Tải bản đầy đủ (.pdf) (133 trang)

LVTN 2017 hành vi cầu khiến trực tiếp và gián tiếp trong tiếng việt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.28 MB, 133 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------

Trần Ngọc Huyền Trân

HÀNH VI CẦU KHIẾN TRỰC TIẾP
VÀ GIÁN TIẾP TRONG TIẾNG VIỆT

KHỐ LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
BỘ MƠN NGƠN NGỮ HỌC
Hệ đào tạo: Cử nhân tài năng
Khoá học: 2013 - 2017

TP. HỒ CHÍ MINH, 2017


ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------

HÀNH VI CẦU KHIẾN TRỰC TIẾP
VÀ GIÁN TIẾP TRONG TIẾNG VIỆT

KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
BỘ MÔN NGÔN NGỮ HỌC
Hệ đào tạo: Cử nhân tài năng
Khoá học: 2013 - 2017

NGƯỜI HƯỚNG DẪN: TS. NGUYỄN HỮU CHƯƠNG


TP. HỒ CHÍ MINH, 2017


LỜI CAM ĐOAN

Để hồn thành khóa luận tốt nghiệp này, tơi có tham khảo một số tài liệu liên
quan đến chun ngành Ngơn ngữ học nói chung và ngữ dụng học nói riêng.
Tơi xin cam đoan đề tài này là do chính tơi thực hiện, các ví dụ minh họa và kết
quả phân tích trong đề tài là trung thực, đề tài không trùng với bất kỳ đề tài nghiên cứu
khoa học nào. Những lý thuyết và thông tin tham khảo trong khóa luận đều được trích
dẫn cụ thể nguồn sử dụng.

TP.HCM, ngày 16 tháng 6 năm 2017
Sinh viên thực hiện

Trần Ngọc Huyền Trân


LỜI CẢM ƠN
Để hồn thành khóa luận tốt nghiệp của mình, tơi xin gửi lời cảm ơn chân thành
nhất đến các thầy cô là giảng viên Bộ môn Ngôn ngữ học – Trường Đại học
KHXH&NV đã hết lịng tận tình chỉ dạy, truyền đạt kiến thức cho tôi trong suốt q
trình học tập tại trường thời gian qua.
Đặc biệt, tơi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến TS. Nguyễn Hữu Chương –
người đã trực tiếp hướng dẫn về mặt chun mơn và tận tình giúp đỡ trong suốt q
trình thực hiện khóa luận tốt nghiệp này.
Thật lịng vơ cùng cảm ơn sự hỗ trợ, giúp đỡ, động viên của gia đình, bạn bè
trong suốt q trình hồn thành khóa luận tốt nghiệp, cũng như trong suốt q trình học
tập vừa qua.
Mặc dù đã hết sức cố gắng song khóa luận tốt nghiệp khơng thể tránh khỏi những

thiếu sót. Kính mong q thầy giáo, cơ giáo cũng tồn thể bạn bè góp ý để đề tài được
hồn thiện hơn.
Xin kính chúc q Thầy, Cơ sức khỏe và thành cơng trong sự nghiệp đào tạo
những thế hệ tri thức tiếp theo trong tương lai.
Một lần nữa xin chân thành cảm ơn!

TPHCM, tháng 6 năm 2017
Sinh viên: Trần Ngọc Huyền Trân


1

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ............................................................................................................................. 4
1.

Lý do chọn đề tài .................................................................................................. 4

2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ....................................................................................... 5
3. Mục đích nghiên cứu ................................................................................................. 8
4.

Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ...................................................................... 9
4.1.

Đối tượng nghiên cứu ....................................................................................... 9

4.2.

Phạm vi nghiên cứu .......................................................................................... 9


5.

Phương pháp nghiên cứu .................................................................................... 9

6. Cấu trúc của khóa luận............................................................................................ 10
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ THUYẾT CƠ SỞ .............................................. 10
1.1.

Khái quát về hành vi ngôn ngữ ......................................................................... 10

1.1.1.

Ngữ dụng học ................................................................................................ 11

1.1.2.

Hành vi ngôn ngữ .......................................................................................... 13

1.1.2.1.

Hành vi tạo lời ........................................................................................ 14

1.1.2.2.

Hành vi mượn lời.................................................................................... 14

1.1.2.3.

Hành vi tại lời (hành vi ở lời) ................................................................. 15


1.1.3.

Điều kiện sử dụng các hành vi ở lời .............................................................. 19

1.1.4.

Hành vi ở lời trực tiếp - gián tiếp .................................................................. 21

1.1.4.1 Hành vi ở lời trực tiếp (direct speech acts) ................................................ 21
1.1.4.2. Hành vi ở lời gián tiếp (indirect speech acts) ............................................. 22
1.2.

Khái quát về động từ ngữ vi .............................................................................. 24

1.3.

Khái niệm câu ngữ vi ......................................................................................... 28

1.3.1.

Câu ngữ vi và biểu thức ngữ vi ..................................................................... 28

1.3.2.

Điều kiện để có câu ngữ vi ............................................................................ 32

1.4.

Hành vi cầu khiến .............................................................................................. 33


1.4.1.

Khái niệm về hành vi cầu khiến .................................................................... 33

1.4.2.

Khái niệm câu cầu khiến ............................................................................... 36

1.4.3.

Mối quan hệ giữa hành vi cầu khiến và câu cầu khiến ................................. 39

1.5.

Các loại hành vi cầu khiến trong tiếng Việt .................................................... 40


2

1.5.1.

Nhóm hành vi cầu khiến thiên lý trí .............................................................. 41

1.5.2.

Nhóm hành vi cầu khiến thiên tình cảm........................................................ 44

1.5.3.


Nhóm hành vi cầu khiến trung hòa ............................................................... 50

TIỂU KẾT..................................................................................................................... 56
CHƯƠNG 2: CÁC PHƯƠNG THỨC THỰC HIỆN HÀNH VI CẦU KHIẾN TRỰC
TIẾP VÀ GIÁN TIẾP TRONG TIẾNG VIỆT ............................................................. 58
2.1. Các phương thức thực hiện hành vi cầu khiến trực tiếp trong tiếng Việt ....... 59
2.1.1. Phương thức dùng câu cầu khiến chính danh ................................................... 59
2.1.1.1. Dùng tiểu từ tình thái.................................................................................. 59
2.1.1.2. Dùng phụ từ, vị từ tình thái ........................................................................ 67
2.1.2. Câu cầu khiến dùng động từ ngữ vi .................................................................. 76
2.1.3. Câu tĩnh lược chủ ngữ ...................................................................................... 84
2.2. Các phương thức thực hiện hành vi cầu khiến gián tiếp trong tiếng Việt ....... 88
2.2.1. Phương thức dùng câu trần thuật ...................................................................... 89
2.2.2. Phương thức dùng câu nghi vấn ....................................................................... 91
2.2.3. Phương thức dùng câu cảm thán ....................................................................... 97
TIỂU KẾT................................................................................................................... 101
Chương 3: Đặc điểm ngữ dụng của hành vi cầu khiến trực tiếp và gián tiếp trong
tiếng Việt ............................................................................... Error! Bookmark not defined.
3.1. Đặc trưng về điều kiện sử dụng của các hành vi cầu khiến ............................ 103
3.2. Lý thuyết lịch sự trong hành vi cầu khiến ........................................................ 113
3.3. Sự vi phạm các phương châm hội thoại ............................................................ 121
TIỂU KẾT................................................................................................................... 123
KẾT LUẬN .................................................................................................................... 125
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................................... 127


