Tải bản đầy đủ (.docx) (44 trang)

thực trạng chi tiêu công tại việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (483.34 KB, 44 trang )

MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU 3
PHẦN I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ QUẢN LÍ CHI TIÊU CÔNG 4
1. Khái niệm, đặc điểm chi tiêu công 4
1.1 Khái niệm 4
1.2: Đặc điểm chi tiêu công 4
2 .Nội dung chi tiêu công 4
2.1. Chi thường xuyên 4
2.2. Chi đầu tư phát triển 5
3. Những tiếp cận cơ bản về quản lý chi tiêu công hiện đại 7
3.1. Khái niệm quản lý chi tiêu công 7
3.2. Nội dung quản lý chi tiêu công 8
3.2.1. Quản lý chi đầu tư phát triển 8
3.2.2. Quản lý chi thường xuyên 9
3.3. Các mô hình quản lý chi tiêu công 10
3.3.1. Lập ngân sách theo danh mục 10
3.3.2. Lập ngân sách theo công việc hoạt động 10
3.3.3. Lập ngân sách theo chương trình (ngân sách theo đầu ra) 11
PHẦN II: THỰC TRẠNG VỀ CHI TIÊU CÔNG Ở VIỆT NAM: 12
1.Tình hình thâm hụt ngân sách cho chi tiêu công ở Việt Nam 12
1.1Ngân sách thâm hụt trầm trọng 12
1.2Thâm hụt ngân sách vì chi quá nhiều 13
2. Thực trạng chi thường xuyên ngân sách nhà nước 15
2.1. Thực trạng chi ngân sách nhà nước 15
2.2.Thực hiện tiết kiệm 10% chi thường xuyên nhằm kiềm chế lạm phát ổn
định kinh tế vĩ mô 18
2.2.1. Khuôn khổ pháp lý 18
2.2.1.1 Đối tượng thực hiện tiết kiệm 18
2.2.1.2 Cách thức xác định số tiết kiệm 10% chi thường xuyên năm 2011 18
2.2.1.3 Quản lý số tiết kiệm 19
2.2.1.4. Rà soát, sắp xếp, bố trí lại các nhiệm vụ chi thường xuyên trong


phạm vi dự toán còn lại (sau khi đã tiết kiệm 10% chi) 19
2.2.1.5. Tổ chức thực hiện 20
2.3 Phân bổ thêm cho các địa phương khó khăn 22
3. Thực trạng về chi tiêu đầu tư 22
4.Tình hình thu chi ngân sách năm 2013 23
PHẦN III: GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ QUẢN LÝ CHI THƯỜNG
XUYÊN NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC 32
1.Giải pháp chung 32
2. Các giải pháp cụ thể 35
2.1. Về dự toán NSNN 35
2.2. Về hạch toán các khoản tạm ứng ngân sách 39
2.3.Thủ tục kiểm soát chi 39
2.4.Hoàn thiện hệ thống định mức, tiêu chuẩn, chế độ làm cơ sở thực hành tiết kiệm,
chống lãng phí 39
2.5.Phân công rành mạch, khắc phục những trùng lắp, chồng chéo trong quản lý và
kiểm soát chi 40
2.6. Hoàn thiện các hình thức cấp phát Ngân sách nhà nước 40
2.7. Đổi mới quản lý NS theo hướng quản lý NS theo kết quả đầu ra 40
2.8. Cải cách hành chính theo hướng minh bạch, công khai, đơn giản hoá các thủ tục
và nâng cao hiệu quả quản lý 41
2.9. Hoàn thiện quản lý và kiểm soát chi NS xã 43
2.10. Nâng cao chất lượng và hiệu quả hệ thống thông tin 43
KẾT LUẬN 44
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 45
Nhóm 5 GVHD: Ts Phan Thị Quốc Hương
LỜI MỞ ĐẦU
hiến lược công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước đã đạt được những kết
quả nhất định trong quá trình chuyển đổi kép: từ một nền kinh tế kế
hoạch hóa tập trung mang nặng tính hành chính chuyển hẳn sang nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; từ một xã hội nông

nghiệp lạc hậu chuyển sang một xã hội công nghiệp. Sự phát triển đó đòi hỏi Nhà nước
cần phải đổi mới chính sách tài chính trong đó có chính sách quản lý chi tiêu công để
phân bổ và sử dụng các nguồn lực tài chính của xã hội có hiệu quả và hiệu lực. Chi tiêu
công gắn liền với chức năng quản lý của nhà nước và có nhiều lĩnh vực kinh tế, chính
trị, xã hội. Quản lý có hiệu quả chi tiêu công được đặt ra trong bối cảnh nguồn lực tài
chính mỗi quốc gia có sự giới hạn nhất định nhưng phải làm như thế nào để thỏa mãn
tốt nhất những nhu cầu cần thiết để đạt được mục tiêu quản lý kinh tế, chính trị xã hội
của đất nước. Hơn nữa, trên tiến trình hội nhập kinh tế thế giới, vấn đề quản lý chi tiêu
công một cách hợp lý là yêu cầu cấp thiết đối với Việt nam.
C
3
Nhóm 5 GVHD: Ts Phan Thị Quốc Hương
PHẦN I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ QUẢN LÍ CHI TIÊU
CÔNG
1. Khái niệm, đặc điểm chi tiêu công:
1.1. Khái niệm:
Chi tiêu công là một phạm trù kinh tế tồn tại khách quan với sự tồn tại của Nhà
Nước. Qua các thời kỳ kinh tế - xã hội,quan điểm về chi tiêu công cũng có những thay
đổi nhất định. Trong thời kỳ chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh, theo các nhà kinh tế
học cổ điển, chi tiêu công là chi tiêu công của cơ quan pháp nhân công quyền. Theo đó,
hoạt động của cơ quan này không mang lại lợi ích cho quốc gia về kinh tế, chi tiêu là
những khoản chi mang tính chất tiêu dùng. Trong khi đó, các nhà kinh tế hiện đại cho
rằng, trong nền kinh tế thị trường hiện đại, chi tiêu công là công cụ tài chính của Nhà
nước để trang trải và đảm bảo các hoạt động của bộ máy quản lý, giữ gìn an ninh, trật
tự xã hội và sự toàn vẹn của đất nước; can thiệp vào các hoạt động kinh tế nhằm ổn
định môi trường kinh tế vĩ mô, bảo vệ lợi ích chung cho các chủ thể xã hội.
Quan sát hiện tượng bên ngoài của hoạt động tài chính công, ta thấy: Chi tiêu công
là khoản chi tiờu cụng của các cấp chính quyền, các đơn vị quản lý hành chính, các
đơn vị sự nghiệp được sự kiểm soát và tài trợ bởi Chính phủ. Như vậy, về cơ bản chi
tiêu công thể hiện các khoản chi của Ngân sách Nhà nước hàng năm được Quốc hội

thông qua. Hoạt đông chi tiêu công của các cấp chính quyền và các đơn vị hữu
quan của Nhà nước chính là quá trình mua các yếu tố đầu vào để cung cấp các hàng
hóa dịch vụ công cho xã hội nhằm thực hiện các chức năng của Nhà nước. Về mặt bản
chất: Chi tiêu công là quá trình phân phối và sử dụng các quỹ tài chính công nhằm thực
hiện các chức năng nhiệm vụ của Nhà nước.
1.2. Đặc điểm chi tiêu công:
- Đặc điểm nổi bật của chi tiêu công là nhằm phục vụ lợi ích cho cộng đồng dân cư
ở các vùng hay ở phạm vi quốc gia.
- Thứ đến, chi tiêu cụng luôn gắn liền với bộ máy Nhà nước và những nhiệm vụ
kinh tế, chính trị, xã hội mà Nhà nước thực hiện
- Các khoản chi tiêu công hoàn toàn mang tính cộng đồng.
- Các khoản chi tiêu công mang tính không hoàn trả hay hoàn trả không trực tiếp và
thể hiện ở chỗ không phải mọi khoản thu với số lượng và những địa chỉ cụ thể đều
được hoàn trả trực tiếp hình thức các khoản chi tiêu công.
2. Nội dung chi tiêu công:
Chi tiêu công diễn ra trên phạm vi rộng dưới nhiều hình thức. Trong quản lý tài
chính, chi tiêu công được chia làm 2 nội dung lớn: chi thường xuyên và chi đầu tư phát
triển.
2.1. Chi thường xuyên:
4
Nhóm 5 GVHD: Ts Phan Thị Quốc Hương
Chi thường xuyên là quá trình phối, sử dụng quỹ tiền tệ của Nhà nước để đáp ứng
các nhu cầu chi gắn liền với việc thực hiện các nhiệm vụ thường xuyên của nhà nước
về quản lý kinh tế xã hội.
Chi thường xuyên là những khoản chi mang những đặc trưng cơ bản là: mang tính
ổn định, mang tính chất tiêu dùng xã hội, và phạm vi, mức độ chi thường xuyên gắn
chặt với các cơ cấu tổ chức bộ máy Nhà nước trong việc cung ứng các hàng hóa công
cộng.
Các khoản chi thường xuyên thường được tập hợp theo lĩnh vực và nội dung
chi, bao gồm 4 khoản cho cơ bản sau:

