Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (251.5 KB, 27 trang )

I: LI M U
Trong quá trình chuyển sang kinh tế thị trờng theo định hớng XHCN vấn đề phát triển
cơ cấu kinh tế nhiều thành phần đợc đặt ra nh một yêu cầu tất yếu đối với nềnkinh tế Việt
Nam. Kinh tế t nhân là một bộ phận trong cơ cấu ấy đã có một thời kỳ bị coi là đối lập với
kinh tế XHCN, vì vậy phải nằm trong diện cải tạo xoá bỏ. Song thực tiễn đã cho thấy
quan niệm nh vậy là cực đoan và sự xuất hiện trở lại của kinh tế t nhân đã góp phần không
nhỏ vào sự thay đổi bộ mặt của nền kinh tế theo hớng tích cực. Cùng với chủ trơng
chuyển nền kinh tế Việt Nam sang nền kinh tế thị trờng , Đảng và nhà nớc Việt Nam đã
ban hành nhiều chủ trơng, chính sách để khuyến khích sự phát triển của các thành phần
kinh tế, trong đó có kinh tế t nhân. Tuy nhiên, kinh tế t nhân, thành phần kinh tế non trẻ
của nớc ta đang phải đối diện với nhiều khó khăn, thách thức. Nhiều vấn đề bất cập trong xã
hôi, trong chủ trơng chính sách và tổ chức quản lý đang là trở ngại cho sự phát triển của thành
phần kinh tế này.
Nền kinh tế Việt Nam đang đứng trớc những thời cơ và thách thức mới. Cơ hội phát triển
rút ngắn, thực hiện thành công CNH, HĐH phấn đấu đa Việt Nam về cơ bản trở thành
một nớc công nghiệp vào năm 2020 là hiện thực. Tuy nhiên, để thực hiện đợc mục tiêu
này đòi hỏi phải có vốn đầu t lớn với sự giải phóng tối đa lực lợng sản xuất xã hội. Trong
bối cảnh các nguồn lực kinh tế của Việt Nam còn đang hạn chế, xây dựng một nền kinh tế
nhiều thành phần, còn kinh tế t nhân nh một động lực phát triển cơ bản là một hớng đi
hoàn toàn đúng đắn. Trong những năm vừa qua mặc dù đã có bớc phát triển tốt, kinh tế t
nhân Việt Nam vẫn cha thực sự có đợc một vai trò tơng xứng với tiềm năng của nó. Bài
viết này sẽ tập trung làm sáng tỏ những vấn đề cơ bản sau õy.
Vai trò thành phần kinh tế t nhân và vấn đề thực tiễn đật ra trong thời kỳ quá độ lên
CNXH
Tuy nhiên do vấn đề suy tầm tài liệu, cập nhập thông tin còn có phần hạn chế và nhiều
thiếu sót lên bài viết có nhiều thiếu sót mong các bạn thông cảm! Rất mong nhận đợc sự
đóng góp của các bạn!
Em xin cảm ơn giảng viên,TS Đỗ Thị Kim Hoa đã hớng dẫn em thực hiện bài tiểu
luận này!

1


Chơng I
khái quát chung về kinh tế t nhân trong
nền kinh tế thị trờng định hớng xã hội chủ nghĩa
I. các thành phần kinh tế t nhân trong nền kinh tế thị trờng định
hớng x hội chủ nghĩa ã
1 Thành phần kinh tế cá thể ,tiểu chủ.
Kinh tế cá thể là thành phần kinh tế dựa trên t hữu nhỏ về t liệu sản xuất và khả năng
lao động của bản thân ngời lao động.
Kinh tế tiểu chủ cũng chính là hình thức kinh tế dựa trên t hữu nhỏ về t liệu sản xuất
nhng có thuê mớn lao động, tuy nhiên thu nhập vẫn chủ yếu dựa vào sức lao động và vốn
của bản thân và gia đình.
Kinh tế cá thể, tiểu chủ đang có vị trí rất quan trọng trong nhiều ngành nghề ở nông
thôn và thành thị, có điều kiện phat huy nhanh tiềm năng về vốn sức lao động, tay nghề
của từng gia đình, từng ngời lao động. Do đó, việc mở rộng sản xuất, kinh doanh của kinh
tế cá thể và tiểu chủ cần đợc khuyến khích.
Hiện nay, ở nớc ta, thành phần kinh tế này phần lớn hoạt động dới hình thức hộ gia
đình, đang là một bộ phận đông đảo, có tiềm năng to lớn, có vị trí quan trọng ,lâu dài. Đối
với nớc ta, cần phát triển mạnh mẽ thành phần kinh tế này để vừa góp phần tạo ra nhiều
của cải vật chất cho xã hội, vừa giải quyết nhiều việc làm cho ngời lao động - một vấn đề
bức bách hiện nay của đời sống kinh tế xã hội. Trong những năm gần đây, thành phần
kinh tế này phát triển nhanh chóng trong nông lâm ng nghiệp và thơng mại, dịch vụ. Nó
đã góp phần quan trọng vào các thành tựu kinh tế xã hội. Tuy nhiên, cũng cần thấy rằng,
kinh tế cá thể tiểu chủ dù cố găngs đến bao nhiêu cũng không loại bỏ đợc những hạn chế
vốn có nh: tính tự phát , manh mún, hạn chế về kỹ thuật. Do đó Đảng ta chỉ rõ: cần giúp
đỡ kinh tế cá thể, tiểu chủ, giải quyết các vấn đề khó khăn về vốn, về khoa học kỹ thuật và
công nghệ, về thị trờng tiêu thụ sản phẩm. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX
viết: Nhà nớc tạo điều kiện và giúp đỡ để phát triển, khuyến khích các hình thức tổ chức
hợp tác tự nguyện, làm vệ tinh cho các doanh nghiệp hoặc
phát triển lớn hơn. Phát triển các loại hình thông tin với qui mô phù hợp trên từng địa
bàn.

2. Thành phần kinh tế t bản t nhân .
Kinh tế t bản t nhân là thành phần kinh tế mà xuất kinh doanh dựa trên cơ sở chiếm hữu
t nhân t bản chủ nghĩa về t liệu sản xuất và bóc lột sức lao động làm thuê.
2
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nớc ta hiện nay, thành phần này có vai trò
đáng kể xét về phơng diện phát triển lực lợng sản xuất ,xã hội hoá sản xuất cũng nh về ph-
ơng diện giải quyết các vấn đề xã hội. Đây cũng là thành phần kinh tế rất năng động nhạy
bén với kinh tế thị trờng, do đó sẽ có những đóng góp không nhỏ vào quá trình tăng trởng
kinh tế của đất nớc. Hiện nay, kinh tế t bản t nhân bớc đầu có sự phát triển, nhng phần lớn
tập trung vào lĩnh vực thơng mại, dịch vụ và kinh doanh bất động sản; đầu t vào sản xuất
con ít và chủ yếu quy mô vừa và nhỏ .
Chính sách của Đảng và Nhà nớc ta là khuyến khích t bản t nhân bỏ vốn đầu t phát
triển sản xuất, đáp ứng các nhu cầu của dân c. Nhà nứoc bảo hộ quyền sở hữu và lợi ích
hợp pháp của họ; xoá bỏ định kiến và tạo điều kiện thuận lợi về tín dụng, về khoa học
công nghệ , về đào tạo cán bộ - cho thành phần kinh tế này. Tuy nhiên, đây là thành phần
kinh tế có tính tự phát rất cao. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX có đoạn
viết: Khuyến khích phát triển kinh tế t nhân rộng rãi trong các ngành nghề sản xuất ,
kinh doanh mà pháp luật không cấm . Tạo môi tròng kinh doanh thuận lợi về chính sách
pháp lý để kinh tế bản t nhân phát triển trên những định hớng u tên của Nhà nớc , kể cả
đầu t ra nớc ngoài ; khuyến khích chuyển thành doanh nghiệp cổ phần , bán cổ phiếu cho
ngời lao động , liên doanh , liên kết với nhau, với kinh tế tập thể và kinh tế nhà nớc , xây
dựng quan hệ tốt với chủ doanh nghiệp và ngời lao động
II . Các loại hình tổ chức kinh doanh cơ bản .
1. Doanh nghiệp t nhân .
Doanh nghiệp t nhân là doanh nghiệp do một cá nhân làm chủ và tự chịu trách nhiệm
bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động của doanh nghiệp.
Doanh nghiệp t nhân là một đơn vị kinh doanh do một cá nhân bỏ vốn ra thành lập
làm chủ. Cá nhân này vừa là chủ sở hữu, vừa là ngời sử dụng tài sản, đồng thời cũng là
ngời quản lý hoạt động của doanh nghiệp. Thông thờng chủ doanh nghiệp là giám đốc,
trực tiếp tiến hành hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Nhng cũng có trờng hợp vì

những lí do cần thiết, chủ doanh nghiệp không trực tiếp điều hành hoạt động kinh doanh
mà thuê ngời khác làm giám đốc. Nhng dù trực tiếp hay gián tiếp điều hành hoạt động sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp, chủ doanh nghiệp t nhân quản lý và tự chịu trách
nhiệm không có sự phân chia rủi ro với ai