3

BẢNG KÝ HIỆU VÀ CHỮ VIẾT TẮT
1. Ký hiệu

[ , ]: Tên tác phẩm, tài liệu trích dẫn để trong [ ]; trong đó: số đầu là số thứ tự của tên
tác phẩm, tài liệu tham khảo nằm ở cuối luận án; sau dấu phẩy là là số trang.
2. Viết tắt
Trong luận văn, chúng tôi sử dụng một số chữ viết tắt sau:
Sp1

(Speaker 1) Người thực hiện hành vi cầu khiến

Sp2

(Speaker 2) Người tiếp nhận hành vi cầu khiến

HVCK

Hành vi cầu khiến

C1

Chủ thể cầu khiến

C2

Chủ thể tiếp nhận

ĐTNVCK

Động từ ngữ vi cầu khiến

VNck


Vị ngữ cầu khiến

BN1

Bổ ngữ đối tượng tiếp nhận cầu khiến

BN2

Bổ ngữ nội dung cầu khiến

ĐTNV

Động từ ngữ vi

VTTT

Vị từ tình thái

HVNN

Hành vi ngơn ngữ

GS

Giáo sư

X

Nội dung cầu khiến



4

MỞ ĐẦU
1.

Lý do chọn đề tài
Giống như lao động, ngôn ngữ xuất hiện cùng với con người và gắn bó mật thiết

với lịch sử lồi người trong suốt tiến trình phát triển. Ngôn ngữ cũng là dấu hiệu của sự
phân tách loài người ra khỏi thế giới động vật. Các nhà triết học Macxit đã xem ngôn
ngữ là “công cụ của tư duy”, là “hiện thực trực tiếp của tư tưởng”, là “phương tiện giao
tiếp trọng yếu của con người”. Hay nói cách khác, nhờ có ngơn ngữ mà con người có
cơng cụ, phương tiện liên kết cùng nhau trong một xã hội, trong các lĩnh vực hoạt động
của đời sống xã hội, sáng tạo xã hội ngày càng phát triển.
Cùng với sự phát triển ngày càng văn minh, hiện đại của xã hội loài người, những
nhu cầu về tất cả các phương diện của ngôn ngữ ngày càng nâng cao, trong đó hoạt
động giao tiếp là một trong những hoạt động cơ bản và quan trọng nhất của con người.
Khi nhận thức về mối quan hệ xã hội của con người hoàn thiện lên từng ngày, nhu cầu
tương tác với xã hội nhiều hơn sẽ kéo theo nguyện vọng muốn bộc lộ tâm tư, tình cảm,
suy nghĩ…, vì vậy mà con người cần phải hỏi – đáp, cảm ơn, xin lỗi, phàn nàn, trách
mắng, hứa hẹn, nhờ vả, yêu cầu,… Có nghĩa là những người tham gia vào quá trình
giao tiếp cần phải bày tỏ thái độ, ý kiến, nguyện vọng, mong muốn với người nghe sao
cho vừa lịch sự, trang trọng và vừa đạt được hiệu quả giao tiếp cao nhất. Chính vì vậy
mà hành vi ngơn ngữ của con người ngày càng đa dạng và phong phú, kéo theo đó là
mối quan tâm nghiên cứu của các nhà ngôn ngữ học về vấn đề này.
Ngữ dụng học nghiên cứu cách sử dụng ngôn ngữ trong giao tiếp hàng ngày của
con người với những ngữ cảnh cụ thể mà người ta muốn biểu đạt những vấn đề mà họ
quan tâm. Ngôn ngữ được nghiên cứu, xem xét không chỉ ở hệ thống khép kín nội tại
của nó mà được nghiên cứu kĩ trong thực tế sử dụng. Ngôn ngữ ở đây khơng cịn là một

hệ thống tĩnh tại mà là một hoạt động mang tính tương tác giữa cá nhân với cá nhân,
giữa cá nhân với xã hội. Hành vi cầu khiến nói riêng và hành vi ngơn ngữ nói chung từ


5

lâu đã thuộc vấn đề của ngữ dụng học, một phân ngành của ngôn ngữ học phát triển khá
mạnh mẽ từ thập kỷ 70 của thế kỷ 20 trở về đây. Động từ ngữ vi là một trong những đối
tượng nghiên cứu cơ bản của ngữ dụng học, trong đó có động từ ngữ vi cầu khiến.
Tuy ngơn ngữ mang bản chất xã hội, thuộc về cả một cộng đồng người, nhưng
phát ngơn và lời nói của mỗi cá nhân là khác nhau, khơng thể cụ thể hóa thành một hệ
thống cố định. Chính sự đa dạng của các cá thể trong hoạt động giao tiếp đã tạo nên
những ngữ liệu khảo sát vô cùng phong phú, không chỉ dừng lại ở văn phong hành
chính, ngơn ngữ trong văn chương mà khẩu ngữ đời sống cũng rất sinh động. Đó là
những lí do để chúng tơi thực hiện đề tài Hành vi cầu khiến trực tiếp và gián tiếp của
người Việt.

2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Bắt đầu từ khi được quan tâm và phát triển mạnh mẽ từ thập niên 70 của thế kỷ
20 trở về đây, ngữ dụng học đã dần dần trở nên quan trọng trong việc nghiên cứu ngôn
ngữ học hiện đại. Lịch sử nghiên cứu về ngữ dụng học trên thế giới và trong nước có
những cơng trình tiêu biểu sau đây:
Về lý thuyết hành vi ngơn ngữ, J.L. Austin (1962) là người có cơng xây dựng nền
móng lý thuyết ngữ dụng học. Cơng trình đã được công bố sau khi ông qua đời là How
to do things with words (tạm dịch là: Hành động như thế nào bằng lời nói/ Nói là làm).
Với cơng trình này, ơng đã góp phần điều chỉnh mối quan hệ giữa ngơn ngữ và lời nói
theo quan niệm và sự phân biệt của Ferdinand De Saussure vốn chỉ tập trung sự chú ý
vào ngôn ngữ học nội tại mà xao lãng những thứ thuộc về ngoại tại.
Những nhà ngôn ngữ học tiếp tục phát triển lý thuyết này trước hết phải kể đến
J. Searle (1969) với cơng trình Speech Acts (tạm dịch: Các hành vi ngôn ngữ). Khi thực

hiện một phát ngơn trong một tình huống giao tiếp cụ thể, qua cung cách phát ngơn và
cấu trúc của nó người nói đã thực hiện những hành vi ngơn ngữ nhất định và người
nghe cảm nhận được điều này.


