Tải bản đầy đủ (.docx) (27 trang)

tài sản ngắn hạn và dài hạn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (255.8 KB, 27 trang )

1. Tài sản ngắn hạn :
1.1.Khái niệm :
Tài sản ngắn hạn hay còn gọi là tài sản lưu động là một khoản mục trong
bảng cân đối kế toán bao gồm tất cả tài sản có thể dễ dàng chuyển đổi
sang tiền mặt trong vòng một năm. Tài sản ngắn hạn bao gồm tiền mặt và
các khoản tương đương tiền, các khoản phải thu ngắn hạn, các khoản đầu
tư tài chính ngắn hạn, hàng tồn kho và những tài sản có tính thanh khoản
khác.
Tài sản ngắn hạn rất quan trọng trong kinh doanh bởi đó là những tài sản
trong hoạt động hàng ngày và chi trả cho các chi phí phát sinh.
Tài sản ngắn hạn được vận động qua các giai đoạn sau :
Trong khâu dự trữ : nguyên liệu, nhiên liệu, phụ tùng thay thế, công cụ
dụng cụ,….
Trong khâu sản xuất : sản xuất dở dang, bán thành phẩm, chi phí trả
trước.
Trong khâu lưu thông : thành phẩm, tiền, các khoản phải thu, đầu tư ngắn
hạn.
1.2.Đặc điểm:
• Đối với Doanh nghiệp sản xuất kinh doanh thì giá trị các loại tài
sản ngắn hạn chiếm tỷ trọng lớn, thường chiếm từ 25% - 50% tổng
giá trị tài sản của chúng. Việc quản lý và sử dụng tài sản hợp lý các
loại tài sản ngắn hạn có ảnh hưởng rất quan trọng đối với việc hoàn
thành các nhiệm vụ chung của Doanh nghiệp.
• Tài sản ngắn hạn được phân bố đầy đủ trong tất cả các khâu, các
công đoạn nhằm đảm bảo cho quá trình sản xuất kinh doanh được
diễn ra liên tục, ổn định, tránh lãng phí và tổn thất vốn do ngừng
sản xuất, không làm ảnh hưởng đến khả năng thanh toán và đảm
bảo khả năng sinh lời của tài sản. Do đó tài sản ngắn hạn có các
đặc điểm sau :
 Tài sản ngắn hạn chỉ tham gia vào một chu kỳ kinh doanh và luôn
thay đổi hình thái biểu hiện : H…SX…H’ – T’.


 Toàn bộ giá trị của tài sản ngắn hạn được chuyển dịch vào giá trị
của sản phẩm trong một chu kỳ kinh doanh.
 Sau một chu kỳ kinh doanh toàn bộ giá trị của một tài sản ngắn hạn
được thu hồi.
 Tài sản ngắn hạn có tính thanh khoản cao nên đáp ứng khả năng
thanh toán của Doanh nghiệp.
 Tài sản ngắn hạn là bộ phận của vốn sản xuất nên nó vận động và
luân chuyển không ngừng trong mọi giai đoạn của quá trình sản
xuất kinh doanh.
 Tài sản ngắn hạn có thể dễ dàng chuyển hoá từ dạng vật chất sang
tiền tệ nên cũng vận động rất phức tạp và khó quản lý.
1.3.Phân loại:
Trong quá trình quản lý hoạt động sản xuất kinh doanh của Doanh nghiệp
nói chung và quản lý tài chính nói riêng, tuỳ theo yêu cầu quản lý và dựa
trên tính chất vận động của tài sản ngắn hạn, người ta có thể phân loại tài
sản ngắn hạn như sau :
a) Phân loại theo quá trình tuần hoàn và chu chuyển vốn :
Căn cứ vào quá trình tuần hoàn và chu chuyển vốn, tài sản ngắn hạn được
chia thành :
 Tài sản ngắn hạn dự trữ : là toàn bộ tài sản ngắn hạn tồn tại trong
khâu dự trữ của Doanh nghiệp mà ko tính đến hình thái biểu hiện
của chúng, bao gồm : tiền mặt tại quỹ, tiền gửi ngân hàng, tiền
đang chuyển, hàng mua đang đi đường, nguyên nhiên vật liệu tồn
kho, công cụ dụng cụ trong kho, hàng gửi gia công, trả trước cho
người bán.
 Tài sản ngắn hạn sản xuất : là toàn bộ tài sản ngắn hạn tồn tại
trong khâu sản xuất của Doanh nghiệp, bao gồm : giá trị bán thành
phẩm, các chi phí sản xuất kinh doanh dở dang, chi phí trả trước,
chi phí chờ kết chuyển, các khoản chi phí khác phục vụ cho quá
trình sản xuất…

 Tài sản ngắn hạn lưu thông : là toàn bộ tài sản ngắn hạn tồn tại
trong khâu lưu thông của Doanh nghiệp, bao gồm: thành phẩm tồn
kho, hàng gửi bán, các khoản nợ phải thu của khách hàng.
Theo các phân loại này giúp cho các nhà quản lý Doanh nghiệp xác định
được các nhân tố ảnh hưởng đến quá trình lưu chuyển của tài sản ngắn
hạn để đưa ra biện pháp quản lý thích hợp nhằm nâng cao hiệu quả sử
dụng chúng một cách cao nhất.
b) Phân loại theo các khoản mục trên bảng cân đối kế toán
Căn cứ vào các khoản mục trong bảng cân đối kế toán tài sản ngắn hạn
bao gồm : tiền, các khoản đầu tư ngắn hạn, các khoản phải thu, hàng tồn
kho và tài sản ngắn hạn khác.
 Tiền mặt :
Tiền mặt được hiểu là tiền tồn quỹ, tiền trên tài khoản thanh toán của
Doanh nghiệp ở ngân hàng.
Nó được sử dụng để trả lương, mua nguyên vật liệu, mua tài sản cố định,
trả tiền thuế và trả nợ.
Tiền mặt bản thân nó là loại tài sản không sinh lãi, do vậy trong quản lý
tiền mặt thì việc tối thiểu hoá lượng tiền mặt phải giữ là mục tiêu quan
trọng nhất.
 Các khoản đầu tư ngắn hạn :
Mục tiêu của các Doanh nghiệp là việc sử dụng các loại tài sản sao cho
hiệu quả nhất, các loại chứng khoán gần như tiền mặt giữ vai trò như một
“ bước đệm” cho tiền mặt vì nếu số dư tiền mặt nhiều, Doanh nghiệp có
thể đầu tư vào chứng khoán có khả năng thanh khoản cao, nhưng khi cần
thiết cũng có thể chuyển đổi chúng sang tiền mặt một cách dễ dàng và ít
tốn kém chi phí. Do đó trong quản trị tài chính người ta sử dụng chứng
khoán có khả năng thanh khoản cao để duy trì tiền mặt ở mức độ mong
muốn. Ta có thể thấy điều này qua sơ đồ luân chuyển sau :
Ta thấy tiền mặt là một hàng hoá nhưng đây là hàng hoá đặc biệt – một
tài sản có tính lỏng nhất . Trong kinh doanh, Doanh nghiệp cần dùng một