Chủ doanh nghiệp t nhân chịu trách nhiêm vô hạn về các khoản nợ trong kinh doanh
của doanh nghiệp. Trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh, nếu làm ăn phát đạt
thu đợc nhiều lợi nhuận, chủ doanh nghiệp đợc hởng toàn bộ số lợi đó. Ngợc lại, nếu gặp
3
rủi ro hay kinh doanh bị thua lỗ, họ phải chịu trách nhiệm bằng chính tài sản của doanh
nghiệp.
2. Công ty trách nhiệm hữu hạn.
Công ty trách nhiệm hữu hạn là doanh nghiệp có không quá 50 thành viên góp vốn
thành lập công ty chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ của công ty bằng tài sản của
mình.
Công ty trách nhiệm hữu hạn có thể chỉ có một thành viên.
Công ty chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ và các nghĩa vụtài sản khác của công ty
bằng tài sản của mình (trách nhiệm hữu hạn). Thành viên công ty chịu trách nhiệm về các
khoản nợ và các nghiac vụ tài sản khác của công ty trong phạm vi số vốn đã cam kết góp
vào công ty. Đối với công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên thì chủ sở hữu công ty
chịu trách nhiệm về các khoản nợ và các nghĩa vụ tài sản khác của công ty trong phạm vi
số vốn đã cam kết góp vào công ty. Nh vậy, trong công ty trách nhiệm hữu hạn có sự phân
tách tài sản: tài sản của công ty và tài sản của thành viên. Nguyên tắc phân tách đợc áp
dụng trong mọi quan hệ tài sản, nợ nần và trách nhiệm của công ty.
Công ty trách nhiệm hữu hạn không đợc quyền phát hành cổ phiếu ra công chúng để
công khai huy động vốn. Việc chuyển nhợng vốn góp của thành viên công ty trách nhiệm
hữu hạn trớc hết phải u tiên cho các thành viên khác của công ty. Chỉ đợc chuyển nhợng
cho ngời không phải là thành viên công ty nếu các thành viên còn lại của công ty không
mua hoặc không mua hết. Đối với công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên thì chủ sở
hữu công ty ó quyền chuyển nhợng toàn bộ hoặc một phần vốn điều lệ của công ty cho tổ

chức, cá nhân khác.
3. Công ty cổ phần .
Công ty cổ phần là loại hình đặc trng của công ty đối vốn, vốn của công ty đợc chia
thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần, ngòi sở hữu cổ phần gọi là cổ đông, chỉ chịu
trách nhiệm về các khoản nợ của công ty cho đến hết giá trị cổ phần mà họ sở hữu.
Trong suốt quá trình hoạt động của công ty cổ phần ít nhất phải có 3 thành viên tham
gia công ty cổ phần. Là loại công ty đặc trng cho công ty đối vốn cho nên có sự liên kết
của nhiều thành viên và vì vậy việc quy định số thành viên tôis thiểu phải có đã trở thành
thông lệ quôcs tế trong mấy trăm năm tồn tại của công ty cổ phần. ở hầu hết các nớc đều có
quy định số thành viên tốithiểu của công ty cổ phần.
Phần vốn góp (cổ phần ) của các thành viên đợc thể hiện dới hình thức cổ phiếu. Các
cổ phiếu do công ty phát hành là một loại hàng hoá. Ngời có cổ phiếu có thể tự do chuyển
nhợng theo quy định của pháp luật. Công ty cổ phần chịu trách nhiệm về các khoản nợ
4
của công ty bằng tài sản của công ty. Các cổ đông chịu trách nhiệm về nợ và các nghĩa vụ
tài sản khác của công ty trong phạm vi số vốn đã góp vào công ty. Trong quá trình hoạt
động công ty cổ phần có quyền phát hành chứng khoán (nh cổ phiếu, trái phiếu) ra công
chúng theo quy định của pháp luật về chứng khoán để huy động vốn. Điều này thể hiện
khả năng huy động vốn lớn của công ty cổ phần.

4. Công ty hợp danh.
Công ty hợp danh đợc pháp luật ghi nhận là một hình thức của công ty đối nhân, trong
đó có ít nhất 2 thành viên (đều là cá nhân và là thơng nhân) cung tiến hành hoạt động th-
ơng mại (theo nghĩa rộng) dới một hãng chung (hay hội danh) và cùng liên đới chịu trách
nhiệm vô hạn về mọi khoản nợ của công ty.
Ngoài các thành viên hợp danh, có thể có thành viên góp vốn. Thành viên hợp danh
phải là cá nhân, có trình độ chuyên môn và uy tín nghề nghiệp và phải chịu trách nhiệm
bằng toàn bộ tài sản của mình về các nghĩa vụ của công ty. Thành viên góp vốn chỉ chịu
trách nhiệm về các khoản nợ của công ty trong phạm vi số vốn đã góp vào công ty.
Do tính an toàn pháp lý đối với công chúng cao, mặt khác các thành viên thờng có quan

hệ mật thiết về nhân thân, nên việc quản lý công ty hợp danh chịu rất ít sự ràng buộc của
pháp luật. Về cơ bản, các thành viên có quyền tự thoả thuận về việc quản lý, điều hành
công ty. Tuy nhiên cần lu ý là quyền quản lý công ty hợp danh chỉ thuộc về các thành
viên hợp danh, thành viên góp vốn không có quyền quản lý công ty
Trong công ty hợp danh , Hội đồng thành viên là cơ quan quyết định cao nhất của công
ty bao gồm tất cả các thành viên hợp danh. Hội đồng thành viên có quyền quyết định mọi
hoạt động của công ty. Khi họp Hội đồng thành viên, các thành viên hợp danh có quyền
ngang nhau trong biểu quyết (mỗi thành viên chỉ có một phiếu biểu quyết) mà không phụ
thuộc vào giá trị phần vốn góp của họ trong công ty. Đây là điểm khác biệt cơ bản giữa
quyền của các thành viên trong uản lý của công ty hợp danh với quyền của các thành viên
trong quản lý công ty đối vốn (công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty cổ phần).
Trong quá trình hoạt động của công ty, các thành viên hợp danh phân công nhau đảm
nhiệm các trức trách quản lý và kiểm soat công ty, và cử một ngời (trong số thành viên
hợp danh ) lam Giám đốc công ty. Giám đốc thực hiện nhiêm vụ điều hành công việc
trong công ty, phân công, điều hoà, phối hợp công việc của các thành viên hợp danh và
thực hiên các công việc khác theo uỷ quyền của các thành viên hợp danh

Chơng II
5
vai trò của kinh tế t nhân trong
nền kinh tế thị trờng định hớng xhcn
I: góp phần quan trọng để tăng trởng kinh tế .
1. Trên giác độ tổng cung .
Kinh tế t nhân cung cấp cho xã hội sản phẩm vật chất và dịch vụ để thoả mãn nhu
cầu về đời sống , nhu cầu cho quá trình tái sản xuất của xã hội . Với u thế nổi trội của khu
vực kinh tế t nhân : suất đầu t thấp , dễ chuyển đổi phơng hớng sản xuất cho phù hợp với
nhu cầu của thị trờng , quy mô nhỏ phù hợp với năng lực quản lý của các hộ gia đình , nên
đã thu hút đợc đông đảo các tầng lớp dân c . Tốc độ tăng trởng của khu vực kinh tế t nhân
khá ổn định .
Khu vực kinh tế t nhân có tốc độ phát triển và tốc độ tăng của các năm từ 1995 đến

2000 thờng cao hơn tốc độ tăng chung của nền kinh tế (trừ năm 1999).Tốc độ tăng trởng
bình quân hàng năm thời kỳ 1995 2000 của cả nớc 6,9% ; của khu vực kinh tế t nhân
là 7,2% . Năm 2000 , tốc độ tăng trởng của khu vực kinh tế t nhân tăng nhanh hơn nhịp độ
tăng GDPcủa toàn bộ nền kinh tế tới 1,5%(nếu tính theo giá hiện hành ) và năm 2003 tốc
độ tăng trởng GDP trong khu vực kinh tế nhân tăng so với năm 2002 là 7,24%.
Tỷ trọng khu vực kinh tế t nhân trong toàn nền kinh tế không những không đợc cải
thiện mà còn suy giảm nhẹ , chủ yếu do trong những năm cuối thập kỷ 90 , nhiều doanh
nghiệp có vốn đầu t trực tiếp nớc ngoài đi vào hoạt động và làm thay đổi cơ cấu toàn bộ
nền kinh tế .
Số lợng doanh nghiệp trong khu vực kinh tế t nhân tăng nhanh, và chiếm số lợng lớn
trong tổng số doanh nghiệp của cả nớc thể hiên qua bảng sau:

6
Số doanh nghiệp có tại thời điểm 1/1
Năm 2001 Năm 2002 Năm 2003
- Tổng số doanh nghiệp
+ Doanh nghiệp nhà nớc
+ Doanh nghiệp ngoài quốc
doanh, trong đó:
- Hợp tác xã
- Doanh nghiệp t nhân
+ Công ty t nhân
+ Công ty cổ phần
+ Doanh nghiệp có vốn đầu t n-
ớc ngoài

39.762
5.531
32.702
3.187

18.226
10.489
800
1.529
51.057
5.067
43.993
3.614
22.554
16.189
1.636
1.997
62.892
5.033
55.555
4.112
24.818
23.587
3.038
2.304
Trong khu vực kinh tế t nhân , tốc độ tăng trởng bình quân hàng năm của các doanh
nghiệp t nhân khả dĩ hơn cả: chung khu vực kinh tế t nhân 7,2% (trong đó doanh nghiệp t
nhân 8,5% ; Cty TNHH ; Cty cổ phần 6,1% ; hộ cá thể 7,2%).
2. Trên giác độ tổng cầu .
Theo tính toán của các nhà thống kê , để tăng trởng 1% GDP của Việt Nam cần tăng
trởng tiêu dùng 2,1 đến 2,2% (kể cả tiêu dùng cho sản xuất và tiêu dùng cho đời sống ).
Khu vực kinh tế t nhân phát triển sẽ làm tổng cầu tăng nhanh , thực hiện đợc chủ trơng
kích cầu của Nhà nớc do mở rộng sản xuất làm cho nhu cầu các yếu tố đầu vào gia tăng ,
đồng thời thu nhập của ngời lao động tăng do sản xuất phát triển và số lao động đợc huy
động vào làm tăng thêm . Đây chủ yếu là tầng lớp có thu nhập thấp nên tỷ lệ tiêu dùng

cận biên (MPC) lớn , tỷ lệ tiêt kiêm cận biên (MPS)nhỏ hơn so với tầng lớp có thu nhập
cao .
Trong những năm gần đây khu vực kinh tế t nhân tăng rất nhanh về mặt số lợng ,
nhiều doanh nghiệp đợc hình thành vì thế việc sản xuất hàng hoá với nhiều mặt hàng trở
nên rất đa dạng và phong phú . Việc tiêu dùng của ngời dân cũng nh của các doanh
nghiệp tăng nhanh rõ rệt , doanh nghiệp thì cần sử dụng nhiều nguyên vật liệu cho quá
trình sản xuất , ngời tiêu dùngsống ngày càng cao , kèm theo mặt hàng trở nên phong phú
đa dạng cho nên mức tiêu dùng của toàn xã hội tăng rất nhanh vì thế xét trên giác độ tổng
7
cầu thì khu vực kinh té t nhân đã đóng vai trò rất quan trọng trong nền kinh tế thị trờng
định hớng xã hội chủ nghĩa.
ii. Tạo việc làm và xoá đói gảm nghèo.
1. Tạo việc làm.
Từ năm 1996 đến nay , số lao động làm việc trong khu vực kinh tế t nhân chỉ giảm
trong năm 1997 , còn lại đều tăng .
Thời điểm 31-12-2000 số lợng lao động trong khu vực kinh tế t nhân là 4.643.844 ngời ,
chiếm 12%tổng số lao động xã hội ,bằng 1,3 lần tổng số việc làm trong khu vực kinh tế
nhà nớc .Lao động của hộ kinh doanh cá thể là 3.802.057 ngời , của các doanh nghiệp t
nhân là 841.787 ngời .
Sự gia tăng của các doanh nghiệp tỷ lệ thuận với sự gia tăng về số lợng lao động phù
hợp với trình độ kỹ thuật của lao động , việc sử dụng lao động tại chỗ của khu vực kinh tế
t nhân đã giảm bớt khâu giải quyết nơi ăn ở , các điều kiện cơ sở hạ tầng khác nh phơng
tiện giao thông , trờng học trạm xá . , tình trạng thất nghiệp dã giảm dần .
do Trong 5 năm 1996-2000 lao động trong khu vực kinh tế t nhân tăng thêm 778.681 ng-
ời (tăng 20,4%). Trong đó số lao động trong các doang nghiệp t nhân tăng thêm 487.459
ngời (tăng 237,57%); số lao động ở hộ kinh doanh cá thể tăng thêm 292.222 ngời (tăng
8,29%). Số lao động qua thực tế khảo sát ở hộ kinh doanh cá thể lớn hơn nhiều so với số
đăng ký vì nhiều hộ gia đình chủ yếu sử dụng số lao động trong dòng họ , lao động mang
tính thời vụ và lao động nông nhàn không thể hiện trong báo cáo thống kê. Tình hình thu
hút lao động trong những năm qua thể hiện rất rõ rệt qua bảng :

Tình hình thu hút lao động trongkhu vực kinh tế t nhân trong những năm qua.
(tính đến thời điểm 31-12 hàng năm)
1996 1997 1998 1999 2000
Lao động (ngời) 3.865.163 3.666.942 3.816.942 4.097.455 4.643.844
nhu
Tốc độ phát triển liên hoàn(%) 100 94,87 104,09 107,35 113,33
Tốc độ tăng liên hoàn(%) -5,13 4,09 7,35 13,33
% trong tổng lao động xã hội 11,2 10,3 10,3 10,9 12,0
Công nghệ kỹ thuật sản xuất ngày càng đợc cải thiên và nâng cao , dây truyền sản
xuât ngày càng hiện đại , đòi hỏi ở công nhân một trình độ tay nghề phù hợp với điều kiện
8
làm việc, chính vì thế quá trình đào tạo tay nghề đợc đa lên vị trí hàng đầu .Hiện nay
,trình độ tay nghề của công nhân đợc nâng cao rõ rệt , bên cạnh đó việc xây dựng chiến l-
ợc và chơng trình phát triển đào tạo nghề đợc hình thành ,nh việc xây dựng chiến lợc và
chơng trình phát triển đào tạo nghề đến năm 2005và 2010.Trong đó cần chú trọng đào tạo
công nhân kỹ thuật lành nghề và công nhân trình độ cao cho khu vực KTTN. Mặt khác
điều kiện để đào tạo tay nghề cho ngời lao động thuận lợi hơn so với cáckhu vực kinh tế
khác, hầu hết đợc đào tạo tại chỗ, thông qua kèm cặp của ngời nhà đã có tay nghề. Chi phí
cho đào tạo không đáng kể, đồng thời qua truyền nghề nh vậy sẽ duy trì đợc những làng
nghề truyền thống, góp phần cùng xã hội dạy nghề mà chi phí chung của xã hội (kể cả chi
phí của t nhân và nhà nớc ) không đáng kể .
Việc tạo ra hiều chỗ làm việc mới đã góp phần thu hút nhiều lao động trong xã hội,
nhất là số ngời trẻ tuổi hàng năm đến tuổi lao động cha có việc làm, giải quyết số dôi d từ
cơ quan, doanh nghiệp nhà nớc do tinh giảm biên chế và giải thể.
2.Xoá đói giảm nghèo.
Khu vực kinh tế t nhân đã góp phần đáng kể vào việc xoá đói giảm nghèo, cải thiện
đời sống nhân dân ở khu vực thành thị và nông thôn . Theo thực tế khảo sát, thu nhập của
ngời lao động trong khu vực kinh tế t nhân thờng có mức tơng hoặc cao hơn thu nhập của
lao động trồng lúa ở nông thôn cùng địa bàn.
Phát triển khu vực kinh tế t nhân góp phần rất quan trọng để tạo ra việc làm tại chỗ cho