6

Từ cuối những năm 80 ở Việt Nam, vấn đề về hành vi ngôn ngữ cũng đã thu hút
nhiều giáo sư Việt ngữ học đầu ngành. Nhiều cơng trình nghiên cứu về ngữ dụng học
nói chung và hành vi ngơn ngữ nói riêng đã được đưa vào giảng dạy trong nhà trường,
có thể kể đến Nguyễn Đức Dân (1988) với cơng trình Ngữ dụng học đã giới thiệu đến
ngun lý lịch sự và giao tiếp về quan điểm thể diện của P.Brown và S.Levinson. Ngồi
ra, tác giả cịn bàn luận về những vấn đề chưa thỏa đáng trong quan niệm của G.Leech.
Với Lịch sự và giao tiếp trong Dụng học Việt ngữ của Nguyễn Thiện Giáp
(2000), lý thuyết về giao tiếp ngôn ngữ được giới thiệu đến người đọc một cách nhẹ
nhàng thông qua việc kết hợp lý thuyết với các ví dụ cụ thể lấy ra từ thực tế giao tiếp
trong các tác phẩm văn học.
Đỗ Hữu Châu (2001) với Đại cương ngôn ngữ học (tập 2), Ngữ dụng học đã
giành trọn chương ba trong tổng số sáu chương để giới thiệu khá đầy đủ và cụ thể các
quan điểm và lý thuyết hành vi ngôn ngữ, lý thuyết hội thoại trong giao tiếp. Ngồi ra,
ơng cịn nghiên cứu bổ sung phép lịch sự của các tác giả khác như: R. Lakoff, G.N.
Leech, P. Brown và S. Levinson. Ông đã phân tích kỹ lưỡng các dấu hiệu ngơn hành,
với động từ ngữ vi như một dấu hiệu quan trọng.
Các cơng trình nghiên cứu về câu cầu khiến và hành vi ngơn ngữ cầu khiến Tiếng
Việt có những cơng trình tiêu biểu sau:
Lê Văn Lý (1968) trong Sơ thảo ngữ pháp Việt Nam khảo sát và phân loại câu
tiếng Việt làm 13 loại câu, bao gồm: câu danh từ, câu động từ, câu nghi vấn, câu khuyến
lệnh, câu khẳng định, câu phủ định, câu biểu cảm, câu tự loại, câu đơn giản, câu đặt
cạnh nhau, câu liên kết, câu phụ thuộc, câu phức tạp. Trong đó câu khuyến lệnh theo
tác giả quan niệm là người nói dùng câu khuyến lệnh để bộc lộ ý muốn của mình, sử

dụng phương tiện là các tiếng như đi, hãy, hẵng, đừng, chớ…
Hoàng Trọng Phiến (1980) trong cơng trình nghiên cứu Ngữ pháp tiếng Việt đã
có sự phân chia câu theo mục đích phát ngôn và xác định các loại câu: câu kể, câu hỏi,


7

câu cầu khiến, câu than gọi. Tác giả cho rằng câu cầu khiến khơng có những dấu hiệu
ngữ pháp đặc biệt ngoại trừ một số phương tiện như hư từ và ngữ điệu. Câu cầu khiến
có nhu cầu của ý chí làm thành yếu tố thường trực của câu, nêu lên ý muốn của chủ thể
phát ngôn và yêu cầu người nghe đáp lại bằng hành động. Nội hàm của khái niệm cầu
khiến bao gồm sự mời mọc, yêu cầu, mệnh lệnh, cấm đoán và chúc tụng.
GS Diệp Quang Ban (2002) trong Ngữ pháp tiếng Việt, tập 2 cho rằng câu phân
loại theo mục đích nói đã chia thành bốn loại câu: câu nghi vấn, câu tường thuật, câu
mệnh lệnh, câu cảm thán. Tác giả cho rằng câu mệnh lệnh (hay câu cầu khiến) là dùng
để bày tỏ ý muốn nhờ hay bắt buộc người nghe thực hiện điều được nêu lên trong câu
và có những dấu hiệu hình thức nhất định, ngồi ra cịn cần lưu ý đến câu mệnh lệnh
đích thực và câu mệnh lệnh lâm thời.
Ngược lại với những quan niệm ngôn ngữ học truyền thống của những nhà
nghiên cứu đã kể trên, một số nhà ngôn ngữ học như Nguyễn Thiện Giáp, Đỗ Hữu
Châu, Nguyễn Đức Dân, Cao Xn Hạo khơng nói đến việc phân loại câu theo mục
đích phát ngơn mà chỉ khảo sát các hành động ngôn trung (hành động ở lời) trong các
phát ngôn. Tiêu biểu như Cao Xuân Hạo (1991) cho rằng căn cứ vào hình thức của câu
để phân loại câu cịn mục đích của phát ngơn thì chỉ được xét đến sau khi đã xác định
được kiểu câu.
Nhiều cơng trình khoa học về ngữ dụng học cũng đã chọn câu cầu khiến làm đối
tượng nghiên cứu chính ở nhiều góc độ khác nhau. Tác giả Bùi Mạnh Hùng với bài Bàn
về vấn đề phân loại câu theo mục đích phát ngơn đăng trên tạp chí Ngơn ngữ số 2 (2003)
cho rằng cấu trúc của câu bao giờ cũng có phương tiện ngôn ngữ giúp quy câu về một
kiểu nhất định gắn với một mục đích phát ngơn điển hình. Tác giả cho rằng câu cầu

khiến không nhất thiết phải được xác lập thành một kiểu câu riêng có được đích ngơn
trung là cầu khiến có thể diễn đạt bằng kiểu câu trần thuật hoặc nghi vấn (đây chính là
hành vi cầu khiến gián tiếp). Ngồi ra cịn có thể kể đến nhiều bài nghiên cứu trên các
tạp chí chuyên ngành như Gián tiếp và lịch sự trong câu cầu khiến tiếng Việt (Vũ Thị


