trình của Hồng Chí Bảo
(1988), “Từ tư duy kinh nghiệm đến tư duy lý luận”, Thông tin lý luận [02];
Trần Thị Thuận Vũ (2008), “Tư duy kinh nghiệm và vai trị của nó trong hoạt
động thực tiễn”, Tạp chí Triết học [39]; Hồng Đình Chiều (2015), “Ảnh
hưởng tư duy kinh nghiệm của học viên đào tạo chính ủy ở Học viện Chính trị
hiện nay”, Đề tài khoa học cấp Học viện [05]…
Trong bài Từ tư duy kinh nghiệm đến tư duy lý luận, tác giả Hồng Chí
Bảo đã quan niệm tư duy kinh nghiệm là quá trình phản ánh hiện thực một
cách gián tiếp, mang tính khái qt hóa và tích cực của chủ thể nhận thức để
rút ra những tri thức mới về sự vật, hiện tượng khách quan. Từ việc tìm ra các
nguyên nhân hình thành tư duy kinh nghiệm, tác giả đã khẳng định tư duy
kinh nghiệm đã ở vào giai đoạn nhận thức lý tính, nhưng nó là lý tính chưa
đầy đủ. Tư duy kinh nghiệm thường thiên về mơ tả các hình thức sự vật hơn
là phân tích, khái qt để tìm ra bản chất của sự vật. Do vậy, tư duy kinh
nghiệm mới chỉ là giai đoạn phát triển thấp của tư duy. Con đường của nhận
thức khoa học không chỉ dừng lại ở trình độ tư duy kinh nghiệm, mà tất yếu
phải phát triển nhận thức ở trình độ tư duy lý luận và sự kiểm nghiệm lý luận
bằng thực tiễn.
Đề cập đến vai trò của tư duy kinh nghiệm, tác giả Trần Thị Thuận Vũ
trong bài Tư duy kinh nghiệm và vai trị của nó trong hoạt động thực tiễn đã
phân tích, luận giải về tư duy kinh nghiệm và khẳng định: tư duy kinh nghiệm

là một giai đoạn của nhận thức lý tính, mà trong đó người ta rút ra những tri
thức về sự vật, hiện tượng khách quan, chủ yếu thông qua con đường khái
quát, quy nạp những tài liệu kinh nghiệm. Tư duy kinh nghiệm được hình
6


thành một cách trực tiếp trong quá trình hoạt động thực tiễn của chủ thể nhằm
mục đích cải biến khách thể. Nó thường phản ánh những thuộc tính, tính chất
của các đối tượng có tác động trực tiếp tới chủ thể. Theo tác giả, tư duy kinh
nghiệm có những giá trị, ưu thế nhất định như: hướng tới giải quyết những
nhiệm vụ trước mắt, cụ thể, đang đặt ra, góp phần loại bỏ những giải pháp
không phù hợp mà tư duy lý luận đưa ra, kết nối giữa lý luận và thực tiễn, thu
hẹp khoảng cách giữa lý luận và thực tiễn. Tuy vậy, tư duy kinh nghiệm có
những hạn chế mà tự nó khơng thể vượt qua. Do đó, để phát huy vai trò của tư
duy kinh nghiệm, cần phải đặt nó trong mối liên hệ thống nhất với tư duy lý
luận, bởi chỉ có tư duy lý luận mới khắc phục được tính chất phiến diện, hạn
hẹp của tư duy kinh nghiệm.
Tập thể tác giả đề tài cấp Học viện năm 2015 ở Học viện Chính trị do
Hồng Đình Chiều làm Chủ nhiệm với nhan đề Ảnh hưởng tư duy kinh nghiệm
của học viên đào tạo chính ủy ở Học viện Chính trị hiện nay cho rằng: Tư duy
kinh nghiệm là quá trình phản ánh gián tiếp hiện thực khách quan của chủ thể
nhận thức, chủ yếu thông qua khái quát hóa kinh nghiệm, nhằm rút ra những tri
thức về khách thể nhận thức. Với đối tượng cụ thể là học viên đào tạo chính ủy
ở Học viện Chính trị, tập thể tác giả đã chỉ ra vai trị của tư duy kinh nghiệm đó
là ảnh hưởng trong nâng cao khả năng tiếp thu tri thức và phát triển năng lực tổ
chức thực tiễn công tác đảng, công tác chính trị của họ. Biểu hiện cụ thể, đó là
tư duy kinh nghiệm tạo tiền đề hình thành và phát triển tư duy lý luận của học
viên; tư duy kinh nghiệm của học viên giúp họ phát hiện những vấn đề mới
trong quá trình tiếp thu tri thức lý luận; tư duy kinh nghiệm còn giúp học viên
vận dụng linh hoạt tri thức lý luận, nâng cao năng lực tổ chức hoạt động thực

tiễn công tác đảng, công tác chính trị ở đơn vị cơ sở.
Bàn về nhận thức kinh nghiệm có các cơng trình tiêu biểu: Vũ Anh
Tuấn (1994), Nhận thức kinh nghiệm - những biểu hiện đặc thù và ảnh hưởng
của nó trong hoạt động nhận thức thực tiễn cải tạo, xây dựng xã hội hiện nay,
7


Luận án tiến sĩ triết học [38]; Phạm Đức Thuận (1997), Nâng cao năng lực
nhận thức và vận dụng kinh nghiệm vào hoạt động quân sự của đội ngũ sĩ
quan cấp phân đội quân đội ta hiện nay, Luận án Cao học khoa học xã hội
nhân văn [32]…
Trong cơng trình Luận án tiến sĩ triết học Nhận thức kinh nghiệm những biểu hiện đặc thù và ảnh hưởng của nó trong hoạt động nhận thức
thực tiễn cải tạo, xây dựng xã hội hiện nay, tác giả Vũ Anh Tuấn đã luận giải
khá sâu sắc về bản chất của nhận thức kinh nghiệm, phân tích các đặc trưng
cơ bản của nhận thức kinh nghiệm để phân định với nhận thức lý luận về mặt
bản chất và hình thức thể hiện của nó. Theo đó, nhận thức kinh nghiệm là q
trình nhận thức dựa vào những tập hợp tri thức nhất định đã được con người
thu nhận, tích lũy bằng quan sát, thực nghiệm và bằng các hoạt động có tính
trực tiếp khác trong sự tác động với thế giới khách thể. Luận án cũng phân
tích ảnh hưởng cả tích cực và tiêu cực của nhận thức kinh nghiệm đối với đội
ngũ cán bộ nước ta trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội. Tác giả cũng
chỉ ra những nguyên nhân về kinh tế, chính trị, văn hóa của xã hội Việt Nam
cả trong lịch sử truyền thống và hiện tại đối với nhận thức kinh nghiệm của
đội ngũ cán bộ nước ta. Đồng thời, Luận án đề cập và phân tích tính tất yếu và
giải pháp để tạo ra bước chuyển nhận thức từ trình độ kinh nghiệm lên trình
độ lý luận trong hoạt động nhận thức và thực tiễn, góp phần xây dựng đội ngũ
cán bộ trong q trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay.
Tác giả Phạm Đức Thuận trong Luận án Cao học khoa học xã hội nhân
văn với nhan đề Nâng cao năng lực nhận thức và vận dụng kinh nghiệm vào
hoạt động quân sự của đội ngũ sĩ quan cấp phân đội quân đội ta hiện nay, đã