gia đình và địa phơng , đem lại thu nhập cho ngời lao động .Theo kết quả điều tra doanh
nghiệp năm 2000 của Tổng cục Thống Kê , mức thu nhập trung bình 1tháng/ 1 lao động
(1000 đ)của các doanh nghiệp nói chung là: 1041,1; DNNN là 1048,2; DNt nhân là
651,1; Cty cổ phần là 993,0; Tập thể là 529,3; CtyTNHHlà 801,8; DN có vốn dầu t nớc
ngoài là 1754,5.của khu vực kinh tế t nhân tuy thấp hơn các DNNN nhng cao hơn khu vực
kinh tế tập thể . Thu nhập trung bình của 1 lao động trong khu vực kinh tế t nhân cao gấp
2đến 3 lần so với mức lơng cơ bản của Nhà nớc quy định .
IIi. đóng góp và huy động các nguồn vốn trong x hội Lộp ngânã
sáh nhà nớc .
1. Huy động các nguồn vốn trong xã hội sử dụng vào sản xuất kinh doanh .
Trong 10 năm gần đây, vốn đầu t của khu vực t nhân tăng nhanh, chiếm tỷ lệ cao trong
tổng vốn đầu t toàn xã hội. Năm 1999 tổng vốn đầu t khu vực kinh tế t nhân đạt 31.542 tỷ
đồng chiếm 24,05%; năm 2000 đạt 35.894 tỷ đồng, tăng 13,8% so với năm 1999, chiếm
24,31% tổng vốn đầu t toàn xã hội.
9
Năm 2000 vốn đầu t của hộ kinh doanh cá thể đạt 29.267 tỷ đồng, chiếm 19,82% tổng
vốn đầu t toàn xã hội; vốn đầu t phát triển của doanh nghiệp t nhân đạt 6.62 Tổng vốn sử
dụng thực tế của khu vực kinh tế t nhân tăng nhanh. Đối với các doanh nghiệp t nhân năm
1999 là 79.493 tỷ đồng, năm 2000là 110.071 tỷ đồng, tăng 38,5%. Các địa phơng tăng
mạnh vốn sử dụng thực tế của doanh nghiệp là Hà Nội từ 10.164 tỷ đồng (năm1999) tăng
lên 16.573 tỷ đồng (năm2000), tăng 63,05%; tơng ứng ở thành phố Hồ Chí Minh từ
36.954 tỷ đồng tăng lên 52.353 tỷ đồng, tăng 41,67%
Trong hai năm 2001-2002, sau khi có luật doanh nghiệp ra đời, số doanh nghiệp t nhân
ra đời 35.440,với số vốn đăng ký đạt 40.455 tỷ đồng, nhiều hơn số doanh nghiệp t nhân đ-
ợc thành lập trong 5 năm trớc cộng lại .
Năm 2003 , khu vực kinh tế t nhân có bớc phát triển mạnh mẽ. Khu vực kinh tế t nhân
chiếm 26,7% tổng vốn đầu t phát triển, hầu hết giá trị nông nghiệp, chiếm 25,5% giá trị
công nghiệp, phần lớn giá trị dịch vụ, 48% kim ngạch xuất khẩu.
2. Đóng góp phần lớn vào ngân sách nhà nớc.
Với sự phát triển nhanh chóng của khu vực kinh tế t nhân đã đóng góp rất lớn vào sự

phát triển của đát nớc, với số vốn huy động lớn trong toàn xã hội, khu vực kinh tế t nhân
đã đóng góp ngày càng tăng vào ngân sách nhà nứơc.
Năm 2000 nộp đợc 5.900 tỷ đồng, ớc tính chiếm 7,3%tổng thu ngân sách tăng 12,5% so
vơ2í năm 1999. Đến năm 2001, khu vực doanh nghiệp t nhân
Nộp ngân sách nhà nớc đạt trên 11.075 tỷ đồng, chiếm 14,8%tổng thu ngân sách.
Qua số liệu cho chúng ta thấy khu vực kinh tế t nhân có vai trò rất lớn trong nguồn thu
ngân sách của nhà nớc .Trong năm 2001 chiếm 14,8% trong tổng ngân sách nhà nớc với
tốc độ phát triển nhanh chong thì chỉ trong một vài năm gần đây khu vực kinh tế này sẽ
thể hiện một vị thế quan trọng trong cơ cấu nền kinh tế và là chỗ dựa vững chắc trong quá
trình xây dựng và phát triển đất nớc trở thành một nớc công nghiệp hoá hiện đại hoá.
10
IV. thúc đẩy quá trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế x hội, chuyểnã
dịch cơ cấu kinh tế.
1. Quá trình chuyển đổi cơ chế quản lý kinh tế.
Sự phát triển của kinh tế t nhân đã đặt ra những yêu cầu mới thúc đẩy hoàn thiện thể
chế kinh tế thị trờng định hớng xã hội chủ nghĩa. Đã xuất hiện nhiều doanh nhân kinh
doanh thành đạt, đa doanh nghiệp của mình phát triển, cải thiện đợc đời sống ngời lao
động, đóng góp ngày càng nhiều cho xã hội, đợc xã hội tôn vinh.
Trình độ sản xuất kinh doanh của khu vực kinh tế t nhân ngày càng tiến bộ hơn, số lợng
hàng hoá tham gia xuất khẩu ngày càng tăng. Nhiều sản phẩm của khu vực kinh tế t nhân
đợc xuất khẩu uỷ thác qua doanh nghiệp nhà nớc và doanh nghiệp có vốn đầu t nớc ngoài.
Khu vực kinh tế t nhân còn tham gia nhiều công đoạn trong quá trình sản xuất hàng xuất
khẩu. Xuất khẩu trực tiếp của khu vực kinh tế t nhân đến nay đã tăng khá, 9 tháng đầu
năm 2001 đạt 2.189.330.000 USD, trong đó các công ty cổ phần đạt 1.606.489.900 USD,
công ty trách nhiệm hữu hạn đạt 211.900.000 USD (số liệu của Tổng cục hải quan).
Các doanh nghiệp t nhân đã tham gia tích cực vào xuất nhập khẩu trực tiếp, đến năm
2000 số doanh nghiệp t nhân tham gia xuất khẩu trực tiếp tăng lên 16.200 doanh nghiệp.
Nhiều doanh nghiệp t nhân đã xuất khẩu đợc những sản phẩm từ hàng thủ công mỹ nghệ,
thực phẩm chế biến (nh cá khô đi Nhật Bản, cá kho tộ đi Mỹ ), đến cả rơm sạch là
những mặt hàng mà các doanh nghiệp nhà nớc cha quan tâm đến. Vì thế khu vực ngoài

quốc doanh trong nớc từ chỗ chỉ chiếm 11% giá trị xuâts khẩu vào năm 1997 nhng đến
quýI-2002 đã tăng lên khoảng 31% (không tính giá trị xuất khẩu dầu thô). Gýa trị xuất
khẩu từ mức khoảng 5% đã tăng lên 24% trong các thời điểm tơng ứng (thời báo Kinh tế
Việt Nam số 66 ngày 3-6-2002).
Các doanh nghiệp , công ty đăng ký sản xuất kinh doanh theo pháp luật và đợc tự do sản
xuất kinh doanh tự do chọn mặt hàng sản xuất hay kinh doanh. Thị trờng Việt Nam với sự
phát triển nhanh chóng của kinh tế t nhân đã tạo ra môi trờng hợp tác trên cơ sở 2 bên
cùng có lợi và cạnh tranh dới sự quản lý của nhà nớc tạo điều kiện phat triển nhanh chóng
kinh tế Việt Nam , hoàn thiện thể chế kinh tế thị trờng định hớng XHCN.
2. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế .
Sự phát triển của khu vực kinh tế t nhân góp phần thu hút đợc nhiều lao động ở nông
thôn vào các ngành phi nông nghiệp, nhất là công nghiệp đã giúp chuyển đổi cơ cấu kinh tế
từng địa phơng, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế đât nớc.
11
Khu vực kinh tế t nhân tăng về số lợng và khẳng định vị trí của mình trong nền kinh
tế . Nếu nh trớc đây , kinh tế t nhân không đợc thừa nhận, bị coi là đối tợng của cách mạng
XHCN, phải đựơc cải tạo xoá bỏ, với t tởng nh thế trong giai đoạn đó kinh tế t nhân vẫn chua
đợc phát triển mà hầu nh còn bị vùi dập , kinh tế đất nớc với sự hiện diện toàn bộ bởi kinh tế
tập thể với cơ chế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp. Từ đờng lối đổi mới (Đại hội 6
của Đảng tháng 12.1986) khẳng định xây dựng phát triển nền kinh tế nớc ta với cơ cấu nhiều
hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế tồn tại lâu dài thì kinh tế t nhân đựơc phát triển
rất mạnh mẽ, tạo cho cơ cấu kinh tế có xu hớng chuyển dịch cân bằng giữa kinh tế t nhân
với kinh tế tập thể .
Cơ cấu kinh tế có xu hớng chuyển dịch cân bằng không chỉ thể hiện về số lợng giữa kinh
tế t nhân và kinh tế tập thể , mà còn thể hiện rất rõ trong sự phát triển của các vùng lãnh thổ,
và giữa các ngành. Các doanh nghiệp đăng ký hoạt động chủ yếu trong lĩnh vực kinh doanh
thơng mại chiếm 42% tổng số doanh nghiệp, công nghiệp và xây dựng 31%, dịch vụ khác
22%, nông nghiệp chỉ chiếm 5%.
Trình độ sản xuất của khu vực kinh tê t nhân ngày càng tiến bộ , với máy móc trang thiết
bị ngày càng hiện đại vì thế sản phẩm sản xuất ra ngày càng nhiều, mẫu mã phong phú và

chất lợng dần đợc cải thiện.Tham gia tích cực vào xuất khẩu trực tiếp.




