Tải bản đầy đủ (.doc) (101 trang)

LUẬN văn THẠC sĩ phát huy vai trò đội ngũ cán bộ làm công tác vận động quần chúng của bộ đội biên phòng hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (449.95 KB, 101 trang )

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Cán bộ là một trong những nhân tố có ý nghĩa quyết định đối với sự
thành công hay thất bại của sự nghiệp cách mạng. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
khẳng định: “Cán bộ là cái gốc của mọi công việc” [34, tr.269], “công việc
thành công hay thất bại là do cán bộ tốt hay kém”[34, tr.240]. Chính vì vậy,
trong mọi thời kỳ của cách mạng, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh thường
xuyên chăm lo đến cán bộ và công tác cán bộ, coi cơng tác cán bộ và phát huy
vai trị của đội ngũ cán bộ là vấn đề có tầm chiến lược quan trọng đối với sự
nghiệp cách mạng nói chung và sự nghiệp bảo vệ biên giới quốc gia nói riêng.
Bảo vệ biên giới quốc gia là sự nghiệp của toàn Đảng, toàn dân, toàn
quân và cả hệ thống chính trị. Sự bền vững, ổn định biên giới quốc gia là điều
kiện, tiền đề đảm bảo cho sự ổn định về chính trị, quốc phịng, an ninh, tạo
mơi trường thuận lợi cho phát triển kinh tế - xã hội và mở rộng giao lưu, hội
nhập quốc tế để phát triển. Do đó, việc quản lý, bảo vệ biên giới quốc gia luôn
là vấn đề trọng yếu; là nghĩa vụ và trách nhiệm của toàn Đảng, toàn quân và
toàn dân ta hiện nay, trong đó BĐBP được xác định là lực lượng nịng cốt.
Biên giới phía Bắc là biên giới giữa Việt Nam với Trung Quốc; là địa bàn
có vị trí chiến lược quan trọng về chính trị, kinh tế, quốc phịng, an ninh và đối
ngoại; có địa hình rừng núi xa xôi, hẻo lánh. Phần lớn dân cư là đồng bào các dân
tộc thiểu số, đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội cịn rất khó khăn. Từ trước đến nay,
các thế lực thù địch luôn lợi dụng vấn đề dân tộc, tơn giáo, kích động chia rẽ khối
đại đồn kết tồn dân... Tình hình trên thường xun tạo ra những nhân tố gây
mất ổn định an ninh và trật tự an toàn xã hội ở khu vực biên giới.
Trước yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ Biên giới quốc gia, công tác VĐQC
tham gia bảo vệ biên giới quốc gia của BĐBP trên tuyến biên giới phía Bắc có
vị trí, vai trị hết sức quan trọng. Cơng tác vận động quần chúng vừa là chức
năng, vừa là nhiệm vụ và là biện pháp cơ bản để tiến hành các biện pháp cơng
tác nghiệp vụ biên phịng khác trong quản lý, bảo vệ Biên giới quốc gia. Vì

3




vậy, phát huy vai trò đội ngũ cán bộ làm công tác VĐQC tham gia báo vệ biên
giới quốc gia phía Bắc là vấn đề cấp thiết đặt ra trong tình hình hiện nay.
Để phát huy vai trị đội ngũ cán bộ làm công tác vận động quần chúng
của Bộ đội Biên phòng tham gia bảo vệ chủ quyền biên giới quốc gia phía
Bắc, trong những năm qua cấp uỷ, chỉ huy BĐBP các cấp đã không ngừng
chăm lo xây dựng cả về số lượng và chất lượng; tạo mọi điều kiện cho đội
ngũ này phát huy tốt vai trò của mình trong cơng tác VĐQC. Hoạt động của
đội ngũ cán bộ biên phịng làm cơng tác vận động quần chúng đã tạo sự
chuyển biến tích cực và góp phần nâng cao hiệu quả công tác VĐQC tham gia
bảo vệ chủ quyền biên giới quốc gia đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình
hình mới. Tuy nhiên, việc phát huy vai trị đội ngũ cán bộ làm cơng tác
VĐQC của Bộ đội Biên phòng còn bộc lộ một số mặt yếu kém, hạn chế cần
khắc phục, mà trước hết là nhận thức, trách nhiệm và năng lực thực tiễn của
họ. Vì vậy, “Phát huy vai trị đội ngũ cán bộ làm công tác vận động quần
chúng của Bộ đội Biên phịng hiện nay”là vấn đề thực sự cấp thiết, có ý nghĩa
cả trên phương diện lý luận và thực tiễn.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Trên cơ sở nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
và quan điểm của Đảng ta về vai trò của quân đội trong sự nghiệp xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc, về tầm quan trọng của đội ngũ cán bộ trong sự nghiệp
cách mạng, đã có nhiều cơng trình khoa học đi sâu nghiên cứu vấn đề này ở
những góc độ, khía cạnh khác nhau. Liên quan đến vấn đề nghiên cứu của đề
tài có các cơng trình tiêu biểu như:
* Những cơng trình khoa học nghiên cứu về con người và phát huy
vai trò nhân tố con người
Cơng trình: Đặng Quốc Cẩm, “Phát huy nhân tố chủ quan trong tự
học của học viên đào tạo Sĩ quan Công binh hiện nay”, Luận văn thạc sĩ
triết học, Học viện Chính trị quân sự, Hà Nội, 2003; Nguyễn Thúc Lanh,

“Vai trò ngày càng tăng của nhân tố con người trong nâng cao chất lượng

4


thông tin liên lạc quân sự hiện nay”, Luận văn thạc sĩ triết học, Học viện
chính trị quân sự, Hà Nội, 1997; Đinh Xuân Khuê, “Phát huy vai trò nhân
tố chủ quan của đội ngũ giáo viên trong giáo dục, đào tạo ở Trường sĩ quan
Lục quân 2 hiện nay”, Luận văn thạc sĩ triết học, Học viện chính trị qn sự,
Hà Nội, 2005....
Những cơng trình trên đã đề cập đến nhiều khía cạnh về vai trị của
con người đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; đồng thời,những
cơng trình trên cũng đã phân tích một cách hệ thống việc nâng cao chất
lượng nhân tố con người của cán bộ, chiến sĩ trong quân đội nhân dân Việt
Nam. Các cơng trình trên, đã khẳng định nhân tố con người là trung tâm, là
chủ thể quyết định có vai trò ngày càng tăng lên trước sự phát triển của sức
mạnh chiến đấu. Việc nâng cao chất lượng nhân tố con người, phát huy vai
trò nhân tố con người là vấn đề cơ bản lâu dài, đặc biệt hiện nay đang trở
thành vấn đề cấp thiết. Chất lượng nhân tố con người đó đang đứng trước
yêu cầu phát triển của vũ khí - kỹ thuật, trước yêu cầu xây dựng sức mạnh
chiến đấu và đấu tranh trên mặt trận chính trị - tư tưởng. Từ đó, các cơng
trình đã đề ra các giải pháp, như bồi dưỡng phẩm chất chiến đấu cho cán
bộ, chiến sỹ, đặc biệt phẩm chất chính trị - đạo đức; kết hợp với xây dựng
tổ chức quân đội vững mạnh, chú trọng xây dựng sức mạnh tổng hợp của
đất nước để nâng cao chất lượng nhân tố con người..v.v...
* Những cơng trình khoa học nghiên cứu về cán bộ, công tác xây dựng
và phát huy vai trị đội ngũ cán bộ trong và ngồi qn đội
Đề cập đến vấn đề cán bộ và công tác xây dựng, phát huy vai trị đội ngũ
cán bộ có các cơng trình khoa học như:
Nguyễn Phú Trọng, Trần Xn Sầm (đồng chủ biên), “Luận cứ khoa học

cho việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ trong thời kỳ đẩy mạnh cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”, đề tài khoa học cấp Nhà nước, Hà Nội,
2012 [41]. Công trình trên đã làm rõ các khái niệm về cán bộ, vị trí, vai trị cán