- Chi sự nghiệp văn hóa - xã hội: là khoản chi mang tính chất tiêu dùng xã hội, liên
quan đến sự phát triển đời sống tinh thần của các tầng lớp dân cư.
- Chi sự nghiệp kinh tế của Nhà nước: việc thành lập các đơn vị sự nghiệp kinh tế để
phục vụ cho hoạt động của mỗi nghành và phục vụ chung cho toàn bộ nền kinh tế quốc
dân. Các hoạt động sự nghiệp do nhà nước thực hiện để tạo điều kiện thuận lợi cho các
hoạt động của các thành phần kinh tế.
- Chi quản lý hành chính Nhà nước: đây là khoản chi nhằm đảm bảo sự hoạt động
của hệ thống các cơ quan hành chính Nhà nước, và bao quát 5 lĩnh vực cơ bản sau: chi
về hoạt động của cơ quan quyền lực Nhà nước, của hệ thống các cơ quan pháp luật, về
hoạt động vĩ mô nền kinh tế xã hội cho hệ thống các cơ quan quản lý kinh tế xã hội và
các cấp chính quyền, về hoạt động của các cơ quan Đảng cộng sản Việt nam ở các cấp,
về hoạt động của của các tổ hức chính trị xã hội.
- Chi quốc phòng an ninh và trật tự xã hội: đây là khoản chi thường xuyên đặc biệt
quan trọng, được chia làm 2 bộ phận: các khoản chi cho quốc phòng để phòng thủ và
bảo vệ nhà nước, chống sự xâm lược và đe dọa của nước ngoài; các khoản chi nhằm
chi bảo vệ, giữ gìn chế độ xã hội, an ninh của dân cư trong nước.
- Chi khác: ngoài khoản chi đã kể trên cũn cú cỏc khoản chi như: chi trợ giá theo
chính sách của Nhà nước, chi trả tiền lãi do chính phủ vay, chi hỗ trợ quỹ bảo BHXH
2.2. Chi đầu tư phát triển :
Trong cơ chế kinh tế thị trường, với chức năng quản lý kinh tế, Nhà nước sử dụng
công cụ ngân sách Nhà nước để phân phối các nguồn lực tài chính cho sự phát triển
của các lĩnh vực sản xuất kinh doanh và các ngành kinh tế quốc dõn. Chi đầu tư phát
triển được thực hiện chủ yếu từ ngân sách trung ương và một bộ phận của ngân sách
địa phương. Đầu tư phát triển là hình thức đầu tư có liên quan đến sự tăng trưởng quy
mô vốn đầu tư của Nhà nước và quy mô vốn trên toàn xã hội. Mục tiêu của đầu tư phát
triển là đầu tư vào khu vực sản xuất, đầu tư vào cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội, làm thay
đổi cơ cấu kinh tế xã hội của Nhà nước. Kết quả các khoản chi này là tạo cơ sở vật chất
kỹ thuật của nền kinh tế, làm tăng cơ sở hạ tầng kinh tế xã hội, tạo ra của cải vật chất
và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Như vậy, có thể hiểu hiểu chi đầu tư phát triển là quá trình Nhà nước sử dụng một

phần vốn tiền tệ đã được tạo lập thông qua hoạt động thu của Ngân sách nhà
5
Nhóm 5 GVHD: Ts Phan Thị Quốc Hương
nước để đầu tư xây dựng hạ tầng kinh tế xã hội, phát triển sản xuất và để dự trữ vật tư
hàng hóa, nhằm đảm bảo thực hiện các mục tiêu ổn định và tăng trưởng nền kinh tế.
Xét theo mục đích, chi đầu tư phát triển bao gồm:
- Chi xây dựng các công trình thuộc kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội không có khả
năng hoàn vốn: là khoản chi lớn của nhà nước nhằm phát triển kết cấu hạ tầng đảm
bảo các điều kiện cần thiết cho nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội. Đầu tư xây dựng cơ
sở hạ tầng là khoản chi đầu tư xây dựng các công trình giao thông, bưu chính viễn
thông, điện lực, năng lượng, các ngành công nghiệp cơ bản, các công trình trọng điểm
phát triển văn hóa xã hội…
- Đầu tư, hỗ trợ vốn cho các doanh nghiệp Nhà nước, góp vốn cổ phần, góp vốn liên
doanh vào các doanh nghiệp thuộc các lĩnh vực cần thiết có sự tham gia của Nhà nước:
là những khoản chi của ngân sách nhà nước để đầu tư hỗ trợ cho sản xuất dưới các
hình thức:
+ Đầu tư hỗ trợ vốn cho các doanh nghiệp để xây dựng mới, cải tạo mở rộng cơ sở
vật chất kỹ thuật, trang thiết bị …cho các doanh nghiệp nhà nước.
+ Góp vốn cổ phần hoặc liên doanh.
- Chi hỗ trợ các quỹ hỗ trợ phát triển: đây là khoản chi của ngân sách nhà nước
góp phần tạo lập quỹ hỗ trợ phát triển để thực hiện việc thực hiện hỗ trợ vốn cho các dự
án đầu tư phát triển thuộc các ngành ưu đãi và cỏc vựng khó khăn theo quy định của
chính phủ, nhằm phát triển sản xuất cân đối giữa các ngành, các vùng trong nước.
Khoản chi hình thành vốn điều lệ của quỹ và có thể chi để bổ sung vốn hằng năm khi
cần thiết.
- Chi dự trữ nhà nước: khoản chi này nhằm mục đích dự trữ những vật tư, thiết bị,
hàng hóa chiến lược phòng khi nền kinh tế gặp các biến cố bất ngờ về thiên tai,
địch họa…đảm bảo cho nền kinh tế phát triển ổn định. Như vậy, có thể thấy rằng chi
đầu tư phát triển từ ngân sách Nhà nước Viờt nam có những đặc trưng cơ bản sau:
chi đầu tư phát triển là khoản đầu tư lớn và không ngừng tăng lên; chi đầu tư

phát triển là khoản đầu tư mang tính chất tích lũy; phạm vi và mức độ chi đầu tư phát
triển gắn chặt với việc thực hiện mục tiêu, yêu cầu phát triển kinh tế xã hôi của đất
nước trong từng thời kỳ và sự lựa chọn phương pháp cấp phát của nhà nước. Ngoài
cách phân chia chi tiêu công theo tính chất kinh tế kể trên, chi tiêu công còn
được phân chia theo:
- Chức năng của nhà nước, bao gồm: chi cho các hoạt động xây dựng cơ sở hạ
tầng, tòa án và viện kiểm soát, hệ thống quân đội và an ninh xã hội, hệ thống giáo dục,
hệ thống an sinh xã hội, hỗ trợ cho các doanh nghiệp, hệ thống quản lý hành chính nhà
nước, chi tiêu cho cỏc viờn chính sách đặc biệt (viện trợ nước ngoài ngoại giao, chính
trị…), chi khác.
- Theo trình tự lập dự toán của nhà nước, chi tiêu công được chia thành:
+ Chi tiêu công theo yếu tố đầu vào: căn cứ vào nhu cầu mua sắm, trang bị các
phương tiện cần thiết cho hoạt động các cơ quan đơn vị. Chính phủ xác định mức kinh
6
Nhóm 5 GVHD: Ts Phan Thị Quốc Hương
phí tài trợ. Thông thường cú cỏc khoản mục cơ bản như chi phí mua tài sản lưu động,
chi phí mua tài sản cố định, chi tiền lương và các khoản phụ cấp, chi bằng tiền khác.
+ Chi tiêu công theo yếu tố đầu ra: Mức kinh phí phân bổ cho một cơ quan, đơn vị
không căn cứ vào các yếu tố đầu vào mà dựa vào khối lượng công việc đầu ra và kết
quả tác động đến mục tiêu hoạt động của đơn vị.
3. Những tiếp cận cơ bản về quản lý chi tiêu công hiện đại:
3.1. Khái niệm quản lý chi tiêu công:
Quản lý chi tiêu công là một khái niệm phản ánh hoạt động tổ chức điều khiển và
đưa ra quyết định của nhà nước đối với quá trình phân phối và sử dụng nguồn tài chính
công nhằm thực hiện các chức năng vốn có của Nhà nước trong việc cung cấp hàng
hóa công, phục vụ lợi ích kinh tế xã hội cho cộng đồng.
Với khái niệm trên cho thấy:
- Chi tiêu công là một trong những thuộc tính vốn có khách quan của khâu tài chính
công, phản ánh sự phân phối và sử dụng nguồn lực tài chính công của nhà nước.
- Quản lý chi tiêu công là hoạt động có tính chủ quan của Nhà nước trong việc tổ

chức điều khiển quá trình phân phối và sử dụng nguồn lực tài chính công.
Xét về phương diện cấu trúc, quản lý chi tiêu công bao gồm hệ thống các yếu tố sau:
- Chủ thể quản lý: nhà nước là người trực tiếp tổ chức, điều khiển quá trình
phân phối và sử dụng nguồn lực tài chính công.
- Mục tiêu quản lý:
+ Mục tiêu tổng quát: thúc đẩy kinh tế tăng trưởng nhanh, bền vững và ổn định.
+ Mục tiêu chi tiết: phân bổ có hiệu quả nguồn lực tài chính của nhà nước; nâng cao
hiệu quả hoạt động về cung cấp hàng hóa, dịch vụ công cộng; thực hiện công bằng xã
hội.
- Công cụ quản lý: để thực hiện quản lý, nhà nước cần phải sử dụng hệ thống các
công cụ, trong đó bao gồm các yếu tố: các chính sách kinh tế - tài chính; pháp chế kinh
tế - tài chính; chương trình hóa cỏc mục tiêu, dự án………
- Cơ chế quản lý: là phương thức mà qua đó nhà nước sử dụng các công
cụ quản lý tác động vào quá trình phân phối và sử dung các nguồn lực tài chính để
hướng vào đạt những mục tiêu đã định.
- Nội dung quản lý chi tiêu công bao gồm tất cả những thành phần của quy
trình ngân sách quốc gia:
+ Dự báo thu nhập và chi tiêu (được thiết lập trong khuôn khổ chi tiêu trung hạn).
+ Gắn kết ngân sách với việc đưa ra chính sách.
+ Chuẩn bị ngân sách.
+ Quản lý tiền mặt và kiểm soát chi tiêu ngân sách.
+ Thực hiện kiểm tra bên trong và kiểm toán.
+ Kế toán và báo cáo.
+ Mua sắm hàng hóa công và tài sản.
+ Đánh giá thực hiện.
+ Điều hành kiểm toán từ bên ngoài.
7
Nhóm 5 GVHD: Ts Phan Thị Quốc Hương
+ Đảm bảo sự giám sát của cơ quan lập pháp và cơ quan khác.
3.2. Nội dung quản lý chi tiêu công :

