Tải bản đầy đủ (.docx) (38 trang)

Phân tích nội dung của liên minh giai cấp, tầng lớp trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (286.41 KB, 38 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
KHOA LUẬT HÌNH SỰ

BỘ MƠN: CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC
PHÂN TÍCH NỘI DUNG CỦA LIÊN MINH GIAI CẤP, TẦNG LỚP TRONG
THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM.
Giảng viên: TS. Nguyễn Thanh Hải
Nhóm 2


DANH SÁCH SINH VIÊN



MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU
I.

Cơ cấu xã hội – giai cấp trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội......................................1
1.1. Khái niệm và vị trí của cơ cấu xã hội – giai cấp trong cơ cấu xã hội................................1
1.1.1.Khái niệm cơ cấu xã hội và cơ cấu xã hội – giai cấp.............................................................1
1.1.2.Vị trí của cơ cấu xã hội-giai cấp trong cơ cấu xã hội............................................................2
1.2. Sự biến đổi có tính quy luật của cơ cấu xã hội- giai cấp trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội......................................................................................................................................3
1.2.1.Cơ cấu xã hội giai cấp biến đổi gắn liền và bị quy định bởi cơ cấu kinh tế của thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội....................................................................................................................3
1.2.2. Cơ cấu xã hội-giai cấp biến đổi phức tạp, đa dạng, làm xuất hiện các tầng lớp xã hội
mới.....................................................................................................................................................4
1.2.3.Cơ cấu xã hội – giai cấp biến đổi trong mối quan hệ vừa đấu tranh, vừa liên minh, từng
bước xóa bỏ bất bình đẳng xã hội dần xích lại gần nhau...............................................................5


II.

Liên minh giai cấp, tầng lớp trong thời kỳ q độ lên chủ nghĩa xã hội..........................9
2.1.Góc độ chính trị........................................................................................................................9
2.2.Góc độ kinh tế.........................................................................................................................12

III.

Tầng lớp, giai cấp, tầng lớp trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.....15

3.1. Cơ cấu xã hội- giai cấp trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.............15
3.1.1. Sự biến đổi cơ cấu xã hội- giai cấp vừa đảm bảo tính qui luật phổ biến, vừa mang tính
đặc thù của xã hội Việt Nam...........................................................................................................15
3.1.2. Trong sự biến đổi của cơ cấu xã hội- giai cấp, vị trí, vai trò của các giai cấp, tầng lớp
xã hội ngày càng được khẳng định................................................................................................16
3.2. Liên minh giai cấp, tầng lớp trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. . .22
3.2.1. Nội dung của liên minh giai cấp, tầng lớp trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam.......................................................................................................................................22
3.2.2. Phương hướng cơ bản để xây dựng cơ cấu xã hội – giai cấp và tăng cường liên minh
giai cấp, tầng lớp trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.................................28
TÀI LIỆU THAM KHẢO


LỜI NĨI ĐẦU
Tập thể nhóm tác giả xin trình bày chủ đề Nội dung của liên minh giai cấp tầng lớp
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội Việt Nam. Đây là một nội dung rất hay
nhưng khá khó trong việc tiếp cận nên nhóm tác giả làm bài tiểu luận này nhằm
cung cấp nội dung một cách dễ hiểu nhất cho mọi người.
Lý do nhóm chọn chủ đề này phù hợp với bối cảnh trong nước đang trong thời kì
quá độ lên chủ nghĩa xã hội, đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa và bối cảnh

nước ngoài đang diễn biến phức tạp: “Cuộc cách mạng khoa học và cơng nghệ, kinh
tế tri thức và q trình tồn cầu hố diễn ra mạnh mẽ, tác động sâu sắc đến sự phát
triển của nhiều nước. Các mâu thuẫn cơ bản trên thế giới biểu hiện dưới những hình
thức và mức độ khác nhau vẫn tồn tại và phát triển. Hồ bình, độc lập dân tộc, dân
chủ, hợp tác và phát triển là xu thế lớn; nhưng đấu tranh dân tộc, đấu tranh giai cấp,
chiến tranh cục bộ, xung đột vũ trang, xung đột sắc tộc, tôn giáo, chạy đua vũ trang,
hoạt động can thiệp, lật đổ, khủng bố, tranh chấp lãnh thổ, biển, đảo, tài nguyên và
cạnh tranh quyết liệt về lợi ích kinh tế tiếp tục diễn ra phức tạp” ( trích Cương lĩnh
xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội). Với bối cảnh như thế
đã đặt ra cho đất nước ta nhiều cơ hội nhưng cũng đối mặt với nhiều thách thức về
những sự biến đổi trong cơ cấu xã hội, giai cấp, tầng lớp.
Vì thế việc tìm hiểu chủ đề này giúp chúng ta nắm được những kiến thức nền tảng
về cơ cấu xã hội-giai cấp, tầng lớp trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, giúp
chúng ta nhận diện sự biến đổi trong cơ cấu xã hội-giai cấp và nội dung liên minh
giai cấp, tầng lớp để từ đó giúp ta nhận thấy được tầm quan trọng, sự cần thiết góp
sức tăng cường xây dựng khối liên minh giai cấp, tầng lớp vững mạnh trong sự
nghiệp xây dựng đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.