5


bộ và công tác cán bộ, các tiêu chuẩn cán bộ, phát hiện, đào tạo,bồi dưỡng và sử
dụng cán bộ cũng như các tiêu chí để phân loại cán bộ phù hợp với sự nghiệp
xây dựng đất nước trong thời kỳ mới. Cơng trình cũng đã đề cập đến vấn đề xây
dựng người cán bộ trong các thời đại phong kiến Việt Nam và các giai đoạn cách
mạng của Đảng và của một số nước trên thế giới để từ đó rút ra kinh nghiệm xây
dựng đội ngũ cán bộ trong thời kỳ mới.
Cơng trình “Nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ chính trị
quân đội nhân dân Việt Nam trong thời kỳ mới”, của Tổng cục Chính trị do Trần
Xuân Trường chủ biên, Hà Nội, 2002 [43], đã đi sâu làm rõ vị trí, vai trị của
việc đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ chính trị trong quân đội trong các thời kỳ
cách mạng; đánh giá thực trạng của đội ngũ này và đề ra các giải pháp để nâng
cao chất lượng tuyển chọn, đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng đội ngũ cán bộ này để
đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ xây dựng quân đội trong giai đoạn cách mạng mới.
Nguyễn Quang Phát, “Xây dựng đội ngũ cán bộ chính trị phân đội của
quân đội nhân dân Việt Nam trong giai đoạn hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí
Minh”, Luận án Tiến sĩ Lịch sử, Học viện Chính trị qn sự, Hà Nội, 2001 [36].
Cơng trình đã đề cập đến tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng đội ngũ cán bộ nói
chung và đội ngũ cán bộ chính trị trong qn đội nói riêng, sự vận dụng tư tưởng
đó của Người trong sự nghiệp cách mạng của Đảng và thực trạng vận dụng hiện
nay để từ đó đưa ra các giải pháp nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ chính trị trong
quân đội theo tư tưởng Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay.
Ngồi ra cịn có các cơng trình khoa học khác đi sâu nghiên cứu về đội
ngũ cán bộ trong quân đội như: Trần Danh Bích, “Xây dựng đội ngũ cán bộ

quân đội đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong giai đoạn cách mạng mới”, Hà Nội,
2002; Nguyễn Văn Tuyên, “Xây dựng đội ngũ cán bộ khoa học xã hội và nhân
văn ở các Học viện, Trường sĩ quan quân đội trong giai đoạn hiện nay”, Luận
án Tiến sĩ Chính trị học, Học viện Chính trị qn sự, Hà Nội, 2008; Ngơ Huy
Tiếp, “Xây dựng đội ngũ cán bộ cơ sở quân đội ta trong giai đoạn hiện nay”,

6


Luận án Tiến sĩ Lịch sử, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội,
1998; Tơ Xn Sinh, “Nâng cao năng lực cơng tác đảng, cơng tác chính trị
của đội ngũ cán bộ cấp phân đội ở các đơn vị bộ binh làm nhiệm vụ sẵn sàng
chiến đấu hiện nay”, Đề tài khoa học cấp Học viện, Học viện Chính trị qn
sự, Hà Nội, 2001...
Những cơng trình khoa học trên đã đề cập lý giải nhiều vấn đề về vị trí,
vai trị, u cầu, cơ cấu, nội dung phải nâng cao về mọi mặt cho đội ngũ cán bộ;
vấn đề phẩm chất, năng lực hoạt động thực tiễn, nhằm mục đích cao nhất là xây
dựng đội ngũ cán bộ quân đội đáp ứng yêu cầu xây dựng quân đội cách mạng,
chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại; yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc Việt
Nam xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới.
* Những cơng trình khoa học nghiên cứu về công tác VĐQC tham gia bảo vệ
BGQG
Đề cập trực tiếp đến công tác vận động quần chúng tham gia bảo vệ
biên giới quốc gia có các cơng trình như: Đặng Vũ Liêm,“Đổi mới cơng tác
vận động quần chúng góp phần xây dựng và bảo vệ chủ quyền an ninh biên
giới”, Đề tài cấp bộ, Hà Nội, 2001 [28]; Hoàng Văn Đồng, “Nâng cao năng
lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng đồn Biên phòng tuyến
biên giới đất liền Việt Nam trong thời kỳ mới”, Luận án Tiến sĩ Chính trị học,
Học viện chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, 2005 [24]. Các cơng trình
này đã góp phần làm rõ những nét đặc thù của QCND, nhất là nhân dân các

dân tộc thiểu số ở các tỉnh biên giới; khẳng định vai trò của họ trong sự
nghiệp bảo vệ BGQG; đề xuất một số giải pháp có tính khả thi nhằm phát
huy cao độ sức mạnh của nhân dân các dân tộc thiểu số tham gia bảo vệ
BGQG trong tình hình mới.
Ngồi ra, cịn có các cơng trình như: Cục Chính trị BĐBP,“Cơng tác
vận động quần chúng của Bộ đội Biên phịng đấu tranh chống âm mưu
"Diễn biến hồ bình" của địch bảo vệ biên giới”, Nhà xuất bản Quân đội

7


nhân dân, Hà Nội, 1991 [9];Nguyễn Minh Mẫn,“Công tác vận động quần
chúng công giáo tham gia bảo vệ chủ quyền an ninh vùng biển - đảo của
Bộ đội Biên phòng tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu trong tình hình mới”, Đề tài cấp
cơ sở BĐBP, Hà Nội, 2001 [33] đã góp phần luận giải, làm rõ đặc điểm,
chức năng, nhiệm vụ của BĐBP; chỉ ra ý nghĩa, tầm quan trọng của công
tác VĐQC trong nhiệm vụ bảo vệ BGQG của BĐBP; từ đó đề xuất một số
giải pháp có tính khả thi góp phần đổi mới, nâng cao chất lượng cơng tác
VĐQC của BĐBP.
Các cơng trình khoa học trên đã nghiên cứu, đề cập khá sâu sắc đến
nhiều nội dung xung quanh vấn đề phát huy vai trò nhân tố con người, vấn
đề xây dựng đội ngũ cán bộ, vấn đề công tác VĐQC trong sự nghiệp xây
dựng, bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa nói chung và sự nghiệp
bảo vệ chủ quyền, anh ninh BGQG nói riêng. Song, chưa có cơng trình
khoa học nào tiếp cận và giải quyết một cách cơ bản, có hệ thống dưới
góc độ triết học, xã hội học vấn đề: “Phát huy vai trị đội ngũ cán bộ làm
cơng tác vận động quần chúng của Bộ đội Biên phòng hiện nay”.Với đề
tài nghiên cứu đã lựa chọn, tác giả hy vọng góp phần làm sâu sắc hơn
những vấn đề lý luận và thực tiễn cấp bách đang đặt ra đối với việc phát
huy vai trị đội ngũ cán bộ làm cơng tác VĐQC của BĐBP tham gia bảo

vệ BGQG hiện nay.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
* Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu làm rõ cơ sở lý luận, thực tiễn và đề xuất những giải pháp cơ bản
nhằm phát huy vai trị đội ngũ cán bộ làm cơng tác VĐQC của BĐBP hiện nay.
* Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm rõ thực chất và những nhân tố quy định phát huy vai trị đội ngũ
cán bộ làm cơng tác VĐQC của BĐBP.