phân tích: Trong quá trình nhận thức thế giới, năng lực nhận thức của con
người có những cấp độ khác nhau: năng lực nhận thức kinh nghiệm, năng lực
nhận thức lý luận, tương ứng với nó là hai cấp độ tri thức: kinh nghiệm và lý
luận. Kinh nghiệm là kết quả hoạt động nhận thức của con người được hình
8


thành, phát triển thông qua hoạt động thực tiễn ở mỗi giai đoạn, mỗi thời
điểm lịch sử nhất định. Kinh nghiệm chính là những tri thức có được nhờ khái
qt trực tiếp từ hoạt động thực tiễn, quan sát và thực nghiệm. Nội dung của
kinh nghiệm, vì thế, ln có tính lịch sử, cụ thể và cịn mang nhiều yếu tố đặc
thù. Tuy nhiên, kinh nghiệm mới chỉ phản ánh được cái bề ngoài chứ chưa
phải cái bản chất bên trong sự vật, mới phản ánh được tổng số giản đơn chứ
chưa phản ánh được mối liên hệ tất yếu, quy luật của sự vật. Từ sự phân tích
trên tác giả đưa ra quan niệm: Năng lực nhận thức kinh nghiệm là khả
năng đạt tới tri thức kinh nghiệm của con người trong q trình phản ánh
khách quan thơng qua hoạt động thực tiễn. Muốn nâng cao năng lực nhận
thức và vận dụng kinh nghiệm vào hoạt động quân sự của đội ngũ sĩ quan
cấp phân đội cần phải có tư chất quân sự, phải bảo đảm tính khoa học,
phải có tính sáng tạo, phải kế thừa những tri thức quân sự của dân tộc và
nhân loại. Để đạt được các yêu cầu trên đây cần phải tập trung thực hiện
tốt các giải pháp: nâng cao trình độ tri thức khoa học toàn diện cho đội
ngũ sĩ quan cấp phân đội; nâng cao năng lực tổ chức thực tiễn cho đội ngũ
sĩ quan cấp phân đội hiện nay; nâng cao năng lực tổng kết thực tiễn cho sĩ
quan phân đội.
* Nhóm cơng trình nghiên cứu về cán bộ đồn ở nhà trường qn đội
Ở nhóm cơng trình này có Bùi Huy Thống (2003), Nâng cao chất
lượng đội ngũ cán bộ đoàn ở Hệ đào tạo sĩ quan của Học viện Hải quân
trong tình hình hiện nay, Luận văn thạc sĩ xây dựng Đảng [31]; Nguyễn
Ngọc Hải (2006), Xây dựng đội ngũ cán bộ đoàn ở các tiểu đoàn học viên

đào tạo sĩ quan của Học viện Hậu cần hiện nay, Luận văn thạc sĩ xây dựng
Đảng [12]…
Tác giả Bùi Huy Thống trong đề tài luận văn Nâng cao chất lượng đội
ngũ cán bộ đoàn ở Hệ đào tạo sĩ quan của Học viện Hải quân trong tình hình
hiện nay với phạm vi nghiên cứu về hoạt động của đội ngũ cán bộ đoàn ở một
9


trường sĩ quan quân đội cụ thể là Học viện Hải quân, tác giả đã nêu bật vai trò
của hệ thống cấp ủy, chỉ huy các cấp từ Đảng ủy, Ban Giám đốc Học viện
đến cấp ủy, chỉ huy, cán bộ chính trị viên ở các đơn vị có tổ chức Đồn, cơ
quan chính trị và tổ chức Đồn ở các đơn vị đối với việc nâng cao chất lượng
đội ngũ cán bộ đồn. Từ đó, luận văn đề ra nhiều giải pháp để nâng cao chất
lượng đội ngũ cán bộ đồn ở Học viện Hải qn đó là phải nâng cao nhận
thức, trách nhiệm của hệ thống các chủ thể, lực lượng trong nhà trường, chăm
lo xây dựng đội ngũ cán bộ đồn trong tổng thể cơng tác cán bộ nói chung.
Phát huy vai trị nỗ lực chủ quan của đội ngũ cán bộ đoàn trong mọi mặt hoạt
động cơng tác Đồn và phong trào thanh niên.
Nguyễn Ngọc Hải trong nội dung luận văn Xây dựng đội ngũ cán bộ
đoàn ở các tiểu đoàn học viên đào tạo sĩ quan của Học viện Hậu cần hiện
nay đã đề cập đến vai trị của người cán bộ đồn ở Học viện Hậu cần như là
yếu tố quyết định nâng cao chất lượng hoạt động Đoàn thanh niên ở nhà
trường. Theo tác giả, muốn xây dựng đội ngũ cán bộ đoàn ở các tiểu đoàn học
viên ở Học viện Hậu cần vững mạnh đòi hỏi nhiều yếu tố, biện pháp đồng bộ,
trong đó cần đặc biệt quan tâm đến việc bồi dưỡng về mọi mặt tri thức, kinh
nghiệm, kỹ năng, phương pháp và phong cách làm việc cho họ. Luận văn đã
nêu lên thực trạng những vấn đề còn hạn chế, bất cập về xây dựng đội ngũ
cán bộ đoàn ở các tiểu đoàn học viên đào tạo sĩ quan ở Học viện Hậu cần hiện
nay. Theo tác giả, một trong những nguyên nhân ảnh hưởng tới những bất
cập, hạn chế đó chính là q trình đào tạo sĩ quan, bồi dưỡng nguồn cán bộ

đồn cho đơn vị cơ sở cịn chưa được quan tâm đúng mức. Thực tiễn đó đặt ra
cho hoạt động cơng tác đảng, cơng tác chính trị các giải pháp về tư tưởng, tổ
chức để từng bước xây dựng đội ngũ cán bộ đoàn ở các tiểu đoàn học viên
đào tạo sĩ quan ở Học viện Hậu cần đủ về số lượng, có chất lượng ngày càng
cao, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong giai đoạn mới.
10