I.

Cơ cấu xã hội – giai cấp trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
1.1.

Khái niệm và vị trí của cơ cấu xã hội – giai cấp trong cơ cấu xã hội

1.1.1.Khái niệm cơ cấu xã hội và cơ cấu xã hội – giai cấp

-


Cơ cấu xã hội là những cộng đồng người cùng toàn bộ những mối quan hệ xã hội do
sự tác động lẫn nhau của các cộng đồng ấy tạo nên.1
Cơ cấu xã hội có nhiều loại, như: cơ cấu xã hội – dân cư, cơ cấu xã hội – nghề
nghiệp, cơ cấu xã hội – giai cấp, cơ cấu xã hội – dân tộc, cơ cấu xã hội – tơn giáo,
v.v... Dưới góc độ chính trị - xã hội, mơn Chủ nghĩa xã hội khoa học tập trung
nghiên cứu cơ cấu xã hội – giai cấp vì đó là một trong những cơ sở để nghiên cứu
vấn đề liên minh giai cấp, tầng lớp trong một chế độ xã hội nhất định.
Cơ cấu xã hội – giai cấp là hệ thống các giai cấp, tầng lớp xã hội tồn tại khách quan
trong một chế độ xã hội nhất định, thông qua những mối quan hệ về sở hữu tư liệu
sản xuất, về tổ chức quản lý q trình sản xuất, về địa vị chính trị - xã hội...giữa các
giai cấp và tầng lớp đó.
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, cơ cấu xã hội – giai cấp là tổng thể các
giai cấp, tầng lớp, các nhóm xã hội có mối quan hệ hợp tác và gắn bó chặt chẽ với
nhau. Yếu tố quyết định mối quan hệ đó là họ cùng chung sức cải tạo xã hội cũ và
xây dựng xã hội mới trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Các giai cấp, tầng lớp
xã hội và các nhóm xã hội cơ bản trong cơ cấu xã hội – giai cấp của thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội bao gồm: giai cấp công nhân, giai cấp nông dân, tầng lớp trí
thức, tầng lớp doanh nhân, tầng lớp tiểu chủ, tầng lớp thanh niên, phụ nữ v.v... Mỗi
giai cấp, tầng lớp và các nhóm xã hội này có những vị trí và vai trị xác định song
dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản – đội tiên phong của giai cấp công nhân cùng
hợp lực, tạo sức mạnh tổng hợp để thực hiện những mục tiêu, nội dung, nhiệm vụ
của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, tiến tới xây dựng thành công chủ nghĩa xã
hội và chủ nghĩa cộng sản với tư cách là một hình thái kinh tế - xã hội mới thay thế
hình thái kinh tế - xã hội cũ đã lỗi thời.
Đặc điểm của cơ cấu xã hội-giai cấp
Cơ cấu xã hội-giai cấp là hệ thống các giai cấp, tầng lớp xã hội tồn tại khách quan
trong một hệ thống xã hội nhất định mà khơng phụ thuộc vào ý chí chủ quan của
con người.
Việc xác định cơ cấu xã hội-giai cấp thông qua những mối quan hệ về sở hữu tư liệu
sản xuất, về tổ chức quản lí q trình sản xuất, về địa vị chính trị-xã hội,… giữa các

giai cấp tầng lớp đó. Đặc biệt là mối quan hệ về sở hữu tư liệu sản suất. Cụ thể đối
với xã hội Tư sản thì giai cấp tư sản là người nắm giữa tư liệu cịn những người
khơng nắm giữ tư liệu sản xuất là giai cấp vô sản, đối với xã hội Xã hội chủ nghĩa
kế thừa từ xã hội Tư bản chủ nghĩa, giai cấp vô sản đấu tranh giành thắng lợi thay
thế tư sản nắm giữ tư liệu sản xuất trở thành lực lượng lãnh đạo xã hội mới.