Chi tiêu công bao gồm chi thường xuyên, chi đầu tư phát triển và chi khác.Vì
vậy,quản lý chi tiêu công chính là quản lý chi thường xuyên, quản lý chi đầu tư phát
triển và chi khác.
.3.2.1. Quản lý chi đầu tư phát triển:
Đầu tư phát triển là một phương thức của đầu tư trực tiếp. Hoạt động của đầu tư này
nhằm duy trì và tạo ra năng lực mới trong sản xuất kinh doanh dịch vụ và sinh hoạt của
đời sống xã hội.
Như vậy có thể hiểu: chi đầu tư phát triển là quá trình phân phối và sử dụng một
phần vốn tiền tệ từ quỹ công để đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội, phát
triển sản xuất và dự trữ vật tư hàng hóa của nhà nước, nhằm thực hiện các mục tiêu
nhằm ổn định kinh tế vĩ mô, thúc đẩy kinh tế tăng trưởng và phát triển xã hội.
 Quản lý chi đầu tư xây dựng cơ bản :
Cấp phát vốn thanh toán đầu tư xây dựng cơ bản của quỹ công nhằm để trang trải
các chi phí đầu tư và xây dựng các công trình thuộc các dự án đầu tư sử
dụng nguồn vốn từ quỹ công.
Nhà nước thực hiện quản lý chi phí đầu tư xây dựng các công trình thuộc dự án đầu
tư thông qua việc ban hành các chế độ chính sách, cỏc nguyên tắc và phương
pháp lập đơn giá, dự toán; các định mức kinh tế kỹ thuật; định mức chi phí tư vấn đầu
tư, xây dựng và xuất vốn đầu tư để xác định tổng mức vốn đầu tư dự án, tổng dự toán
và dự toán công trình.
 Quản lý chi đầu tư xây dựng cơ bản của quỹ công bao gồm các công việc sau:
- Điều chỉnh và lập kế hoạch vốn đầu tư xây dựng cơ bản của quỹ công.
- Cấp phát thanh toán vốn đầu tư đối với các công trình thuộc dự án đầu tư sử dụng
nguồn vốn quỹ công
- Quyết toán vốn đầu tư xây dựng cơ bản.
 Quản lý các khoản chi đầu tư phát triển khác của quỹ công:
Quản lý chi vốn cho các doanh nghiệp nhà nước:
Trong nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước, việc đầu tư thành lập các
Doanh nghiệp nhà nước và hỗ trợ tài chính từ quỹ công cho các Doanh nghiệp nhà
nước thuộc lĩnh vực, ngành nghề cần thiết nhằm thực hiện vai trò định hướng, điều tiết

nền kinh tế quốc dân của nhà nước.
Việc cấp vốn cho các doanh nghiệp nhà nước được thực hiện hàng năm. Hàng năm,
trong thời gian lập dự toán Ngân sách nhà nước, căn cứ vào quyết định thành lập doanh
nghiệp của cấp có thẩm quyền, kế hoạch sản xuất kinh doanh và kế hoạch chi tài chính
của doanh nghiệp, các Doanh nghiệp nhà nước lập nhu cầu bổ sung vốn từ quỹ công
gửi cơ quan quản lý cấp trên và cơ quan tài chính đồng cấp để tổng hợp đưa vào dự
toán Ngân sách nhà nước. Căn cứ vào nguồn vốn bổ sung cho các Doanh
nghiệp nhà nước bố trí trong dự toán Ngân sách nhà nước được Quốc hội thông qua và
hướng dẫn của Bộ tài chính, cơ quan tài chính các cấp có trách nhiệm thẩm định hồ sơ
8
Nhóm 5 GVHD: Ts Phan Thị Quốc Hương
đề nghị cấp vốn bổ sung của các doanh nghiệp và trình cấp có thẩm quyền quyết định
mức cấp vốn bổ sung cho các doanh nghiệp.
Quản lý chi trợ cấp tài chính và trợ giá đối với doanh nghiệp:
Đối tượng được chi trợ cấp tài chính, trợ giá sản phẩm từ Ngân sách nhà nước là
các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế khi tham gia thực hiện các nhiệm vụ
hoạt động công ích, an ninh, phòng chống thiên tai hoặc cung cấp sản phẩm dịch vụ
theo chính sách giá của nhà nước.
Hàng năm, căn cứ vào quy định và hướng dẫn của bộ tài chính, nhiệm vụ sản xuất
sản phẩm và cung ứng dịch vụ của nhà nước giao; các doanh nghiệp xây dựng kế
hoạch thu chi tài chính, trong đó có kế hoạch trợ cấp tài chính, trợ giá sản phẩm báo
cáo cơ quan quyết định thành lập doanh nghiệp và cơ quan tài chính đồng cấp. Căn cứ
vào dự toán thu chi hàng năm được duyệt, cơ quan quyết định thành lập doanh nghiệp
có trách nhiệm thẩm tra và trình cơ quan cấp có thẩm quyền xem xét quyết định mức
trợ cấp tài chính, trợ giá sản phẩm đối với từng doanh nghiệp.
Căn cứ vào kế hoạch trợ cấp tài chính, trợ giá sản phẩm hàng năm đã được phê
duyệt, cơ quan tài chính tạm cấp cho doanh nghiệp 70% số trợ cấp, trợ giá theo tiến độ
thực hiện kế hoạch. Kết thúc toàn bộ công việc hoặc kết thúc năm tài chính, doanh
nghiờp có trách nhiệm báo cáo kết quả thực hiện nhiệm vụ được nhà nước trợ cấp, trợ
giá với cơ quan giao kế hoạch hoặc đặt hàng và cơ quan tài chính cùng cấp. Cơ quan

giao kế hoạch hoặc đặt hàng và cơ quan tài chính có trách nhiệm kiểm tra đánh giá kết
quả thực hiện về số lượng, hiệu quả kinh tế xã hội của sản phẩm dịch vụ được trợ cấp,
trợ giá.
3.2.2. Quản lý chi thường xuyên :
Xét theo lĩnh vực chi thì chi thường xuyên bao gồm: chi cho các hoạt động sự
nghiệp thuộc lĩnh vực văn hóa xã hội, chi cho các hoạt động sự nghiệp kinh tế của nhà
nước, chi cho hoạt động quản lý của nhà nước, chi cho các tổ chức chính trị, tổ chức
chính trị xã hội, và các tổ chức khác được cấp kinh phí từ nguồn quỹ công, chi cho
quốc phòng an ninh và trật tự an toàn xã hội và các khoản chi khác.
Chi thường xuyên của Ngân sách nhà nước là một khoản chi tương đối lớn, để đảm
bảo chi đúng và hiệu quả, nhà nước cần phải tổ chức quản lý chi thường xuyên một
cách phù hợp nhất. Quản lý chi thường xuyên luôn trải qua các trình tự sau:
- Lập dự toán chi thường xuyên.
- Chấp hành dự toán chi thường xuyên.
- Quyết toán và kiểm toán các khoản chi thường xuyên của Ngân sách nhà nước.
.3.3. Các mô hình quản lý chi tiêu công:
Trải qua nhiều thập kỷ, chính phủ của các nền kinh tế thị trường đã có nhiều nỗ lực
trong việc quản lý chi tiêu công để thực hiện tốt việc phân phối và sử dụng các nguồn
lực tài chính công, qua đó nhằm thực hiện tốt vai trò quản lý kinh tế xã hội của mình.
Cho đến nay, nền kinh tế thế giới đã trải qua các mô hình quản lý chi tiêu công:
.3.3.1. Lập ngân sách theo danh mục:
9
Nhóm 5 GVHD: Ts Phan Thị Quốc Hương
Vào trước cuối thế kỷ 19, lập ngân sách ở hầu hết các quốc gia được biểu thị bằng
năng lực điều hành yếu kém, ít sự kiểm soát của trung ương và những cách thức là
thuộc về phong cách riêng. Lập ngân sách danh mục theo truyền thống là một sự cải
cách được quan tâm về kiểm soát chi tiêu, sử dụng hiệu quả nguồn lực và xóa bỏ sự
tham nhũng đang gia tăng đáng kể. Vì lý do này, những người cải cách ngân sách vào
cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20 đã ủng hộ hệ thống lập ngân sách theo danh mục nhằm
đẩy mạnh tính trách nhiệm qua việc sử dụng chi tiết các nguồn lực.

Tập trung quan trọng nhất của hệ thống ngân sách là chi tiết hóa chi tiêu ngân sách
trong quá trình phân phối với những giới hạn nhất định để đảm bảo các cơ quan nhà
nước không thể chi tiêu vượt quá nguồn lực được phân phối. Tuy vậy cách quản lý này
có nhược điểm:
- Chỉ nhấn mạnh tới khâu lập ngân sách với những chi tiêu có tính tuân thủ
được đưa ra bởi chính phủ.
- Sự phân phối không trả lời được câu hỏi tại sao tiền phải chi tiêu.
- Ngân sách chỉ được lập trong ngắn hạn.
- Không chú trọng đúng mức đến tính hiệu quả phân bổ nguồn lực và hiệu quả hoạt
động trong cung ứng hàng hóa công.
3.3.2. Lập ngân sách theo công việc thực hiện:
Điểm chính yếu của lập ngân sách theo công việc thực hiện là tiến hành phân bổ
nguồn lực phân bổ của nhà nước gắn liền với những hoạt động của từng đơn vị, cơ
quan nhà nước và đo lường khối lượng công việc trong sự so sánh với chi phí. Quản lý
ngân sách theo công việc thực hiện đã thực hiện một sự chuyển đổi việc lập ngõn sách
chủ yếu dựa vào kiểm soát chi tiêu đầu vào theo khối lượng công việc. Do vậy trong
quản lý ngân sách, nhà nước thường sử dụng phương pháp phân tích lợi ích - chi phí để
đánh giá việc phân phối và sử dụng nguồn lực tài chính công.
Nhược điểm của phương thức quản lý này:
- Một trong những điểm mạnh của ngân sách theo công việc là gắn kết những cái gì
được tạo ra với những nguồn lực đòi hỏi trong chu kỳ ngân sách hàng năm.
Nhưng đây cũng là điểm yếu cơ bản của nó ngân sách chỉ lập ngắn hạn, không gắn với
chính sách phát triển kinh tế dài hạn.
- Lập ngân sách theo công việc thực hiện được thiết kế hướng vào các mục
tiêu, trong khi nguồn lực còn giới hạn nên không quan tâm đúng mức đến tính hiệu
quả, hiệu lực của chi ngân sách.
3.3.3. Lập ngân sách theo chương trình (ngân sách theo đầu ra):
Từ những năm 1960, những cải cách trong lĩnh vực trong lĩnh vực cụng đó bắt đầu
tập trung vào kế hoạch hóa cho việc sử dụng những nguồn lực công: phương thức này
cho phép liên kết một cách có hệ thống lập ngân sách theo chương trình và lõp kế