8


- Đánh giá đúng thực trạng phát huy vai trò đội ngũ cán bộ làm công
tác VĐQC của BĐBP hiện nay.
- Đề xuất các giải pháp cơ bản phát huy vai trị đội ngũ cán bộ làm
cơng tác VĐQC của BĐBP hiện nay.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của đề tài
* Đối tượng nghiên cứu: Là những khía cạnh bản chất của phát huy
vai trò đội ngũ cán bộ làm công tác VĐQC của BĐBP.
* Phạm vi nghiên cứu: được giới hạn ở phát huy vai trò đội ngũ cán
bộ làm công tác VĐQC của BĐBP các tỉnh biên giới phía Bắc có đường biên
giới với Trung Quốc; thời gian nghiên cứu, khảo sát từ năm 2010 đến nay.
5. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu của đề tài
* Cơ sở lý luận
Là hệ thống các quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản Việt Nam về quần chúng và cơng tác VĐQC; về
vai trị của BĐBP trong công tác VĐQC; hệ thống văn bản pháp luật của Nhà
nước, các chỉ thị, nghị quyết, mệnh lệnh của Bộ Quốc phịng, Bộ Tư lệnh
BĐBP về cơng tác biên phịng và cơng tác VĐQC tham gia bảo vệ BGQG của
BĐBP. Đề tài có kế thừa kết quả nghiên cứu của các cơng trình khoa học trong

và ngồi qn đội có liên quan.
* Cơ sở thực tiễn
Là tình hình thực hiện công tác VĐQC tham gia bảo vệ BGQG của
BĐBP các tỉnh biên giới phía Bắc và các số liệu thống kê của các cơ quan Bộ
Tư lệnh BĐBP, Bộ chỉ huy BĐBP các tỉnh biên giới phía Bắc; kết hợp với kết
quả điều tra, khảo sát thực tế của tác giả về phát huy vai trò đội ngũ cán bộ
làm công tác VĐQC của BĐBP các tỉnh biên giới phía Bắc tham gia bảo vệ
BGQG hiện nay.
* Phương pháp nghiên cứu

9


Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và
chủ nghĩa duy vật lịch sử, đề tài sử dụng hệ thống các phương pháp nghiên
cứu cụ thể, như: Phương pháp lịch sử và lơgic, phân tích và tổng hợp, điều
tra xã hội học, phỏng vấn, xin ý kiến chuyên gia...
6. Ý nghĩa của đề tài
Đề tài góp phần làm rõ cơ sở khoa học của phát huy vai trị đội
ngũ cán bộ làm cơng tác VĐQC của BĐBP các tỉnh biên giới phía Bắc
tham gia bảo vệ BGQG hiện nay. Kết quả nghiên cứu của đề tài cung cấp
luận cứ khoa học cho việc phát huy vai trị đội ngũ cán bộ làm cơng tác
VĐQC của BĐBP trong công tác VĐQC mà trực tiếp là trong công tác
vận động QCND các xã, thị trấn biên giới các tỉnh biên giới phía Bắc tham
gia bảo vệ BGQG hiện nay.
7. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
đề tài luận văn có kết cấu gồm 2 chương (4 tiết).

10



Chương 1
THỰC CHẤT VÀ NHÂN TỐ QUY ĐỊNH PHÁT HUY VAI TRỊ
ĐỘI NGŨ CÁN BỘ LÀM CƠNG TÁC VẬN ĐỘNG QUẦN CHÚNG
CỦA BỘ ĐỘI BIÊN PHÒNG

1.1. Thực chất phát huy vai trị đội ngũ cán bộ làm cơng tác vận động
quần chúng của Bộ đội Biên phòng
1.1.1. Quan niệm về công tác vận động quần chúng tham gia bảo vệ
biên giới quốc gia của Bộ đội Biên phòng
Chủ nghĩa Mác - Lênin đã khẳng định quần chúng nhân dân là người sáng
tạo ra lịch sử. Trên cơ sở những luận điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen, V.I.Lênin
đã khẳng định cách mạng là sự nghiệp của quần chúng. Theo V.I.Lênin: “Cách
mạng là ngày hội của những người bị áp bức bóc lột. Khơng lúc nào quần chúng
nhân dân có thể tỏ ra là người tích cực, sáng tạo ra những trật tự xã hội mới như
thời kỳ cách mạng. Trong những thời kỳ như thế thì nhân dân có thể làm được
những kỳ công”[27, tr.131].
Trên cơ sở những nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin và vận dụng
một cách sáng tạo vào điều kiện thực tiễn Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh
ln coi trọng quần chúng nhân dân và cơng tác vận động quần chúng nhân
dân trong sự nghiệp cách mạng. Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Cách mạng là sự
nghiệp của quần chúng, chứ không phải là sự nghiệp của cá nhân anh hùng
nào”; “Nước lấy dân làm gốc”, “Gốc có vững thì cây mới bền. Xây lầu thắng
lợi trên nền nhân dân”[35, tr.197]. Đồng thời, theo Người, thực chất công tác
VĐQC là: “Vận động tất cả lực lượng của mỗi người dân khơng để sót một
người dân nào, góp thành lực lượng tồn dân, để thực hiện những việc nên
làm, những cơng việc Chính phủ và đồn thể giao cho”[34, tr.698]. Cũng
theo Người, nội dung cốt lõi của công tác này được xác định là công tác
tuyên truyền, giáo dục, thuyết phục, giác ngộ, tập hợp và tổ chức lực lượng

quần chúng để thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ cách mạng đặt ra. Kế thừa và

11


vận dụng quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về
vấn đề trên, trong q trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta ln coi quần
chúng nhân dân là cội nguồn của sức mạnh, là yếu tố quyết định đến sự
thành bại của cách mạng. Để tăng cường và phát huy sức mạnh khối đại
đoàn kết tồn dân tộc, Ban Chấp hành Trung ương khóa VI của Đảng đã ra
Nghị quyết Số 8b - NQ/TW ngày 27/3/1990 về việc đổi mới công tác quần
chúng của Đảng, tăng cường mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân. Nghị
quyết đã chỉ rõ: cách mạng là sự nghiệp của dân, do dân và vì dân. Động lực
thúc đẩy phong trào quần chúng là đáp ứng lợi ích thiết thực của nhân dân,
kết hợp hài hịa các lợi ích, thống nhất về quyền lợi với nghĩa vụ công dân.
Công tác quần chúng là trách nhiệm của Đảng, Nhà nước và các đồn thể;
các hình thức tập hợp quần chúng phải đa dạng.
Theo quan điểm của Đảng, muốn có phong trào quần chúng phải kết hợp
chặt chẽ và giải quyết tốt hai vấn đề là động viên tổ chức quần chúng thực hiện
đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách và luật pháp của Nhà nước với
chăm lo lợi ích của QCND, kết hợp hài hồ các lợi ích. Mục tiêu, lý tưởng của
Đảng là đem lại lợi ích cho quần chúng, lợi ích của quần chúng cũng chính là
lợi ích của Đảng. Mối quan hệ giữa Đảng với quần chúng là yếu tố quyết định
đến sự tồn tại và phát triển của Đảng. Trong mọi hoạt động của mình, Đảng
luôn dựa vào quần chúng; mọi đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng có
thực hiện thành cơng hay khơng, đều phải dựa vào sức mạnh của QCND.Tập
hợp được đông đảo quần chúng đó chính là động lực thúc đẩy phong trào cách
mạng; đồng thời, quần chúng chỉ được giải phóng thực sự khi họ tin và đi
theo Đảng. Do vậy, đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng phải xuất
phát từ nguyện vọng và lợi ích chính đáng của quần chúng. Công tác quần

chúng được tiến hành bằng sức mạnh tổng hợp của Đảng, chính quyền và các
đồn thể theo cơ chế: “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ”.
Sự lãnh đạo của Đảng đối với cơng tác quần chúng chính là việc thường
xun nắm bắt tình hình tư tưởng và đời sống của quần chúng nhân dân, kịp