Như vậy đã có nhiều cơng trình nghiên cứu về hoạt động của cán bộ
đoàn, về nhận thức và tư duy kinh nghiệm cũng như ảnh hưởng và phát huy
vai trị của nó trong thực tiễn hoạt động Đồn. Song, đến nay chưa có cơng
trình nào nghiên cứu một cách cơ bản, tồn diện và có hệ thống về Phát huy
vai trò của nhận thức kinh nghiệm đối với cán bộ đoàn ở các trường sĩ quan
quân đội hiện nay. Vì vậy, đề tài luận văn khơng trùng lặp với các cơng trình
khoa học đã nghiên cứu.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích nghiên cứu
Làm rõ những vấn đề lý luận, thực tiễn từ đó đề xuất các giải pháp
phát huy vai trò của nhận thức kinh nghiệm đối với cán bộ đoàn ở các trường
sĩ quan quân đội hiện nay.
* Nhiệm vụ nghiên cứu
- Luận giải thực chất và những vấn đề có tính quy luật phát huy vai trò
của nhận thức kinh nghiệm đối với cán bộ đoàn ở các trường sĩ quan quân đội.
- Đánh giá thực trạng phát huy vai trò của nhận thức kinh nghiệm đối
với cán bộ đoàn ở các trường sĩ quan quân đội hiện nay.
- Đề xuất giải pháp cơ bản phát huy vai trò của nhận thức kinh nghiệm
đối với cán bộ đoàn ở các trường sĩ quan quân đội hiện nay.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu
Bản chất và những vấn đề có tính quy luật phát huy vai trò của nhận

thức kinh nghiệm đối với cán bộ đoàn ở các trường sĩ quan quân đội.
* Phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu phát huy vai trị của nhận thức kinh nghiệm đối với cán bộ
đồn chuyên trách và kiêm chức trong hoạt động Đoàn ở các trường sĩ quan
quân đội. Phạm vi nghiên cứu, khảo sát ở các trường sĩ quan quân đội phía
Bắc từ năm 2011 đến năm 2015 (trong đó số liệu khảo sát chủ yếu ở 03
trường: Trường Sĩ quan Lục quân 1, Trường Sĩ quan Chính trị và Trường Sĩ
quan Pháo binh).
11


5. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu
* Cơ sở lý luận
Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin; tư tưởng Hồ Chí Minh, đường
lối của Đảng Cộng sản Việt Nam, nghị quyết, chỉ thị của Qn ủy Trung
ương, Bộ Quốc phịng, Tổng cục Chính trị về xây dựng đội ngũ cán bộ nói
chung, cán bộ đồn nói riêng trong thời kỳ mới đáp ứng u cầu nhiệm vụ của
cách mạng. Lý luận nhận thức mácxít là cơ sở lý luận trực tiếp của đề tài.
* Cơ sở thực tiễn
Qua thực tế khảo sát, điều tra, nghiên cứu hệ thống tài liệu tổng kết của
các trường sĩ quan quân đội, qua nắm bắt trực tiếp của bản thân về phát huy
vai trò của nhận thức kinh nghiệm đối với cán bộ đoàn ở các trường sĩ quan
quân đội hiện nay.
* Phương pháp nghiên cứu
Luận văn vận dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện
chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, trực tiếp là các phương pháp phân tích,
tổng hợp, điều tra xã hội học và phương pháp chuyên gia. Đồng thời, tích cực
sử dụng các phương pháp cụ thể như tọa đàm, trao đổi, quan sát…
6. Ý nghĩa của đề tài
Kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ góp phần cung cấp thêm cơ sở

khoa học để nhận thức đầy đủ hơn về nhận thức kinh nghiệm, phát huy vai
trò của nhận thức kinh nghiệm đối với cán bộ đoàn ở trường sĩ quan quân đội.
Luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo trong các trường sĩ quan
quân đội.
7. Kết cấu của đề tài
Luận văn gồm: Mở đầu, 2 chương (4 tiết), kết luận, danh mục tài liệu
tham khảo và phụ lục.

12


Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN PHÁT HUY VAI TRỊ
CỦA NHẬN THỨC KINH NGHIỆM ĐỐI VỚI CÁN BỘ ĐỒN
Ở CÁC TRƯỜNG SĨ QUAN QUÂN ĐỘI

1.1. Thực chất phát huy vai trò của nhận thức kinh nghiệm đối
với cán bộ đoàn ở các trường sĩ quan quân đội
1.1.1. Nhận thức kinh nghiệm và nhận thức kinh nghiệm của cán
bộ đoàn ở các trường sĩ quan quân đội
* Nhận thức kinh nghiệm
Kinh nghiệm - thuật ngữ bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp “empeiria” để chỉ
những tri thức mà con người có được do tiếp xúc, quan sát, thực nghiệm. Việc
xem xét kinh nghiệm như một khái niệm triết học đã được thể hiện trong một
số trường phái triết học trước Mác. Trong đó, khi nghiên cứu, bàn luận về kinh
nghiệm có thể quy về hai trường phái đối lập nhau là chủ nghĩa duy vật và chủ
nghĩa duy tâm. Tính chất chủ quan, thần bí của chủ nghĩa duy tâm và tính chất
ngây thơ, tự phát, siêu hình, trực quan, khơng triệt để của chủ nghĩa duy vật
được thể hiện rõ trong phương pháp phân tích khái niệm kinh nghiệm.
Những nhà triết học theo đường lối duy tâm đã đề cao tính chất chủ

quan, thần bí trong phương pháp phân tích khái niệm kinh nghiệm. Các đại
biểu triết học duy tâm khách quan đã phủ nhận mọi tri thức kinh nghiệm, chỉ
cơng nhận tri thức tiên nghiệm, tri thức có trước và ngồi kinh nghiệm mà
thơi. Cịn các nhà duy tâm chủ quan phủ nhận nguồn gốc khách quan của
kinh nghiệm và cho rằng cảm giác là hiện thực duy nhất được con người
nhận thức.
Những người theo đường lối duy vật đã có cơng lao to lớn trong đấu
tranh chống lại quan điểm duy tâm, thần bí khi thừa nhận nội dung khách quan
của kinh nghiệm nhưng họ lại phân chia kinh nghiệm một cách máy móc và
tách rời mối quan hệ giữa kinh nghiệm với các yếu tố khác trong hoạt động
13