12
CHƯƠNG IV
®¶ng viªn lµm kinh tÕ
I: ĐẢNG VIÊN LÀM KINH TẾ TƯ NHÂN. TẠI SAO LẠI KHÔNG?
Bản dự thảo Báo cáo chính trị trình Đại hội X của Đảng Cộng sản VN chủ trương cho
phép đảng viên làm kinh tế tư nhân và không giới hạn quy mô. Đây là một chủ trương
đúng. Tuy nhiên, vẫn còn một số người, kể cả những nhà lý luận trong Đảng, không đồng
ý với chủ trương đó vì cho rằng đảng viên làm kinh tế tư bản tư nhân là trái với nguyên tắc
giai cấp, kinh tế tư bản tư nhân thuộc giai cấp bóc lột lao động còn người cộng sản phải lấy
việc xóa bỏ chế độ bóc lột làm lý tưởng đời mình. Tôi thấy lập luận này sai ở hai điểm cơ
bản: Một là, trong chế độ một đảng như hiện nay, tư tưởng và hành động đối xử phân biệt
với một thành phần của dân tộc là trái với đạo lý và trái với lợi ích chung, nhất là thành
phần đó đang góp phần ngày càng quan trọng vào việc làm cho kinh tế phát triển. Hai là,
cho rằng bản chất của kinh tế tư bản tư nhân là bóc lột lao động là không đúng với lý luận
và thực tiễn trong thời đại ngày nay.
Kinh tế tư bản tư nhân và vấn đề đảng viên Đảng Cộng sản VN
Trước hết, cần hiểu nội dung của kinh tế tư bản tư nhân và vị trí của nó trong nền kinh tế
VN hiện nay. Kinh tế tư bản tư nhân là thành phần kinh tế trong đó một hoặc nhiều cá nhân
sở hữu tư liệu sản xuất và có thuê mướn lao động, khác với kinh tế cá thể là những cá nhân
có tư liệu sản xuất nhưng không thuê mướn lao động, chỉ sản xuất, kinh doanh dựa trên lao
động của chính mình hoặc của gia đình mình. Trong quá trình đổi mới, với Luật Đầu tư
nước ngoài và Luật Doanh nghiệp, kinh tế tư bản tư nhân lớn mạnh và chiếm tỷ trọng ngày
càng lớn trong nền kinh tế quốc dân. Vào những năm đầu đổi mới, kinh tế tư bản tư nhân
hầu như chưa có gì nhưng đã chiếm 14% trong tổng sản phẩm trong nước (GDP) vào năm
1995 và tăng lên 23% vào năm 2003. Trong sản xuất công nghiệp, vị trí của kinh tế tư bản

tư nhân còn cao hơn: 32% năm 1995 và 49% năm 2003.
Trong thể chế một đảng lãnh đạo, việc không chấp nhận một thành phần quan trọng của
dân tộc vào trong tổ chức của mình, dù với lý do gì đi nữa, cũng hoàn toàn không có sức
thuyết phục. Nếu là chế độ đa đảng, một đảng nào đó có thể có một cương lãnh hoạt động
không đại diện hết lợi ích của mọi thành phần. Trong trường hợp đó, mỗi người dân có
13
quyền chọn lựa những đảng phù hợp với lợi ích của riêng mình. Nhưng trong chế độ một
đảng, người dân không thể có một chọn lựa nào khác mà đảng đó lại đối xử phân biệt với
một thành phần nào đó là bất công, là không hợp với đạo lý. Ngoài ra, tại VN, sự lớn mạnh
của kinh tế tư bản tư nhân, sự đóng góp ngày càng lớn của khu vực này vào việc phát triển
của nền kinh tế, là kết quả của đổi mới. Nếu cho rằng đó là thành phần không đáng để
đảng viên tham gia, thậm chí cho đó là thành phần thuộc giai cấp khác mà lý tưởng của
người cộng sản là trước sau cũng phải xóa bỏ giai cấp đó, thì chẳng những mâu thuẫn với
đường lối đổi mới, xóa bỏ thành quả của đổi mới mà nguy hiểm hơn, còn làm mất lòng tin
của người dân trong nước và cộng đồng quốc tế, đặc biệt là những nhà đầu tư nước ngoài
Tư bản tư nhân ngày nay có phải tất yếu là bóc lột lao động?
Những người chủ trương đảng viên không được làm kinh tế tư bản tư nhân lấy lý do
rằng đó là thành phần kinh tế bóc lột lao động bằng giá trị thặng dư mà lý tưởng của Đảng
Cộng sản là xóa bỏ bóc lột. Theo tôi, dù phân tích từ góc độ nào cũng phải đi đến một kết
luận tối hậu là làm sao để người lao động ngày càng sung sướng, ngày càng có một mức
sống cao hơn. Mọi tư tưởng và lý luận không đạt được mục đích này tự nó sẽ mâu thuẫn và
không phù hợp với sự phát triển của xã hội.
Giá trị thặng dư (GTTD) theo chủ nghĩa Marx là tổng sản phẩm xã hội trừ đi khấu hao
tư bản và tiền lương trả cho lao động. GTTD này bao gồm tiền lãi ngân hàng, tiền vốn
chia cho cổ đông, và lợi nhuận của xí nghiệp.
Trong thể chế xã hội chủ nghĩa (XHCN), các tư liệu sản xuất do nhà nước và tập thể
nắm giữ nên tất cả GTTD thuộc về nhà nước, thuộc về tập thể, còn thể chế tư bản chủ
nghĩa (TBCN) hoặc thể chế của một nền kinh tế nhiều thành phần, GTTD gồm ít nhất 3
phần: lợi nhuận sau khi trừ thuế của xí nghiệp tư nhân và xí nghiệp quốc doanh, thu nhập
của nhà nước từ thuế lợi nhuận doanh nghiệp, và tiền lãi ngân hàng cộng với cổ tức (phần

thứ ba này có nhiều chủ sở hữu, trong đó có cả người lao động vì họ có tiền để dành ở
ngân hàng và có mua cổ phiếu của xí nghiệp). Như vậy, cả thể chế XHCN và TBCN đều
có GTTD, chỉ khác là nhà nước (và tập thể) trực tiếp nắm hết rồi phân phối lại hay là xí
nghiệp tư nhân và cá nhân nắm phần lớn. Cần nói thêm rằng dù trong thể chế TBCN,
GTTD vẫn chịu sự điều tiết của nhà nước qua chính sách tài chánh.
14
Đứng trên lập trường của người lao động, vì quyền lợi của người lao động, ta thấy cần
đặt ra các vấn đề sau:
(1) Làm sao để ngày càng tăng hay ít nhất là không giảm tỷ lệ của phần được chia cho lao
động trong thu nhập quốc dân. Nói khác đi là làm sao để ngày càng giảm hoặc ít nhất là
giữ nguyên tỷ lệ của GTTD trong tổng thu nhập quốc dân.
(2) Làm sao để quy mô của thu nhập quốc dân ngày càng tăng. Giữa trường hợp người lao
động được chia phần lớn với cái bánh lúc nào cũng nhỏ với trường hợp có ai đó với tài trí
và tinh thần mạo hiểm, sẵn sàng đầu tư ứng dụng công nghệ, khám phá thị trường làm cho
cái bánh ngày càng lớn thì dù tỷ lệ phần chia của người lao động có thấp hơn, người lao
động sẽ chọn trường hợp thứ hai, vì giá trị tuyệt đối của phần họ được chia lớn hơn nhiều
so với trường hợp thứ nhất
Kinh nghiệm của Nhật Bản cho thấy:
Thứ nhất, kinh tế Nhật phát triển nhanh, hầu như liên tục trong thời gian dài như mọi
người đều biết. Từ năm 1900 đến năm 1973, thu nhập quốc dân bình quân đầu người trên
thực chất (sau khi trừ ảnh hưởng của giá cả) đã tăng đến 10 lần.
Thứ hai, trong giai đoạn đầu của quá trình phát triển, phần chia cho người lao động có
khuynh hướng giảm. Về từng người lao động cá biệt có thể có nhiều trường hợp bị bóc lột
GTTD, với ý nghĩa là năng suất lao động của họ cao hơn tiền lương. Tuy nhiên, trong
trường hợp này, những người lao động đó bị bóc lột là để cứu những người lao động khác
có công ăn việc làm trong một nền kinh tế còn dư thừa lao động (hoặc nói khác đi là để
chia công việc, chia tiền lương giữa những người lao động), và điều này lại tự nhiên vì do
quy luật thị trường quyết định. Một điểm cần lưu ý nữa là đối với những người lao động
đó, được “bị bóc lột” như vậy vẫn sung sướng hơn sống trong cảnh cơ cực ở nông thôn.
Thứ ba, sau một quá trình phát triển, phần chia cho người lao động có khuynh hướng