12


thời giải quyết các vấn đề quần chúng đặt ra bằng việc định ra các chủ trương,
chính sách cụ thể. Phân công cán bộ phụ trách công tác quần chúng, thực hiện
chế độ kiểm tra, chỉ đạo các cơ quan, đồn thể và thực hiện mọi đường lối,
chủ trương, chính sách của Đảng về công tác quần chúng. Đồng thời, trực tiếp
vận động quần chúng thực hiện nghiêm mọi chủ trương, đường lối, chính sách
của Đảng và Nhà nước. Do đó, cơng tác quần chúng khơng chỉ là trách nhiệm
của các đồn thể mà cịn là trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân khác nhau
dưới sự lãnh đạo của Đảng. Điều này đã được Đảng ta khẳng định trong Văn
kiện nghị quyết Đại hội lần thứ XI của Đảng: “Đại đoàn kết dân tộc là đường
lối chiến lược của cách mạng Việt Nam; là nguồn sức mạnh, động lực chủ yếu
và là nhân tố có ý nghĩa quyết định đảm bảo thắng lợi của sự nghiệp xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc”.[20, tr.49]
Theo Từ điển Biên phòng Việt Nam: Biên giới quốc gia của nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là đường và mặt thẳng đứng theo đường đó
để giới hạn lãnh thổ đất liền, các đảo, các quần đảo trong đó có quần đảo
Hồng Sa và quần đảo Trường Sa, vùng biển, lòng đất, vùng trời của nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.[3, tr.27]. Do vậy, bảo vệ biên giới
quốc gia là một nhiệm vụ hết sức quan trọng, trong Từ điển Bách khoa Quân
sự Việt Nam đã chỉ ra, bảo vệ BGQG được hiểu là: “Bảo vệ biên giới quốc
gia, toàn bộ các biện pháp giữ gìn biên giới quốc gia nhằm bảo vệ chủ quyền
toàn vẹn lãnh thổ; bảo vệ tài nguyên mơi sinh, mơi trường, lợi ích quốc gia
trên khu vực biên giới; giữ gìn an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội ở

khu vực biên giới” [4, tr.61].
Xuất phát từ nhận thức mới của Đảng ta về nội dung bảo vệ Tổ quốc,
bảo vệ biên giới quốc gia không chỉ là bảo vệ những yếu tố địa lý - vật chất
(tức hệ thống dấu hiệu đường biên, mốc quốc giới) mà cịn phải là bảo vệ tồn
bộ những yếu tố vật chất - tinh thần - văn hóa có liên quan trực tiếp đến biên
giới quốc gia và vấn đề bảo vệ biên giới quốc gia. Theo đó, nhiệm vụ bảo vệ
BGQG hiện nay được Đảng ta xác định một cách toàn diện trong Nghị quyết

13


11 của Bộ Chính trị, Ban chấp hành Trung ương đảng khóa VII đó là: “Bảo
vệ biên giới trên bộ, trên biển, bảo vệ chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ của đất
nước; bảo vệ an ninh chính trị, trật tự an tồn xã hội, chống bn lậu qua
biên giới, bảo vệ tài nguyên đất nước; xây dựng biên giới hoà bình hữu nghị,
hợp tác, phát triển với các nước láng giềng” [15, tr.49]. Thực hiện nhiệm vụ
trên, khơng chỉ có lực lượng nòng cốt, chuyên trách là BĐBP mà phải có sự tham
gia của tồn dân, tồn qn, của các cấp, các ngành và tồn bộ hệ thống chính trị
dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Nghị quyết 11/NQ - TW ngày 08
tháng 8 năm 1995 của Bộ Chính trị, Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa
VII) đã chỉ rõ: "Xây dựng và bảo vệ biên giới quốc gia là nhiệm vụ chung của
toàn Đảng, toàn dân, tất cả các ngành, các cấp, của Nhà nước và các đồn
thể"[15, tr.4]. Vì vậy, xây dựng, bảo vệ BGQG vững mạnh phải dựa trên cơ
sở phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân, sức mạnh của cả nước, của cả
hệ thống chính trị từ nội địa đến biên giới, cả phía sau và phía trước, giải
quyết tốt những vấn đề cấp bách về kinh tế - xã hội, xây dựng khu vực biên
giới vững mạnh về mọi mặt, thực hiện đúng chính sách dân tộc, tơn giáo,
chính sách đại đồn kết dân tộc, chính sách đối ngoại, xây dựng biên giới
hồ bình hữu nghị với các nước láng giềng.
Từ kinh nghiệm thực tiễn hơn 55 năm xây dựng và trưởng thành đã

chứng minh, BĐBP luôn được Đảng và Nhà nước ta quan tâm, chăm lo xây
dựng trở thành lực lượng vũ trang vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ
chức. Nghị quyết 21 ngày 21/11/1984 của Bộ Chính trị Ban Chấp hành
Trung ương Đảng (Khố V) chỉ rõ: Các lực lượng vũ trang biên phòng phải
tổ chức thành hệ thống, thống nhất lực lượng biên phòng và tăng cường
công tác nghiệp vụ an ninh. Đặc biệt, Nghị quyết 24 ngày 09/6/1985 của
Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng (Khoá V) tiếp tục khẳng
định: Phải xây dựng Bộ đội Biên phịng đủ mạnh trong thời bình cũng như
trong thời chiến, bảo đảm làm tròn chức năng quan trọng mang tính chất an

14


ninh, quốc phòng và đối ngoại. Các nghị quyết, chỉ thị của Đảng và các văn
bản quy phạm pháp luật của Nhà nước về xây dựng lực lượng nòng cốt,
chuyên trách quản lý, bảo vệ BGQG đều thể hiện rõ tư tưởng chỉ đạo, chủ
trương biện pháp chiến lược với tinh thần cơ bản xuyên suốt là xây dựng
lực lượng biên phòng vững mạnh đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ cơng tác biên
phịng trong từng giai đoạn cụ thể.
Để quản lý, bảo vệ vững chắc biên giới quốc gia, BĐBP phải sử dụng
đồng bộ các biện pháp công tác cơ bản; trong đó, VĐQC là biện pháp được
tiến hành thường xun và có tính chất chiến lược, là cơ sở, nền tảng để tiến
hành các biện pháp khác. Đặc biệt, cơng tác VĐQC tham gia bảo vệ BGQG
cịn được xác định là nhiệm vụ chính trị quan trọng, là cơng việc có ý nghĩa
chiến lược, lâu dài của cấp uỷ, chính quyền và đồng bào các dân tộc ở khu
vực biên giới; là chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước ta; đồng thời, cũng
là trách nhiệm của BĐBP nói chung, lực lượng chuyên trách làm công tác
VĐQC của BĐBP nói riêng. Do đó, địi hỏi chủ thể làm cơng tác VĐQC
tham gia bảo vệ BGQG mà trực tiếp là đội ngũ cán bộ làm công tác vận
động quần chúng phải nắm vững đường lối, chủ trương của Đảng, chính

sách, pháp luật của Nhà nước và quy định của địa phương; có phẩm chất đạo
đức tốt, trình độ năng lực, kỹ năng giao tiếp đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ
đòi hỏi; đặc biệt, phải am hiểu sâu sắc phong tục, tập quán của đồng bào.
Qua đó, tiến hành tuyên truyền, giáo dục, hướng dẫn đồng bào các dân tộc
nâng cao trình độ hiểu biết về nhiệm vụ bảo vệ biên giới quốc gia.
Tiến hành công tác VĐQC tham gia bảo vệ BGQG chính là quán triệt,
thực hiện tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng ta về chiến tranh
nhân dân; xây dựng thế trận quốc phịng tồn dân và thế trận an ninh nhân
dân, đánh bại chiến tranh xâm lược; bảo vệ độc lập chủ quyền lãnh thổ trong
mọi tình huống. Từ quan điểm, chính sách của Đảng, Nhà nước về công tác vận
động quần chúng, vận dụng vào công tác vận động quần chúng tham gia bảo vệ