nhận thức của con người, mới thấy được sự tác động một chiều từ thế giới
khách quan vào con người làm nảy sinh kinh nghiệm.
Phê phán hạn chế của các quan niệm trên đây về kinh nghiệm, C.Mác
viết: “Khuyết điểm chủ yếu của toàn bộ chủ nghĩa duy vật từ trước đến nay kể cả chủ nghĩa duy vật của Phoiơbắc - là sự vật, hiện thực, cái cảm giác
được, chỉ được nhận thức dưới hình thức khách thể hay hình thức trực
quan, chứ khơng được nhận thức là hoạt động cảm giác của con người”
[21, tr.9].
Khác hẳn với các quan điểm triết học trước đó, C.Mác, Ph.Ăngghen
và V.I.Lênin đã chỉ ra bản chất khách quan và ý nghĩa căn bản của kinh
nghiệm trong quá trình tác động của con người với thế giới khách quan.
Kinh nghiệm có nội dung khách quan và được hình thành trong quá trình
tác động giữa con người và thế giới hiện thực. Kinh nghiệm - theo các ông,
không phải chỉ là những tập hợp cảm giác mà nó cũng đạt tới trình độ lý
tính song còn chưa đầy đủ, chưa sâu sắc. Kinh nghiệm không chỉ cung cấp
thông tin trực tiếp từ thế giới đối tượng vào tư duy mà cịn có khả năng
sàng lọc, sửa đổi những giả thuyết của tư duy. Đề cập đến kinh nghiệm,
C.Mác đã viết: “Nếu như người ta thu được mọi tri thức và cảm giác,

v.v., của mình từ thế giới cảm tính và từ kinh nghiệm trong thế giới
cảm tính thì do đó cần phải tổ chức thế giới xung quanh sao cho người
ta nhận thức và lĩnh hội được ở đó cài gì thực sự hợp với tính
người”[20, tr.199]. Trong tác phẩm “Biện chứng của tự nhiên”, Ph.Ăngghen
khẳng định có hai loại kinh nghiệm: bên ngồi, vật chất và bên trong - các
quy luật và hình thức của tư duy. Kinh nghiệm bên ngoài là kết quả của sự
trải nghiệm cuộc sống hàng ngày, có thể là sự đúc rút từ lao động sản xuất,
từ đấu tranh xã hội và hoạt động nghiên cứu khoa học. Còn kinh nghiệm
bên trong, tức là kinh nghiệm tư duy, là sự đúc kết về các quy luật và hình
thức tư duy, và đây chính là thể hiện tính độc lập tương đối của tư duy. Còn
14


V.I.Lênin nhấn mạnh: “kinh nghiệm của những cá nhân phải được tổ chức
về mặt xã hội” [17, tr.609].
Kinh nghiệm là một dạng tri thức phản ánh hiện thực khách quan, cho
nên xét về mặt nhận thức luận, kinh nghiệm là tính thứ hai, thế giới khách quan
là tính thứ nhất. Tức là xét về hình thức thì kinh nghiệm là cái thuộc về chủ
quan, là hình thức của ý thức, của tư duy, còn về mặt nội dung, kinh nghiệm ln
mang nội dung khách quan, nó phản ánh thế giới khách quan. V.I.Lênin đã chỉ rõ
những người duy vật thừa nhận thực tại khách quan mà họ nhận được trong kinh
nghiệm vì họ “thừa nhận một nguồn gốc khách quan, độc lập đối với con người”
[16, tr.149]. Nhưng kinh nghiệm không phải là sự thể hiện nội dung thụ động
của ý thức mà là kết quả sự tác động tích cực của con người đối với thế giới
khách quan.
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại nhiều tư tưởng có giá trị cao về
kinh nghiệm, tư duy kinh nghiệm trong nhận thức của con người nói chung,
trong nhận thức và hoạt động thực tiễn của con người Việt Nam nói riêng trong
cơng cuộc xây dựng và cải tạo đất nước. Mặc dù Hồ Chí Minh khơng để lại tác
phẩm chuyên khảo nào về lý luận nhận thức, nhận thức kinh nghiệm nhưng cả

cuộc đời của Người, những chuyến đi, những bài nói chuyện, những lời nhắc
nhở … đều thể hiện các nội dung thống nhất nhận thức và thực tiễn. Người nhắc
nhở: “Học tập chủ nghĩa Mác - Lênin là học cái tinh thần xử trí mọi việc, đối với
mọi người và đối với bản thân mình, là học tập những chân lý phổ biến của chủ
nghĩa Mác - Lênin để áp dụng một cách sáng tạo vào hoàn cảnh thực tế của nước
ta” [26, tr.611]. Đề cập đến việc tích lũy kinh nghiệm cơng tác, trong “Thư gửi
Quân sự tập san”, Người nhấn mạnh: “… cần phải nghiên cứu kinh nghiệm cũ
để giúp cho thực hành mới, lại đem thực hành mới để phát triển kinh nghiệm
cũ, làm cho nó đầy đủ dồi dào thêm” [25, tr.417].
Các nhà triết học mácxít Liên Xơ (trước đây) trong “Từ điển triết học”
do M.Rô-den-tan và P.I-u-đin (chủ biên) quan niệm kinh nghiệm là “sự kiểm
15


tra những tri thức của chúng ta bằng thực nghiệm… hoặc bằng sự quan sát
giới hiện thực xung quanh” [30, tr.422]. Cịn Cơp-nhin cho rằng: “Kinh
nghiệm hướng tới nhận thức những thuộc tính và những quan hệ bên ngồi
của các hiện tượng trên cơ sở kinh nghiệm trực tiếp” [29, tr.36].
Các nhà nghiên cứu triết học Việt Nam có nhiều quan điểm khác nhau
về vấn đề kinh nghiệm. Tác giả Nguyễn Duy Quý trong cuốn “Nhận thức thế
giới vi mô” đã quan niệm “thông tin kinh nghiệm thu nhận được trên cơ sở
nhận thức cảm tính được phân tích bằng nhận thức lý tính…”[29, tr.19]. Hữu
Ngọc và tập thể tác giả của “Từ điển triết học giản yếu” cho rằng kinh nghiệm
là “tập hợp tri thức đã tích lũy được do kết quả của nhận thức cảm tính” [27,
tr.244]. Cịn “Từ điển Tiếng Việt” quan niệm kinh nghiệm là “điều hiểu biết
có được do tiếp xúc với thực tế, do từng trải” [33, tr.510]. Từ những phân tích
và quan điểm trên đây, có thể hiểu:
Kinh nghiệm là những tri thức được rút ra một cách trực tiếp trong quá
trình hoạt động thực tiễn của con người.
Trong quá trình tác động giữa con người với thế giới hiện thực, gắn liền