hoạch.
10
Nhóm 5 GVHD: Ts Phan Thị Quốc Hương
Lập ngân sách theo chương trình hướng vào thiết lập một hệ thống phân bổ
nguồn lực nhằm tạo nên sự liên kết chi phí với kết quả của những chương trình công
cộng. Điểm mấu chốt đối với ngân sách chương trình là lựa chọn trong số các mục tiêu
chính sách cùng những giải pháp cần thiết để đạt được mục tiêu đú. Ngân sách chương
trình thiết lập cho những mục tiêu chương trình trải dài vượt quá 2 năm tài khóa. Thêm
vào đó lập ngân sách chương trình đòi hỏi phải có những giải pháp hiệu lực
để đo lường đầu ra và kết quả các khoản chi tiêu công.
PHẦN II: THỰC TRẠNG VỀ QUẢN LÝ CHI TIÊU CÔNG Ở VIỆT NAM
1. Tình hình thâm hụt ngân sách cho chi tiêu công ở Việt Nam:
1.1Ngân sách thâm hụt trầm trọng:
11
Nhóm 5 GVHD: Ts Phan Thị Quốc Hương
Các công trình dự án công chậm trễ gây thiệt hại, lãng phí hàng trăm tỷ đồng.
Theo nhận định của Tiến sĩ Phạm Thế Anh - Phó Viện trưởng phụ trách Viện Chính
sách Công và Quản lý (Đại học Kinh tế Quốc dân), với bức tranh tài khóa tổng thể hiện
nay, Việt Nam hiện chưa cân đối được thu chi ngân sách. Thâm hụt ngân sách diễn ra
liên tục trong khoảng hơn một thập kỷ qua với mức độ kể từ năm 2008 cao hơn so với
những năm trước đó khi Việt Nam theo đuổi các chính sách mở rộng tài khóa nhằm
tránh suy giảm kinh tế.
Cụ thể, thâm hụt ngân sách không bao gồm chi trả nợ gốc của Việt Nam trung bình
trong giai đoạn 2003-2007 chỉ là 1,3% GDP, nhưng con số này đã tăng gần gấp đôi lên
2,4% GDP theo thống kê của Bộ Tài chính và tăng gần gấp ba lần lên 3,8% GDP theo
thống kê của IMF trong giai đoạn 2008-2012.
Nửa đầu 2013, mặc dù nguồn thu ngân sách từ dầu thô tăng đáng kể nhờ sự lên giá
của giá dầu trên thế giới, nhưng do hoạt động kinh tế trong nước tăng chậm đã khiến
tình trạng thâm hụt ngân sách của Việt Nam trở nên trầm trọng hơn, lên tới 6,1% GDP
bao gồm chi trả nợ gốc và 4,1% GDP chưa bao gồm chi trả nợ gốc.

Ông Thế Anh cũng cho biết, tổng thu/GDP của Việt Nam trong hai năm gần đây liên
tục giảm, theo thống kê của IMF, đã giảm từ 28,6% trung bình trong giai đoạn 2006-
2010 xuống còn 27,7% trong năm 2011 và 25,5% trong năm 2012. Tuy nhiên, cần phải
lưu ý rằng, sự giảm thu này là do suy thoái kinh tế chứ không phải do chủ định thay đổi
định hướng tài khóa của Chính phủ.
Ông chỉ ra rằng, trong cơ cấu nguồn thu NSNN của Việt Nam có nhiều khoản thu
không bền vững theo nghĩa chúng phụ thuộc vào bên ngoài hoặc có nguy cơ cạn kiệt
dần theo thời gian.
Cụ thể, thu từ viện trợ không hoàn lại đã giảm 0,61% GDP trung bình trong giai
đoạn 2006-2010 xuống còn 0,31% GDP trung bình kể từ năm 2011 đến hết tháng
6/2013. Bên cạnh đó, thu từ bán nhà thuộc sở hữu nhà nước và chuyển quyền sử dụng
12
Nhóm 5 GVHD: Ts Phan Thị Quốc Hương
đất cũng có xu hướng ngày càng giảm dần, từ 2,35% GDP xuống chỉ còn 1,53% GDP
trong cùng giai đoạn trên khi các tài sản loại này thuộc sở hữu nhà nước đang dần cạn.
Tương tự, thu từ khai thác dầu thô và các tài nguyên khác cũng có bản chất giống các
khoản thu từ việc bán các tài sản quốc gia. "Việc đưa những khoản thu này vào tính
toán cán cân ngân sách có thể làm giảm mức độ nghiêm trọng của thực trạng bội chi từ
những con số báo cáo, nhưng không che giấu được những rủi ro tiềm ẩn đối với an toàn
ngân sách khi nguồn tài nguyên thiên nhiên này là hữu hạn và phụ thuộc quá nhiều vào
giá cả thể giới", TS Phạm Thế Anh nhận định.
Nếu loại trừ các khoản thu có tính chất này, thâm hụt ngân sách không gồm chi trả
nợ gốc của Việt Nam sẽ là 9,1% GDP trong giai đoạn 2006-2010 và 8,3% GDP trong
giai đoạn từ 2011 đến tháng 6/2013.
Rõ ràng, tình trạng bội chi ngân sách là nghiêm trọng ngay cả khi Việt Nam hiện
đang có tỉ lệ thu/GDP cao hơn so với các nước khác trong khu vực (cao hơn 1,2 lần
Trung Quốc và Thái Lan; 1,5 lần của Ấn Độ, Indonesia, Philippines và 1,7 lần của
Campuchia).
1.2Thâm hụt ngân sách vì chi quá nhiều
Lý giải về nguyên nhân của tình trạng thâm hụt cao kéo dài trong nhiều năm qua,

Tiến sĩ đánh giá, đó là do tổng chi NSNN quá cao chứ không phải do tổng thu thấp.
Dẫn thống kê của IMF, ông cho biết, tổng chi Chính phủ của Việt Nam ổn định ở
mức xấp xỉ 3,1% GDP kể từ năm 2006 đến nay, cao gấp 1,4 lần của Trung Quốc và
Thái Lan, 1,6 lần của Indonesia và Philippines và 1,8 lần Campuchia.
Ngoài ra, Việt Nam hiện có những cách hạch toán chưa theo thông lệ quốc tế: Nhiều
khoản chi ngân sách từ nguồn trái phiếu Chính phủ cho các dự án giáo dục, thủy lợi, y
tế được để ngoại bảng, không tính vào chi tiêu NSNN.
Vị chuyên gia cho rằng, sự thiếu nhất quán trong cách hạch toán tài khóa khiến cho
các con số thống kê không phản ánh chính xác về thực trạng chi tiêu NSNN của Việt
Nam, gây khó khăn cho việc kiểm chứng thông tin cho những người tham gia thị
trường. Đồng thời cũng khiến cho việc so sánh quốc tế, đánh giá và quản lý tài khóa và
rủi ro nợ công của Việt Nam gặp khó khăn.
Có một vấn đề đáng lo ngại là trong cơ cấu nguồn chi, trong khi chi cho đầu tư phát
triển có xu hướng giảm từ 9,3% GDP trung bình trong giai đoạn 2006-2010 xuống còn
6,7% GDP trong giai đoạn 2011-6/2013 thi chi thường xuyên lại có xu hướng gia tăng
từ 19,7% GDP lên tới 21,4% trong cùng giai đoạn này. Qua đó cho thấy, các nỗ lực cắt
giảm chi tiêu công chủ yếu lại nằm vào phần chi cho đầu tư phát triển trong khi nhẽ ra
phần phải cắt giảm mạnh là chi thường xuyên lại tăng.Tiền tệ thắt chặt nhưng tài khóa
vẫn nới tay.
Năm 2011, dù chính sách tài khóa, tiền tệ thắt chặt nhưng theo báo cáo của Chính
phủ, tăng thu nội địa đạt khoảng 20%, song chi cũng vượt dự toán 9,7% (70.400 tỷ
đồng), chi cho đầu tư phát triển vượt 15% (23.000 tỷ đồng).
13
Nhóm 5 GVHD: Ts Phan Thị Quốc Hương
Theo ĐB Trần Du Lịch (TPHCM), năm 2011 là năm thực hiện Kết luận 02 của Bộ
Chính trị và Nghị quyết 11 của Chính phủ về kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô
trong đó chính sách tiền tệ, tài khóa được điều hành theo hướng chặt chẽ, thận trọng,
giảm 10% chi tiêu, cắt giảm đầu tư công. Thế nhưng, theo báo cáo của Chính phủ, ngân
sách năm 2011 vẫn vượt dự toán 15%. GDP giảm mà ngân sách vẫn tăng là không hợp
lý. Điều này cho thấy biểu hiện của việc chưa thực hiện đúng tinh thần của Nghị quyết

11.
Khi thực hiện Nghị quyết 11, sẽ tiến hành đồng bộ 2 giải pháp là chính sách tiền tệ
chặt chẽ, thận trọng và ngân sách thắt chặt. Hai biện pháp này có mục đích giảm tổng
cầu nhưng dường như các biện pháp tiền tệ được triển khai mạnh đã làm cho nền kinh
tế khát vốn. Dư nợ tín dụng cả năm tăng khoảng 12% so với mục tiêu ban đầu là dưới
20%; tổng phương tiện dự kiến 15-16% thì cả năm khoảng 12,5% trong khi chi tiêu
công vẫn tăng mạnh và thực tế là không làm được. “Có phải do cơ chế của chúng ta cho
phép vượt thu thì được chi?” - ĐB Trần Du Lịch băn khoăn.
Bên cạnh đó, theo ĐB Trần Ngọc Vinh (Hải Phòng), Chính phủ cần rút kinh nghiệm
nhiều chỉ tiêu an sinh xã hội không đạt trong năm 2011. Năm 2012 tăng lương nhưng
mức tăng đó có bảo đảm trượt giá hay không, Chính phủ cần tính toán kỹ để bảo đảm
đời sống của người ăn lương, chứ tăng lương mà không kịp tăng giá thì không có tác
dụng.
ĐB Trần Hoàng Ngân (TPHCM) cho rằng không thông qua ngân sách năm 2012 vội
và Quốc hội tiến hành giám sát, thẩm định lại dự toán từ nay đến cuối năm để không
xảy ra việc có các khoản chi bất hợp lý. ĐB Nguyễn Hữu Quang (Thanh Hóa) đề nghị
Chính phủ phải tính toán sát dự toán thu - chi, làm sao để không vượt quá 5% như kinh
nghiệm của nhiều doanh nghiệp.
ĐB Nguyễn Thị Quyết Tâm, Chủ tịch HĐND TPHCM, cho rằng, trong phiên dự họp
với Ủy ban Tài chính - Ngân sách cũng đã đặt vấn đề Chính phủ giải trình, trong đó vấn
đề đầu tư công được thực hiện không nghiêm theo Kết luận 02 và Nghị quyết 11 bởi
năm 2011 khi chỉ có 40 công trình được bố trí vốn nhưng chốt lại năm 2011, con số này
lên tới trên 300 dự án. Các thành viên của ủy ban cũng đề cập trách nhiệm của Chính
phủ, các bộ, ngành địa phương cụ thể ra sao trong việc xét duyệt dự án đầu tư ngoài
danh mục.
Đồng tình với các quan điểm trên, nhiều ĐB cho rằng, với những số liệu trên rõ ràng,
chính sách tài khóa năm 2011 chưa được thực hiện một cách nghiêm túc và cần nâng
cao kỷ luật tài chính trong năm ngân sách 2012.
2.Thực trạng chi thường xuyên ngân sách nhà nước
2.1. Thực trạng chi ngân sách nhà nước