lượng tiền mặt và phải dùng nó để trả cho các hoá đơn một cách đều đặn.
Khi lượng tiền mặt này hết, Doanh nghiệp phải bán các chứng khoán có
khả năng thanh khoản cao để có lượng tiền như ban đầu.
 Các khoản phải thu :
Trong nền kinh tế thị trường việc mua bán chịu là một việc không thể
thiếu. Các Doanh nghiệp bán hàng song có thể không nhận được ngay
tiền hàng lúc bán mà nhận sau một thời gian xác định mà hai bên thoả
thuận hình thành nên các khoản phải thu của Doanh nghiệp.
Việc cho các Doanh nghiệp khác nợ như vậy chính là hình thức tín dụng
thương mại. Với hình thức này có thể làm cho Doanh nghiệp đứng vững
trên thị trường và trở nên giàu có nhưng cũng không tránh khỏi những rủi
ro trong hoạt động kinh doanh của Doanh nghiệp.
Khoản phải thu giữ vai trò quan trọng bởi nếu các nhà quản lý không cân
đối giữa các khoản phải thu thì Doanh nghiệp sẽ gặp phải những khó
khăn thậm chí dễ dẫn đến tình trạng mất khả năng thanh toán.
 Hàng tồn kho :
Trong quá trình luân chuyển của vốn lưu động phục vụ cho sản xuất kinh
doanh thì việc tồn tại vật tư hàng hoá dự trữ tồn kho là những bước đệm
cần thiết cho quá trình hoạt động bình thường của Doanh nghiệp.
Hàng hoá tồn kho có ba loại : nguyên vật liệu thô phục vụ cho quá trình
sản xuất kinh doanh, sản phẩm dở dang và thành phẩm. Các Doanh
nghiệp không thể tiến hành sản xuất đến đâu mua hàng đến đó mà cần
phải có nguyên vật liệu dự trữ.
Nguyên vật liệu dự trữ không trực tiếp tạo ra lợi nhuận nhưng nó có vai
trò rất lớn để cho quá trình sản xuất kinh doanh tiến hành được bình
thường. Tuy nhiên nếu Doanh nghiệp dự trữ quá nhiều sẽ tốn kém chi
phí, ứ đọng vốn, thậm chí nếu sản phẩm khó bảo quản có thể bị hư hỏng,
ngược lại nếu dự trữ quá ít sẽ làm cho quá trình sản xuất kinh doanh bị
gián đoạn, các khâu tiếp theo sẽ không thể tiếp tục được nữa đồng thời
với việc không hoàn thành được kế hoạch sản xuất.

Tồn kho trong quá trình sản xuất là các loại nguyên liệu nằm trong từng
công đoạn của dây chuyền sản xuất. Thông thường quá trình sản xuất của
các Doanh nghiệp được chia thành nhiều công đoạn, giữa những công
đoạn này bao giờ cũng tồn tại bán thành phẩm.
Đây là những bước đệm nhỏ để quá trình sản xuất được liên tục. Nếu dây
chuyền sản xuất càng dài và càng có nhiều công đoạn thì tồn kho trong
quá trình sản xuất sẽ càng lớn.
Khi tiến hành sản xuất song hầu hết các Doanh nghiệp chưa thể tiêu thụ
hết sản phẩm. Phần thì do có “ độ trễ” nhất định giữa các sản xuất và tiêu
dùng, phần phải có đủ lô hàng mới xuất được…Những Doanh nghiệp mà
sản xuất mang tính thời vụ và có quy trình chế tạo tốn nhiều thời gian thì
dự trữ, tồn kho sẽ lớn.
Do đó để đảm bảo cho sự ổn định sản xuất, Doanh nghiệp phải duy trì
một lượng hàng tồn kho dự trữ an toàn và tuỳ thuộc vào loại hình Doanh
nghiệp mà mức dự trữ an toàn khác nhau.
1.4.Kết cấu tài sản lưu động và các nhân tố ảnh hưởng
∗ Kết cấu tài sản lưu động :
 Theo lĩnh vực tham gia luân chuyển :
Tài sản lưu động sản xuất : gồm tài sản dự trữ cho quá trình sản xuất
(nguyên, nhiên vật liệu, công cụ, dụng cụ,…đang dự trữ trong kho ) và
tài sản trong sản xuất ( giá trị sản phẩm dở dang ).
Tài sản lưu động lưu thông : gồm tài sản dự trữ cho quá trình lưu thông
( thành phẩm, hàng hoá dự trữ trong kho hay đang gửi bán ) và tài sản
trong quá trình lưu thông ( tiền, các khoản phải thu ).
Tài sản lưu động tài chính : là các khoản đầu tư tài chính ngắn hạn với
các mục đích kiếm lời ( đầu tư liên doanh, đầu tư chứng khoán, …)
 Theo các khoản mục trên bảng cân đối kế toán :
Ngân quỹ : bao gồm tiền mặt tại két, tiền gửi ngân hàng, tiền đang
chuyển.
Đầu tư ngắn hạn : đầu tư chứng khoán ngắn hạn và đầu tư ngắn hạn khác.

Các khoản phải thu : phải thu của khách hàng, phải thu nội bộ, phải thu
khác, thuế giá trị gia tăng được khấu trừ, tạm ứng, chi phí trả trước.
Dự trữ, tồn kho : gồm nguyên, nhiên vật liệu, công cụ dụng cụ phục vụ
cho quá trình sản xuất kinh doanh, sản phẩm dở dang và thành phẩm.
Tài sản lưu động khác : bao gồm các khoản tạm ứng chưa thanh toán, chi
phí trả trước, chi phí chờ kết chuyển, tài sản thiếu chờ xử lý và các khoản
thế chấp ký cược, ký quỹ ngắn hạn.
Trong phạm vi nghiên cứu của chuyên đề này tập trung vào ngân quỹ,
các khoản phải thu và hàng tồn kho, dự trữ.
∗ Các nhân tố ảnh hưởng :
Hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp chịu ảnh hưởng của rất
nhiều nhân tố khác nhau chính vì vậy để đưa ra một quyết định tài
chính nhà quản trị tài chính doanh nghiệp phải xác định được và
xem xét các nhân tố ảnh hưởng đến vấn đề cần giải quyết. Có thể
chia các nhân tố đó dưới 2 giác độ nghiên cứu.
∗ Nhân tố bên trong
Đây là các nhân tố nằm trong nội tại doanh nghiệp có tác động trực
tiếp đến hiệu quả sử dụng tài sản lưu động nói riêng và hiệu quả
hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp nói chung. Đó là nhân tố
như:
• Quản lý dự trữ, tồn kho
Dự trữ, tồn kho là một bộ phận quan trọng của tài sản lưu động, là
những bước đệm cần thiết cho quá trình hoạt động của doanh
nghiệp.
Trong quá trình sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp không thể
tiến hành sản xuất đến đâu mua hàng đến đó mà cần phải có
nguyên vật liệu dự trữ. Nguyên vật liệu dự trữ không trực tiếp tạo
ra lợi nhuận nhưng nó có vai trò rất lớn để cho quá trình sản xuất
kinh doanh tiến hành được bình thường. Quản lý vật liệu dự trữ
hiệu quả sẽ góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản lưu động.