với và thông qua hoạt động thực tiễn, con người trực tiếp thu nhận, tích lũy và
hình thành những thơng tin nhất định. Những thông tin này bước đầu mới
phản ánh một số thuộc tính đơn giản, bề mặt của đối tượng. Sau đó nhờ lặp đi
lặp lại và củng cố thông qua những kỹ năng hoạt động của con người, những
thơng tin đó được tập hợp thành những tri thức mang tính trực quan. Kinh
nghiệm có một số đặc trưng cơ bản là:
Thứ nhất, kinh nghiệm là những tri thức hình thành trên cơ sở của sự
tác động trực tiếp của con người trong quan hệ với thế giới xung quanh.
Kinh nghiệm khơng đồng nhất với cảm tính mặc dù biểu hiện trực tiếp đầu
tiên của kinh nghiệm là có tính chất cảm tính. Kinh nghiệm được hình thành
bằng sự quan sát trực tiếp, bằng hoạt động thực nghiệm, bằng các hoạt động
mang tính trực tiếp khác. Kinh nghiệm được hình thành trên cơ sở những
16


thao tác, và những hoạt động trực tiếp thường xuyên được củng cố, được lặp
đi lặp lại nhiều lần. Cố nhiên, kinh nghiệm cũng chứa đựng trong bản thân
nó những yếu tố của lý tính, có tính chất lý tính. Sản phẩm của kinh nghiệm
bao giờ cũng là sự thống nhất của hai q trình cảm tính và lý tính.
Thứ hai, kinh nghiệm là một hình thức, một trình độ nhận thức của con
người về thế giới khách quan. Kinh nghiệm “vừa là kết quả nhận thức của con
người, vừa là một yếu tố, một công đoạn cần thiết cho con người trong quá
trình nhận thức, cải tạo giới tự nhiên, xã hội và bản thân. Trong quá trình nhận
thức, cải tạo thế giới hiện thực, con người không thể khơng có kinh nghiệm,
song kinh nghiệm chỉ phản ánh một trình độ nhất định trong tồn bộ q trình
nhận thức và cải tạo thế giới hiện thực của con người” [38, tr.9]. Kinh nghiệm
được thể hiện qua các cấp độ khác nhau:
Nếu hình thành từ những tập hợp tri thức đơn giản, kinh nghiệm phản
ánh hiện thực ở cấp độ thơng thường - đó là kinh nghiệm thơng thường
Nếu hình thành qua thực nghiệm khoa học và đã được thực tế khảo

nghiệm, khi ấy kinh nghiệm trở thành những kinh nghiệm khoa học, có giá trị
nhất định cho con người trong quá trình cải tạo xã hội hiện thực. Trong sự
phát triển của xã hội, hai loại tri thức kinh nghiệm này ngày càng xâm nhập
lẫn nhau.
Thứ ba, kinh nghiệm phản ánh trình độ hoạt động thực tiễn và nhận
thức của con người ở một giai đoạn, một thời điểm lịch sử nhất định. Thế hệ
trước truyền lại cho thế hệ sau những kinh nghiệm đã đạt được và thế hệ sau
khi kế thừa kho tàng q báu đó, thơng qua hoạt động thực tiễn lại làm giàu
thêm cho kho tàng ấy bằng những kinh nghiệm mới, đồng thời làm đầy đủ,
chính xác thêm những kinh nghiệm cũ bằng hàng loạt những tư liệu mới.
Ph.Ăngghen khẳng định: “hiện nay, không nhất thiết là mỗi cá thể riêng biệt
cứ phải trải qua tất cả để có kinh nghiệm mà trên một mức độ nào đó, kinh
17


nghiệm cá biệt của nó có thể được thay thế bằng kết quả của những kinh
nghiệm của hàng loạt tổ tiên nó” [1, tr.767].
Thứ tư, kinh nghiệm là những tri thức cụ thể, trực tiếp về đối tượng xác
định. Kinh nghiệm bao giờ cũng mang tính riêng (của một cá thể, một nhóm
người) trong một khu vực, trong một hồn cảnh, một thời gian lịch sử nhất
định. Vì thế kinh nghiệm không thể trở thành khuôn mẫu để áp dụng máy
móc cho các chủ thể, các đối tượng khác nhau. Vì vậy, việc học tập, tiếp thu
kinh nghiệm, vận dụng kinh nghiệm địi hỏi phải có chọn lọc, sáng tạo trên
nguyên tắc kế thừa và có quan điểm lịch sử, cụ thể.
Kinh nghiệm và lý luận là những bậc thang của lý tính nhưng lại khác
nhau về trình độ phản ánh hiện thực. Chức năng của lý luận và kinh nghiệm
cũng có sự khác nhau: lý luận nặng về định hướng, mang tính chất tác động
gián tiếp đối với khách thể hiện thực, trong khi đó kinh nghiệm mang tính tác
động trực tiếp cải biến khách thể hiện thực. Tuy vậy, giữa kinh nghiệm và lý
luận có mối quan hệ thống nhất với nhau, như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã

khẳng định: “Có kinh nghiệm mà khơng có lý luận cũng như một mắt sáng,
một mắt mờ” [24, tr.234].
Triết học Mác - Lênin khẳng định nhận thức là quá trình phản ánh
hiện thực khách quan bởi con người, là quá trình tạo thành tri thức trong bộ
óc con người về hiện thực khách quan. Nhờ có nhận thức, con người mới có
ý thức về thế giới. Thế giới vật chất tồn tại khách quan ở ngoài và độc lập
với ý thức của con người, tác động vào các giác quan sinh ra cảm giác, từ đó
đi tới hình thành ý thức. Con người (cá nhân, nhóm người, giai cấp, dân tộc
hoặc cả nhân loại) là chủ thể tích cực, sáng tạo của nhận thức. Khi nhận thức
các yếu tố của chủ thể như lợi ích, lý tưởng, tài năng, ý chí, phẩm chất đạo
đức… đều tham gia vào q trình nhận thức với những mức độ khác nhau và
ảnh hưởng đến kết quả nhận thức. Còn khách thể nhận thức là một bộ phận
18


nào đó của hiện thực mà nhận thức hướng tới nắm bắt, phản ánh, nó nằm
trong phạm vi tác động của hoạt động nhận thức.
Nhận thức không phải là một hành động tức thời, giản đơn, máy móc và
thụ động mà là một quá trình biện chứng phức tạp, mang tính tích cực, sáng tạo
của chủ thể đối với khách thể. Đó là q trình nhận thức đi từ hiện tượng đến
bản chất, từ bản chất kém sâu sắc đến bản chất sâu sắc hơn. Vì vậy, “Trong lý
luận nhận thức, cũng như trong tất cả các lĩnh vực khác của khoa học, cần suy
luận một cách biện chứng, nghĩa là đừng giả định rằng nhận thức của chúng ta
là bất di, bất dịch và có sẵn, mà phải phân tích xem sự hiểu biết nảy sinh từ sự
khơng hiểu biết như thế nào, sự hiểu biết không đầy đủ và khơng chính xác trở
thành đầy đủ hơn và chính xác hơn như thế nào” [16, tr.117].
Trong lý luận nhận thức, triết học Mác - Lênin đã tạo nên bước ngoặt
cách mạng trong lịch sử khi đề cập đến thực tiễn và vai trò của thực tiễn đối
với nhận thức. Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, thực tiễn là
những hoạt động vật chất có mục đích, mang tính lịch sử - xã hội của con