Theo báo cáo thẩm tra của Ủy ban Tài chính Ngân sách của Quốc hội (QH) về việc
thực hiện Luật thực hành tiết kiệm, chống lãng phí năm 2010 vừa gửi các
14
Nhóm 5 GVHD: Ts Phan Thị Quốc Hương
ĐBQH, nhiều Bộ, ngành, địa phương, công tác quản lý, sử dụng kinh phí chi thường
xuyên vẫn còn bộc lộ những tồn tại; phân bổ và giao dự toán vượt định mức, chi tiêu
vượt dự toán, sử dụng sai nguồn kinh phí, vượt tiêu chuẩn, chế độ quy định.
9 tháng đầu năm 2010, thông qua kiểm soát chi 236.661 tỉ đồng chi thường xuyên,
kho bạc Nhà nước (KBNN) đã phát hiện 25.883 khoản chi của hơn 10.136 lượt đơn vị
chưa chấp hành đúng trình tự, thủ tục; từ chối thanh toán trên 160 tỉ đồng chưa đủ điều
kiện chi theo quy định.
Kiểm toán Nhà nước cũng phát hiện, kiến nghị xử lý tài chính trên 14,7 nghìn tỉ
đồng; ngành tài chính, rồi thanh tra Chính phủ cũng phát hiện và xử lý vi phạm tài
chính hàng nghìn tỉ đồng…
Cũng theo báo cáo thẩm tra của Ủy ban Tài chính, tình trạng sử dụng số vượt thu,
nguồn dự phòng, chi tạm ứng, cho vay sai đối tượng, sai chế độ, chi vượt dự toán lớn,
vượt chế độ định mức, nhất là số chi chuyển nguồn ngân sách lớn, tiếp tục tăng và diễn
ra trong nhiều năm vẫn chậm được khắc phục, là sự lãng phí đối với ngân sách Nhà
nước.
Báo cáo thẩm tra cũng nhấn mạnh đến tình trạng lãng phí, thất thoát, tham nhũng
trong quản lý, sử dụng vốn đầu tư phát triển. “Tình trạng chấp hành chưa nghiêm các
quy định của pháp luật về đầu tư xây dựng cơ bản, chất lượng của nhà thầu, chất lượng
chuẩn bị đầu tư thấp, khảo sát lập thiết kế không đúng quy
định diễn ra ở nhiều bộ, ngành, địa phương, các dự án đầu tư phải điều chỉnh tổng
mức đầu tư lớn và điều chỉnh nhiều lần (hầu hết các công trình vốn trái phiếu chính phủ
(TPCP) đều phải điều chỉnh tổng mức đầu tư; tổng mức đầu tư từ nguồn vốn TPCP giai
đoạn 2003 - 2010 đã tăng so với ban đầu khoảng 31.000 tỉ đồng”.
Ngoài những yếu kém về quản lý tài sản ở các tập đoàn, tổng công ty Nhà nước như
đã đề cập ở các báo cáo liên quan trước đó, Ủy ban Tài chính Ngân sách cũng chỉ rõ
những bất cập, lãng phí, mặt trái trong việc tổ chức lễ hội và cho rằng “nhiều nơi chi

phí cho lễ hội đã gây tốn kém, lãng phí lớn cho cả xã hội và ngân sách Nhà nước,
nhưng hiệu quả đem lại không cao”.
Để chấn chỉnh tình trạng chi tiêu lãng phí, Ủy ban này kiến nghị tăng cường hoạt
động giám sát của Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của QH đối với việc chấp hành Luật
thực hành tiết kiệm, chống lãng phí. Đồng thời đề nghị Chính phủ cần kịp thời biểu
dương, khen thưởng các đơn vị, cá nhân làm tốt và phê bình, kỷ luật nghiêm đơn vị, cá
nhân sai phạm, gây thất thoát, lãng phí trong quản lý sử dụng tài sản, ngân sách Nhà
nước.
Nghị định số 192/2013/NĐ-CP: Xiết chặt kỷ cương chi tiêu công:
Chính phủ vừa ban hành Nghị định số 192/2013/NĐ-CP ngày 21/11/2013 quy định
việc xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý, sử dụng tài sản nhà nước; thực
hành tiết kiệm, chống lãng phí; dự trữ quốc gia; kho bạc nhà nước.
15
Nhóm 5 GVHD: Ts Phan Thị Quốc Hương
Phạt tiền tối đa đến 200 triệu đồng
Hai hình thức xử phạt chính được quy định tại Nghị định số 192/2013/NĐ-CP bao
gồm: cảnh cáo và phạt tiền. Mức phạt tiền tối đa trong lĩnh vực quản lý, sử dụng TSNN;
dự trữ quốc gia; kho bạc nhà nước là 50 triệu đồng đối với cá nhân và 100 triệu đồng
đối với tổ chức; trong lĩnh vực thực hành tiết kiệm, chống lãng phí là 100 triệu đồng đối
với cá nhân và 200 triệu đồng đối với tổ chức. Với quy định này, mức phạt tiền tối đa
đối với tổ chức đã tăng 2 lần so với các quy định trước đây.
Không được dùng tiền ngân sách để nộp phạt
Để phù hợp với quy định của pháp luật về ngân sách nhà nước và đảm bảo tính răn
đe, Nghị định số 192/2013/NĐ-CP quy định tổ chức, cá nhân bị xử phạt vi phạm hành
chính theo quy định tại Nghị định này không được sử dụng tiền NSNN hoặc tiền có
nguồn gốc từ NSNN để nộp phạt và khắc phục hậu quả do hành vi vi phạm của mình
gây ra. Trường hợp xử phạt tổ chức thì sau khi chấp hành quyết định xử phạt, tổ chức bị
xử phạt xác định cá nhân có lỗi gây ra vi phạm để xác định trách nhiệm pháp lý, bao
gồm cả việc nộp lại khoản tiền phạt và khắc phục hậu quả do hành vi vi phạm của mình
gây ra tương ứng với mức độ vi phạm của cá nhân đó.

Vi phạm tiêu chuẩn, định mức sử dụng TSNN đều bị xử phạt
Nghị định quy định sẽ phạt tiền đối với tổ chức có hành vi mua sắm tài sản, thuê tài
sản, bố trí, sử dụng TSNN vượt tiêu chuẩn, định mức theo các mức phạt sau: (i) từ 1 - 5
triệu đồng trong trường hợp tài sản có giá trị vượt dưới 50 triệu đồng/01 đơn vị tài sản;
(ii) từ 5 - 10 triệu đồng trong trường hợp tài sản có giá trị vượt từ 50 triệu đồng đến
dưới 100 triệu đồng/01 đơn vị tài sản; (iii) từ 10 triệu đồng đến 20 triệu đồng trong
trường hợp mua sắm tài sản có giá trị vượt từ 100 triệu đồng/01 đơn vị tài sản trở lên.
Ngoài ra, tổ chức vi phạm còn buộc phải nộp lại số tiền tương ứng với giá trị tài sản
mua sắm, thuê, bố trí, sử dụng vượt tiêu chuẩn, định mức.
Tự ý sử dụng tài sản nhà nước vào mục đích sản xuất, kinh doanh dịch vụ, cho thuê,
liên doanh, liên kết sẽ bị phạt đến 20 triệu đồng
Nghị định quy định tổ chức có hành vi sử dụng TSNN vào mục đích sản xuất, kinh
doanh dịch vụ, cho thuê, liên doanh, liên kết khi chưa có quyết định của cấp có thẩm
quyền sẽ bị phạt tiền theo các mức phạt là: (i) từ 1 - 5 triệu đồng trong trường hợp sử
dụng tài sản có giá trị dưới 100 triệu đồng; (ii) từ 5 - 10 triệu đồng trong trường hợp sử
dụng tài sản là xe ô tô; tài sản có giá trị từ 100 triệu đồng trở lên; (iii) từ 15 - 20 triệu
đồng trong trường hợp sử dụng tài sản là trụ sở làm việc, cơ sở hoạt động sự nghiệp.
Không những thế, tổ chức vi phạm còn buộc phải khôi phục lại tình trạng ban đầu của
tài sản đã bị thay đổi do hành vi vi phạm gây ra; trường hợp không khôi phục lại được
tình trạng ban đầu của tài sản thì phải trả lại bằng tiền hoặc tài sản có công năng sử
dụng tương đương với tài sản ban đầu; đồng thời buộc phải nộp lại số lợi bất hợp pháp
thu được do thực hiện hành vi này.
Đầu tư xây dựng các dự án sử dụng NSNN, tiền, TSNN gây lãng phí sẽ bị phạt tới
mức tối đa
16
Nhóm 5 GVHD: Ts Phan Thị Quốc Hương
Nghị định quy định phạt tiền từ 10 - 20 triệu đồng đối với hành vi gây lãng phí về
quản lý trong việc lập, thẩm định dự án đầu tư; từ 10 - 20 triệu đồng đối với hành vi gây
lãng phí về quản lý trong khảo sát, thiết kế xây dựng công trình; từ 20 - 30 triệu đồng
đối với hành vi gây lãng phí về quản lý trong lựa chọn nhà thầu, tổ chức tư vấn giám sát