Do vậy, doanh nghiệp tính toán dự trữ một lượng hợp lý vật liệu,
nếu dự trữ quá lớn sẽ tốn kém chi phí, ứ đọng vốn, còn nếu dự trữ
quá ít sẽ làm cho quá trình sản xuất kinh doanh bị gián đoạn gây ra
hàng loạt các hậu quả như mất thị trường, giảm lợi nhuận của
doanh nghiệp…
Tồn kho trong quá trình sản xuất là các nguyên vật liệu nằm ở các
công đoạn của dây chuyền sản xuất. Nếu dây chuyền sản xuất càng
dài và càng có nhiều công đoạn sản xuất thì tồn kho trong quá trình
sản xuất sẽ càng lớn. Đây là những bước đệm nhỏ để quá trình sản
xuất được liên tục.
Khi tiến hành sản xuất xong, do có độ trễ nhất định giữa sản xuất
và tiêu thụ, do những chính sách thị trường của doanh nghiệp… đã
hình thành nên bộ phận thành phẩm tồn kho.
Hàng hoá dự trữ đối với các doanh nghiệp gồm 3 bộ phận như trên
nhưng thông thường trong quản lý chúng ta tập trung vào bộ phận
thức nhất, tức là nguyên vật liệu dự trữ cho sản xuất kinh doanh.
Có nhiều phương pháp được đưa ra nhằm xác định mức dự trữ tối
ưu.
Quản lý dự trữ theo phương pháp cổ điển hay mô hình đặt hàng
hiệu quả nhất - EOQ (Economic odering Quan tity).•
Mô hình được dựa trên giả định là những lần cung cấp hàng hoá là
bằng nhau. Theo mô hình này, mức dự trữ tối ưu là:
Trong đó:
Q*: Mức dự trữ tối ưu
D: toàn bộ lượng hàng hoá cần sử dụng
C2: chi phí mỗi lần đặt hàng (chi phí quản lý giao dịch và vận
chuyển hàng hoá).
C1: chi phí lưu kho đơn vị hàng hoá (chi phí bốc xếp, bảo hiểm,
bảo quản…).
Điểm đặt hàng mới:

Về mặt lý thuyết ta giả định khi nào lượng hàng kỳ trước hết mới
nhập kho lượng hàng mới nhưng trên thực tế hầu như không bao
giờ như vậy.
Nhưng nếu mặt hàng quá sớm sẽ làm tăng lượng nguyên liệu tồn
kho. Do vậy các doanh nghiệp cần phải xác định thời điểm đặt
hàng mới.
Thời điểm đặt; hàng mới = Số lượng nguyên liệu; Sử dụng mỗi
ngày x Độ dài thời gian; giao hàng
Lượng dự trữ an toàn
Nguyên vật liệu sử dụng mỗi ngày không phải là số cố định mà
chúng biến động không ngừng. Do đó để đảm bảo cho sự ổn định
của sản xuất, doanh nghiệp cần phải duy trì một lượng hàng tồn
kho dự trữ an toàn. Lượng dự trữ an toàn tuỳ thuộc vào tình hình
cụ thể của doanh nghiệp. Lượng dự trữ an toàn là lượng hàng hoá
dự trữ thêm vào lượng dự trữ tại thời điểm đặt hàng.
Ngoài phương pháp quản lý dự trữ theo mô hình đặt hàng hiệu quả
nhất (EOQ) nhiều doanh nghiệp còn sử dụng phương pháp sau
đây:
Phương pháp cung cấp đúng lúc hay dự trữ bằng 0•
Theo phương pháp này các doanh nghiệp trong một số ngành nghề
có liên quan chặt chẽ với nhau hình thành nên những mối quan hệ,
khi có một đơn đặt hàng nào đó họ sẽ tiến hành huy động những
loại hàng hoá và sản phẩm dở dang của các đơn vị khác mà họ
không cần phải dự trữ. Sử dụng phương pháp này tạo ra sự ràng
buộc các doanh nghiệp với nhau, khiến các doanh nghiệp đôi khi
mất sự chủ động trong hoạt động sản xuất kinh doanh.
• Quản lý tiền mặt và các chứng khoán thanh khoản cao.
Tiền mặt được hiểu là tiền tồn quỹ, tiền trên tài khoản thanh toán
của doanh nghiệp ở ngân hàng. Tiền mặt bản thân nó là tài sản
không sinh lãi, tuy nhiên việc giữ tiền mặt trong kinh doanh rất

quan trọng xuất phát từ những lý do sau: Đảm bảo giao dịch hàng
ngày, bù đắp cho ngân hàng về việc ngân hàng cung cấp các dịch
vụ cho doanh nghiệp đáp ứng nhu cầu dự phòng trong trường hợp
biến động không lường trước của các luồng tiềm vào và ra, hưởng
lợi thế trong thương lượng mua hàng.
Quản lý tiền mặt đề cập đến việc quản lý tiền giấy và tiền gửi ngân
hàng. Sự quản lý này liên quan chặt chẽ đến việc quản lý các loại
tài sản gắn liền với tiền mặt như các loại chứng khoán khả năng
thanh khoản cao.
Nhìn một cách tổng quát tiền mặt cũng là một tài sản nhưng đây là
một tài sản đặc biệt - tài sản có tính lỏng nhất.
Trong kinh doanh, doanh nghiệp phải lưu giữ tiền mặt cần thiết
cho các hoá đơn thanh toán khi tiền mặt xuống thấp doanh nghiệp
sẽ phải bổ sung tiền mặt bằng cách bán các chứng khoán thanh
khoản cao. Chi phí cho việc lưu giữ tiền mặt ở đây chính là chi phí
cơ hội; là lãi suất mà doanh nghiệp bị mất đi. Chi phí đặt hàng
chính là chi phí cho việc bán các chứng khoán. Khi đó áp dụng mô
hình EOQ ta có lượng dự trữ tiền mặt tối ưu M* là:
Trong đó:
M*: tổng mức tiền mặt giải ngân hàng năm
Mn: tiền mặt thanh toán hàng năm
Cb: chi phí một lần bán chứng khoán thanh khoản
i : lãi suất
Từ công thức trên cho thấy nếu lãi suất càng cao thì doanh nghiệp
càng giữ ít tiền mặt và ngược lại, nếu chi phí cho việc bán chứng
khoán càng cao thì họ lại càng giữ nhiều tiền mặt. Mô hình số dư
tiền mặt không thực tiễn ở chỗ giả định rằng doanh nghiệp chi trả
tiền mặt một cách ổn định, điều này không luôn luôn đúng trong
thực tế.
Bằng việc nghiên cứu và phân tích thực tiễn, các nhà kinh tế học

đã đưa ra mô hình quản lý tiền mặt Miller orr. Theo mô hình này,
doanh nghiệp sẽ xác định mức giới hạn trên và giới hạn dưới của
tiền mặt đó là các khoản mà doanh nghiệp bắt đầu tiến hành nghiệp
vụ mua hoặc bán chứng khoán có tính toán khoản cao để cân đối
mức tiền mặt dự kiến.
Khoảng dao động tiền mặt dự kiến phụ thuộc vào 3 yếu tố sau:
mức dao động của thu chi ngân quỹ hàng ngày lớn hay nhỏ; chi phí
cố định của việc mua bán chứng khoán; lãi suất càng cao các
doanh nghiệp sẽ giữ lại ít tiền và do vậy khoảng dao động tiền mặt
sẽ giảm xuống. Khoảng dao động.
Trong đó:
d: khoảng dao động tiền mặt (khoảng cách giữa giới hạn trên và
giới hạn dưới của lượng tiền mặt dự trữ).
Cb: chi phí của mỗi lần giao dịch mua bán chứng khoán thanh
khoản
Vb: phương sai của thu chi ngân quỹ
i: lãi suất
Trong các doanh nghiệp lớn, luồng tiền vào ra của doanh nghiệp
hàng ngày rất lớn, nên chi phí cho việc mua bán chứng khoán sẽ
trở nên quá nhỏ so với cơ hội phí mất đi do lưu giữ một lượng tiền
mặt nhàn rỗi do vậy hoạt động mua bán chứng khoán nên diễn ra
hàng ngày ở các doanh nghiệp này.
• *Quản lý các khoản phải thu
Trong nền kinh tế thị trường, để thắng lợi trong cạnh tranh các
doanh nghiệp có thể áp dụng các chiến lược về sản phẩm, về quảng
cáo, về giá cả… trong đó chính sách tín dụng thương mại là một
công cụ hữu hiệu và không thể thiếu đối với các doanh nghiệp tín
dụng thương mại có thể làm cho doanh nghiệp đứng vững trên thị
trường và trở nên giàu có, nhưng cũng có thể đem đến những rủi ro
cho hoạt động của doanh nghiệp. Do đó, các doanh nghiệp cần