người nhằm cải tạo tự nhiên và xã hội. Thực tiễn có vai trị to lớn đối với nhận
thức, nó là cơ sở, mục đích và động lực chủ yếu của nhận thức; thực tiễn còn
là tiêu chuẩn của nhận thức, chân lý.
Phân chia nhận thức có nhiều khía cạnh, nếu theo các giai đoạn của
q trình nhận thức có nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính. Căn cứ vào
tính chất tự phát hay tự giác của sự xâm nhập vào bản chất của sự vật thì
nhận thức có thể được phân chia ra thành nhận thức thông thường và nhận
thức khoa học. Xét về trình độ thâm nhập vào bản chất của đối tượng, ta có
thể phân chia thành nhận thức kinh nghiệm và nhận thức lý luận. Nhận thức
kinh nghiệm và nhận thức lý luận là hai trình độ nhận thức khác nhau về đối
tượng, tính chất, chức năng cũng như hình thức và trình tự phản ánh.
19


Nhận thức kinh nghiệm là quá trình nhận thức dựa vào những tập hợp
tri thức nhất định đã được con người thu nhận, tích lũy bằng quan sát, thực
nghiệm và bằng các hoạt động có tính trực tiếp khác trong sự tác động với
thế giới khách thể
Nhận thức kinh nghiệm là sự phản ánh trực tiếp và nó diễn ra một q
trình thơng qua sự tác động trực tiếp giữa chủ thể và khách thể trên cơ sở thực
tiễn. Nhận thức kinh nghiệm với tính cách là một trình độ, một phương pháp
trong hoạt động nhận thức thế giới khách quan của con người. Dựa vào những
tập hợp tri thức đã tích lũy được, nhận thức kinh nghiệm phản ánh đối tượng
một cách trực tiếp - chủ yếu bằng quan sát trực quan, bằng hoạt động thực
nghiệm. Nhận thức kinh nghiệm tham gia vào q trình hiện thực hóa các
biểu hiện trong hoạt động nhận thức, đồng thời có khả năng xã hội hóa những
biểu hiện đó trong đời sống nhận thức của xã hội. Một khi đã hình thành,
nhận thức kinh nghiệm tỏ ra ổn định, bền vững. Nhận thức kinh nghiệm có
vai trị to lớn trong hoạt động nhận thức và thực tiễn của con người.
Nhận thức kinh nghiệm là điểm xuất phát, là cơ sở quan trọng của quá

trình nhận thức. Quá trình nhận thức kinh nghiệm càng phong phú thì càng
tạo ra nhiều dữ kiện cho khái quát lý luận, đặc biệt là trong hoạt động thực
tiễn xã hội thì kinh nghiệm của mỗi người là hết sức quan trọng để giúp nhận
thức đúng về xã hội. Thiếu kinh nghiệm, khoa học không thể phát triển được,
khoa học đã và luôn luôn gắn liền với kinh nghiệm. Tiến bộ khoa học - kỹ
thuật ngày nay, những lý thuyết khoa học bậc cao của tư duy sẽ khơng thể có
được, nếu thiếu các ngành khoa học có tính chất kinh nghiệm. Khoa học hiện
đại biết tới hàng tỷ dạng vật chất trong tự nhiên mà hầu hết chúng đều được
tìm ra bằng con đường kinh nghiệm. Cũng có thể khẳng định được như vậy
đối với các yếu tố hóa học, các lồi sinh vật và động vật .v.v…
Nhận thức kinh nghiệm có vai trị to lớn đối với quá trình nhận thức và
phát triển tư duy của con người. Nhận thức kinh nghiệm là nấc thang không
thể thiếu trong quá trình nhận thức của con người. Thiếu nhận thức kinh
20


nghiệm thì khơng thể có nhận thức lý luận. Lý luận xét ở góc độ nhất định
chính là kết quả của sự tổng kết, khái quát những kinh nghiệm. Nếu lý luận
tách rời khỏi kinh nghiệm, không được xuất phát từ kinh nghiệm nói chung,
thì lý luận đó rất dễ chỉ là một sự tưởng tượng hoang đường hoặc là một sản
phẩm thuần túy của ý thích chủ quan mà thơi. Nói về mối quan hệ giữa kinh
nghiệm và lý luận, Ph.Ăngghen cũng khẳng định khơng có kinh nghiệm thì
khơng có sự khám phá thực sự về những quy luật tất yếu, nội tại của sự vật,
hiện tượng. Về quan điểm này, Ph.Ăngghen cho rằng: “… Cái mà Hêghen coi
là sự phát triển của hình thức tư duy của phán đốn với tính cách là phán
đốn, thì ở đây, đã thành ra sự phát triển của những tri thức lý luận của chúng
ta về bản chất của sự vận động nói chung, tri thức đưa trên một cơ sở kinh
nghiệm. Chính cái đó chứng minh rằng những quy luật của tư duy và những
quy luật của tự nhiên nhất trí với nhau một cách tất nhiên” [29, tr.10]. Mỗi lần
tổng kết, khái quát kinh nghiệm cũng có nghĩa là một sự tích lũy dần về lượng

để dần dần hình thành nên lý luận. V.I.Lênin đã chỉ rõ: “Muốn hiểu biết thì
phải bắt đầu tìm hiểu, nghiên cứu từ kinh nghiệm, từ kinh nghiệm mà đi đến
cái chung” [17, tr.220].
Nhận thức kinh nghiệm và nhận thức lý luận có sự thống nhất trong
khác biệt. Kinh nghiệm thông thường cũng không chỉ là kết quả của nhận
thức cảm tính mà cịn là kết quả hoạt động của tư duy trừu tượng ở một
mức độ nhất định. Tuy vậy, kinh nghiệm không chỉ khác biệt với lý luận
mà còn khác biệt với tri thức cảm tính. Nếu xét từ phương diện sinh thành
thì kinh nghiệm xuất hiện từ tri thức cảm tính, cịn lý luận xuất hiện từ kinh
nghiệm, trên cơ sở của kinh nghiệm. Như vậy kinh nghiệm là cái thứ hai so
với tri thức cảm tính nhưng là cái thứ nhất so với lý luận. Đó là xét từ góc
độ sinh thành, trên thực tế thì kinh nghiệm khơng chỉ là kết quả của nhận
thức cảm tính mà cịn là kết quả của hoạt động tư duy trừu tượng ở mức độ
nhất định. Tức là kinh nghiệm đã có tính chất lý tính, bởi lẽ trong q trình
21