tăng. Không những cái bánh của Nhật ngày càng to ra mà tỷ lệ của người lao động được
hưởng cũng lớn hơn. Chẳng hạn, từ năm 1965 đến 1989, tỷ lệ của tiền lương trả cho lao
động trong tổng thu nhập quốc dân đã tăng từ 56% đến 68%. Ở đây chỉ kể tiền lương chứ
15
thực ra thu nhập của người lao động còn bao gồm thu nhập từ tài sản cá nhân như bất động
sản, tiền gửi tiết kiệm, cổ phiếu
Thứ tư, tỷ lệ thu nhập ròng của doanh nghiệp pháp nhân trong tổng thu nhập quốc dân
quá nhỏ, nhất là sau khi trừ thuế (chỉ có 5% vào năm 1965). Nếu kể cả phần lớn của cổ tức
và một phần của tiền lãi ngân hàng thì tỷ lệ này cũng không lớn. Ngoài ra, những phần này
cũng có thể gọi là thù lao chính đáng cho những nhà doanh nghiệp có khả năng khám phá
công nghệ, tìm kiếm thị trường, cải tiến kinh doanh, sản xuất. Thực tế cho thấy nếu không
có tinh thần doanh nghiệp này, kinh tế không phát triển và cuộc sống của người lao động
cũng không được cải thiện. Trong thời đại ngày nay, các yếu tố sản xuất truyền thống như
tư bản, đất đai không quan trọng mà các yếu tố mới như tri thức, trí tuệ, năng lực tổ
chức, quản lý mới là động lực của sự tiến bộ. Ở nước ta, gần đây ai cũng nhấn mạnh sự
quan trọng của kinh tế tri thức nhưng chẳng lẽ lại phủ nhận tri thức của nhà doanh nghiệp?
Ngoài những số liệu hùng hồn nói trên, kinh nghiệm Nhật Bản còn cho thấy nhiều câu
chuyện lập nghiệp cảm động, nhiều câu chuyện thành công rất ngoạn mục của những công
ty mà ngày nay người Nhật rất tự hào như Toyota, Honda, Sony, Canon Giữa cảnh hoang
tàn, đổ nát ngay sau thế chiến thứ hai, Masaru Ibuka, người đồng sáng lập Sony, đã nói
một câu rất cảm động trong bài diễn văn kỷ niệm ngày thành lập công ty năm 1946: "Phải
ra sức dùng công nghệ, kỹ thuật góp phần vào sự phục hưng của tổ quốc chúng ta!". Ngày
nay, được vào làm việc ở những công ty Sony, Honda, Toyota là giấc mơ của hàng chục
vạn sinh viên tốt nghiệp đại học. Họ muốn vào đấy để bị bóc lột chăng?
Đảng Cộng sản VN bây giờ đã đánh giá đúng mức vai trò của kinh tế tư bản tư nhân và
cho phép đảng viên tham gia thành phần này. Đây là hướng đi đúng dù hơi trễ
II: ĐÓ LÀ MỘT THAY ĐỔI LỚN VỀ TƯ DUY.
Theo giáo sư Nguyễn Đức Bình (nguyên ủy viên Bộ Chính trị, nguyên giám đốc Học
viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh), người làm kinh tế tư bản tư nhân (tức là có thuê lao
động, phân biệt với người làm kinh tế tư nhân cá thể, không thuê lao động) dứt khoát là

người bóc lột, là người lấy bóc lột lợi nhuận làm lẽ sống. Họ là những người chăm chăm
“làm giàu hết cỡ, làm tư bản tư nhân hết cỡ, có thể bóc lột hết cỡ”. Nhưng anh ta làm giàu
hết cỡ thì có gì đáng trách, vì chúng ta đang muốn dân giàu, và Đảng Cộng sản hoan
nghênh cơ mà? Vậy bóc lột là gì?
16
Để trả lời các câu hỏi này, cần nhiều trăm trang viết cũng chưa thấu đáo, và tôi e cũng
không đạt đến kết quả thống nhất.
Theo thiển ý của tôi, quy lợi nhuận của nhà tư bản chỉ dựa vào lao động thặng dư của
công nhân (người làm thuê) là một mô hình quá sơ sài không phản ánh sát với thực tiễn.
Và quan trọng hơn nó chỉ sát với thực tiễn trong thời kỳ chủ nghĩa tư bản vô độ (hay dã
man), nhà nước đã can thiệp, phong trào công nhân đã nổi lên, công nghệ ngày càng phát
triển
Thời chủ nghĩa tư bản man rợ, vô độ, không bị kiềm chế đã qua cả hơn trăm năm rồi.
Nhà nước đã đưa ra bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm xã hội, các công đoàn đòi tăng lương,
các chủ tư bản cũng hiểu hơn về vai trò của nguồn nhân lực và có chính sách phù hợp (như
thưởng, chia sẻ lợi nhuận, quyền mua cổ phần, đào tạo, tái đào tạo ) để giữ và nâng cao
nguồn nhân lực.
Thời xưa, Marx tin rằng nạn thất nghiệp về cơ bản là một dụng cụ của cơ chế tư bản
chủ nghĩa với chức năng giữ đồng lương thấp, và để làm cho việc bóc lột công nhân làm
thuê được dễ hơn; sự nghèo khổ tăng lên luôn là sự nghèo khổ tăng lên của các công nhân
làm thuê. Và từ đó Marx tiên tri rằng các nhà tư bản giàu lên mãi mãi, giai cấp công nhân
bị bần cùng mãi mãi đến mức không thể chịu nổi phải đứng lên làm cách mạng vô sản lật
đổ chế độ tư bản.
Nhưng hiện nay mức sống của các công nhân làm thuê đã tăng lên ở khắp nơi; và
lương thực tế của các công nhân làm thuê thậm chí có xu hướng tăng lên trong suy thoái
(như trong đại suy thoái 1927-1928), do một sự giảm sút nhanh hơn về giá so với về lương.
Những tiến triển gần đây ở các nước phát triển cho thấy số người làm thuê bước vào tầng
lớp trung lưu ngày càng đông, họ được bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y
tế ở mức chưa từng có.
Hãy thử nhìn mức thu nhập tối thiểu, mức trợ cấp của họ. Nói cách khác, mức thu nhập

sàn đã tăng lên nhanh và tăng lên đáng kể, không có trần thu nhập; điều này chứng minh
rằng gánh nặng chủ yếu của bảo hiểm thất nghiệp không phải do các công nhân gánh chịu
mà do các chủ doanh nghiệp, những người vì thế đã mất mát một cách trực tiếp qua thất
nghiệp, thay cho kiếm được lời một cách gián tiếp, như trong sơ đồ của Marx.
17
Người làm kinh tế tư nhân tạo công ăn việc làm cho những người khác. Mỗi năm ở
VN cần tạo ra khoảng 1,5 triệu việc làm mới. Tuyệt đại đa số việc làm mới do khu vực tư
nhân tạo ra. Nếu không có khu vực tư nhân thì chẳng hiểu tai họa thất nghiệp sẽ đến mức
nào?
Người làm kinh tế tư nhân là người lao động nặng nhọc. Tôi thấy họ là những người
lao động cật lực (có thể không phải lao động chân tay). Họ lao tâm khổ tứ, họ chịu rủi ro,
họ có thể mất hết cơ nghiệp nếu phá sản. Và phá sản là chuyện xảy ra bình thường ở mọi
nơi.
Ai cũng công nhận vốn (tư bản) phải tạo ra lãi. Người dân gửi tiền tiết kiệm làm gì nếu
không vì đồng lãi, không vì chuyện sinh lời. Như thế vốn phải sinh lời. Có vốn bằng tiền
(ta thường chỉ hiểu thế), ngày nay người ta nói đến vốn xã hội, vốn tri thức , chúng cũng
góp phần tạo ra lời, chứ không chỉ có lao động. Lao động hết sức nặng nhọc của người chủ
doanh nghiệp thì sao?
Hãy xem Bill Gates, Michael Dell hay thậm chí Soros có là người bóc lột hay không?
Họ là những người làm nên sự nghiệp từ hai bàn tay trắng với cái đầu siêu việt của họ. Họ
lao động cật lực và kiếm được rất nhiều tiền. Họ tạo ra công ăn việc làm cho hàng chục
triệu người, trực tiếp và gián tiếp. Họ dùng phần lớn thu nhập của mình làm từ thiện, để
giải quyết các vấn đề đau đầu của nhân loại như bệnh sốt rét, bệnh HIV, xóa đói giảm
nghèo.
Thử hỏi Cụ Hồ sẽ gặp khó khăn ra sao nếu cụ Trịnh Văn Bô, với tư cách nhà doanh
nghiệp tư nhân và các nhà công thương khác, không đóng góp hàng ngàn cây vàng cho
Chính phủ lúc khó khăn năm 1945?
Tất cả họ có là bọn bóc lột đáng nguyền rủa không? Đành rằng cũng có một số ít kẻ làm
kinh tế tư nhân tiêu xài hoang phí, chỉ dựa vào vốn liếng do cha ông làm ra mà không chăm
chú phát triển kinh doanh. Chúng chẳng thể sống lâu, với các loại thuế tài sản, thuế thu