phải đưa ra những phân tích về khả năng tín dụng của khách hàng
và quyết định có nên cấp tín dụng thương mại cho đối tượng khách
hàng đó hay không. Đây là nội dung chính của quản lý các khoản
phải thu.
 Phân tích năng lực tín dụng của khách hàng
Để thực hiện việc cấp tín dụng cho khách hàng thì điều đầu tiên
doanh nghiệp phải phân tích được năng lực tín dụng của khách
hàng. Công việc này gồm: Thứ nhất, doanh nghiệp phải xây dựng
một tiêu chuẩn tín dụng hợp lý; Thứ hai, xác minh phẩm chất tín
dụng của khách hàng tiềm năng. Nếu khả năng tín dụng của khách
hàng phù hợp với những tiêu chuẩn tín dụng tối thiểu mà doanh
nghiệp đưa ra thì tín dụng thương mại có thể được cấp.
Việc thiết lập các tiêu chuẩn tín dụng của các nhà quản trị tài chính
phải đạt tới sự cân bằng thích hợp. Nếu tiêu chuẩn tín dụng đặt quá
cao sẽ loại bỏ nhiều khách hàng tiềm năng và sẽ giảm lợi nhuận,
còn nếu tiêu chuẩn được đặt ra quá thấp có thể làm tăng doanh thu,
nhưng sẽ có nhiều khoản tín dụng có rủi ro cao và chi phí thu tiền
cũng cao.
Khi phân tích khả năng tín dụng của khách hàng, ta thường dùng
các tiêu chuẩn sau để phán đoán:
- Phẩm chất, tư cách tín dụng: Tiêu chuẩn này nói lên tinh thần
trách nhiêm của khách hàng trong việc trả nợ. Điều này được phán
đoán trên cơ sở việc thanh toán các khoản nợ trước đây đối với
doanh nghiệp hoặc đối với các doanh nghiệp khác.
- Năng lực trả nợ: Dựa vào các chỉ tiêu về khả năng thanh toán
nhanh, dự trữ ngân quỹ của doanh nghiệp…
- Vốn của khách hàng: Đánh giá sức mạnh tài chính dài hạn của
khách hàng.
- Thế chấp: Xem xét khả năng tín dụng của khách hàng trên cơ sở
các tài sản riêng mà họ sử dụng để đảm bảo các khoản nợ.

- Điều kiện kinh tế: Tiêu chuẩn này đánh giá đến khả năng phát
triển của khách hàng trong hiện tại và tương lại.
Các tài liệu được sử dụng để phân tích khách hàng có thể là kiểm
tra bảng cân đối tài sản, bảng kế hoạch ngân quỹ, phỏng vấn trực
tiếp, xuống tận nơi để kiểm tra hay tìm hiểu qua các khách hàng
khác.
 Phân tích đánh giá khoản tín dụng được đề nghị
Sau khi phân tích năng lực tín dụng khách hàng, doanh nghiệp tiến
hành việc phân tích đánh giá khoản tín dụng thương mại được đề
nghị. Việc đánh giá khoản tín dụng thương mại được đề nghị để
quyết định có nên cấp hay không được dựa vào việc tính NPV của
luồng tiền.
Trong đó:
• NPV : Giá trị hiện tại ròng của việc chuyển từ chính sách bán trả ngay sang
chính sách bán chịu.
• Q, P : Sản lượng hàng bán được trong một tháng và giá bán đơn vị nếu
khách hàng trả tiền ngay.
• Q’, P’ : Sản lượng và giá bán đơn vị nếu bán chịu.
• C : Chi phí cho việc đòi nợ và tài trợ bù đắp cho khoản phải thu.
• V : Chi phí biến đổi cho một đơn vị sản phẩm.
• R: Doanh lợi yêu cầu thu được hàng tháng.
• r : Tỷ lệ phần trăm của hàng bán chịu không thu được tiền.
Nếu NPV > 0 chứng tỏ việc bán chịu là mang lại hiệu quả cao hơn
việc thanh toán ngay, có lợi cho doanh nghiệp, do đó khoản tín
dụng được chấp nhận.
• Theo dõi các khoản phải thu
Theo dõi các khoản phải thu là một nội dung quan trọng trong
quản lý các khoản phải thu. Thực hiện tốt công việc này sẽ giúp
cho doanh nghiệp có thể kịp thời thay đổi các chính sách tín dụng
thương mại phù hợp với tình hình thực tế. Thông thường, để theo

dõi các khoản phải thu ta dùng các chỉ tiêu, phương pháp và mô
hình sau:
• Kỳ thu tiền bình quân (The average collection period – ACP):
Kỳ thu tiền bình quân phản ánh thời gian bình quân mà công ty thu
hồi được nợ. Do vậy, khi kỳ thu tiền bình quân tăng lên mà doanh
số bán và lợi nhuận không tăng thì cũng có nghĩa là vốn của doanh
nghiệp bị ứ đọng ở khâu thanh toán. Khi đó nhà quản lý phải có
biện pháp can thiệp kịp thời.
• Sắp xếp ‘tuổi’ của các khoản phải thu
Thông qua phương pháp sắp xếp các khoản phải thu theo độ dài
thời gian, các nhà quản lý doanh nghiệp có thể theo dõi và có biện
pháp thu hồi nợ khi đến hạn.
• Xác định số dư khoản phải thu
Sử dụng phương pháp này doanh nghiệp hoàn toàn có thể thấy
được nợ tồn đọng của khách hàng nợ doanh nghiệp. Cùng với các
biện pháp theo dõi và quản lý khác, doanh nghiệp có thể thấy được
ảnh hưởng của chính sách tín dụng thương mại và có những điều
chỉnh kịp thời, hợp lý phù hợp với từng đối tượng khách hàng,
từng khoản tín dụng cụ thể.
Ngoài cỏc nhõn tố trờn cũn cú cỏc nhõn tố như: trỡnh độ, năng lực
của cán bộ tổ chức quản lý, sử dụng tài sản lưu động trong doanh
nghiệp, tính kinh tế và khoa học của các phương pháp mà doanh
nghiệp áp dụng trong quản lý, sử dụng tài sản lưu động…
∗ Nhân tố bên ngoài
Hiệu quả sử dụng TSLĐ của doanh nghiệp chịu ảnh hưởng bởi:
+ Tốc độ phát triển của nền kinh tế: Khi nền kinh tế tăng trưởng
chậm, sức mua của thị trường sẽ bị giảm sút. Điều này làm ảnh
hưởng đến tình hình tiêu thụ của doanh nghiệp, sản phẩm của
doanh nghiệp sẽ khó tiêu thụ hơn, doanh thu sẽ ít đi, lợi nhuận
giảm sút và tất yếu làm giảm hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh nói