hình thành kinh nghiệm đã có sự tham gia tích cực của lý tính. Nếu khơng
có các khái niệm, phán đốn, suy lý và được thể hiện bằng ngơn ngữ thì
con người khơng thể diễn đạt ra bằng ngơn ngữ các kinh nghiệm của mình.
Tóm lại, nhận thức kinh nghiệm là một trình độ của nhận thức con
người, mang đầy đủ những yếu tố của nhận thức nói chung và có những đặc
điểm riêng biệt mang tính đặc thù, đó là tính trực tiếp, tính lịch sử, cụ thể.
Nhận thức kinh nghiệm có vai trị quan trọng trong hoạt động nhận thức và
thực tiễn của con người.
* Nhận thức kinh nghiệm của cán bộ đoàn ở các trường sĩ quan quân đội
Đội ngũ cán bộ đoàn ở các trường sĩ quan quân đội là một bộ phận cán
bộ đoàn trong quân đội, họ là những sĩ quan, học viên được tập thể đồn viên,
thanh niên tín nhiệm, bầu cử, suy tơn làm “thủ lĩnh’ của phong trào Đồn từ
cấp chi đoàn, liên chi đoàn, đoàn cơ sở đến cấp nhà trường. Cán bộ đoàn ở

các trường sĩ quan quân đội là những người trực tiếp tham mưu, đề xuất cho
cấp ủy, người chỉ huy, cơ quan chính trị về nội dung, biện pháp lãnh đạo, chỉ
đạo cơng tác Đồn và phong trào thanh niên. Cán bộ đoàn là người trực tiếp
theo dõi, duy trì, quản lý mọi mặt về thanh niên và công tác thanh niên ở đơn
vị, là người đại diện và bảo vệ cho quyền làm chủ tập thể và nguyện vọng, lợi
ích chính đáng của đồn viên, thanh niên.
Đặc điểm cơ bản của đội ngũ cán bộ đoàn ở các trường sĩ quan quân
đội hầu hết là kiêm nhiệm và kiêm chức, vừa phải hoàn thành nhiệm vụ
chun mơn, học tập, rèn luyện, vừa có trách nhiệm duy trì và phát triển hoạt
động Đồn ở các đơn vị. Một số rất ít là sĩ quan trẻ, trợ lý chính trị của hệ,
tiểu đồn quản lý học viên, còn hầu hết là học viên đào tạo sĩ quan. Đây là đội
ngũ trẻ, khỏe, năng động, có điều kiện được lựa chọn qua thực tiễn hoạt động
Đồn, ln nhiệt huyết, phấn đấu để thực sự là “cánh chim đầu đàn”, thủ
lĩnh thực sự của tổ chức Đoàn đảm trách. Với tính chất hoạt động tập trung,
22


cán bộ đoàn ở các trường sĩ quan quân đội là những người thường xuyên
trực tiếp ăn, ở, sinh hoạt và học tập, rèn luyện với đoàn viên, thanh niên
hằng ngày nên có điều kiện đi sâu nắm bắt kịp thời những diễn biến tư
tưởng, tâm tư nguyện vọng của đoàn viên để đề xuất với cấp ủy, chỉ huy
các cấp những nội dung, biện pháp tiến hành công tác Đồn và phong trào
thanh niên một cách có chất lượng, hiệu quả. Mặt khác, hoạt động đồn và
các mơ hình, kinh nghiệm tổ chức phong trào hành động của tuổi trẻ ở các
trường sĩ quan quân đội còn là bài học thực tiễn để các học viên - đoàn viên
học hỏi, tích lũy cho hành trang của mình sau này tốt nghiệp sẽ đảm nhiệm
cơng tác Đồn và phong trào thanh niên ở đơn vị cơ sở. Do vậy mỗi mơ
hình kinh nghiệm hay của hoạt động đồn ở các trường sĩ quan quân đội sẽ
đạt mục tiêu “kép” của nó - vừa là thực hiện nhiệm vụ tại trường, vừa là
kiến thức, kinh nghiệm được mỗi học viên, đoàn viên tích lũy, học hỏi cho

cơng tác của mình sau khi tốt nghiệp.
Tuy vậy, trình độ của đội ngũ cán bộ đồn ở các trường sĩ quan qn
đội khơng đồng đều, với đặc điểm lớn nhất là kinh nghiệm thực tế trong cơng
tác Đồn và phong trào thanh niên hầu hết cịn ít. Điều đó hạn chế rất lớn đến
khả năng vận động, tập hợp giáo dục, nắm bắt tâm tư, tình cảm, phân tích
đánh giá tình hình tư tưởng, nguyện vọng của đoàn viên, thanh niên. Đội ngũ
cán bộ đoàn hầu hết chưa được bồi dưỡng, đào tạo nghiệp vụ cơng tác Đồn
một cách cơ bản, chủ yếu vẫn là qua sự học hỏi, trao đổi kinh nghiệm giữa
các thế hệ với nhau và sự hướng dẫn, bồi dưỡng của cán bộ chính trị, cơ quan
chính trị sau mỗi kỳ đại hội đồn, do vậy đội ngũ này cịn thiếu kiến thức,
kinh nghiệm và kỹ năng cơng tác đồn, nhất là khả năng thiết kế các mơ hình
hoạt động sát với nhiệm vụ học tập và nghiên cứu khoa học, phù hợp mục
tiêu, yêu cầu nhiệm vụ ở các nhà trường.
23


Hoạt động của người cán bộ đoàn ở các trường sĩ quan quân đội theo
quy định của Điều lệ Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh bao gồm các
mặt cơng tác chủ yếu đó là: cơng tác giáo dục đồn viên, thanh niên, cơng tác
tổ chức các phong trào thanh niên và cơng tác xây dựng Đồn, Đồn tham gia
xây dựng Đảng [34, tr.49-50].
Cơng tác giáo dục đồn viên, thanh niên: Đồn Thanh niên Cộng sản
Hồ Chí Minh với chức năng giáo dục cộng sản tiến hành các hoạt động giáo
dục lý tưởng xã hội chủ nghĩa cho đoàn viên, thanh niên. Đây là sợi chỉ đỏ
xuyên suốt quá trình hoạt động, là nhiệm vụ giữ vai trị quan trọng hàng
đầu của người cán bộ đoàn [35, tr.76]. Cụ thể ở các trường sĩ quan quân
đội, công tác giáo dục đoàn viên, thanh niên với mục tiêu cao nhất là hình
thành nên những người cán bộ, sĩ quan tương lai ưu tú của quân đội, đáp
ứng với đòi hỏi của sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa
trong thời kỳ cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa.