15


biên giới quốc gia, Bộ đội Biên phịng nói chung và Bộ đội Biên phịng các tỉnh
biên giới phía Bắc nói riêng đã cụ thể hóa bằng những vấn đề như sau:
Công tác VĐQC tham gia bảo vệ BGQG của BĐBP các tỉnh biên giới
phía Bắc được xác định là nhiệm vụ cách mạng quan trọng, đó vừa là nhiệm
vụ phục vụ mục tiêu chính trị của lực lượng, vừa là nhiệm vụ phục vụ công
cuộc đổi mới của đất nước, phục vụ mục tiêu xây dựng, phát triển kinh tế - xã
hội ở khu vực biên giới, phục vụ quyền và lợi ích thiết thực của QCND. Do
đó, phải nhận thức đúng tầm quan trọng của công tác VĐQC tham gia bảo vệ
BGQG, tích cực tuyên truyền, phổ biến, tổ chức, hướng dẫn QCND tham gia
bảo vệ biên giới chấp hành nghiêm đường lối, chủ trương của Đảng; chính
sách và pháp luật của Nhà nước mà trực tiếp là Nghị định thư phân giới cắm
mốc, các Hiệp định về quản lý biên giới.
Bộ đội Biên phòng các tỉnh biên giới phía Bắc VĐQC tham gia bảo vệ
BGQG phải thực hiện tốt cả hai chức năng xây dựng và giữ vững sự ổn định
BGQG; trong đó, xây dựng là cơ bản và thường xuyên, giữ vững sự ổn định là

quan trọng và cần thiết. Công tác VĐQC tham gia bảo vệ BGQG của BĐBP các
tỉnh biên giới phía Bắc muốn đạt hiệu quả cao, địi hỏi phải khơng ngừng tun
truyền, giáo dục sâu rộng trong nhân dân, giúp họ hình thành, phát triển ý thức
giác ngộ chính trị, lý tưởng, niềm tin vào Đảng, vào chế độ xã hội chủ nghĩa một
cách tự giác, tích cực và vững chắc thơng qua việc tổ chức học tập chủ trương,
đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, nêu gương người tốt,
việc tốt. Ngoài ra, phải kết hợp chặt chẽ phong trào quần chúng tham gia bảo vệ
BGQG với các phong trào của địa phương; chủ động, tích cực trong lao động
sản xuất, phát triển kinh tế, xố đói giảm nghèo; giữ vững sự ổn định chính trị;
xây dựng mơi trường văn hóa lành mạnh.
Quần chúng nhân dân ở các tỉnh biên giới phía Bắc mà cụ thể là
quần chúng nhân dân ở các xã, phường, thị trấn biên giới thuộc các tỉnh
biên giới phía Bắc là một bộ phận quần chúng nhân dân được giới hạn,
phân biệt một cách tương đối về mặt không gian địa lý, bao gồm những

16


người sinh sống và lao động tại địa bàn các xã, phường, thị trấn biên giới;
những người đang trực tiếp góp phần tích cực vào việc xây dựng, phát
triển kinh tế - xã hội ở các xã, phường, thị trấn biên giới khu vực phía
Bắc. Quần chúng nhân dân các xã, phường, thị trấn biên giới khu vực phía
Bắc bao gồm: toàn thể nhân dân, cán bộ, đảng viên... cư trú và làm việc
thường xuyên, lâu dài ở câc xã, phường, thị trấn khu vực biên giới phía
Bắc, khơng phân biệt dân tộc, tơn giáo, giới tính, trình độ học vấn, nghề
nghiệp. Như vậy, toàn thể nhân dân, cán bộ, đảng viên... cư trú và làm
việc thường xuyên, lâu dài ở các xã, phường, thị trấn khu vực biên giới
phía Bắc khơng phân biệt dân tộc, tơn giáo, giới tính, trình độ văn hóa,
nghề nghiệp chính là đối tượng mà bộ đội biên phòng hướng tới vận động,
tuyên truyền, giáo dục, giác ngộ, nâng cao nhận thức và hướng dẫn, tổ

chức cho họ tham gia thực hiện nhiệm vụ bảo vệ biên giới quốc gia.
Một số đặc điểm tình hình khu vực biên giới phía Bắc tác động đến cơng
tác VĐQC tham gia bảo vệ biên giới quốc gia.
Biên giới phía Bắc nước ta dài 1.449,566km, chạy qua địa giới hành chính
của 7 tỉnh (Quảng Ninh, Lạng Sơn, Cao Bằng, Hà Giang, Lào Cai, Lai Châu và
Điện Biên) của Việt Nam, tiếp giáp với 2 tỉnh (Vân Nam và Quảng Tây) của
Trung Quốc. Mặc dù hiện nay nước ta đã bình thường hóa quan hệ với Trung
Quốc song những vấn đề do lịch sử để lại (thời phong kiến đã từng đô hộ nước
ta, Trung Quốc đã gây ra chiến tranh biên giới tháng 2 năm 1979), cũng đã tác
động đến mối quan hệ giữa hai nước. Hiện nay, xu thế mở cửa giao lưu hội
nhập quốc tế đòi hỏi khu vực biên giới phía Bắc trở thành khu vực quan trọng
về phát triển kinh tế, xã hội, củng cố quốc phòng, an ninh và mở rộng quan hệ
ngoại giao. Từ sau Hiệp định biên giới đất liền Việt Nam - Trung Quốc được ký
tháng 12/1999 tình hình khu vực biên giới phía Bắc đã có bước phát triển tích cực
về nhiều mặt, tuy nhiên ở từng khu vực, từng nơi vẫn còn nảy sinh nhiều vấn đề
phức tạp về chủ quyền lãnh thổ. Do vậy, nơi đây vẫn còn tiềm ẩn nhiều vấn đề
phức tạp trong quá trình bảo vệ biên giới quốc gia cũng như công tác vận động

17


quần chúng của bộ đội biên phòng các tỉnh biên giới phía Bắc.
Hệ thống giao thơng ở khu vực biên giới phía Bắc chủ yếu là đường độc
đạo, đường mịn; ngoài một số đường quốc lộ đã được nâng cấp, các đường
liên huyện, liên xã nhìn chung chậm phát triển, mặt đường bằng đất đá, nhỏ
hẹp, độ dốc lớn. Đến nay, 168/168 xã, phường, thị trấn biên giới có đường ô
tô đến trung tâm, tuy nhiên hệ thống đường đã xuống cấp, hư hỏng; mùa mưa
phương tiện cơ giới đi lại rất khó khăn. Đây là trở ngại chính cho đội ngũ cán
bộ làm công tác vận động quần chúng cơ động lực lượng để triển khai các
hoạt động nắm tình hình địa bàn và tiến hành cơng tác vận động quần chúng

tham gia bảo vệ biên giới quốc gia.
Khu vực biên giới phía Bắc có địa hình rừng núi cao, thời tiết khí
hậu khắc nghiệt, mật độ dân cư thưa thớt, là nơi cư trú của nhiều dân tộc
thiểu số như Tày, Nùng, Dao, H’Mơng… có quan hệ dân tộc, thân tộc với
nhân dân hai bên biên giới. Địa bàn khu vực biên giới phía Bắc là vùng đất
giàu truyền thống cách mạng, tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, đã đóng
góp sức người, sức của trong đấu tranh giải phóng dân tộc, đấu tranh bảo
vệ biên giới 2/1979, có truyền thống và kinh nghiệm trong đấu tranh bảo vệ
biên giới. Tuy nhiên, khu vực biên giới phía Bắc đời sống nhân dân cịn
nhiều khó khăn, trình độ dân trí thấp, ý thức bảo vệ biên giới quốc gia còn
hạn chế; cơ sở y tế, giáo dục, cơ sở hạ tầng còn thấp kém, tỉ lệ mù chữ còn
cao, các tệ nạn ma túy, cờ bạc, các hủ tục mê tín lạc hậu, truyền đạo trái
phép, di cư tự do, còn nhiều diễn biến phức tạp.
Từ đặc điểm trên đã tạo nên những thuận lợi và khó khăn đặt ra cho
công tác vận động quần chúng tham gia bảo vệ biên giới quốc gia của bộ đội
biên phòng các tỉnh biên giới phía Bắc cần phải đổi mới và nâng cao chất
lượng hiệu quả công tác vận động quần chúng, biết vận dụng linh hoạt sáng
tạo nội dung, hình thức, biện pháp tiến hành cơng tác vận động quần chúng.
Trong đó, đặc biệt chăm lo xây dựng và phát huy vai trị đội ngũ cán bộ làm
cơng tác VĐQC của BĐBP các tỉnh biên giới phía Bắc, đảm bảo đủ về số