1 Giáo trình Chủ nghĩa xã hội khoa học, NXB Hà Nội, 2019, tr.88.

1


1.1.2. Vị trí của cơ cấu xã hội-giai cấp trong cơ cấu xã hội

-

Trong hệ thống xã hội, mỗi loại hình cơ cấu xã hội đều có vị trí, vai trị xác định và
giữa chúng có mỗi quan hệ, phụ thuộc lẫn nhau. Song vị trí, vai trị của các loại cơ
cấu xã hội không ngang nhau, cơ cấu xã hội-giai cấp có vị trí quan trọng hàng đầu,
chi phối các loại hình cơ cấu xã hội khác. Điều này xuất phát từ một số nguyên
nhân như sau:
Cơ cấu xã hội-giai cấp liên quan đến các đảng phái chính trị và nhà nước, quyền sở
hữu tư liệu sản xuất , quản lý tổ chức lao động, vấn đề phân phối thu nhập…
Sự biến đổi cơ cấu xã hội-giai cấp tất yếu sẽ ảnh hưởng đến sự biến đổi của các cơ
cấu xã hội khác và tác động đến sự biến đổi của tồn bộ cơ cấu xã hội, ví dụ như:
nước ta đang trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội cơ cấu xã hội-giai cấp có sự
biến đổi, Giai cấp cơng nhân lên nắm chính quyền, làm chủ tư liệu sản xuất từ đó
ảnh hưởng đến cơ cấu xã hội-nghề nghiệp có sự thay đổi khi số lượng cơng nhân
đang có xu hướng tăng mạnh, số lượng nơng dân đang có xu hướng giảm và các
nhà tư bản từ một giai cấp nắm quyền tư liệu sản xuất dần trở thành các tư nhân,
doanh nghiệp,…(những tầng lớp xã hội mới).

Sự biến đổi cơ cấu xã hội-giai cấp tất yếu sẽ ảnh hưởng đến sự biến đổi của các cơ
cấu xã hội khác và tác động đến sự biến đổi của toàn bộ cơ cấu xã hội. Lê-nin đã
từng viết rằng: “Kết cấu xã hội và chính quyền có nhiều biến đổi, nếu khơng hiểu
những biến đổi này thì khơng thể tiến được một bước trong bất kỳ lĩnh vực hoạt
động nào.”, ví dụ như nước ta đang trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội cơ
cấu xã hội-giai cấp có sự biến đổi, Giai cấp cơng nhân lên nắm chính quyền, làm
chủ tư liệu sản xuất từ đó ảnh hưởng đến cơ cấu xã hội-nghề nghiệp có sự thay đổi
khi số lượng cơng nhân đang có xu hướng tăng mạnh, số lượng nơng dân đang có
xu hướng giảm và các nhà tư bản từ một giai cấp nắm quyền tư liệu sản xuất dần
trở thành các tư nhân, doanh nghiệp,…(những tầng lớp xã hội mới).
Mặc dù cơ cấu xã hội-giai cấp giữ vị trí quan trong song cũng khơng vì thế mà tuyệt
đối hóa nó, xem nhẹ các loại hình cơ cấu xã hội khác, từ đó có thể dẫn đến sự tùy
tiện, muốn xóa bỏ nhanh chóng các giai cấp, tầng lớp xã hội một cách đơn giản theo
ý muốn chủ quan.

1.2. Sự biến đổi có tính quy luật của cơ cấu xã hội- giai cấp trong thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội
Cơ cấu xã hội-giai cấp của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội thường xuyên có
những biến đổi mang tính quy luật sau đây:
1.2.1. Cơ cấu xã hội giai cấp biến đổi gắn liền và bị quy định bởi cơ cấu kinh tế
của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Theo lý luận chủ nghĩa Mác, vật chất quyết định ý thức, thì trong xã hội kinh tế
quyết định chính trị, tức là cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng. Như vậy,
2


cơ cấu xã hội giai cấp nó sẽ phụ thuộc vào cơ cấu kinh tế của xã hội. Nói cách khác,
cơ cấu kinh tế xã hội nó sẽ quyết định cơ cấu xã hội giai cấp.
Trong cơ cấu kinh tế của thời kỳ phong kiến, nó quyết định đến cơ cấu xã hội giai
cấp của thời kỳ phong kiến, đó là giai cấp địa chủ phong kiến là thống trị của giai