nhập, thuế thừa kế mà tất cả các nước đã đưa ra, chúng chỉ nướng gia sản của cha ông mà
thôi. Số đó là số ít.
Ở nước ta số những kẻ chẳng được hưởng gia tài của cha ông, cũng chẳng phải làm
kinh tế tư bản tư nhân mà tiêu xài vô độ như con cháu một số quan chức và một số người
18
có chức có quyền mới thật đáng kinh ngạc. Vấn đề điều tiết thu nhập lại là chuyện khác.
Các nước người ta đánh thuế mọi loại thu nhập, người ta đánh thuế tài sản, đánh thuế thừa
kế để làm sao đảm bảo cho mức thu nhập tối thiểu ngày càng tăng lên mà không phản
khuyến khích người làm giàu. Những người thừa kế nếu không biết vun đắp cho công lao
của cha ông không mấy chốc có thể nướng hết tài sản tích tụ được.
Tóm lại, việc Đảng Cộng sản VN để cho đảng viên được làm kinh tế tư nhân không hạn
chế quy mô là một sự thay đổi lớn trong tư duy của Đảng; nó ghi nhận một thực tiễn đã và
đang diễn ra từ hai mươi năm qua ở nước ta; việc đảng có kết nạp những người làm kinh tế
tư nhân vào đảng hay không là chuyện của cả hai phía, chứ không chỉ ở một bên. Đảng
muốn dân giàu mà lại cứ buộc đảng viên không được làm giàu thì có mâu thuẫn với mục
tiêu không?
Có rất nhiều vấn đề cần bàn cãi công khai để chúng ta hiểu tình hình hơn, hiểu nhau
hơn, để cho đất nước phát triển. Trăn trở của giáo sư Nguyễn Đức Bình, câu trả lời dứt
khoát “trước sau tôi vẫn không đồng ý quan điểm trong Đảng có thể có tư bản tư nhân” của
giáo sư phải được tôn trọng. Hy vọng những ý kiến khác cũng được tôn trọng.
III:ĐẢNG VIÊN LÀM KINH TẾ SẼ GIÚP XÓA ĐÓI, GIẢM NGHÈO.
Trên thực tế thời gian qua, vấn đề Đảng viên làm kinh tế tư nhân là chủ đề
được sự quan tâm rộng khắp của cả trong và ngoài Đảng. Vậy sự thay đổi nhận
thức về vấn đề này đang diễn ra như thế nào? Nội dung và ý nghĩa của vấn đề
này trong bối cảnh Đảng tiếp tục đổi mới, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức
chiến đấu của Đảng là gì?
Mục tiêu của Đảng, của nhân dân ta là xây dựng một nước Việt Nam giàu
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, sánh vai với các nước tiên tiến trên
thế giới.
Con đường đi lên của nước ta là con đường Đổi mới, mở đầu từ Đại hội VI,

được phát triển trong các Đại hội VII, VIII, IX, trong Đại hội X sắp tới và trong
tương lai Khoa học và thực tiễn phát triển, đường lối cũng sẽ được phát triển
cho phù hợp.
19
Lý tưởng của chúng ta là giải phóng con người khỏi mọi áp bức, bất công, có
cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, phát triển toàn diện, thực hiện được Tự do -
Bình đẳng - Bác ái trên thực tế, chứ không phải chỉ trên danh nghĩa. Nhưng thực
ra con đường để thực hiện mục tiêu lý tưởng đó hoàn toàn không dễ dàng,
thẳng tắp, tuỳ thuộc ý chí của ai, kể cả của các cá nhân xuất chúng, mà phải
theo quy luật.
Mác đã phân tích rằng, xoá bỏ bóc lột, bất công bằng chế độ công hữu về tư
liệu sản xuất. Nhưng phải thấy rằng trong sự phát triển lịch sử, sơ khai là chế độ
công hữu nguyên thuỷ. Mà chế độ này kìm hãm sản xuất nên sau đó thay bằng
chế độ tư hữu, trải qua từ chiếm hữu nô lệ, đến phong kiến, đến tư bản. Chế độ
tư hữu đã trở thành động lực của sự phát triển sản xuất, thúc đẩy nhân loại tiến
bộ.
Trong điều kiện hiện nay, ở các nước tư bản, không nói nước còn kém phát
triển như nước ta, chế độ tư hữu vẫn thúc đẩy chế độ tư bản phát triển, đặc biệt
là gắn với cuộc cách mạng khoa học và công nghệ.
Ở nước kém phát triển như nước ta, quan hệ sản xuất tư bản chưa phát
triển, thì chế độ tư hữu vẫn còn thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Phải nhớ
rằng những thử nghiệm làm công hữu ngay, tràn lan, nóng vội đã thất bại.
Chúng ta không nên làm ngơ trước thực tế lịch sử ấy. Cho nên cần sử dụng chế
độ tư hữu để thúc đây lực lượng sản xuất phát triển. Đây là cốt lõi, là cơ sở lý
luận cho nền kinh tế nhiều thành phần … Đó là đường lối, quan điểm của Đảng;
sự thay đổi đó bác bỏ những sai lầm, thiếu sót trước kia.
Ai cũng biết, cuộc Cách mạng khoa học công nghệ đang phát triển như vũ
bão: công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ tự động hoá, vật liệu
mới…. Bây giờ sản phẩm hàng hoá không chỉ là những vật phẩm cụ thể, mà
ngay trí tuệ cũng là sản phẩm hàng hoá. Trong điều kiện toàn cầu hoá nền kinh

tế và thế giới đầy biến động hiện nay, chúng ta phải kiên định mục tiêu lý tưởng,
nhưng con đường thực hiện mục tiêu lý tưởng phải rất rõ ràng, đúng quy luật
phát triển của lịch sử.
20
Đảng ta đã căn cứ vào lý luận để đề ra chính sách kinh tế nhiều thành phần,
trong đó thừa nhận kinh tế tư bản tư nhân là môt thành phần thúc đẩy sự phát
triển của đất nước. Vị trí của nó trong sự phát triển đất nước hiện nay chưa
xứng với vai trò phải có của nó; chính vì vậy chúng ta cần ra sức phát triển nó để
khai thác hết tiềm năng của kinh tế tư nhân (cá thể, tiểu chủ, tư bản) trong tổng
thể phát triển các thành phần kinh tế của đất nước.
Chính sách của Đảng đề ra thì những công dân của chính đảng ấy lãnh đạo
phải được hưởng và phải được tuân thủ. Đảng viên là công dân phải có quyền
được hưởng chính sách ấy.
Nhà nước ta là nhà nước của dân, do dân và vì dân. Pháp luật của nhà nước
phải được tất cả mọi người, mọi tổ chức xã hội tuân thủ. Đảng cầm quyền; các
cơ quan Nhà nước, cả ngành lập pháp, hành pháp, tư pháp phải tuân thủ pháp
luật của Nhà nước. Vẫn biết hiến pháp, các đạo luật do con người quy định ra,
song khi nó được quy định ra rồi thì mọi người, mọi tổ chức, kể cả Đảng phải
tuân thủ.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, điều gì chưa được quy định mà thực tiễn xã hội
đòi hỏi thì các cơ quan của Nhà nước phải tiến hành nghiên cứu, bổ sung, phát
triển, để đảm bảo quyền làm chủ của nhân dân, thực hiện mục tiêu lý tưởng của
toàn dân tộc là xây dựng đất nước giàu mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh. Bởi vậy việc đề ra Đảng viên làm kinh tế tư nhân không hạn chế quy mô,
tuân thủ pháp luật của Nhà nước là đủ đúng quy luật, đảm bảo cho người đảng
viên làm tròn nghĩa vụ công dân, không phải là siêu công dân, đứng trên mọi
công dân hay đứng ngoài các quy định của luật pháp.
Đảng viên là một bộ phận quan trọng trong xã hội. Với trên hai triệu đảng viên
và những người thuộc gia đình họ, tính trung bình có bốn người trong một gia
đình, số lượng đó đã chiếm đến một phần mười dân số. Một phần mười dân số