18


lượng và chất lượng. Như vậy, công tác vận động QCND các xã, phường, thị
trấn biên giới của các tỉnh biên giới phía Bắc tham gia bảo vệ BGQG là một
trong những nhiệm vụ chính trị thường xuyên của BĐBP các tỉnh biên giới
phía Bắc; được tiến hành trong điều kiện địa hình rừng núi khó khăn, phức
tạp, thời tiết khắc nghiệt và có nhiều biến động khó lường. Đối tượng vận
động đa số là QCND các dân tộc thiểu số với trình độ dân trí thấp, sinh sống

ở khu vực biên giới vùng sâu, vùng xa, hẻo lánh giao thơng khơng thuận lợi ,
đời sống khó khăn, phong tục, tập quán lạc hậu. Điều kiện kinh tế, chính trị,
văn hóa xã hội ở khu vực biên giới và quan hệ hai bên biên giới giữa Việt
Nam và Trung Quốc có nhiều tiềm năng phát triển, song cũng tiềm ẩn nhiều
yếu tố bất ổn, khó khăn và phức tạp. Lực lượng bộ đội biên phịng các tỉnh
biên giới phía Bắc hoạt động lại phân tán, nhỏ lẻ và phải đối diện với sự
chống phá của nhiều loại đối tượng trong khu vực biên giới.Địi hỏi, BĐBP
các biên giới phía Bắc mà trực tiếp là lực lượng chuyên trách - đội ngũ cán
bộ làm công tác VĐQC, trên cơ sở bám nắm nguyên tắc, tùy theo tình hình
cụ thể cần linh hoạt trong lựa chọn nội dung, hình thức, phương pháp VĐQC
đảm bảo phù hợp và hiệu quả.
Từ những phân tích trên có thể quan niệm: Cơng tác vận động quần
chúng tham gia bảo vệ biên giới quốc gia của Bộ đội Biên phịng các tỉnh
biên giới phía Bắc là một nhiệm vụ và biện pháp công tác nghiệp vụ của các
đơn vị được đội ngũ cán bộ tiến hành bằng việc tuyên truyền vận động, giáo
dục, tổ chức, hướng dẫn quần chúng nhân dân, dựa trên cơ sở đường lối, chủ
trương của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước nhằm làm cho quần
chúng nhân dân ở khu vực các tỉnh biên giới phía Bắc tự nguyện tham gia cùng
Bộ đội Biên phòng bảo vệ vững chắc biên giới quốc gia trên địa bàn của các
tỉnh, xây dựng biên giới hịa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển.
Về mục đích, cơng tác VĐQC tham gia bảo vệ BGQG của BĐBP các tỉnh
biên giới phía Bắc được tiến hành nhằm tuyên truyền vận động, giáo dục, tổ
chức, hướng dẫn quần chúng nhân dân cùng với bộ đội Biên phòng tham gia bảo

19


vệ vững chắc biên giới quốc gia. Đồng thời nâng cao giác ngộ, ý thức trách
nhiệm và làm cho quần chúng nhân dân trở thành chủ nhân thực sự ở khu vực
biên giới, góp phần tăng cường tình đồn kết các dân tộc, đồn kết láng giềng

hữu nghị giữa chính quyền và nhân dân hai bên biên giới, xây dựng biên giới
hịa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển.
Về u cầu,bộ đội biên phịng các tỉnh biên giới phía Bắc trong quá trình
VĐQC tham gia bảo vệ BGQG phải nắm vững và vận dụng sáng tạo đường lối,
chủ trương của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước. Tuyên truyền, vận
động làm cho quần chúng nhân dân ở khu vực biên giới nâng cao nhận thức
trách nhiệm trong quá trình tham gia bảo vệ biên giới quốc gia, cụ thể là quần
chúng nhân dân phải tự giác thực hiện đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật
của Nhà nước, các hiệp định, hiệp nghị, quy chế hai bên biên giới, các chủ
trương của cấp ủy, chính quyền địa phương, tình hình, thực trạng đường biên,
mốc quốc giới. BĐBP các tỉnh biên giới phía Bắc thực hiện tốt phương châm
“năm bám” đó là: bám dân, bám địa bàn, bám đối tượng, bám chính quyền, bám
đường lối chủ trương; và phương châm “bốn cùng” đó là: cùng ăn, cùng ở, cùng
làm, cùng nói tiếng dân tộc, trong cơng tác vận động quần chúng tham gia bảo
vệ biên giới quốc gia.
Về nội dung, công tác VĐQC tham gia bảo vệ BGQG của BĐBP các
tỉnh biên giới phía Bắc cần thực hiện tốt những nội dung công việc chủ yếu
như: tuyên truyền vận động, giáo dục, nâng cao nhận thức giác ngộ chính trị
và tinh thần cảnh giác cách mạng cho quần chúng nhân dân các xã, phường,
thị trấn khu vực biên giới phía Bắc; tham mưu cho cấp ủy, chính quyền địa
phương củng cố, kiện toàn và phát huy sức mạnh của hệ thống chính trị cơ
sở và làm tốt cơng tác lãnh đạo, chỉ đạo đối với phong trào quần chúng, thực
hiện cơ chế Đảng lãnh đạo, chính quyền điều hành, bộ đội biên phòng là
nòng cốt, nhân dân tự quản đường biên, mốc giới; đồng thời phối kết hợp
chặt chẽ với các cấp, các ban, ngành, đoàn thể, các lực lượng, đẩy mạnh
công tác tuyên truyền, tổ chức và hướng dẫn phong trào quần chúng tham
gia bảo vệ biên giới quốc gia; thực hiện các chương trình phát triển kinh tế,

20



văn hóa - xã hội, xây dựng địa bàn biên phịng vững mạnh, củng cố quan hệ
đồn kết qn dân, thực hiện “ngày biên phịng tồn dân”; kết hợp giữa
tun truyển đặc biệt và tuyên truyền đối ngoại nhằm xây dựng biên giới hịa
bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển.
Về hình thức,BĐBP các tỉnh biên giới phía Bắc trong quá trình VĐQC
tham gia bảo vệ BGQG, cần vận dụng linh hoạt những hình thức VĐQC đó là các
hình thức vận động cơ bản và hình thức vận động theo chuyên đề. Hình thức vận
động cơ bản bao gồm vận động quần chúng thường xuyên và vận động quần
chúng đột xuất; VĐQC thường xuyên, là hình thức cơ bản, chủ yếu tiến hành
liên tục mọi thời gian, tuyên truyền, vận động mọi người dân ở khu vực biên giới
tham gia bảo vệ biên giới quốc gia; VĐQC đột xuất, là hình thức xử lý tình
huống khi có tình hình, nhiệm vụ phát sinh ngồi kế hoạch, chương trình như: có
hiện tượng xâm canh, xâm cư, vượt biên, di chuyển cột mốc… Ngồi hai hình
thức cơ bản trên, BĐBP cịn tiến hành VĐQC theo chuyên đề, tập trung phục vụ
đấu tranh với những đối tượng, những vụ việc phát sinh cụ thể nhằm xây dựng
biên giới vững mạnh toàn diện.
Về phương pháp, công tác VĐQC tham gia bảo vệ BGQG của BĐBP các
tỉnh biên giới phía Bắc cần sử dụng thành thạo các phương pháp vận động, kết
hợp vận động quy mô tập thể, đông người với vận động phân tán, nhỏ lẻ, cá biệt.
Vận động thường xuyên, định kỳ với vận động từng đợt, vận động đột xuất theo
tình hình cụ thể. VĐQC rộng rãi,là phương pháp vận động dựa trên cơ sở đặc
điểm riêng của từng tập thể có tổ chức, từng cộng đồng dân cư ở khu vực biên
giới để tác động những nội dung, biện pháp vận động thích hợp nhằm đạt được
những mục tiêu, yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ biên giới. VĐQC riêng lẻ, là phương
pháp vận động dựa trên quan điểm lịch sử, cụ thể đối với mỗi cá nhân quần chúng
nhằm giác ngộ và đưa họ vào những hoạt động phục vụ cho VĐQC rộng rãi
hoặc để giải quyết các yêu cầu bảo vệ BGQG.