8

Thanh Hương), Quan hệ “quyền” và hành động cầu khiến (Nguyễn Thị Thanh Bình),
Vai trị của hai động từ mong muốn trong việc biểu thị ý nghĩa cầu khiến trong tiếng
Việt, Cách biểu hiện hành động cầu khiến gián tiếp bằng câu hỏi cầu khiến (Đào Thanh
Lan), Đặc trưng ngữ nghĩa của nội dung mệnh đề trong phát ngôn cầu khiến trực tiếp
(Lê Đình Tường).
Như vậy nhiều tác giả đã có sự phân biệt rạch rịi giữa câu cầu khiến và hành vi
cầu khiến khi cho rằng, câu cầu khiến dựa vào dấu hiệu hình thức để xác định cịn hành
vi cầu khiến căn cứ vào lực ngơn trung.
Ngồi ra còn nhiều luận văn, luận án nghiên cứu về câu cầu khiến như: Luận văn
Tiến sĩ Đặc trưng ngữ nghĩa, ngữ pháp của phát ngôn hỏi, cầu khiến trong tiếng Việt
(Nguyễn Thị Thanh Hương), Câu cầu khiến tiếng Việt (Đào Thanh Lan), Câu cầu khiến
tiếng Việt (Chu Thị Thủy An), Các hành động cầu khiến tiếng Việt (Nguyễn Thị Thanh
Ngân). Những luận văn Thạc sĩ Hành động cầu khiến trong ngôn ngữ kịch của Lưu
Quang Vũ (Chu Thị Thùy Phương), Vị từ cầu khiến trong tiếng Việt (Nguyễn Thị Liên),
Phương thức biểu hiện hành vi từ chối lời cầu khiến trong tiếng Anh (Trần Chi Mai),
Hành vi cầu khiến và ứng dụng trong giảng dạy tiếng Việt như một ngoại ngữ (Nguyễn
Thị Hồng)…Những cơng trình nghiên cứu trên cho thấy hành vi ngôn ngữ là rất đa
dạng, không chỉ tập trung vào tiếng Việt mà cịn phân tích dựa trên tiếng Anh để so
sánh, đối chiếu.
Trên cơ sở kế thừa và phát triển kết quả của các cơng trình nghiên cứu, trong
luận văn này chúng tơi tập trung tìm hiểu về hành vi ngôn ngữ trong tiếng Việt, mà cụ
thể là hành vi ngơn ngữ cầu khiến.


3. Mục đích nghiên cứu
Trong tiếng Việt, cầu khiến là một khái niệm rất rộng, bao hàm cả nhiều nét
nghĩa khác nhau như mệnh lệnh, thỉnh cầu, bắt buộc, ngăn cấm, khuyên can, đề nghị…
chính vì vậy, tùy vào từng hồn cảnh giao tiếp khác nhau mà mỗi hành vi cầu khiến


9

được sử dụng sẽ mang lại những giá trị, hiệu quả khác biệt. Nó khơng chỉ thể hiện nội
dung, biểu đạt sắc thái, ý nghĩa khác nhau của người nói trong giao tiếp mà còn bộc lộ
được vị thế, mối tương quan về quan hệ xã hội giữa người nói và người nghe. Việc sử
dụng, chọn lựa những cách thức khác nhau để hành vi cầu khiến đạt hiệu quả tốt nhất
thuộc về năng lực sử dụng ngôn ngữ của người nói cũng như trường liên tưởng, hiểu
biết chung giữa người nói và người nghe. Những phương thức thể hiện hành vi cầu
khiến trong mỗi ngơn ngữ nói chung, tiếng Việt nói riêng góp phần làm phong phú thêm
những nét đặc trưng, khu biệt về ngôn ngữ giữa các cộng đồng người với nhau. Trong
khuôn khổ của luận văn này, chúng tôi nghiên cứu về phương thức biểu đạt trực tiếp và
gián tiếp của hành vi cầu khiến để đi tìm nét đặc trưng trong ngơn ngữ tiếng Việt thuộc
về một loại hành vi ngôn ngữ được mỗi người sử dụng hằng ngày.

4.

Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1.

Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là những câu nói thể hiện hành vi cầu khiến trực tiếp và


gián tiếp trong tiếng Việt được sử dụng phổ biến thông qua giao tiếp hàng ngày và được
dùng trong các sách báo, truyện, phim, bảng báo, bảng hiệu, v.v. và từ nguồn ngữ liệu
điện tử.
4.2.

Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu là phương thức thể hiện các hành vi cầu khiến trực tiếp và

gián tiếp.

5.

Phương pháp nghiên cứu
Trong khuôn khổ của luận văn, chúng tôi sử dụng một số phương pháp sau:
- Phương pháp miêu tả: Mô tả những đặc điểm về ngữ pháp, ngữ nghĩa và cách

sử dụng từ ngữ, trật từ từ trong các câu ngữ vi biểu đạt hành vi cầu khiến.


10

- Phương pháp phân tích ngữ dụng: Dùng các thủ pháp ngữ dụng học để phân
tích các vai giao tiếp, ngữ cảnh và hiệu quả giao tiếp. Trong quá trình giao tiếp dựa vào
vào các yếu tố trong và ngoài ngôn ngữ, hành động ứng xử phù hợp và hành động ứng
xử khơng phù hợp.

6. Cấu trúc của khóa luận
Khóa luận bao gồm

trang chính văn là một danh mục các tài liệu tham khảo.


Phần nội dung chính của khóa luận bao gồm 03 chương:
Chương 1 có tiêu đề Những vấn đề lý thuyết cơ sở. Trong chương này, chúng tơi
trình bày 04 nội dung lớn, bao gồm: khái quát các lý thuyết về HVNN; nội dung thứ hai
đề cập đến khái niệm của động từ và động từ ngữ vi, là thành tố quan trọng của HVNN
ở lời. Nội dung thứ ba của chương 1 đi vào tìm hiểu câu ngữ vi và biểu thức ngữ vi, xác
định các thành tố của hành vi cầu khiến. Cuối cùng, khóa luận đi vào những vấn đề lý
thuyết cơ bản của hành vi cầu khiến và mối quan hệ của nó với câu cầu khiến, đặc điểm
cơ bản của 15 loại hành vi cầu khiến dựa trên việc xác định hành vi cầu khiến là HVNN
ở lời.
Chương 2 có tiêu đề Các phương thức thực hiện hành vi cầu khiến trực tiếp và
gián tiếp trong tiếng Việt. Hành vi cầu khiến trực tiếp bao gồm việc sử dụng câu cầu
khiến chính danh và câu sử dụng động từ ngữ vi cầu khiến. Hành vi cầu khiến gián tiếp
bao gồm phương thức dùng câu trần thuật, phương thức dùng câu nghi vấn và phương
thức dùng câu cảm thán.
Chương 3 có tiêu đề Đặc điểm ngữ dụng của hành vi cầu khiến trực tiếp và gián
tiếp trong tiếng Việt bao gồm các nội dung: đặc trưng về điều kiện sử dụng, lý thuyết
lịch sự trong hành vi cầu khiến và sự vi phạm các phương châm hội thoại.

NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ THUYẾT CƠ SỞ
1.1.