chung và TSLĐ nói riêng.
+ Rủi ro: Do những rủi ro bất thường trong quá trình sản xuất kinh
doanh mà các doanh nghiệp thường gặp phải trong điều kiện kinh
doanh của cơ chế thị trường có nhiều thành phần kinh tế tham gia
cùng cạnh tranh với nhau. Ngoài ra doanh nghiệp còn gặp phải
những rủi ro do thiên nhiên gây ra như động đất, lũ lụt, núi
lửa mà các doanh nghiệp khó có thể lường trước được.
+ Do tác động của cuộc cách mạng khoa học công nghệ làm giảm
giá trị tài sản, vật tư,…vì vậy, nếu doanh nghiệp không bắt kịp điều
này để điều chỉnh kịp thời giá cả của sản phẩm thì hàng hoá bán ra
sẽ thiếu tính cạnh tranh làm giảm hiệu quả sử dụng vốn nói chung
và TSLĐ nói riêng.
+ Ngoài ra, do chính sách vĩ mô của Nhà nước có sự điều chỉnh,
thay đổi về chính sách chế độ, hệ thống pháp luật, thuế cũng tác
động đến hiệu quả sử dụng TSLĐ của doanh nghiệp.
1.5. Chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng:
∗ Các chỉ tiêu có khả năng thanh khoản
Do đặc điểm của tài sản ngắn hạn có tính thanh khoản cao nên việc sử
dụng hiệu quả tài sản ngắn hạn là sự lựa chọn đánh đổi giữa khả năng sinh lời với
tính thanh khoản. Do đó, khi phân tích khả năng thanh toán của Doanh nghiệp người
ta thường sử dụng các chỉ tiêu sau đây :
 Hệ số thanh toán hiện hành
Đây là một trong những thước đo khả năng thanh toán của một Doanh nghiệp,
được sử dụng rộng rãi nhất là hệ số thanh toán hiện hành
Hệ số thanh toán hiện hành =
Tài sản ngắnhạn
Nợ ngắn hạn
Hệ số thanh toán hiện hành cho thấy Doanh nghiệp có bao nhiêu tài sản có thể
chuyển đổi thành tiền mặt để đảm bảo thanh toán các khoản nợ ngắn hạn. Hệ số
này đo lường khả năng trả nợ của Doanh nghiệp.

Nếu hệ số thanh toán hiện hành này giảm cho thấy khả năng thanh toán giảm, đó là
dấu hiệu báo trước khó khăn tài chính sẽ xảy ra. Nếu hệ số này cao có nghĩa là
Doanh nghiệp luôn sẵn sàng thanh toán các khoản nợ. Tuy nhiên, nếu hệ số này
quá cao sẽ giảm hiệu quả hoạt động vì Doanh nghiệp đầu tư quá nhiều vào tài sản
ngắn hạn.
 Hệ số thanh toán nhanh
Hệ số thanh toán nhanh =
Tài sản ngắnhạn− Hàngtồn kho
Nợ ngắnhạn
Hệ số thanh toán nhanh được tính toán trên cơ sở những tài sản lưu ngắn hạn có
thể nhanh chóng chuyển đổi thành tiền, đôi khi chúng còn được gọi là tài sản có
tính thanh khoản bao gồm tất cả tài sản ngắn hạn trừ hàng tồn kho. Do đó, hệ số
thanh toán nhanh cho biết khả năng hoàn trả các khoản nợ ngắn hạn không phụ
thuộc vào hàng tồn kho.
∗ Nhóm các chỉ tiêu
Là các hệ số đo lường khả năng hoạt động của Doanh nghiệp. Để nâng cao hệ số
hoạt động, các nhà quản trị phải biết những tài sản nào chưa sử dụng, không sử
dụng hoặc không tạo ra thu nhập cho Doanh nghiệp. Vì thế Doanh nghiệp cần phải
biết sử dụng chúng sao cho có hiệu quả hoặc loại bỏ chúng đi. Hệ số hoạt động đôi
khi còn gọi là hệ số hiệu quả hoặc hệ số luân chuyển. Do đó, khi phân tích các chỉ
tiêu hoạt động thì người ta thường sử dụng các chỉ tiêu sau đây :
 Vòng quay các khoản phải thu
Các khoản phải thu là các khoản là các khoản bán chịu mà Doanh nghiệp chưa thu
tiền do thực hiện chính sách bán chịu và các khoản tạm ứng chưa thanh toán các
khoản trả trước cho người bán.
Vòng quay các khoản phải thu =
Doanh thuthuần
Các khoản phảithubình quân
Vòng quay các khoản phải thu cần xem xét cẩn thận việc khách hàng thanh toán
các khoản nợ cho Doanh nghiệp. Khi khách hàng thanh toán các khoản nợ đã đến

hạn thì lúc đó các khoản phải thu đã quay được một vòng.
 Kỳ thu tiền bình quân
Kỳ thu tiền bình quân cao hay thấp phụ thuộc vào chính sách bán chịu của Doanh
nghiệp. Nếu vòng quay các khoản phải thu quá cao thì sẽ làm giảm sức cạnh tranh,
làm giảm doanh thu.
Kỳ thu tiền bình quân =
Các khoản phải thu
Doanhthubìnhquân1ngày
Khi phân tích hệ số này, ngoài việc so sánh các năm, so sánh với các Doanh nghiệp
cùng ngành, Doanh nghiệp cần xem xét kỹ tổng khoản phải thu để phát hiện những
khoản nợ đã quá hạn để có biện pháp xử lý kịp thời.
 Chu kỳ thu tiền
Chu kỳ thu tiền =
360
Vòng quay các khoản phải thu
Chỉ tiêu này cho biết tốc độ chuyển đổi nợ phải thu từ khách hàng thành tiền trong
quỹ của Doanh nghiệp là bao lâu. Chỉ tiêu này càng nhỏ thì tình hình kinh doanh
càng tốt và ngược lại.
 Vòng quay hàng tồn kho
Vòng quay hàng tồn kho =
Doanhthuthuần
Hàng tồn kho bìnhquân
Vòng quay hàng tồn kho là một chỉ tiêu để đánh giá Doanh nghiệp sử dụng hàng
tồn kho của mình hiệu quả như thế nào.
Vòng quay dự trữ, tồn kho cao thể hiện khả năng sản xuất kinh doanh của Doanh
nghiệp tốt, có như vậy mới đạt được mục tiêu mà Doanh nghiệp đặt ra. Chỉ tiêu
này cao phản ánh được lượng vật tư, hàng hoá được sử dụng cũng như được bán ra
nhiều, như vậy doanh thu sẽ tăng và đồng thời lợi nhuận của Doanh nghiệp đạt
được cũng tăng lên.
 Chu kỳ lưu kho

Chu kỳ lưu kho =
360
Vòng quayhàng tồnkho
Chỉ tiêu này cho ta biết ngày lượng hàng tồn kho được chuyển đổi thành doanh
thu. Từ chỉ tiêu này cho biết số ngày cần thiết cho việc luân chuyển kho vì hàng
tồn kho có ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả sử dụng tài sản ngắn hạn ở khâu dự
trữ.
 Hiệu suất sử dụng tài sản ngắn hạn
Hiệu suất sử dụng tài sản ngắn hạn =
Doanhthuthuần
Tài sản ngắnhạnbìnhquântrong kỳ
Chỉ tiêu này cho biết mỗi đơn vị tài sản ngắn hạn trong kỳ đem lại bao nhiêu đơn
vị doanh thu thuần. Chỉ tiêu này càng lớn chứng tỏ hiệu suất sử dụng tài sản ngắn
hạn càng cao.
 Hệ số thanh toán lãi vay
Hệ số thanh toán lãi vay =
Lợi nhuậntrước thuế +lãivay
lãi vay
Hệ số này cho biết lợi nhuận trước thuế bao gồm lãi vay của Doanh nghiệp có đảm
bảo khả năng thanh toán lãi vay hay không.
∗ Chỉ tiêu phản ánh khả năng sinh lời
 Hệ số sinh lời của tài sản ngắn hạn
Hệ số sinh lời của tài sản ngắn hạn =
Lợi nhuậnsau thuế
Tài sản ngắnhạnbìnhquântrong kỳ
Chỉ tiêu này phản ánh khả năng sinh lời của tài sản ngắn hạn. Nó cho biết mỗi đơn
vị tài sản ngắn hạn có trong kỳ đem lại bao nhiêu đơn vị lợi nhuận sau thuế.
1.6. Mục tiêu quản trị tài sản ngắn hạn:
Giúp cho Doanh nghiệp :
• Hiểu và nhận diện được tài sản ngắn hạn, đặc điểm luân chuyển