thực hiện dự án đầu tư; từ 30 - 40 triệu đồng đối với hành vi gây lãng phí về quản lý
trong tổ chức lễ động thổ, lễ khởi công lễ khánh thành công trình xây dựng; từ 30 - 50
triệu đồng đối với hành vi gây lãng phí trong cấp phát, thanh toán và quyết toán vốn cho
dự án đầu tư; từ 70 - 100 triệu đồng đối với hành vi gây lãng phí trong thực hiện khảo
sát, thiết kế xây dựng công trình không đúng tiêu chuẩn, quy chuẩn xây dựng do cơ
quan nhà nước có thẩm quyền ban hành.
Các mức phạt tiền nêu trên là áp dụng với cá nhân vi phạm. Nếu tổ chức vi phạm thì
mức phạt sẽ gấp đôi.
Gây thiệt hại hàng dự trữ quốc gia đều bị xử phạt nghiêm
Nghị định quy định nhiều hành vi vi phạm trong lĩnh vực dự trữ quốc gia sẽ bị xử
phạt; đặc biệt đối với các hành vi gây thiệt hại đối với hàng dự trữ quốc gia hoặc cơ sở
vật chất - kỹ thuật sẽ bị xử phạt nghiêm, tương ứng với mức độ thiệt hại. Ví dụ, hành vi
không thực hiện hoặc thực hiện không đúng quy chuẩn kỹ thuật quốc gia hoặc yêu cầu
kỹ thuật bảo quản tạm thời về bảo quản hàng dự trữ quốc gia do cơ quan nhà nước có
thẩm quyền ban hành; không chấp hành đúng quy định về thời hạn bảo quản hàng dự
trữ quốc gia; bảo quản hàng dự trữ quốc gia không đúng địa điểm đã được cơ quan nhà
nước có thẩm quyền quy định sẽ bị phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 300 - 500 nghìn
đồng trong trường hợp không gây thiệt hại. Tuy nhiên, nếu gây ra thiệt hại thì mức phạt
tiền sẽ lập tức tăng lên với mức tối đa từ 40 - 50 triệu đồng (đối với cá nhân vi phạm)
và gấp đôi số đó nếu đối tượng vi phạm là tổ chức.
Xử phạt 13 nhóm hành vi liên quan đến kiểm soát chi NSNN qua KBNN
Lĩnh vực KBNN lần đầu tiên áp dụng chế tài xử phạt vi phạm hành chính, bao gồm
13 nhóm hành vi như: lập hồ sơ, chứng từ gửi KBNN để chi các khoản chi thường
xuyên của NSNN sai so với dự toán được cấp có thẩm quyền giao; lập hồ sơ, chứng từ
gửi KBNN để chi đầu tư xây dựng cơ bản, chi vốn sự nghiệp có tính chất đầu tư cho
các khối lượng công việc, hạng mục công trình, công trình không có trong dự toán hoặc
sai so với dự toán được cấp có thẩm quyền phê duyệt trong các trường hợp chỉ định
thầu hoặc tự thực hiện hoặc các công việc thực hiện không thông qua hợp đồng; lập hồ
sơ, chứng từ gửi KBNN để chi NSNN cho khối lượng công việc chưa thực hiện hoặc
thanh toán vượt giá trị hợp đồng; lập hồ sơ, chứng từ gửi KBNN để chi NSNN sai chế

độ, tiêu chuẩn, định mức chi do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định; lập hồ sơ,
chứng từ giả mạo gửi KBNN để thanh toán, chi trả các khoản chi thường xuyên hoặc
chi sự nghiệp có tính chất thường xuyên của NSNN và các khoản chi đầu tư xây dựng
cơ bản hoặc chi sự nghiệp có tính chất đầu tư của NSNN; lập hồ sơ, chứng từ đề nghị
KBNN chuyển tiền thanh toán không đúng tên hoặc tài khoản đơn vị thụ hưởng đã
17
Nhóm 5 GVHD: Ts Phan Thị Quốc Hương
được ghi trong hợp đồng hoặc phụ lục điều chỉnh hợp đồng giữa đơn vị dự toán hoặc
chủ đầu tư với nhà cung cấp hàng hoá, dịch vụ….
Với các quy định nêu trên, kỷ cương, kỷ luật trong chi tiêu ngân sách và sử dụng tài
sản công sẽ được tăng cường, góp phần thực hành tiết kiệm, chống lãng phí.
2.2.Thực hiện tiết kiệm 10% chi thường xuyên nhằm kiềm chế lạm phát, ổn
định kinh tế vĩ mô
2.2.1. Khuôn khổ pháp lý:
Một số giải pháp chủ yếu tập trung kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo
đảm an sinh xã hội trong năm 2011;
Căn cứ hướng dẫn thực hiện tiết kiệm 10% chi thường xuyên nhằm kiềm chế lạm
phát, ổn định kinh tế vĩ mô tại Công văn số 2665/BTC-NSNN ngày 28/2/2011 của Bộ
Tài chính, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (PTNT) hướng dẫn các Cơ quan
hành chính, đơn vị sự nghiệp thuộc Bộ (sau đây gọi tắt là các đơn vị) thực hiện tiết
kiệm thêm 10% chi thường xuyên năm 2011 (ngoài khoản tiết kiệm 10% chi thường
xuyên để tạo nguồn cải cách tiền lương đã giao đầu năm) như sau:
2.2.1.1 Đối tượng thực hiện tiết kiệm:
Các đơn vị được Bộ giao dự toán chi thường xuyên ngân sách nhà nước năm 2011
(bao gồm: kinh phí thường xuyên, không thường xuyên, tự chủ, không tự chủ và kinh
phí nghiên cứu khoa học) chủ động sắp xếp lại các nhiệm vụ chi để thực hiện tiết kiệm
thêm 10% chi thường xuyên của 9 tháng còn lại trong năm 2011 nhằm thực hiện mục
tiêu kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô theo chỉ đạo của Chính phủ.
2.2.1.2 Cách thức xác định số tiết kiệm thêm 10% chi thường xuyên năm 2011:
Để tạo sự chủ động cho các đơn vị, Bộ Nông nghiệp và PTNT hướng dẫn cách xác

định số tiết kiệm 10% chi thường xuyên của 9 tháng còn lại trong năm 2011 như sau:
Thực hiện Nghị quyết số 11/NQ-CP ngày 24/02/2011 của Chính phủ về
Số tiết kiệm thêm 10% chi thường xuyên =

A - (B + C + D + E)
x 9 x 0,1
12
Trong đó:
A: Là dự toán chi thường xuyên năm 2011 đã được cấp có thẩm quyền giao (không
bao gồm dự toán chi sự nghiệp của các chương trình mục tiêu quốc gia).
B: Là tổng số chi lương, phụ cấp, tiền công và các khoản chi khác cho con người
theo chế độ (học bổng học sinh, sinh viên; tiền ăn, tiền thưởng theo chế độ quy định,
tiền thuê chuyên gia; các khoản phụ cấp đặc thù của từng ngành kể cả bằng tiền hoặc
bằng hiện vật;…).
C: là số tiết kiệm 10% chi thường xuyên để tạo nguồn cải cách tiền lương đã được
cấp có thẩm quyền giao.
D: là các khoản bố trí trong dự toán chi thường xuyên để thu hồi kinh phí đã ứng trước.
18
Nhóm 5 GVHD: Ts Phan Thị Quốc Hương
E: là tổng số các khoản chi đặc thù khác không tính tiết kiệm, gồm:
- Kinh phí tài trợ báo, tạp chí, xuất bản, chi trợ giá
- Chi từ nguồn vốn ngoài nước;
- Kinh phí đào tạo, bồi dưỡng cán bộ công chức; kinh phí đào tạo lưu học sinh nước
ngoài ở Việt Nam và đào tạo lưu học sinh Việt Nam ở nước ngoài diện Hiệp định;
- Kinh phí mua sắm trang phục các ngành (Kiểm lâm, thanh tra).
- Kinh phí vốn đối ứng, kinh phí đóng niên liễm hoặc đóng góp cho các tổ chức hoặc
diễn đàn quốc tế, kinh phí nộp các loại thuế theo quy định;
- Kinh phí thực hiện các nhiệm vụ hợp tác khoa học kỹ thuật với một số nước theo
Hiệp định hoặc Nghị định thư;…;
- Kinh phí thực hiện các hợp đồng kinh tế, thoả thuận kinh tế có hiệu lực trước

31/3/2011;
- Kinh phí phòng chống, khắc phục hậu quả thiên tai dịch bệnh.
2.2.1.3 Quản lý số tiết kiệm:
Số tiết kiệm 10% chi thường xuyên của các đơn vị thực hiện theo hướng dẫn tại
công văn này được giữ lại, chưa được chi cho các nhiệm vụ khác. Đến Quý III năm
2011, căn cứ tình hình thực tế sẽ xem xét, xử lý số tiết kiệm này theo quyết định của
Thủ tướng Chính phủ và hướng dẫn của Bộ Tài chính.
2.2.1.4. Rà soát, sắp xếp, bố trí lại các nhiệm vụ chi thường xuyên trong phạm vi dự
toán còn lại (sau khi đã tiết kiệm thêm 10% chi thường xuyên):
Để đảm bảo hoàn thành các nhiệm vụ chuyên môn đã được giao đầu năm trong điều
kiện thực hiện tiết kiệm thêm 10% chi thường xuyên theo Nghị quyết của Chính phủ và
quy định hướng dẫn tại Công văn này, đề nghị các đơn vị thực hiện rà soát, sắp xếp, bố
trí lại nhiệm vụ chi thường xuyên đã được giao đầu năm, trong đó tập trung ngay vào
việc triển khai các công việc sau đây:
- Tạm dừng trang bị mới xe ô tô, mua sắm tài sản có giá trị lớn, điều hoà nhiệt độ,
thiết bị văn phòng
- Giảm tối đa số lượng, quy mô và kinh phí chi hội nghị, hội thảo, lễ hội, tổng kết, sơ
kết, đón nhận huân chương, danh hiệu thi đua, kỷ niệm ngày thành lập… và các đoàn
công tác trong và ngoài nước sử dụng kinh phí NSNN.
- Thực hiện tiết kiệm tối đa trong việc sử dụng điện, nước, điện thoại, văn phòng
phẩm, xăng dầu.
- Ngừng các khoản chi cho các nhiệm vụ khác chưa thực sự cấp bách, nội dung
không thiết thực.
2.2.1.5. Tổ chức thực hiện:
19
Nhóm 5 GVHD: Ts Phan Thị Quốc Hương
Thủ trưởng các đơn vị xác định số tiết kiệm thêm 10% chi thường xuyên theo hướng
dẫn nêu tại mục 2 và Biểu đính kèm của Công văn này gửi Bộ Nông nghiệp và PTNT
(Vụ Tài chính) trước ngày 10/3/2011 để tổng hợp, báo cáo Bộ Tài chính và Thủ tướng
Chính phủ.