Khái quát về hành vi ngôn ngữ


11

1.1.1. Ngữ dụng học
Ngữ dụng học là một chuyên ngành thuộc ngơn ngữ học nghiên cứu câu nói trong

hoạt động giao tiếp. Ngay từ thời Hi Lạp cổ đại, Aristote đã phát triển mơn tu từ học cổ
điển, trong đó nhấn mạnh đến việc vận dụng từ ngữ trong những tương tác thực tế để
đạt đến những hiệu quả giao tiếp. Sau này, từ đầu thế ký XX, các học giả phương Tây
đã bắt đầu quan tâm đến cả ba bình diện gồm kết học, nghĩa học và dụng học khi nghiên
cứu một tín hiệu. Giữa thế kỷ XX, sau nhiều quan điểm và học thuyết được đưa ra từ
những năm trước, giáo sư Ngôn ngữ học của Đại học Oxford Jean Aitchison đã định
nghĩa khái quát về ngữ dụng học: “Ngữ dụng học nghiên cứu việc sử dụng ngôn ngữ
của người nói, việc sử dụng này khơng thể lý giải được bằng các lý thuyết ngữ nghĩa
học tiền dụng học cũng như không thể lý giải được chỉ bằng những tri thức về ngơn ngữ
tách riêng (nói đúng hơn là bằng những hiểu biết về ngôn ngữ tiền dụng học). Theo một
cách hiểu hẹp hơn, ngữ dụng học quan tâm tới việc người nghe làm thế nào nắm bắt
được cái ý nghĩa mà người nói có ý định nói ra. Theo nghĩa rộng nhất, nó quan tâm tới
những quy tắc chung chi phối sự giao tiếp giữa người với người”.
So với phương Tây, ngữ dụng học nói riêng hay ngơn ngữ học nói chung được
giới thiệu vào Việt Nam trễ hơn nhưng đã nhận được nhiều sự chú ý của các nhà nghiên
cứu ngôn ngữ. Gần như là những người đi tiên phong trong lĩnh vực nghiên cứu ngữ
dụng học, các tác giả Nguyễn Đức Dân và Đỗ Hữu Châu đã nêu những vấn đề về lý
thuyết ngữ dụng học theo một số định nghĩa tiêu biểu của các học giả nước ngoài như:
Stephen C. Levinson, A.M. Diller và F. Récanati, Fasold, v.v. Theo đó, quan điểm của
A.M. Diller và F. Récanati định nghĩa ngữ dụng học: “Ngữ dụng học nghiên cứu việc
dùng ngôn ngữ trong diễn từ và các chỉ hiệu đặc thù trong ngôn ngữ, những cái làm nên
cách thức nói năng”. Quan điểm của Fasold thì như sau: “Ngữ dụng học đề cập tới mọi
yếu tố con người trong quá trình giao tiếp, như tâm lý, sinh lý và xã hội” [4, 11]


12

Trong các quan điểm của những học giả phương Tây, tác giả Nguyễn Đức Dân
và Đỗ Hữu Châu đều chú trọng về quan điểm ngữ dụng học của Stephen C. Levinson,
gồm có hai định nghĩa:

(1)

“Ngữ dụng học nghiên cứu những quan hệ giữa ngôn ngữ và ngữ cảnh đã

được ngữ pháp hóa hoặc đã được mã hóa trong cấu trúc của ngôn ngữ”.
(2)

“Ngữ dụng học nghiên cứu tất cả những phương diện của ngôn ngữ không

nằm trong lý thuyết về ngữ nghĩa (semantic theory) [4, 11].
Như vậy, ta có thể khái quát: Ngữ dụng học là một ngành ngôn ngữ học nghiên
cứu ý nghĩa của các phát ngôn trong ngữ cảnh hoặc hoàn cảnh giao tiếp. Ngữ dụng học
tập trung sự chú ý vào việc các thao tác thông điệp thực tiễn bằng ngôn ngữ đã được
con người vận dụng như thế nào trong hoàn cảnh giao tiếp thực tế. Với ngữ dụng học,
những luận điểm của Ferdinand de Saussure về việc đề cao nội tại bên trong ngôn ngữ
mà không chú ý đến những điều kiện ngoại lai đang được giới ngôn ngữ học xem xét
lại. Từ đây, ngôn ngữ khơng cịn bị bó hẹp trong cấu trúc luận nội tại của nó mà đã bao
quát đến từng lời nói cụ thể, từng giao tiếp cụ thể của con người.
Dù nghiên cứu ngữ dụng là nghiên cứu sự tác động lên nhau giữa các nhân vật
giao tiếp hay nghiên cứu các cơ chế làm cơ sở cho việc thực hiện mục đích mà người
nói định ra cho cuộc giao tiếp do mình tham gia; dù nghiên cứu về các tổ chức hay các
đơn vị, các hành động có mặt trong sự giao tiếp thì tất cả những cái đó phải thể hiện
thành ngữ nghĩa, phải ngữ nghĩa hóa hoặc tạo điều kiện để hồn thành ngữ nghĩa của
diễn ngơn. Tức là người tham gia giao tiếp ở đây phải ngữ nghĩa hóa ý định, chiến lược,
các hành vi mà mình lựa chọn, phải đem lại cho mỗi đơn vị ngữ dụng (là các đơn vị
diễn ngôn) một nội dung nào đó thì mới gây được tác động vào người nghe. Và người
nghe chỉ có thể thuyết giải đúng ngữ nghĩa của các đơn vị ngôn ngữ nghe được, đọc
được nhờ những tri thức, kinh nghiệm về ngữ dụng của mình thì mới có thể phản hồi



13

được một cách thích đáng bằng các đơn vị, các cơ chế ngữ dụng tương ứng. Do vậy,
ngữ nghĩa ở đây được gọi là ngữ nghĩa ngữ dụng.
1.1.2. Hành vi ngôn ngữ
Trong quyển sách How to do things with words (tạm dịch: Hành động như thế
nào bằng lời nói) của J.L. Austin, ông đã nhận thấy rằng các nhà logic học và ngơn ngữ
học trước đó chỉ quan tâm đến những câu khảo nghiệm (còn gọi là là khẳng định, trần
thuật, xác tín, miêu tả), xem chúng là đối tượng nghiên cứu cơ bản. Đây là những câu
về mặt ngữ nghĩa được đánh giá dựa trên các giá trị logic đúng – sai như: Bây giờ là
mười bốn giờ; Đêm qua ĐTQG Việt Nam thắng Thái Lan 3-0. Tuy nhiên, có những phát
ngơn khác, về mặt hình thức giống với các phát ngơn khảo nghiệm phía trên nhưng lại
khơng thể đánh giá nội dung theo tiêu chuẩn đúng – sai của logic. Đó là những câu như
Anh có biết mình đang làm cái gì khơng?; Chỗ anh trời đang mưa, anh dường như thấy
em đang khóc; Tơi bảo đảm với chị là không cân thiếu, ba lạng là đúng ba lạng đấy!.
Chúng được phát ngơn khơng nhằm mục đích trình bày một kết quả khảo nghiệm, miêu
tả sự vật, sự việc, không phải những báo cáo về hiện thực mà nhằm thực hiện một hành
động như hỏi, bày tỏ cảm xúc, bảo đảm. Austin đã phát hiện ra bản chất hành động của
ngơn ngữ trên việc phân tích các phát ngôn này và đặt tên chúng là phát ngôn ngữ vi
(performatives, performatifs), chính là chỉ việc khi người nói phát ngơn thì đồng thời
cũng đang thực hiện ngay việc được biểu thị trong phát ngôn. Đây là những cơ sở để
các nhà Việt ngữ học nghiên cứu về hành vi ngôn ngữ.
Ở Việt Nam, từ những năm 1980 trở về đây, hai nhà ngơn ngữ học tiên phong
trong việc tìm hiểu về ngữ dụng học nói chung, hành vi ngơn ngữ nói riêng là GS.
Nguyễn Đức Dân và GS. Đỗ Hữu Châu. Theo GS Nguyễn Đức Dân: “Khi thực hiện
một phát ngơn trong tình huống giao tiếp cụ thể, qua cung cách phát ngơn và cấu trúc
của nó người ta thực hiện những hành vi ngôn ngữ nhất định và người nghe cảm nhận
được điều này. Xảy ra hiện tượng đó vì các hành vi ngơn ngữ đó mang tính xã hội, được
ức chế bởi xã hội” [11, 220].