quan trọng đến như vậy mà không được làm kinh tế tư nhân là chuyện không
bình thường. Không làm kinh tế tư nhân để phát triển đất nước theo quy luật thì
làm sao là người tiêu biểu để lãnh đạo nhân dân tiến tới mục tiêu chung của
toàn xã hội. Làm ngược lại thì chính đảng viên là vật cản sự phát triển tiến bộ
21
của xã hội. Họ phải trở thành nòng cốt, đi tiên phong trong làm kinh tế tư nhân,
họ phải được làm giàu chính đáng cùng với mọi công dân khác trong xã hội.
Làm kinh tế tư nhân có nhiều cách khác nhau. Làm ăn chân chính, làm giàu
chính đáng theo pháp luật không phải là chuyện dễ dàng. Con đường tích luỹ
vốn chân chính không phải đơn giản. Muốn có vốn, cơ sở sản xuất, xí nghiệp,
trang trại, đồn điền không đơn giản. Chính vì vậy, ngay trong thời kỳ đầu, Nhà
nước phải có trách nhiệm giúp đỡ họ trên phương tiện tài chính, tạo điều kiện và
môi trường thuận lợi để cho những công dân có tài năng ( kể cả đảng viên) dấn
thân vào sự nghiệp làm giàu chính đáng.
Tiêu chí để đánh giá hiệu quả hoạt động của họ chính là sự thúc đẩy sự phát
triển lực lượng sản xuất; đóng góp xứng đáng vào ngân sách qua thuế , thu hút
được lao động, giải quyết được vấn đề công ăn việc làm cho bộ phận lao động
thất nghiệp ( thực ra việc giải quyết công ăn việc làm cho nhân dân lao động là
một việc lớn nhất hiện nay; việc xuất khẩu lao động của nước ta cũng chính là
giải quyết nạn thất nghiệp, hợp tác lao động để xoá nghèo trong một bộ phận
dân cư).
Bởi vậy, việc khuyến khích đảng viên làm kinh tế tư nhân không hạn chế quy
mô cũng có ý nghĩa quan trọng trong việc xoá đói giảm nghèo trong bộ phận dân
cư còn nghèo đói, thu nhập thấp. Chính sách xoá đói giảm nghèo của đảng và
Nhà nước ta trong những năm qua đã thu được những kết quả hết sức to lớn.
Lần này cả hai triệu đảng viên dấn thân vào sự nghiệp làm kinh tế, xoá đói giảm
nghèo cho chính những ai còn nghèo đói; phát triển kinh tế của chính gia đình
mình, nêu gương thoát khỏi cái nhục nghèo đói; và làm giàu cho cả người khác.
Tất nhiên trong quá trình phát triển kinh tế tư nhân, trạng thái không đồng đều,
không thật công bằng là trạng thái chung của sự phát triển. Làm giảm sự cách

biệt xã hội phải thực hiện điều tiết xã hội để tránh xung đột xã hội. Đảng và Nhà
nước phải làm việc này.
Quyền lực của chế độ ta và cũng là ưu việt của chế độ ta chính là nâng mức
sống của những người có thu nhập thấp mà hiện nay là xoá đói giảm nghèo và
thúc đẩy làm kinh tế tư nhân (cá thể, tiểu chủ, tư bản) làm giàu cho hàng chục
22
triệu người. Đây không chỉ đơn giản là chính sách xã hội mà chính là quan điểm
đường lối của một đảng của những người lao động. Các đảng cầm quyền của
giai cấp tư sản trong thời kỳ tích luỹ tư bản thế kỷ 17, 18,19 không thể có
những chính sách như vậy…
Đảng ta là đảng cầm quyền. Đảng cầm quyền nghĩa là những đảng viên
được bố trí vào cơ quan quyền lực xã hội, tham gia vào chế định chính sách và
cơ chế quản lý xã hội. Nếu đảng viên có chức có quyền đi vào con đường tham
nhũng, đầu cơ, dùng quyền lực hữu hình và vô hình để bản thân và gia đình làm
giàu phi pháp thì đó là tội ác. Một số người miệng nói chống tham nhũng nhưng
thực ra họ đã đục khoét tài sản của nhân dân thông qua con đường làm giàu phi
pháp cho vợ con họ, họ sống phè phỡn trên mồ hôi nước mắt của nhân dân.
Những trường hợp đó không được gọi là làm giàu chân chính bằng phát triển
kinh tế tư bản tư nhân.
Ở Việt Nam hiện nay, chưa có ai làm kinh tế tư bản tư nhân chân chính là tai
hoạ của xã hội; mà chỉ có bọn làm giàu bất chính, bọn tham nhũng mới đục
khoét xã hội, làm băng hoại đạo đức xã hội. Chúng ta khuyến khích làm giàu
chân chính mà được như Bill Gates thì tốt quá.
Bởi vậy phải có cơ chế, luật pháp quy định những người có chức có quyền
trong bộ máy Nhà nước như Thủ tướng, Bộ trưởng, các quan chức Nhà nước ở
cấp độ nào thì không được làm kinh tế tư bản tư nhân. Khi họ không còn làm
chức vụ đó, là công dân bình thường thì họ được quyền làm kinh tế tư nhân. Đã
có vinh dự và trách nhiệm được nhân dân giao phó thì phải được sự giới hạn
của pháp luật quy định, tôn vinh và đãi ngộ hợp lý. Đó là lẽ bình thường mà các
nước tiên tiến đều quy định.

Xã hội Việt Nam vốn tôn vinh các bậc hiền tài giúp nước và luôn kính trọng
họ. Họ lưu danh muôn thuở. Nếu không chấp nhận điều đó, muốn vinh thân phì
gia thì xã hội ruồng bỏ họ. Còn muốn làm giàu chân chính thì tự nguyện từ bỏ
các cương vị hiện có, để những người có tài đức, biết hy sinh, dấn thân vào sự
nghiệp của dân tộc, của Tổ quốc đảm nhiệm. Dân tộc Việt Nam không thiếu
những người tài đức như vậy.
23
D tho Bỏo cỏo chớnh tr nhn mnh vn ng viờn lm kinh t t nhõn
khụng hn ch quy mụ, vỡ vn ny cha c nhn thc y , cha c
quy nh rừ,v thc hin theo ỳng quy lut ca nú. Tt nhiờn nhn thc l mt
quỏ trỡnh. S hu t nhõn cũn l mt ng lc ln thỳc y phỏt trin kinh t xó
hi Vit Nam trong thi gian rt lõu di. Hóy cho nú phỏt trin vi sc sng
ni ti ca nú, lm cho nn kinh t Vit Nam phỏt trin a dng.
Cỏc thnh phn kinh t khỏc cựng vi nú phi c c ch chớnh sỏch ca
Nh nc iu tit hp lý, cú c ch qun lý phự hp v c bit phi do nhng
con ngi cú ti c m nhim, iu hnh. Ch cú nh vy thỡ trờn c s ba
ch s hu (ton dõn, tp th, t nhõn ) vi nhiu hỡnh thc s hu v cỏc
thnh phn kinh t a dng, mi hot ng theo ỳng phỏp lut, to nn tng
cho nn kinh t th trng nh hng xó hi ch ngha, bỡnh ng trc phỏp
lut, cựng phỏt trin lõu di, hp tỏc v cnh tranh lnh mnh.
Con ng i lờn phớa trc ang ũi hi chỳng ta phi phỏt trin t duy lý
lun, b sung v phỏt trin lý lun, gúp phn cho i hi X ca ng thnh cụng
rc r, xõy dng t nc Vit Nam thõn yờu ca chỳng ta giu mnh, xó hi
cụng bng, dõn ch, vn minh.

Kết luận
Thực tễn phát triển kinh tế của nhiều quốc gia trên thế giới cho thấy vai trò rất quang
trọng của khu vực kinh tế t nhân trong giải quyết việc làm, động viên nguồn vốn, khai
thác tài nguyên làm ra nhiều của cải phục vụ nâng cao đời sống và đóng góp cho đất n ớc.
Phát triển kinh tế t nhân, vì thế, là một trong những điều kiện của phát triển bền vững.

24
Đảng và Nhà nớc ta đã thấy đợc vai trò đó của khu vực kinh tế t nhân thể hiện trong đ-
ờng lối và những chính sách lớn, bớc đầu đã tạo ra điều kiện, môi trờng cho sự phát triển
của khu vực kinh tế t nhân và khu vực kinh tế này đã đạt đợc những thành tựu nhất định.
Khu vực kinh tế t nhân ở Việt Nam tuy có bớc phát triển trong những năm đổi mới nhng
vẫn cha phát triển đúng mức và còn nhiều hạn chế: tốc đọ tăng trởng cha tơng xứng với
tiềm năng hiện có, qui mô sản xuất còn nhỏ bé, manh mún, do thiếu nhiều điều kiện nên
cha ứng dụng đợc những thành tựu của khoa học công nghệ, sản phẩm làm ra có chất lợng
thấp, mẫu mã nghèo nàn, sức cạnh tranh kém. Bộ phận kinh tế t nhân có vốn đầu t nớc
ngoài tuy trình độ khá hơn bộ phận kinh tế t nhân trong nớc về các mặt trên đây nhng hiện
vẫn còn chiếm tỷ trọng nhỏ.
Để phát huy đợc vai trò vị trí của kinh tế t nhân trong giai đoạn công nghiệp hoá hiện
đại hoá, cần tiếp tục đổi mới, hoàn thiện hơn nữa môi trờng thể chế cho sự phát triển- nhất
là cụ thể hoá Luật doanh nghiệp sửa đổi (mới đợc ban hành), thực sự tạo điều kiện thuận
lợi cho khu vực kinh tế t nhân phát triển./.
TI LIU THAM KHO
1. Sách: Phát triển kinh tế t nhân định hớng xã hội chủ nghĩa. Trần Ngọc Bút
NXB Chính trị quốc gia, 2002.
25

×