Bộ Nông nghiệp và PTNT thông báo để các cơ quan, đơn vị biết và tổ chức thực
hiện. Trong quá trình thực hiện, nếu có vướng mắc đề nghị phản ánh về Bộ (Vụ Tài
chính) để kịp thời nghiên cứu, giải quyết./.
Văn bản mới ban hành của Bộ Tài chính (Thông tư 224/2009/TT-BTC) quy định tổ
chức thực hiện dự toán ngân sách nhà nước năm 2010.
Như vậy, năm 2010 tiếp tục là năm thứ 3 cả nước thực hiện việc tiết kiệm 10% chi
thường xuyên ngân sách nhà nước, tính từ thời điểm triển khai theo kiềm chế lạm phát.
Theo Báo cáo thẩm tra của Ủy ban Tài chính - Ngân sách tại phiên họp thứ 24 của
Ủy ban Thường vụ Quốc hội, các cơ quan, đơn vị đã thực hiện nghiêm túc việc tiết
kiệm 10% chi thường xuyên. Qua đó, dành thêm nguồn ngân sách để thực hiện chính
sách kích cầu và bảo đảm an sinh xã hội.
Ở nhiều địa phương, việc triệt để thực hành tiết kiệm đã góp nguồn kinh phí đáng kể
vào ngân sách, tiêu biểu như: tỉnh Thanh Hóa đã tiết kiệm được khoảng 62,2 tỷ đồng;
Thái Bình 33,3 tỷ; Hưng Yên 37,2 tỷ; Lai Châu 21,1 tỷ đồng …
Như vậy có thể thấy rằng, đối phó với khó khăn của nền kinh tế trong bối cảnh suy
thoái chung toàn cầu, chính sách thực hành tiết kiệm, chống lãng phí mà Đảng, Nhà
nước, Chính phủ đã đề ra, trong đó có việc tiết kiệm 10% chi thường xuyên ngân sách,
đã góp phần quan trọng vào việc thực hiện thành công nhiệm vụ kiềm chế lạm phát, duy
trì tăng trưởng, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội mà đất nước đã đạt được
trong năm qua.
Bởi thế, việc Bộ Tài chính tiếp tục giao chỉ tiêu tiết kiệm 10% chi phí thường xuyên
trong năm 2010 cho thấy nhiệm vụ thực hành tiết kiệm, chống lãng phí được xác định
là nhiệm vụ thường xuyên, lâu dài trong các cơ quan, tổ chức ở các cấp và trong nhân
dân, bên cạnh yêu cầu tiết kiệm phải gắn liền với các tiêu chí cụ thể, sát thực để bảo
đảm tính khả thi.
Dành 40% số thu để cải cách tiền lương
Cũng là một trong những nội dung quan trọng của Thông tư 224/2009/TT-BTC, Bộ
Tài chính đề nghị các Bộ, cơ quan Trung ương hướng dẫn các đơn vị trực thuộc dành
40% số thu được để lại theo chế độ năm 2010 (riêng ngành Y tế 35%, sau khi trừ chi
phí thuốc, máu, dịch truyền, hoá chất, vật tư thay thế, vật tư tiêu hao) để thực hiện chế

độ cải cách tiền lương trong năm 2010, đảm bảo mức lương tối thiểu 650.000
đồng/tháng.
Đối với các địa phương, Bộ Tài chính hướng dẫn sử dụng 50% tăng thu ngân sách
địa phương (không kể số tăng thu từ nguồn thu tiền sử dụng đất) thực hiện năm 2009 so
với dự toán năm 2009 được Thủ tướng Chính phủ giao. đồng thời thực hiện chuyển các
20
Nhóm 5 GVHD: Ts Phan Thị Quốc Hương
nguồn thực hiện cải cách tiền lương năm trước theo quy định chưa sử dụng hết (nếu có)
sang năm 2010 để tiếp tục thực hiện. Toàn bộ nguồn kinh phí này phải được hạch toán,
quản lý riêng để tạo nguồn tiếp tục thực hiện cải cách tiền lương, không sử dụng nguồn
kinh phí này cho các mục đích khác.
Với các biện pháp tạo nguồn như trên mà các Bộ, cơ quan Trung ương cũng như địa
phương vẫn không đủ nguồn thì ngân sách Trung ương sẽ hỗ trợ để đảm bảo nguồn
thực hiện.
Như vậy để đối mặt với những khó khăn, thách thức trong năm 2010, Bộ Tài chính
khuyến khích việc tiết kiệm chi ngân sách công và đảm bảo tăng thu nhập tối thiểu cho
người lao động.
Thủ tướng Chính phủ vừa ký Quyết định số 59/2010/QĐ-TTg ban hành định mức
phân bổ dự toán chi thường xuyên ngân sách nhà nước áp dụng cho năm ngân sách
2011, năm đầu của thời kỳ ổn định ngân sách mới.
Chi quản lý hành chính các Bộ, ngành tối đa 30 triệu đồng/biên chế/năm
Quyết định quy định cụ thể định mức phân bổ dự toán chi thường xuyên ngân sách
cho các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và các cơ quan khác ở Trung
ương bao gồm: Chi quản lý hành chính; chi sự nghiệp y tế; đào tạo và nghiên cứu khoa
học.
Theo đó, định mức phân bổ dự toán chi quản lý hành chính cho khối cơ quan hành
chính từ 19-30 triệu đồng/biên chế/năm (tùy thuộc vào số biên chế của cơ quan). Đối
với khối các cơ quan Tư pháp, Kiểm toán Nhà nước, Thanh tra Chính phủ, định mức
phân bổ năm 2011 là 30 triệu đồng/biên chế/năm.
Định mức phân bổ dự toán chi sự nghiệp y tế, đào tạo thực hiện theo quy định hiện

hành của Nhà nước về chế độ tự chủ, tự chịu trách nhiệm về tài chính đối với đơn vị sự
nghiệp công lập. Mức kinh phí ngân sách cấp chi thường xuyên hàng năm cho các đơn
vị này trên cơ sở yêu cầu các đơn vị phấn đấu nâng mức tự trang trải nhu cầu chi từ
nguồn thu phí và nguồn khác của mình để dành nguồn ưu tiên bố trí cho những đơn vị
hoạt động chủ yếu bằng nguồn ngân sách nhà nước.
Việc phân bổ dự toán chi nghiên cứu khoa học được thực hiện dựa trên các nhiệm vụ
chuyên môn về khoa học và công nghệ.
2.3 Phân bổ thêm cho các địa phương khó khăn:
Định mức phân bổ dự toán chi thường xuyên ngân sách cho các tỉnh, thành phố trực
thuộc Trung ương bao gồm chi cho sự nghiệp giáo dục; đào tạo và dạy nghề; y tế; quản
lý hành chính; văn hóa - thông tin; phát thanh truyền hình; thể dục thể thao; đảm bảo
xã hội; quốc phòng; an ninh, khoa học công nghệ; kinh tế; trợ giá, trợ cước; hoạt động
môi trường.
21
Nhóm 5 GVHD: Ts Phan Thị Quốc Hương
Trong đó, đối với chi sự nghiệp giáo dục, định mức phân bổ theo dân số trong độ
tuổi đến trường từ 1-18 tuổi như sau: định mức phân bổ vùng đô thị là 1.241.680
đồng/người dân/năm; vùng đồng bằng là 1.460.800 đồng/người dân/năm; miền núi -
vùng đồng bào dân tộc ở đồng bằng, vùng sâu là 1.986.880 đồng/người dân/năm; vùng
cao - hải đảo là 2.775.520 đồng/người dân/năm.
Định mức phân bổ chi sự nghiệp y tế theo tiêu chí dân số cũng được xác định theo
từng vùng. Cụ thể, vùng đô thị là 105.600 đồng/người dân/năm; vùng đồng bằng là
142.700 đồng/người dân/năm; miền núi - vùng đồng bào dân tộc ở đồng bằng, vùng sâu
là 186.940 đồng/người dân/năm và vùng cao - hải đảo là 261.140 đồng/người dân/năm.
Quyết định nêu rõ, đối với các tỉnh thuộc khu vực đồng bằng sông Cửu Long được
phân bổ thêm 7% số chi tính theo định mức dân số nêu trên.
Đối với các tỉnh có dân số dưới 500 nghìn dân thì được phân bổ thêm 12%;
những tỉnh có dân số từ 500-800 nghìn dân được phân bổ thêm 10% số chi tính
theo định mức dân số trên.
3.Thực trạng về chi tiêu cho đầu tư:

Vốn đầu tư thực hiện từ nguồn ngân sách Nhà nước tháng Mười Một ước tính đạt
20,7 nghìn tỷ đồng, bao gồm: Vốn Trung ương 3,6 nghìn tỷ đồng; vốn địa phương
17,1 nghìn tỷ đồng. Tính chung mười một tháng năm nay, vốn đầu tư thực hiện từ
nguồn ngân sách Nhà nước đạt 183,5 nghìn tỷ đồng, bằng 90,6% kế hoạch năm và
giảm 0,8% so với cùng kỳ năm 2012, gồm có:
- Vốn trung ương quản lý đạt 37,2 nghìn tỷ đồng, bằng 92,8% kế hoạch năm và
giảm 17,9% so với cùng kỳ năm trước, trong đó vốn đầu tư thực hiện của Bộ Giao
thông Vận tải là 6866 tỷ đồng, bằng 109,4% và giảm 2,7%; Bộ Nông nghiệp và Phát
triển Nông thôn 3965 tỷ đồng, bằng 90,6% và giảm 8,3%; Bộ Xây dựng 1187 tỷ đồng,
bằng 67,4% và giảm 27%; Bộ Y tế 690 tỷ đồng, bằng 80% và giảm 29,1%; Bộ Giáo
dục và Đào tạo 561 tỷ đồng, bằng 80,5% và giảm 32%; Bộ Văn hóa, Thể thao và Du
lịch 436 tỷ đồng, bằng 87,1% và giảm 21,8%; Bộ Công Thương 274 tỷ đồng, bằng
101% và giảm 32,7%.
- Vốn địa phương quản lý đạt 146,3 nghìn tỷ đồng, bằng 90% kế hoạch năm và tăng
4,8% so với cùng kỳ năm 2012. Vốn đầu tư thực hiện từ nguồn ngân sách Nhà nước
của một số tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương như sau: Hà Nội đạt 23,2 nghìn tỷ
đồng, bằng 84,4% kế hoạch năm và tăng 28,1% so với cùng kỳ năm 2012; thành phố
Hồ Chí Minh 15,1 nghìn tỷ đồng, bằng 88,3% và tăng 9,8%; Đà Nẵng 4,9 nghìn tỷ
đồng, bằng 64,9% và giảm 35,7%; Quảng Ninh 3,7 nghìn tỷ đồng, bằng 96% và tăng
5,7%; Vĩnh Phúc 3,5 nghìn tỷ đồng, bằng 118,2% và tăng 9,5%; Thanh Hóa 3,5 nghìn
tỷ đồng, bằng 111,4% và giảm 3,9%; Nghệ An 3,4 nghìn tỷ đồng, bằng 153,7% và
giảm 1,8%; Bình Dương 3,3 nghìn tỷ đồng, bằng 85,8% và tăng 12,1%; Bà Rịa - Vũng
Tàu 3,1 nghìn tỷ đồng, bằng 66,7% và tăng 7,3%; Đồng Nai 3,1 nghìn tỷ đồng, bằng
94,4 nghìn tỷ đồng và tăng 17,4%.
22
Nhóm 5 GVHD: Ts Phan Thị Quốc Hương
Đầu tư trực tiếp nước ngoài từ đầu năm đến 20/11/2013 thu hút 1175 dự án được
cấp phép mới với số vốn đăng ký đạt 13,8 tỷ USD, tăng 0,1% về số dự án và tăng
73,3% về số vốn so với cùng kỳ năm 2012. Đồng thời có 446 lượt dự án đã cấp phép
từ các năm trước được cấp vốn bổ sung trong năm với 7 tỷ USD. Như vậy tổng vốn

đăng ký của các dự án cấp mới và vốn cấp bổ sung đạt 20,8 tỷ USD, tăng 54,2% so
với cùng kỳ năm trước.
Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện mười một tháng năm nay ước tính đạt
10,6 tỷ USD, tăng 5,5% so với cùng kỳ năm 2012.
Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài mười một tháng năm nay tập trung chủ yếu vào
ngành công nghiệp chế biến, chế tạo với 16,1 tỷ USD, chiếm 77,2% tổng vốn đăng ký;
ngành sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí
đạt 2 tỷ USD, chiếm 9,8%; các ngành còn lại đạt 2,7 tỷ USD, chiếm 13%.
Trong mười một tháng, cả nước có 50 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có dự
án đầu tư trực tiếp nước ngoài được cấp phép mới, trong đó Thái Nguyên có số vốn
đăng ký lớn nhất với 3338,1 triệu USD, chiếm 24,2%
tổng vốn đăng ký cấp mới cả nước; tiếp đến là Bình Thuận 2029,6 triệu USD,
chiếm 14,7%; Hải Phòng 1841,6 triệu USD, chiếm 13,4%; Bình Định 1019,7 triệu
USD, chiếm 7,4%; thành phố Hồ Chí Minh 935,3 triệu USD, chiếm 6,8%; Bình
Dương 711,2 triệu USD, chiếm 5,2%; Hải Dương 615,3 triệu USD, chiếm 4,5%
Trong số 50 quốc gia và vùng lãnh thổ có dự án đầu tư được cấp phép mới vào Việt
Nam mười một tháng, Hàn Quốc là nhà đầu tư lớn nhất với 3655,4 triệu USD, chiếm
26,5% tổng vốn đăng ký cấp mới; tiếp đến là Xin-ga-po 3008,1 triệu USD, chiếm
21,8%; Trung Quốc 2255,3 triệu USD, chiếm 16,4%; Nhật Bản 1250,3 triệu USD,
chiếm 9,1%; Liên bang Nga 1021,6 triệu USD, chiếm 7,4%
4.Tình hình thu chi ngân sách năm 2013:
Theo số liệu Tổng cục thống kê vừa công bố, tính đến ngày 15/11/2013, tổng thu
ngân sách Nhà nước đạt 657,6 nghìn tỷ đồng, chi ngân sách là 803,1 tỷ đồng. Theo đó,
bội chi ngân sách tính đến 15/11/2013 là 145,5 nghìn tỷ đồng.
Trước đó, Tổng cục thống kê cũng công bố GDP tính theo giá hiện hành của 9 tháng
đầu năm 2013 là 2.420,9 nghìn tỷ. Còn theo dự báo của Quỹ tiền tệ quốc tế IMF thì
GDP 2013 của Việt Nam tính theo giá hiện hành có thể đạt 3.315,8 nghìn tỷ đồng.
Như vậy, tính đến ngày 15/11/2013, bội chi ngân sách bằng 6% GDP 9 tháng và mới
chỉ bằng 4,4% GDP ước tính của IMF.
23

Nhóm 5 GVHD: Ts Phan Thị Quốc Hương
Theo thống kê về Thuế Giá trị gia tăng (VAT) hàng tháng cho thấy chỉ còn 31%
doanh nghiệp kê khai thuế VAT. Như vậy, đến 70% doanh nghiệp hiện nay dù chưa chết
nhưng không phát sinh hoạt động, kê khai thuế VAT. "Điều này thể hiện tình hình doanh
nghiệp nộp thuế cho ngân sách đang rất khó khăn", ông Tuấn nhận định.
Kết quả thu nội địa cũng cho thấy rõ nguy cơ không thể đạt dự toán năm 2013 khi
chỉ đạt 65% dự toán. Ngoài ra, hơn một nửa khoản thu không đạt dự toán. 40 địa
phương (chủ yếu là các địa phương trọng điểm thu) đều không đạt tiến độ.
Với tổng số thu sau 9 tháng là gần 544.000 tỷ đồng, ngân sách đã chi khoảng
685.000 tỷ. Dù túi tiền quốc gia đang ngày eo hẹp nhưng Bộ Tài chính cho biết vẫn
đảm bảo nguồn chi lương trong năm 2013, 2014 và giữ nguyên mức lương tối thiểu.
Bối cảnh nền kinh tế trong và ngoài nước phải đối mặt với nhiều khó khăn đã tác
động không nhỏ đến hoạt động thu, chi ngân sách nhà nước (NSNN) nửa đầu năm
2013. Tuy nhiên, quyết tâm cao của ngành Tài chính cùng với nỗ lực triển khai nhiều
giải pháp đồng bộ là cơ sở để công tác tài chính - ngân sách thực hiện thắng lợi các
nhiệm vụ được giao…
Nỗ lực vượt qua khó khăn
Theo ước tính của Bộ Tài chính, bội chi NSNN 6 tháng đầu 2013 ước khoảng 57%
(tương đương 92.390 tỷ đồng) mức bội chi NSNN năm 2013 được Quốc hội thông qua.
So với cùng kỳ năm 2012, tổng thu ngân sách 6 tháng đầu năm 2013 đã tăng 4,5% so
với cùng kỳ năm 2012. Tốc độ tăng thu năm 2013 là thấp nếu so sánh 5 năm gần đây,
24
Nhóm 5 GVHD: Ts Phan Thị Quốc Hương
song nếu đặt trong bối cảnh khó khăn kinh tế thì đây là kết quả chấp nhận được (năm
2012 thu ngân sách 6 tháng giảm so với cùng kỳ trước). Qua hình 3 cho thấy, tốc độ
tăng thu NSNN so với cùng kỳ các năm tăng nhanh nhất là năm 2008.
Tuy nhiên, cần lưu ý là số thu danh nghĩa NSNN phụ thuộc khá nhiều vào lạm phát
nên lạm phát thấp cũng sẽ làm thu ngân sách thấp. Nên chú ý rằng lạm phát bình quân 6
tháng đầu năm 2013 so
với bình quân cùng kỳ năm trước chỉ là 6,73% trong khi con số này năm 2008 là

20,34%, năm 2011 là 16,03%.
Ước tính chỉ có 3/14 khoản thu, sắc thuế thu đạt tiến độ dự toán, nhưng là các khoản
thu nhỏ. Các khoản thu, sắc thuế còn lại đều thấp hơn yêu cầu tiến độ dự toán như thu
từ khu vực doanh nghiệp nhà nước (DNNN) đạt 39,4%, khu vực công thương ngoài
quốc doanh đạt 42,7%, thu từ khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 49,3% Số liệu từ
Bộ Tài chính cho thấy, chỉ có 21/63 tỉnh, thành phố có số thu nội địa đạt tiến độ dự toán
(trên 50%), chủ yếu là các địa phương có số thu nhỏ như Lào Cai, Thái Bình, Bến Tre
Các tỉnh, thành khác có số thu đạt dưới 50% là Hà Nội, Hải Phòng, TP. Hồ Chí Minh,
Đà Nẵng, Quảng Ninh So với mức thực hiện cùng kỳ 2012, 53/63 tỉnh, thành thu đạt
và vượt, tuy nhiên mức tăng không lớn và chủ yếu là các tại địa phương có số thu nhỏ.
Tổng thu NSNN 6 tháng đầu năm 2013 ước đạt 356.520 tỷ đồng, bằng 43,7% dự
toán năm, trong đó thu nội địa đạt 236.170 tỷ đồng, bằng 43,3% dự toán; thu từ dầu thô
55.430 tỷ đồng, bằng 56%; thu cân đối ngân sách từ hoạt động xuất, nhập khẩu là
61.920 tỷ đồng, bằng 37,2%. Trong thu nội địa, thu từ khu vực DNNN ước đạt 39,4%
dự toán năm; thu thuế công thương nghiệp và dịch vụ ngoài nhà nước đạt 42,7%; thu
thuế thu nhập cá nhân tăng 4,9%; thu thuế bảo vệ môi trường đạt 40%.
Tổng chi NSNN thực hiện 6 tháng đầu năm 2013 ước đạt 448.910 tỷ đồng, bằng
45,9% dự toán, tăng 7,5% so với cùng kỳ. Trong đó, Chi đầu tư phát triển ước đạt
25

×