14

Tác giả Đỗ Hữu Châu cho rằng: “Khi chúng ta nói năng là chúng ta hành động,
chúng ta thực hiện một loại hành động đặc biệt mà phương tiện là ngôn ngữ” [5, 88].
Một hành động ngôn ngữ được thực hiện khi một người nói hoặc người viết nói ra một
phát ngôn cho người nghe hoặc người đọc trong ngữ cảnh nhất định.
Austin đã phân loại hành vi ngôn ngữ thành ba loại hành động lớn gồm: hành vi
tạo lời (acte locutoire), hành vi mượn lời (acte perlocutoire) và hành vi ở lời (acte
illocutoire) [5, 88].
1.1.2.1. Hành vi tạo lời
Tác giả Đỗ Hữu Châu định nghĩa rằng: hành vi tạo lời (acte locutoire) là hành vi
sử dụng yếu tố của ngôn ngữ như ngữ âm, từ, các kiểu kết hợp từ câu, v.v. để tạo ra một
phát ngơn về hình thức và nội dung [5, 88]
Tác giả Cao Xuân Hạo lại có một cách gọi khác cho acte locutoire là Hành động
tạo ngôn: khi thực hiện hành động đưa ra một phát ngơn (utterance) có thơng tin, có nội
dung cụ thể, rõ ràng thì đó gọi là hành động tạo ngơn [19, 126]
Nói cách khác, hành vi tạo lời là hành động tạo ra một chuỗi âm thanh có nghĩa
làm thành nội dung mệnh đề trong lời. Từ đó ý nghĩa của lời được xác lập. Đây là phần
ý nghĩa biểu thị nội dung mệnh đề.
VD: Hoa đi ăn đám cưới ở nhà hàng Hoa Mai lúc 5 giờ chiều.
Vườn quốc gia Nam Cát Tiên là một khu bảo tồn thiên nhiên có đặc trưng là rừng
đất thấp ẩm ướt nhiệt đới.
Tôi chưa bao giờ dạy lớp nào nhiều chuyện như lớp này!
Tối nay mẹ không về nhà.
Theo tin tức dự báo thời tiết thì ngày mai trời sẽ mưa.
1.1.2.2. Hành vi mượn lời


15


Cũng theo định nghĩa của tác giả Đỗ Hữu Châu, hành vi mượn lời (acte
perlocutoire) là những hành vi “mượn” phương tiện ngơn ngữ, nói cho đúng hơn là
mượn các phát ngơn để gây ra một hiệu quả ngồi ngơn ngữ nào đó ở người nghe, người
nhận hoặc ở chính người nói [5, 88].
Hành động xun ngơn theo định nghĩa của tác giả Cao Xuân Hạo là một sự tác
động vào tâm lí hay/ và hành vi của người nghe, cho nên cũng gọi là lực xuyên ngôn
(perlocutionary force), làm cho người nghe xúc động, yên tâm, bị thuyết phục, bị áp
đảo, bực mình, phấn khởi, v.v. [19, 126].
VD1: Cơ giáo thông báo với cả lớp: Cả lớp lấy giấy ra, kiểm tra 15 phút!
 Sau khi phát ngôn được thực hiện, sẽ có một số người lo lắng, bồn chồn vì chưa
chuẩn bị bài, chưa học bài; một số người phấn khởi vì đã học bài tốt và hi vọng có điểm
cao.
VD2: Cảnh sát giao thơng nói với người tham gia giao thông: Anh đã vi phạm mục X,
khoản Y, điều Z bộ luật ABC, đề nghị anh xuất trình giấy tờ để kiểm tra.
 Sau khi phát ngơn được thực hiện, người nghe có thể sẽ hoảng sợ (vì vi phạm
luật và phải đóng phạt), bực bội, càu nhàu, khó chịu hoặc có hành động năn nỉ, dọa
nạt…
Chức năng hành động của giao tiếp được thực hiện nhờ các hiệu quả mượn lời
của phát ngơn. Có những hiệu quả mượn lời là đích của một hành vi (như lấy giấy ra
làm bài) nhưng có những hiệu quả khơng thuộc đích của hành vi mượn lời (như khó
chịu, khơng chịu xuất trình giấy tờ, phản kháng khơng thực hiện). Người thực hiện hành
động ngơn ngữ cũng khơng tính tốn được chính xác hiệu quả của phát ngơn, nó cịn
phụ thuộc một phần vào người được chỉ định thực hiện phát ngơn đó. Nói cách khác,
chúng khơng có tính quy ước (trừ hành vi mượn lời có đích là hành vi ở lời).
1.1.2.3. Hành vi tại lời (hành vi ở lời)