của tài sản cố định trong Doanh nghiệp.
• Hiểu và vận dụng được mô hình thiết lập tồn quỹ tiền mặt, tồn kho
tối ưu, biện pháp quản trị khoản phải thu.
• Nắm vững các nội dung và biện pháp quản trị tài sản ngắn hạn và
vốn cố định trong Doanh nghiệp.
2. Tài sản dài hạn:
2.1. Khái niệm:
• Tài sản cố định là tư liệu lao động chủ yếu và những tài sản khác
có giá trị lớn, thời gian sử dụng lâu dài ( tối thiểu 1 năm ), tham gia
vào nhiều chu kỳ sản xuất kinh doanh. Tài sản cố định có thể là tài
sản hữu hình như máy móc, thiết bị, nhà xưởng, phương tiện vận
tải,…Song cũng có thể là tài sản vô hình như các chi phí mua sáng
chế hoặc giá trị thương hiệu Doanh nghiệp, lợi thế thương mại.
• Ở Việt Nam các tài sản cố định ngoài tiêu chuẩn định lượng về giá
trị và thời gian sử dụng còn phải đáp ứng các tiêu chuẩn định
lượng.
2.2. Tiêu chuẩn nhận biết tài sản cố định :
• Chắc chắn thu được lợi ích kinh tế trong tương lai từ việc sử dụng
tài sản đó : lợi ích kinh tế do tài sản mang lại được biểu hiện ở việc
tăng doanh thu, tiết kiệm chi phí, tăng chất lượng của sản phẩm,
dịch vụ khi Doanh nghiệp kiểm soát và sử dụng một tài sản nào đó.
• Nguyên giá được xác định một cách tin cậy : tiêu chuẩn này yêu
cầu một tài sản nào đó muốn được ghi nhận là tài sản cố định thì
phải có cơ sở khách quan để xác định giá trị ban đầu của nó.
• Có thời gian sử dụng từ một năm trở lên : tiêu chuẩn này nhằm cụ
thể hoá tiêu chuẩn thứ nhất của tài sản cố định. Lợi ích kinh tế
trong tương lai do việc sử dụng tài sản cố định không phải là trong
một năm tài chính mà ít nhất là hai năm.
2.3. Đặc điểm của tài sản cố định:
• Tham gia vào nhiều chu kỳ kinh doanh và giá trị của nó được

chuyển dần vào giá trị sản phẩm làm ra thông qua khoản chi phí
khấu hao. Điều này làm giá trị của tài sản cố định giảm dần hằng
năm. Tuy nhiên, không phải mọi tài sản có thời gian sử dụng trên
một năm đều được gọi là tài sản cố định, thực tế có những tài sản
có tuổi thọ trên một năm nhưng vì giá trị nhỏ nên chúng không
được coi là tài sản cố định mà được xếp vào tài sản lưu động.
Theo quy định hiện hành của Bộ tài chính, một tài sản được gọi là tài sản
cố định khi có đặc điểm như đã nêu đồng thời phải có giá trị trên 10 triệu
đồng.
 Hao mòn dần trong quá trình sử dụng : giảm dần giá trị của tài sản
cố định trong quá trình sử dụng do tham gia vào quá trình kinh
doanh bị cọ sát, bị ăn mòn hoặc do tiến bộ kỹ thuật…
 Hao mòn hữu hình : là sự hao mòn vật lý do quá trình sử dụng như
bị cọ sát, bị ăn mòn hoá học, bị hỏng từng bộ phận…
 Hao mòn vô hình : là sự giảm giá của tài sản cố định do sự tiến bộ
khoa học công nghệ như chất lượng cao hơn, tính năng nhiều hơn,
nhưng chi phí thấp hơn dẫn tới giá cả thấp hơn.
• Toàn bộ giá trị của tài sản cố định được bù đắp sau nhiều chu kỳ
kinh doanh :
Nâng cao năng suất lao động, giải phóng con người khỏi những lao động
chân tay nặng nhọc, vất vả. Đồng thời tài sản cố định cũng là cơ sở vật
chất kỹ thuật, là nguồn lực sản xuất của Doanh nghiệp hay của toàn bộ
nền kinh tế.
2.4. Phân loại :
Tài sản cố định trong doanh nghiệp có nhiều công dụng khác nhau trong
hoạt động sản xuất kinh doanh, tuỳ theo mục đích nghiên cứu, để quản lý
tốt cần phải phân loại tài sản cố định. Phân loại tài sản cố định là việc sắp
xếp các tài sản cố định trong Doanh nghiệp thành các loại, các nhóm tài
sản cố định có cùng tính chất, đặc điểm theo các tiêu thức nhất định.
Trong Doanh nghiệp thường phân loại tài sản cố định theo một số tiêu

thức sau :
 Căn cứ vào mục đích sử dụng
Tài sản cố định dùng cho mục đích kinh doanh là những tài sản cố định
do Doanh nghiệp quản lý, sử dụng cho các mục đích kinh doanh của
Doanh nghiệp.
Tài sản cố định dùng trong sản xuất kinh doanh : là những tài sản cố định
tham gia trực tiếp, hoặc gián tiếp vào quá trình sản xuất kinh doanh của
Doanh nghiệp như nhà cửa, vật kiến trúc, thiết bị động lực, máy móc
thiết bị sản xuất,…và những tài sản cố định không có hình thái vật chất
khác.
Tài sản cố định dùng ngoài sản xuất kinh doanh : là những tài sản cố định
dùng cho hoạt động sản xuất kinh doanh phụ trợ trong Doanh nghiệp và
những tài sản cố định dùng cho phúc lợi công cộng gồm nhà cửa, máy
móc thiết bị sản xuất phục vụ cho việc sản xuất kinh doanh phụ, nhà cửa
và phương tiện dùng cho sinh hoạt văn hoá,nghiên cứu và các công trình
phúc lợi tập thể.
Tài sản cố định dùng cho mục đích phúc lợi, sự nghiệp an ninh quốc
phòng là những tài sản cố định do Doanh nghiệp quản lý, sử dụng cho
các mục đích phúc lợi, sự nghiệp an ninh quốc phòng trong Doanh
nghiệp. Các tài sản cố định này cũng được phân loại theo quy định tại
điểm 1 nêu trên.
Tài sản cố định bảo quản hộ, giữ hộ, cất giữ hộ là những tài sản cố định
Doanh nghiệp bảo quản hộ, giữ hộ cho đơn vị khác hoặc cất giữ hộ Nhà
nước theo quy định của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền.
Tuỳ theo yêu cầu quản lý của từng Doanh nghiệp, Doanh nghiệp tự phân
loại chi tiết hơn các tài sản cố định của Doanh nghiệp trong từng nhóm
cho phù hợp.
 Căn cứ tình hình sử dụng :
Tài sản cố định đang dùng : là những tài sản cố định đang sử dụng cho
các hoạt động sản xuất kinh doanh, hay các hoạt động khác của Doanh