Tổ chức các phong trào thanh niên: Các hoạt động này vô cùng đa dạng,
phong phú để nội dung giáo dục, rèn luyện, bồi dưỡng thế hệ trẻ được chuyển
tải, xuyên suốt những phong trào cụ thể, thiết thực, đưa thanh niên vào hoạt
động, tôi luyện và trưởng thành [35, tr.76-77]. Ở các trường sĩ quan quân đội thì
hoạt động phong trào thanh niên thường hướng trọng tâm vào thực hiện nhiệm
vụ chính trị trung tâm của nhà trường, đó là công tác giáo dục, đào tạo, nghiên
cứu khoa học, công tác rèn luyện học viên, các hoạt động phong trào mang đậm
màu sắc tuổi trẻ như văn hóa, văn nghệ, thể dục, thể thao, góp phần thực hiện tốt
hoạt động kết nghĩa, dân vận của đơn vị.
Công tác xây dựng Đoàn, Đoàn tham gia xây dựng Đảng: tổ chức cơ
sở đoàn ở các trường sĩ quan quân đội là nơi tổ chức thực hiện mọi chủ
trương của Đoàn, là nơi rèn luyện, phấn đấu của mỗi đoàn viên, đồng thời là
cầu nối giữa thanh niên với tổ chức Đoàn, nên việc xây dựng tổ chức Đoàn
vững mạnh là nhiệm vụ vô cùng quan trọng [35, tr.79]. Đặc thù của quá trình
24


hoạt động Đoàn ở các trường sĩ quan quân đội là phấn đấu đạt được mục tiêu
“kép” khi thanh niên tốt nghiệp ra trường với mơ hình sĩ quan - đảng viên nên
cơng tác Đồn tham gia xây dựng Đảng phải thường xuyên được chú trọng,
để tổ chức Đoàn xứng đáng là đội hậu bị tin cậy, là cơ sở vững chắc góp phần
xây dựng tổ chức Đảng trong sạch, vững mạnh.
Mỗi mặt hoạt động có vị trí, vai trị khác nhau nhưng đều chung mục
đích là thúc đẩy các hoạt động của tuổi trẻ ở các trường sĩ quan quân đội và
mỗi mặt hoạt động đều đòi hỏi người cán bộ đồn phải có sự tích lũy kinh
nghiệm qua q trình nhận thức bởi thực tiễn hoạt động Đồn và phong
trào thanh niên.
Nhận thức kinh nghiệm của cán bộ đồn ở các trường sĩ quan qn đội
là q trình thu nhận hệ thống tri thức phản ánh trực tiếp các mặt hoạt động
của cơng tác Đồn và phong trào thanh niên nhà trường thông qua thực tiễn.

Nhận thức kinh nghiệm của cán bộ đoàn ở các trường sĩ quan quân đội
bao gồm quá trình thu nhận những kinh nghiệm trên tất cả các mặt hoạt động
căn bản. Nó được hình thành thơng qua q trình quan sát trực tiếp và tổ chức
các mơ hình hoạt động thực nghiệm của cơng tác Đồn và phong trào thanh niên
ở các trường sĩ quan quân đội, vừa là kết quả vừa là cơ sở, tiền đề cho những nội
dung tiến hành của cơng tác Đồn và phong trào thanh niên. Nổi lên là:
Thứ nhất, hệ thống tri thức cụ thể, trực tiếp về hoạt động thực tiễn cơng
tác giáo dục đồn viên, thanh niên. Cơng tác giáo dục đồn viên, thanh niên ở
các trường sĩ quan quân đội đặt ra yêu cầu cao về nội dung, hình thức, phương
pháp trong đó kinh nghiệm về thuyết phục, nêu gương của người cán bộ đồn
mang tính chủ đạo, cơ bản. Đồn viên, thanh niên ở các trường sĩ quan qn đội
có trình độ nhận thức cao, với mục tiêu là phấn đấu trở thành sĩ quan chỉ huy,
chính trị, kỹ thuật … nên cơng tác giáo dục phải đa dạng, phong phú theo hướng
để đồn viên, thanh niên biến q trình giáo dục thành quá trình tự giáo dục, vừa
là đối tượng chịu tác động vừa là chủ thể tích cực của nhiệm vụ giáo dục.
25


Thứ hai, hệ thống tri thức cụ thể, trực tiếp về tổ chức các phong trào
thanh niên. Với lực lượng đồn viên, thanh niên đơng đảo, lại có điều kiện
thuận lợi về nhiều mặt như trình độ, năng khiếu của họ trong các hoạt động
nên phong trào thanh niên ở các trường sĩ quan quân đội được tiến hành
thường xuyên, rộng khắp. Người cán bộ đoàn ở các trường sĩ quan qn đội
cần phải có sự tích lũy kinh nghiệm tổng hợp về các loại hình phong trào
thanh niên đa dạng, phong phú, trong đó trọng tâm hướng vào các hoạt động
giáo dục, đào tạo, nghiên cứu khoa học của nhà trường. Tạo ra nhiều mơ hình
hoạt động tốt, hiệu quả để góp phần tập hợp đồn viên, thanh niên tham gia
với tinh thần, trách nhiệm và khí thế của tuổi trẻ. Phong trào thanh niên ở các
trường sĩ quan quân đội phải xứng đáng là “kiểu mẫu” cho các cán bộ đoàn
tương lai ở đơn vị cơ sở sau này. Phong trào thanh niên phải gắn với phong

trào thi đua quyết thắng ở đơn vị có tổ chức Đồn.
Thứ ba, hệ thống tri thức cụ thể, trực tiếp về cơng tác xây dựng Đồn,
Đồn tham gia xây dựng Đảng. Cơng tác xây dựng tổ chức Đồn nằm trong
nội dung xây dựng các tổ chức quần chúng vững mạnh, góp phần xây dựng tổ
chức Đảng, chính quyền ở các trường sĩ quan quân đội vững mạnh. Nhiệm
vụ công tác này đòi hỏi những kinh nghiệm rất đặc thù đối với cán bộ đoàn
với nhiều thủ pháp đa dạng, đặc trưng của xây dựng tổ chức quần chúng.
Quá trình xây dựng tổ chức Đoàn vững mạnh, người cán bộ đoàn cần quán
triệt tốt sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy, chỉ huy các cấp, góp phần đắc lực
để Đồn thực sự là đội hậu bị tin cậy của Đảng, bổ sung nguồn đảng viên
trẻ cho Đảng.
Cùng với hệ thống tri thức cụ thể, trực tiếp về các mặt hoạt động cơ
bản của người cán bộ đoàn ở các trường sĩ quan qn đội thì các yếu tố tình
cảm, ý chí, niềm tin… cũng tham gia tích cực và có ảnh hưởng, chi phối
nhất định đến quá trình nhận thức kinh nghiệm của họ. Trong đó tình cảm
26


×