16


Theo quan điểm của Đỗ Hữu Châu, tác giả cho rằng hành vi ở lời (acte
illocutoire) là những hành vi người nói thực hiện ngay khi nói năng. Hiệu quả của chúng
là những hiệu quả thuộc ngơn ngữ, có nghĩa là chúng gây ra một phản ứng ngôn ngữ
tương ứng với chúng ở người nhận [5, 89].
Tác giả Cao Xuân Hạo cho rằng: khi ta làm một trong những hành động sau
đây: khẳng định (hay phủ nhận), hỏi, yêu cầu làm một việc gì, hứa hẹn, miêu tả, xin lỗi,
cám ơn, phê phán, thách thức, cho phép, mà cũng có nhiều khi làm một lúc hai ba hành
động như thế gọi là hành động ngôn trung [19, 126].
VD: Tôi thách bạn dám méc cô đấy. => Thực hiện hành động thách thức
ngay khi phát ngôn.
Theo tác giả Austin, hành động ở lời chia thành 05 lớp [5, 121]:
- Phán xử (verditives) gồm những hành động “đưa ra lời phán xét về một sự
kiện hoặc một giá trị dựa trên những chứng cớ hiển nhiên hoặc dựa vào những lý lẽ
vững chắc như: xử trắng án, xem là, tính tốn, phân tích, miêu tả…”
- Hành xử (exercitives) gồm những hành động “đưa ra những quyết định thuận
lợi hay chống lại một chuỗi hành động nào đó: ra lệnh, chỉ huy, biện hộ, cầu khẩn…”
- Cam kết (commissives) bao gồm những hành động “ràng buộc Sp1 vào những
hanh động nhất định: hứa hẹn, bày tỏ mong muốn, giao ước, hứa hẹn…”
- Trình bày (expossives) bao gồm những hành động “trình bày quan điểm, lập
luận, dẫn dắt, giải thích các từ như khẳng định, phủ định từ chối, trả lời…”
- Ứng xử (behabitives) bao gồm những hành động “phản ứng với cách xử sự
của người khác, đối với sự kiện có liên quan, chúng cũng là cách biểu hiện thái độ đối
với hành vi hay số phận người khác: xin lỗi, cảm ơn, khen chê, chào mừng, ban
phước…”.


17

J. R. Sean (1969) cho rằng việc phân loại các hành động ngôn từ phải dựa trên
những tiêu chuẩn xác định. Ông đưa ra 02 tiêu chuẩn phân loại trong đó có 03 tiêu

chuẩn chính sau [21, 131]:
- Mục đích của hành động ngôn trung: để người đối thoại làm một việc gì (hay
nói điều gì), để miêu tả một sự tình, để cam kết là sẽ làm một việc gì,…được Searle gọi
là yếu điểm (the point) ngơn trung. Yếu điểm này nằm trong lực ngôn trung, nhưng tùy
vào hai hành động khác nhau có cùng một yếu điểm mà lực ngôn trung khác nhau (lực
của một lời thỉnh cầu yếu hơn lực của một mệnh lệnh).
- Hướng thích nghi giữa lời lẽ và hiện thực: có những hành động ngôn trung
nhằm làm sao cho lời lẽ (nội dung mệnh đề) thích nghi với hiện thực, lại có những hành
động ngơn trung nhằm làm sao cho hiện thực thích nghi với lời lẽ (so sánh câu trần
thuật với câu mệnh lệnh hay lời hứa).
- Trạng thái tâm lý được biểu hiện: tin tưởng, ước mong, hối tiếc, mưu toan
(trong lời hứa hay lời hăm dọa). Đây là thái độ của người nói đối với nội dung của mệnh
đề được truyền đạt. Thái độ này có thể xác thực được hay khơng, nhưng khơng được
mâu thuẫn với cách trình bày nội dung mệnh đề.
Dựa trên những tiêu chuẩn đó, J. Searle đã phân hành động ngôn trung ra làm 05
kiểu cơ bản [16, 383]:
- Hành động tuyên bố (declarations): người nói làm thay đổi địa vị hoặc điều
kiện bên ngoài của một đối tượng hoặc hoàn cảnh chỉ bằng cách tạo ra phát ngôn, như:
từ bỏ, đặt tên, sa thải, khai mạc. Đặc trưng của hành động tuyên bố là: từ ngữ làm thay
đổi thực tại, người nói gây ra tình huống.
- Hành động biểu kiến (representatives): là hành động thể hiện cái mà người
nói tin tưởng. Hành động này thể hiện ở những câu mà người nói phải chịu trách nhiệm
về giá trị chân lý của mệnh đề được biểu đạt. Người nói cam kết tính chân thực của
mệnh đề với những mức độ khác nhau như xác nhận, tin tưởng, khẳng định, phủ định…


18

Nhóm biểu kiến gồm các hành động như: khẳng định, quả quyết, phỏng đốn, miêu tả,
từ chối, thơng báo, tán thành, gợi ý, tranh cãi, hướng ứng, giải thích… Đặc trưng của

hành động biểu kiến là: lời nói khớp với thực tại, người nói tin tình huống.
- Hành động biểu cảm (expressive act): người nói thể hiện trạng thái tâm lý
của mình đối với sự tình trong nội dung mệnh đề, như xin lỗi, phàn nàn, hoan nghênh,
chúc mừng, cảm ơn. Đặc trưng của hành động biểu cảm là: làm từ ngữ khớp với thực
tại, người nói cảm thấy tình huống.
- Hành động cầu khiến (directives): người nói cố gắng làm cho người nghe làm
cái gì đó, chẳng hạn hỏi, yêu cầu, ra lệnh, nài ép, thỉnh cầu… Đặc trưng của hành động
cầu khiến là: làm thực tại khớp với từ ngữ, người nói muốn tình huống.
- Hành động ước kết (commissives): người nói cam kết một hành động tương
lai nào đó, chẳng hạn: bảo đảm, hứa hẹn, cam đoan, thề, tuyên thệ. Đặc trưng của hành
động ước kết là: làm thực tại khớp với từ ngữ, người nói định tình huống.
Có một điểm khác biệt giữa hành vi tại lời so với hành vi tạo lời và hành vi mượn
lời được các nhà ngôn ngữ học đặc biệt chú ý. Tác giả O. Ducrot nhấn mạnh hành vi ở
lời chúng thay đổi tư cách pháp nhân của người đối thoại [5, 90]. Chúng đặt người nói
lẫn người nghe phát ngôn vào những nghĩa vụ và quyền lợi mới so với tình trạng của
họ trước khi tạo ra phát ngơn. Chẳng hạn như khi chúng ta thực hiện phát ngôn “Tơi
cam đoan với anh đây là kim cương thật” thì ngay lúc cam đoan, chúng ta đã ràng buộc
trách nhiệm của bản thân phải đảm bảo lời cam đoan đó. Việc thực hiện hành động hay
tạo ra hành vi ở lời cũng đồng thời tạo cho người nghe, người tiếp nhận phát ngơn có
quyền chờ đợi, được hưởng kết quả từ lời cam đoan đó.
Chính vì vậy, hành động ở lời gây ra một hiệu quả phát ngôn nhất định ở người
nói và người nghe ngay khi phát ngơn được nói ra. Là hành động nói được thực hiện
bằng một lực thông báo của một phát ngôn (lực ngôn trung) thể hiện mục đích giao tiếp
nhất định của lời (đích ngôn trung) như trần thuật, hỏi, cầu khiến làm nên ý nghĩa ngôn