21



1.1.2. Vai trị đội ngũ cán bộ làm cơng tác vận động quần chúng của Bộ
đội biên phòng
Cán bộ là người đứng đầu tổ chức, là lực lượng nòng cốt trong cơ quan,
tổ chức nhất định; cán bộ có vai trò rất quan trọng. V.I. Lênin đã chỉ rõ: “Trong
lịch sử chưa hề có một giai cấp nào giành được quyền thống trị, nếu nó khơng
đào tạo ra được trong hàng ngũ của mình những lãnh tụ chính trị, những đại
biểu tiền phong có đủ khả năng tổ chức và lãnh đạo phong trào”. Kế thừa và
phát triển lý luận của Lênin, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ khẳng định: “Cán bộ
là cái gốc của mọi công việc” [34, tr.269].
Đội ngũ cán bộ là tập hợp những người cán bộ thành một lực lượng có
số lượng, cơ cấu, chất lượng (nghề nghiệp, trình độ, tuổi đời, thâm niên cơng
tác, giới tính... ) tương ứng với yêu cầu, nhiệm vụ chính trị, chức năng của một
tổ chức, một lĩnh vực hoạt động nhất định. Đội ngũ cán bộ quân đội là một bộ
phận quan trọng trong đội ngũ cán bộ của Đảng cộng sản Việt Nam và Nhà
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, hoạt động trong lĩnh vực quân sự,
quốc phòng, là lực lượng nòng cốt của tổ chức lực lượng quân đội. Đội ngũ cán
bộ làm công tác vận động quần chúng của Bộ đội biên phịng các tỉnh biên giới
phía Bắc là một bộ phận của đội ngũ cán bộ quân đội nói chung và là một bộ
phận của đội ngũ cán bộ bộ đội biên phịng các tỉnh biên giới phía Bắc.
Từ những phân tích trên đây có thể quan niệm: Đội ngũ cán bộ làm công
tác vận động quần chúng của Bộ đội biên phịng các tỉnh biên giới phía Bắc là
những sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp được biên chế thành các Ban, Đội vận
động quần chúng, đặt dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy, chỉ huy các cấp, có
vai trị là lực lượng nịng cốt, chun trách trong cơng tác vận động quần chúng
tham gia bảo vệ biên giới quốc gia.
Đội ngũ cán bộ làm công tác VĐQC của BĐBP các tỉnh biên giới phía
Bắc có vị trí, vai trò nòng cốt, chuyên trách trong nhiệm vụ bảo vệ biên giới
quốc gia nói chung và trong nhiệm vụ cơng tác vận động quần chúng nhân

dân nói riêng. Với cương vị, chức trách của mình họ tham gia vào mọi mặt

22


cơng tác của đơn vị trong đó cơng tác vận động quần chúng là nòng cốt. Như
vậy, đội ngũ cán bộ làm công tác VĐQC bao gồm các cán bộ giữ các chức vụ:
trưởng ban vận động quần chúng, trợ lý vận động quần chúng, đội trưởng vận
động quần chúng và các nhân viên vận động quần chúng. Đội ngũ cán bộ làm
công tác VĐQC được biên chế theo quy định cũng như do yêu cầu của sự
nghiệp bảo vệ biên giới quốc gia. Đội ngũ cán bộ làm công tác vận động quần
chúng có nhiệm vụ: Thường xuyên quán triệt sâu sắc đường lối, quan điểm
của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và Đảng ta, các nghị
quyết, chỉ thị mệnh lệnh của cấp trên; nghị quyết chương trình hành động của
địa phương về cơng tác vận động quần chúng. Căn cứ vào tình hình thực tiễn
và nhiệm vụ VĐQC trên địa bàn để xây dựng kế hoạch và tổ chức thực hiện
kế hoạch công tác vận động quần chúng phù hợp đồng thời làm tốt cơng tác
kiểm tra đơn đốc q trình thực hiện nhiệm vụ vận động quần chúng. Ngồi ra
cịn làm tốt cơng tác động viên, quan tâm xây dựng đội ngũ cán bộ làm công
tác vận động quần chúng, bồi dưỡng nâng cao năng lực tổ chức thực hiện
công tác vận động quần chúng.
* Đặc điểm của đội ngũ cán bộ làm cơng tác vận động quần chúng của
bộ đội biên phịng các tỉnh biên giới phía Bắc
Một là, đội ngũ cán bộ làm công tác vận động quần chúng tham gia
bảo vệ biên giới quốc gia của Bộ đội biên phòng các tỉnh biên giới phía Bắc
được biên chế từ nhiều nguồn khác nhau, có trình độ năng lực, kinh nghiệm
cơng tác và có tính kỷ luật, tự giác cao.
Đội ngũ cán bộ làm cơng tác VĐQC vừa có những đặc điểm chung lại
có những đặc điểm riêng đặc thù so với đội ngũ cán bộ biên phịng nói chung.
Đây là lực lượng cán bộ, sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp đã được đào tạo

cơ bản qua các nhà trường quân đội như Học viện biên phòng, Trường Trung
cấp Biên phòng, Trường Đại học Chính trị... và cán bộ đang cơng tác ở các
đơn vị cơ sở của Bộ đội biên phịng cũng như trong tồn qn được điều động
về làm công tác vận động quần chúng của Bộ đội biên phòng các tỉnh biên

23


giới phía Bắc. Từ sự đa dạng đó dẫn tới trình độ, năng lực, kinh nghiệm,
phương pháp tác phong cơng tác của đội ngũ cán bộ đó cũng có những điểm
không đồng đều. Đội ngũ cán bộ làm công tác vận động quần chúng được đào
tạo đúng chuyên ngành có khả năng xây dựng kế hoạch và tổ chức thực hiện
nhiệm vụ linh hoạt và hiệu quả công tác cao hơn so với đội ngũ cán bộ được
luân chuyển điều động từ các đơn vị cơ sở. Tuy nhiên, thực tế cho thấy dù từ
nguồn cán bộ nào thì đội ngũ sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp được lựa
chọn biên chế làm công tác vận động quần chúng về cơ bản có phẩm chất,
trình độ năng lực, có ý thức tổ chức kỷ luật, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ công
tác vận động quần chúng tham gia bảo vệ biên giới quốc gia trong tình hình
hiện nay.
Hai là, đội ngũ cán bộ làm công tác vận động quần chúng tham gia
bảo vệ biên giới quốc gia của Bộ đội biên phịng các tỉnh biên giới phía Bắc
có tuổi đời, tuổi quân, quân hàm, trình độ học vấn rất phong phú và đa dạng
Do được biên chế từ cấp đội vận động quần chúng đến cấp Ban vận
động quần chúng nên độ tuổi, quân hàm của đội ngũ cán bộ làm cơng tác vận
động quần chúng có sự đa dạng. Trong đó, cán bộ cấp Ban vận động quần
chúng có độ tuổi từ 35 đến 45 tuổi, cán bộ cấp đội vận động quần chúng từ 25
đến 40 tuổi; thâm niên công tác cao nhất là 30 năm, thấp nhất là 5 năm; quân
hàm của đội ngũ cán bộ, sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp từ thiếu úy đến
thượng tá; trình độ học vấn cơ bản đội ngũ cán bộ có trình độ từ trung cấp đến
đại học. Điều này cho thấy đội ngũ cán bộ làm công tác vận động quần chúng

có sự khác biệt nhau về tuổi đời, tuổi qn, trình độ năng lực chun mơn
nghiệp vụ cũng như kinh nghiệm trong công tác vận động quần chúng tham
gia bảo vệ biên giới quốc gia. Do vậy, quá trình phát huy vai trị đội ngũ cán
bộ làm cơng tác vận động quần chúng phải được tiến hành thường xuyên, linh
hoạt, sáng tạo phù hợp với đặc điểm tình hình thực tế của đội ngũ cán bộ.
Ba là, đội ngũ cán bộ làm công tác vận động quần chúng tham gia bảo
vệ biên giới quốc gia của Bộ đội biên phịng các tỉnh biên giới phía Bắc