nghiệp như hoạt động phúc lợi, sự nghiệp an ninh quốc phòng.
Tài sản cố định chưa cần dùng : là những tài sản cố định chưa cần thiết
cho các hoạt động sản xuất kinh doanh, hay các hoạt động khác của
Doanh nghiệp nhưng hiện tại chưa đưa vào sử dụng, đang được dự trữ để
sử dụng cho kỳ sau.
Tài sản cố định không cần dùng và đang chờ thanh lý : là những tài sản cố
định không còn sử dụng được cho hoạt động sản xuất kinh doanh vì
không phù hợp với quy trình sản xuất của Doanh nghiệp.
 Căn cứ hình thái biểu hiện :
Tài sản cố định hữu hình : là những tài sản cố định có hình thái vật chất
cụ thể như : đất đai, nhà cửa, máy móc thiết bị, phương tiện vận tải, thiết
bị sản xuất, thiết bị truyền dẫn, dụng cụ quản lý, cây lâu năm và tài sản
cố định hữu hình khác…
Tài sản cố định vô hình : là những tài sản cố định không có hình thái vật
chất cụ thể như giá trị quyền sử dụng đất, nhãn hiệu hàng hoá, bản quyền,
bằng sáng chế, phần mềm máy vi tính, giấy phép, giấy phép nhượng
quyền, quyền phát hành…
 Căn cứ công dụng kinh tế :
Nhà cửa, vật kiến trúc : là tài sản cố định của Doanh nghiệp được hình
thành sau quá trình thi công xây dựng như : trụ sở làm việc, nhà kho,
hàng rào, tháp nước, sân bãi, các công trình trang trí cho nhà cửa, đường
xá, cầu cống, đường sắt, đường băng sân bay, cầu tàu, cầu cảng,…
Máy móc thiết bị : là toàn bộ các loại máy móc thiết bị dùng trong hoạt
động kinh doanh của Doanh nghiệp như máy móc chuyên dùng, thiết bị
công tác, giàn khoan trong lĩnh vực dầu khí, cần cẩu, dây chuyền công
nghệ, những máy móc đơn lẻ.
Phương tiện vận tải, thiết bị truyền dẫn : là các loại phương tiện vận tải
gồm phương tiện vận tải đường sắt, đường thuỷ, đường bộ, đường không,
đường ống và các thiết bị truền dẫn như hệ thống thông tin, hệ thống
điện, nước, băng tải…

Thiết bị, dụng cụ quản lý : là những thiết bị, dụng cụ dùng trong công tác
quản lý hoạt động kinh doanh của Doanh nghiệp như máy vi tính phục vụ
quản lý, thiết bị điện tử, dụng cụ đo lường, kiểm tra chất lượng, máy hút
ẩm, hút bụi, chống mối mọt,…
Vườn cây lâu năm, súc vật làm việc và hoặc cho sản phẩm : là các vườn
cây lâu năm như : vườn cà phê, vườn chè, vườn cao su, vườn cây ăn quả,
thảm cỏ, thảm cây xanh, súc vật làm việc và hoặc cho sản phẩm như đàn
voi, đàn ngựa, đàn trâu, đàn bò…
Các loại tài sản cố định khác : là toàn bộ các tài sản cố định khác chưa
liệt kê vào năm loại trên như tranh ảnh, tác phẩm nghệ thuật.
2.5. Một số thuật ngữ:
• Tài sản cố định hữu hình : là những tư liệu lao động chủ yếu có
hình thái vật chất thoả mãn các tiêu chuẩn của tài sản cố định hữu
hình, tham gia vào nhiều chu kỳ kinh doanh nhưng vẫn giữ nguyên
hình thái vật chất ban đầu như nhà cửa, vật kiến trúc, máy móc,
thiết bị, phương tiện vận tải…
• Tài sản cố định vô hình : là những tài sản không có hình thái vật
chất, thể hiện một lượng giá trị đã được đầu tư thoả mãn các tiêu
chuẩn của tài sản cố định vô hình, tham gia vào nhiều chu kỳ kinh
doanh, như một số chi phí liên quan trực tiếp tới đất sử dụng, chi
phí về quyền phát hành, bằng phát minh, bằng sáng chế, bản quyền
tác giả…
• Tài sản cố định thuê tài chính : là những tài sản cố định mà Doanh
nghiệp thuê của công ty cho thuê tài chính. Khi kết thúc thời hạn
thuê, bên thuê được quyền lựa chọn mua lại tài sản thuê hoặc tiếp
tục thuê theo các điều kiện đã thoả thuận trong hợp đồng thuê tài
chính. Tổng số tiền thuê một loại tài sản quy định tại hợp đồng
thuê tài chính ít nhất phải tương đương với giá trị của tài sản đó tại
thời điểm ký hợp đồng.
Mọi tài sản cố định đi thuê nếu không thoả mãn các quy định nêu trên

được coi là tài sản cố định thuê hoạt động.
• Tài sản cố định tương tự : là tài sản cố định có công dụng tương tự
trong cùng một lĩnh vực kinh doanh và có giá trị tương đương.
∗ Nguyên giá tài sản cố định :
Nguyên giá tài sản cố định hữu hình là toàn bộ các chi phí mà Doanh
nghiệp phải bỏ ra để có tài sản cố định hữu hình tính đến thời điểm đưa
tài sản đó vào trạng thái sẵn sàng sử dụng.
Nguyên giá tài sản cố định vô hình là toàn bộ các chi phí mà Doanh
nghiệp phải bỏ ra để có tài sản cố định vô hình tính đến thời điểm đưa tài
sản đó vào sử dụng theo dự tính.
Giá trị hợp lý của tài sản cố định : là giá trị tài sản có thể trao đổi giữa
các bên có đầy đủ hiểu biết trong sự trao đổi ngang giá.
∗ Thời gian sử dụng tài sản cố định
Là thời gian Doanh nghiệp dự tính sử dụng tài sản cố định vào hoạt động
sản xuất kinh doanh hoặc xác định theo số lượng, khối lượng sản phẩm
dự kiến sản xuất được từ việc sử dụng tài sản cố định theo quy định hiện
hành, ở điều kiện bình thường, phù hợp với các thông số kinh tế - kỹ
thuật của tài sản cố định và các yếu tố khác có liên quan đến sự hoạt động
của tài sản cố định.
∗ Hao mòn tài sản cố định
Là sự giảm dần giá trị sử dụng và giá trị tài sản cố định do tham gia vào
hoạt động sản xuất kinh doanh, do bào mòn của tự nhiên, do tiến bộ kỹ
thuật… trong quá trình hoạt động của tài sản cố định.
Như vậy hao mòn tài sản cố định được thể hiện dưới 2 dạng :
Hao mòn hữu hình : là sự hao mòn vật lý trong quá trình sử dụng như do
bị cọ sát, bị ăn mòn hoá học, bị hỏng từng bộ phận…
Hao mòn vô hình : là sự giảm giá trị của tài sản cố định do sự tiến bộ
khoa học công nghệ như chất lượng cao hơn, tính năng nhiều hơn, nhưng
chi phí thấp hơn dẫn tới giá cả thấp hơn.
Để thu hồi giá trị hao mòn tài sản cố định thì Doanh nghiệp phải trích