19

trung. Đích ngơn trung và lực ngơn trung đều được dùng làm tiêu chí nhận diện hành
động ngơn trung bởi cùng một mục đích ngơn trung lại được thực hiện bằng những lời

mang lực ngơn trung khác nhau.
Ví dụ: (1) “Dậy đi”; (2) “Con dậy đi nào” đều có đích ngơn trung là cầu khiến
(người nói u cầu người nghe thực hiện hành động thức dậy), nhưng nếu ở câu (1) đích
ngơn trung cầu khiến được thực hiện bằng lực ngơn trung mạnh, mang tính chất bắt
buộc, áp đặt người nghe khơng được phép kháng cự thì ở câu (2), đích ngơn trung cầu
khiến được thực hiện bằng lực ngơn trung yếu hơn, mang tính chất khuyên bảo, khuyến
khích người nghe thực hiện hành động nhưng khơng mang tính bắt buộc.
Ta có thể thấy, qua nhiều năm nghiên cứu và kiểm chứng, hầu hết các nhà ngôn
ngữ học đều thống nhất với cách phân chia ba loại hành vi ngôn ngữ. Khi thực hiện một
phát ngơn, người nói sẽ thực hiện một trong ba loại hành vi này. Tuy nhiên, có nhiều
thứ đáng để nghiên cứu và thu hút sự quan tâm của các nhà ngôn ngữ học nhất vẫn là
loại hành vi ngôn ngữ ở lời. Đây là hành động tạo ra nhiều sắc thái phong phú, nhiều
tính biểu cảm và hàm ý phát ngôn đều gần như thuộc hết trong loại này.
1.1.3. Điều kiện sử dụng các hành vi ở lời
Để thực hiện một hành động vật lý hay sinh lý nào đó, ta khơng thể thực hiện
một cách tùy tiện mà cần tuân thủ theo các điều kiện cơ bản để hành động đó đảm bảo
được tiến hành hiệu quả. Hành vi ở lời về cơ bản là một hành vi xã hội, càng phải đáp
ứng các điều kiện đặt ra chặt chẽ đa dạng hơn nữa. Điều kiện sử dụng các hành vi ở lời
là những điều kiện mà một hành động ở lời phải đáp ứng để nó có thể diễn ra thích hợp
với ngữ cảnh phát ngơn ra nó. Khi đặt ra các lý thuyết về hành vi ngơn ngữ, Austin cũng
đã có chú ý đến điều này. Ông xem các điều kiện sử dụng các hành vi ở lời là những
điều kiện “may mắn” (felicity conditions) nếu chúng được bảo đảm thì hành vi mới
“thành cơng”, đạt hiệu quả. Nếu khơng nó sẽ thất bại. Những điều kiện của Austin gồm
có [5, 112]:


20

a. (i) Phải có thủ tục có tính chất quy ước và thủ tục này phải đạt hiệu quả cũng
có tính quy ước; (ii) Hồn cảnh và con người phải thích hợp với những điều

trong thủ tục
b. Thủ tục phải được thực hiện (i) một cách đúng đắn và (ii) đầy đủ
c. Thơng thường thì (i) là những người thực hiện hành vị ở lời (hành động ở lời)
phải có ý nghĩa, tình cảm, ý định đúng đắn như nó đã có.
Tiếp theo Austin, John Searle, nhà triết học ngơn ngữ người Mỹ đã chỉ ra bốn
điều kiện [5, 117]:
Điều kiện nội dung mệnh đề chỉ ra bản chất nội dung của hành động. Nội dung
của mệnh đề có thể là một mệnh đề đơn giản (đối với các hành vi khảo nghiệm, xác tín
hay miêu tả), hay một hàm mệnh đề (đối với các câu hỏi khép kin, tức đối với những
câu hỏi chỉ có hai khả năng có hoặc khơng: phải, khơng phải…). Nội dung của mệnh
đề có thể là hành động của người nói (hứa hẹn) hay một hành động của người nghe
(lệnh, yêu cầu).
Điều kiện nội dung chuẩn bị bao gồm những hiểu biết của người phát ngơn về
năng lực, lợi ích, ý định của người nghe và về mối quan hệ của người nói và người
nghe, ví dụ khi ra lệnh, người nói phải tin rằng người nghe lệnh có khả năng thực hiện
hành động quy định trong lệnh…sự hứa hẹn có ý muốn thực hiện lời hứa và người nghe
cũng thực sự mong muốn lời hứa được thực hiện. Khảo nghiệm, xác tín, khơng những
địi hỏi người nói nói một cái gì đó đúng mà cịn địi hỏi anh ta phải có những bằng
chứng.
Điều kiện chân thành chỉ ra các trạng thái tâm lý tương ứng của người phát ngơn.
Xác tín, khảo nghiệm địi hỏi niềm tin vào điều mình xác tín; lệnh địi hỏi lòng mong
muốn; hứa hẹn đòi hỏi ý định của người nói…
Điều kiện căn bản đưa ra kiểu trách nhiệm mà người nói hoặc người nghe bị ràng
buộc khi hành động ở lời đó được phát ra. Trách nhiệm có thể rơi vào hành động sẽ


21

được thực hiện (lệnh, hứa hẹn) hoặc đối với tính chân thực của nội dung (một lời xác
tín buộc người nói phải chịu trách nhiệm về tính đúng đắn của điều được nói ra).

Searle đã miêu tả một trong các loại hành vi ở lời và điều kiện thỏa mãn là “Thỉnh
cầu” (Request) như sau [5, 118]:
Nội dung mệnh đề: Hành vi tương lai A của người nghe H.
Chuẩn bị: (i) H có khả năng thực hiện A. Người nói S cho rằng H có khả năng
thực hiện A. (ii) Nếu khơng thỉnh cầu thì cả đối với S cả đối với H không chắc rằng H
sẽ tự thực hiện A bất kể thế nào.
Chân thành: S mong muốn rằng H thực hiện A
Căn bản: Nhằm dẫn đến việc H thực hiện A
1.1.4. Hành vi ở lời trực tiếp - gián tiếp
1.1.4.1 Hành vi ở lời trực tiếp (direct speech acts)
Hành vi ở lời trực tiếp là những hành vi được sử dụng đúng với đích ở lời, đúng
với điều kiện sử dụng của chúng. Nói cách khác theo Yule (Một số dẫn luận nghiên cứu
ngơn ngữ) thì khi nào có một quan hệ trực tiếp giữa một cấu trúc và một chức năng thì
chúng ta có một hành vi ngơn ngữ trực tiếp.
Ví dụ: - Hành vi cầu khiến:
“Xin ông lượng tình mà ngỏ cổng cho tôi ra đồng, kẻo trưa quá mất rồi”
“Thong thả! Hãy đứng đấy! Cày đã nóng bằng thuế nhà nước à?”
(Tắt đèn- Ngơ Tất Tố)
Những từ như “xin”, “hãy” đều là những từ mang sắc thái cầu khiến, tỏ ý định
với một người nào đó, mong muốn họ thực hiện một hành động hoặc cho mình một cái
gì đó, tuy nhiên, mức độ của từ “xin” thể hiện sự khiêm tốn, lịch sự, lễ phép hơn, mang


×