24


thường xuyên có sự biến động do yêu cầu nhiệm vụ, tâm tư tình cảm, nhu cầu
nguyện vọng diễn biến khá đa dạng.
Xuất phát từ thực tiễn nhu cầu phát triển của đội ngũ cán bộ cũng như
nhu cầu luân chuyển công tác nên đội ngũ cán bộ làm công tác vận động quần
chúng thường xuyên có sự thay đổi. Số cán bộ chuyển đi thường là những cán
bộ có thành tích tốt, qn hàm cao, có nhiều thâm niên cũng như kinh nghiệm
cơng tác vận động quần chúng. Cịn số cán bộ chuyển đến cơ bản là cán bộ
mới ra trường, quân hàm thấp, tuổi đời và kinh nghiệm công tác chưa nhiều,
khi chuyển đến đơn vị phải mất một thời gian mới làm quen với điều kiện môi
trường công tác, chức trách, nhiệm vụ. Thực tiễn này cho thấy, sự biến động
của đội ngũ cán bộ làm công tác vận động quần chúng đã làm nảy sinh những
vấn đề thiếu tính ổn định về tâm tư tình cảm, nhu cầu, nguyện vọng của chính
bản thân mỗi cán bộ. Vì vậy, phát huy vai trị đội ngũ cán bộ làm công tác vận
động quần chúng phải nhạy bén, kịp thời động viên khích lệ họ hồn thành
nhiệm vụ theo đúng cương vị, chức trách được giao. Do đặc thù cơng tác vận
động quần chúng thường ở nơi có điều kiện khó khăn vất vả, xa xơi hẻo lánh,
đời sống của nhân dân cịn gặp nhiều khó khăn đã tác động đến tâm lý thực hiện
nhiệm vụ của đội ngũ cán bộ làm cơng tác vận động quần chúng. Địi hỏi phải
quan tâm chăm lo đời sống vật chất tinh thần cho họ cũng như làm tốt công tác

hậu phương để họ yên tam công tác phát huy cao nhất hiệu quả trong công tác
vận động quần chúng tham gia bảo vệ biên giới quốc gia trong tình hình mới. Từ
những luận giải trên vai trò của đội ngũ cán bộ làm công tác vận động quần
chúng được thể hiện như sau:
Thứ nhất, đội ngũ cán bộ làm công tác vận động quần chúng là lực
lượng trực tiếp tiến hành các hoạt động tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận
thức của quần chúng nhân dân khu vực biên giới về đường lối, chủ trương của
Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước, các hiệp định, hiệp nghị, quy
chế biên giới; nhất là vị trí, vai trị, nội dung, nhiệm vụ bảo vệ biên giới quốc
gia; đồng thời trực tiếp tiến hành tổ chức phong trào quần chúng tham gia bảo

25


vệ biên giới quốc gia. Như vậy, đội ngũ cán bộ làm cơng tác vận động quần
chúng có vai trị quán triệt quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh, đường lối, chính sách của Đảng ta về cơng tác vận động quần
chúng; từ đó, căn cứ vào tình hình thực tiễn, chủ trương của cấp ủy, chính
quyền địa phương để đề xuất các chủ trương, kế hoạch, biện pháp để tổ chức
tiến hành công tác vận động quần chúng tham gia bảo vệ biên giới quốc gia.
Đội ngũ cán bộ làm công tác vận động quần chúng thường xuyên
nghiên cứu nắm vững nhiệm vụ công tác vận động quần chúng, các kế hoạch
hướng dẫn công tác vận động quần chúng của cơ quan nghiệp vụ cấp trên
cũng như nghị quyết, chủ trương của cấp ủy, chính quyền địa phương. Trên cơ
sở đó làm kế hoạch và tổ chức thực hiện kế hoạch công tác vận động quần
chúng thường xuyên cũng như đột xuất. Cùng với xây dựng kế hoạch, đội ngũ
cán bộ làm công tác vận động quần chúng phải thường xuyên quan hệ chặt
chẽ và tranh thủ sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy, chính quyền, các cấp, các
ngành, các lực lượng có liên quan ở địa phương, tích cực tham mưu đề xuất ý
kiến đưa kế hoạch công tác vận động quần chúng của đơn vị thành nghị

quyết, kế hoạch công tác của địa phương trong nhiệm vụ vận động quần
chúng tham gia bảo vệ biên giới quốc gia.
Thứ hai, đội ngũ cán bộ làm công tác vận động quần chúng thường
xuyên làm tốt cơng tác tham mưu cho cấp ủy, chính quyền địa phương trong
việc tiến hành các hoạt động bảo vệ biên giới quốc gia cũng như trong phát
triển kinh tế, văn hóa, xã hội, tích cực tham gia thực hiện các chương trình
xóa đói giảm nghèo, xóa mù chữ, đền ơn đáp nghĩa, phòng chống dịch bệnh
cho đồng bào các dân tộc nơi địa bàn; kịp thời phát hiện, tham mưu, đề xuất
với cấp ủy, chính quyền địa phương có kế hoạch xây dựng, bồi dưỡng, đào tạo
cán bộ tại chỗ bảo đảm cho tổ chức đảng trong sạch vững mạnh, chính quyền
điều hành có hiệu lực, nhằm xây dựng khu vực biên giới vững mạnh, xây
dựng thế trận biên phịng tồn dân trong thế trận quốc phịng tồn dân và thế
trận an ninh nhân dân vững mạnh ở khu vực biên giới, là cơ sở cho sự nghiệp

26


bảo vệ biên giới quốc gia. Đối với công tác xây dựng phòng trào quần chúng
bảo vệ biên giới quốc gia, đội ngũ cán bộ làm công tác vận động quần chúng
luôn quán triệt sâu sắc quan điểm công tác quần chúng của đảng, thấy được
vai trò to lớn của quần chúng nhân dân trong bảo vệ biên giới, qua đó nâng
cao ý thức trách nhiệm, tích cực nghiên cứu vận dụng thực hiện tốt các nội
dung, phương pháp công tác vận động quần chúng, kết hợp công tác vận động
quần chúng với tham gia phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội trên địa bàn. Từ
đó, đem lại hiệu quả thiết thực của công tác vận động quần chúng cả về kinh
tế, xã hội, quốc phịng, an ninh; góp phần tăng cường sức mạnh nền biên
phịng tồn dân, cải thiện đời sống nhân dân, củng cố mối quan hệ gắn bó
máu thịt với nhân dân và cấp ủy, chính quyền địa phương, huy động tối đa sức
mạnh của quần chúng nhân dân tham gia bảo vệ biên giới quốc gia.
Với chức năng, vai trò làm tham mưu đội ngũ cán bộ làm cơng tác vận

động quần chúng phải tích cực tham mưu với cấp ủy, chính quyền địa phương
về phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phịng, an ninh. Trước hết, đó là
tham mưu giúp cho cấp ủy, chính quyền địa phương xây dựng củng cố cơ sở
chính trị xã, phường, thị trấn biên giới trong sạch vững mạnh. Bởi vì, cơ sở
chính trị xã, phường, thị trấn biên giới là nơi tổ chức tập hợp, động viên quần
chúng, vừa là chỗ dựa tin cậy của quần chúng khi tham gia bảo vệ biên giới
quốc gia. Đồng thời, phải tranh thủ sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy, chính
quyền địa phương đối với cơng tác vận động quần chúng, muốn vậy, đội ngũ
cán bộ làm công tác vận động quần chúng phải thường xuyên nắm vững công
tác trọng tâm của tỉnh, huyện, xã trong từng giai đoạn để có kế hoạch cùng địa
phương triển khai tổ chức thực hiện và đề xuất chủ trương, nội dung, kế
hoạch công tác vận động quần chúng tham gia bảo vệ biên giới quốc gia.
Thứ ba, đội ngũ cán bộ làm công tác vận động quần chúng là lực lượng
để xuất với cấp ủy, chỉ huy đơn vị trong xây dựng kế hoạch công tác cũng như
trực tiếp tổ chức tiến hành công tác vận động quần chúng tham gia bảo vệ
biên giới quốc gia. Làm tốt công tác tham mưu cho cấp ủy, chỉ huy đơn vị

27


×