khấu hao.
Giá trị hao mòn luỹ kế của tài sản cố định : là tổng cộng giá trị hao mòn
của tài sản cố định tính đến thời điểm báo cáo.
∗ Giá trị còn lại của tài sản cố định
Là hiệu số giữa nguyên giá của tài sản cố định sau khi trừ (-) số khấu hao
luỹ kế ( hoặc giá trị hao mòn luỹ kế ) của tài sản cố định tính đến thời
điểm báo cáo.
Giá trị bằng nguyên giá tài sản cố định ( hay giá trị ban đầu ) trừ (-) giá
trị hao mòn ( số khấu hao cơ bản đã trích ) của chúng trong quá trình sử
dụng. Khi giá trị còn lại là kết quả của việc đánh giá lại theo thời giá của
tài sản cố định thì giá trị hao mòn phản ánh cả 2 loại : hao mòn hữu hình
( vật chất ) và hao mòn vô hình. Loại hao mòn vô hình có thể rất lớn,
nhất là trong điều kiện hiện nay khi khoa học kỹ thuật và công nghệ phát
triển không ngừng với tốc độ cao, thiết bị và công nghệ cũ bị lạc hậu
tương đối nhanh, làm cho năng suất lao động, chất lượng sản phẩm và
hiệu quả kinh tế bị giảm thấp, không cạnh tranh nổi với sản phẩm được
sản xuất bằng thiết bị và công nghệ mới. Do đó, trong các nước kinh tế
phát triển, đang có xu hướng tăng nhanh tỷ lệ khấu hao tài sản cố định để
hạn chế hao mòn vô hình và nhanh chóng đổi mới thiết bị, công nghệ, kỹ
thật tiên tiến.
∗ Khấu hao tài sản cố định
Khái niệm : là tính toán và phân bổ có hệ thống nguyên giá TSCĐ vào chi
phí sản xuất, kinh doanh trong thời gian sử dụng
Phương pháp tính :
a) Khấu hao bình quân :
• Đối với tải sản sau khi nâng cấp:
Mức trích KH =
Nguyên giá−Gía trị thu hồi ư ớc tính
Thời gians ử dụng
Mức trích KH =

GTCLsau Nâng cấp−Gíatrị thuhồi ư ớc tính
Thời gian s ử dụngcònlại
Mức trích KH trong kỳ
¿
[
Nguyên giá−Gía trị thuhồi ư ớc tính
]
×Tỉ lệ trích khấu hao
Tỉ lệ trích KH năm =
1
Số nă m sử dụng
×100
b) Khấu hao theo số dư giảm dần có hiệu chỉnh :
Mức KH hàng năm
¿
[
GTCLTSC Đ−Gía trịthu hồiư ớc tính
]
×Tỉ lệKH nhanh
Tỉ lệ KH nhanh
¿ Tỉ lệ KH theo PPĐT × Hệ số điều chỉnh
• Hệ số điều chỉnh được quy định theo thời gian sử dụng của TSCĐ:

1→4 n ă m=1,5nă m
4 →6nă m=2 năm
¿6n ă m=2,5 nă m
c) Khấu hao theo tổng số thứ tự năm sử dụng :
Mức trích KH hàng năm
¿
[

Nguyêngiá−Gía trịthu hồi ước tính
]
×Tỉ lệ KH theo năms ửdụng
Tỉ lệ trích KH năm =
Số năm sử dụng cònlại
Tổng số th ứ t ự năms ử dụng
×100
d) Khấu hao theo khối lượng sản phẩm :
Mứctr í ch KH trong kỳ=SL sản xuất th ự ctế ×M ứ c tr í ch KH bì nhqu â n/1 sp
Mức trích KH bình quân/ 1sp =
Nguyên giá−Gía trịthuhồi ư ớc tính
SLcông suất thiết kế
2.6. Quy định về trích khấu hao tài sản cố định:
─ Mọi tài sản cố định của Doanh nghiệp có liên quan đến hoạt động kinh
doanh đều phải trích khấu hao. Mức trích khấu hao tài sản cố định được
hạch toán vào chi phí kinh doanh trong kỳ.
Doanh nghiệp không được tính và trích khấu hao đối với những tài sản cố định đã
khấu hao hết nhưng vẫn sử dụng vào hoạt động kinh doanh.
Đối với những tài sản cố định chưa khấu hao hết đã hỏng, Doanh nghiệp phải xác
định nguyên nhân, quy trách nhiệm đền bù, bồi thường thiệt hại,… và tính vào chi
phí khác.
─ Những tài sản cố định không tham gia vào hoạt động kinh doanh thì không
phải trích khấu hao, bao gồm :
+ Tài sản cố định thuộc dự trữ nhà nước giao cho Doanh nghiệp quản lý hộ,
giữ hộ.
+ Tài sản cố định phục vụ các hoạt động phúc lợi trong Doanh nghiệp như nhà
trẻ, câu lạc bộ, nhà ăn,…được đầu tư bằng quỹ phúc lợi.
Những tài sản cố định phục vụ nhu cầu chung của toàn xã hội không phục vụ cho
hoạt động kinh doanh của riêng Doanh nghiệp như : đê đập, cầu cống, đường xá…
mà nhà nước giao cho Doanh nghiệp quản lý.

+ Tài sản cố định khác không tham gia vào hoạt động kinh doanh.
Doanh nghiệp thực hiện việc quản lý, theo dõi các tài sản cố định trê đây như đối
với các tài sản cố định dùng trong hoạt động kinh doanh và tính mức hao mòn của
các tài sản cố định này ( nếu có ), mức hao mòn hàng năm được xác định bằng
cách lấy nguyên giá chia ( ÷ ) cho thời gian sử dụng của tài sản cố định xác định
theo quy định tại Phụ lục ban hành kèm theo Quyết định số 206/2003 QĐ – BTC
ngày 12/12/ 2003 của Bộ trưởng Bộ Tài chính.
Nếu các tài sản cố định này có tham gia vào hoạt động kinh doanh thì trong thời
gian tài sản cố định, tham gia vào hoạt động kinh doanh, doanh nghiệp thực hiện
tính và trích khấu hao vào chi phí kinh doanh của Doanh nghiệp.
─ Doanh nghiệp cho thuê tài sản cố định hoạt động phải trích khấu hao đối với
tài sản cố định cho thuê.
─ Doanh nghiệp đi thuê tài sản cố định phải trích khấu hao tài sản cố định thuê
tài chính như tài sản cố định thuộc sở hữu của Doanh nghiệp theo quy định
hiện hành. Trường hợp ngay tại thời điểm khởi đầu thuê tài sản, Doanh
nghiệp đi thuê tài sản cố định tài chính cam kết không mua tài sản thuê trong
hợp đồng thuê tài chính thì doanh nghiệp đi thuê được trích khấu hao tài sản
cố định thuê tài chính theo thời hạn thuê trong hợp đồng.
─ Việc trích hoặc thôi trích khấu hao tài sản cố định được thực hiện bắt đầu từ
ngày ( theo số ngày của tháng ) mà tài sản cố định tăng, giảm hoặc ngừng
tham gia vào hoạt động kinh doanh.
─ Quyền sử dụng đất lâu dài là tài sản cố định vô hình đặc biệt, doanh nghiệp
ghi nhận là tài sản vô hình theo nguyên giá nhưng không được trích khấu
hao.
2.7. Chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng tài sản cố định:
∗ Đánh giá
K1 : hệ số giá trị còn lại
K1 =
[
Giátrị cònlại

Nguyên giá( Ng)
]
×100
K2 : hệ số thời gian sử dụng còn lại
K2 =
(
Thời gian sử dụng cònlại
Tsd
)
×100
Hiệu quả sử dụng tài sản cố định
∗ Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng tài sản cố định
Các chỉ tiêu hiện vật
Hiệu quả sử dụng số lượng tài sản cố định
Hsd =
(
số lượng sd
số lượng thựctế
)
×100
Hiệu quả về mặt thời gian sử dụng
Htg =
(
thời giansử dụng thựctế
thời gian sử dụng quy định
)
×100
Hiệu quả về mặt công suất

×