cấp nông dân và các tầng lớp bị trị khác.
Trong cơ cấu kinh tế của thời kỳ tư bản chủ nghĩa, giai cấp tư sản sẽ là giai cấp
thống trị bởi vì giai cấp tư sản là giai cấp nắm tư liệu sản xuất, giai cấp công nhân
và những thành phần khác là giai cấp bị trị.
Ở thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, cơ cấu xã hội giai cấp cũng tuân theo quy
luật trên. Tức là thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội thì cơ cấu hướng đến là sở hữu
công cộng, công hữu những tư liệu sản xuất chủ yếu, phục vụ thiết thực lợi ích của
giai cấp cơng nhân và nhân dân lao động do Đảng cộng sản lãnh đạo. Điều đó dẫn
đến cơ cấu xã hội giai cấp lúc này là giai cấp công nhân, lực lượng đông đảo và to
lớn trong xã hội sẽ là giai cấp lãnh đạo, giai cấp thống trị. Giai cấp cơng nhân, do có
lợi ích phù hợp với dân tộc, đất nước, cho nên sự lãnh đạo, thống trị của giai cấp
công nhân sẽ phù hợp với lợi ích chung, mục đích chung của tồn xã hội và do đó là
thống nhất, tập hợp liên minh đông đảo những cái giai cấp, tầng lớp khác vào cơng
việc chung đó là tổ chức và xây dựng xã hội mới xã hội cộng sản chủ nghĩa.
Ở nước ta, Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ IX đã khẳng định: “Trong thời kỳ q độ,
có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, giai cấp, tầng lớp xã hội khác
nhau, nhưng cơ cấu, tính chất, vị trí của các giai cấp trong xã hội ta đã thay đổi
nhiều cùng với những biến đổi về kinh tế, xã hội”.2
Quá trình biến đổi trong cơ cấu kinh tế dẫn đến những biến đổi trong cơ cấu xã hội
giai cấp, từ đó dẫn đến sự thay đổi các vị trí, vai trị của các giai cấp, tầng lớp, các
nhóm xã hội. Cụ thể là ở những nước bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
với xuất phát điểm thấp, cơ cấu kinh tế sẽ có những biến đổi đa dạng: từ một cơ cấu
kinh tế chủ yếu là nơng nghiệp và cơng nghiệp cịn ở trình độ sơ khai chuyển sang
cơ cấu kinh tế theo hướng tăng tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ, giảm tỷ trọng nơng
nghiệp; chuyển từ cơ cấu vùng lãnh thổ cịn chưa định hình sang hình thành các
vùng, các trung tâm kinh tế lớn; chuyển từ cơ cấu lực lượng sản xuất hiện đại nhưng
khơng cân đối, trình độ cơng nghệ nhìn chung cịn lạc hậu hoặc trung bình chuyển
sang phát triển lực lượng sản xuất với trình độ cơng nghệ cao, tiên tiến theo xu
hướng ứng dụng những thành quả của cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại,
của kinh tế tri thức, kinh tế số, cách mạng công nghiệp lần thứ tư…, từ đó hình

thành những cơ cấu kinh tế mới hiện đại hơn, với trình độ xã hội hóa cao và đồng
bộ hài hịa hơn giữa các vùng, các khu vực, giữa nông thôn và thành thị, đơ
thị...Q trình biến đổi trong cơ cấu kinh tế đó tất yếu dẫn đến những biến đổi trong
cơ cấu xã hội- giai cấp, cả trong cơ cấu tổng thể cũng như những biến đổi trong nội
bộ từng giai cấp, tầng lớp xã hội, nhóm xã hội. Từ đó, vị trí, vai trị của các giai cấp,
tầng lớp, các nhóm xã hội cũng thay đổi theo. Mặt khác, nền kinh tế thị trường phát
triển mạnh với tính cạnh tranh cao, cộng với xu thế hội nhập ngày càng sâu rộng
khiến cho giai cấp, tầng lớp xã hội cơ bản trong thời kỳ này trở nên năng động, có
khả năng thích ứng nhanh, chủ động sáng tạo trong lao động sản xuất để tạo ra

2 Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb. Chính trị quốc gia, H,
2001, tr.85.

3


những sản phẩm có giá trị, hiệu quả cao và chất lượng tốt đáp ứng của nhu cầu thị
trường trong bối cảnh mới.3
1.2.2. Cơ cấu xã hội-giai cấp biến đổi phức tạp, đa dạng, làm xuất hiện các tầng
lớp xã hội mới.
Chủ nghĩa Mác-Lênin chỉ ra rằng, hình thái kinh tế- xã hội cộng sản chủ nghĩa đã
được “thai nghén” từ trong lòng xã hội tư bản chủ nghĩam do vậy ở giai đoạn đầu
của nó vẫn cịn những “dấu vết của xã hội cũ” được phản ánh “về mọi phương diệnkinh tế,đạo đức, tinh thần”4. Song bên cạnh đó, cũng xuất hiện những yếu tố mới do
giai cấp công nhân và các giai cấp, tầng lớp khác trong xã hội bắt tay vào tổ chức
xây dựng, làm xuất hiện sự đan xen giữa yếu tố cũ và yếu tố mới. Đây là vấn đề
mang tính quy luật thể hiện rõ nét nhất trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Về mặt kinh tế, còn tồn tại kết cấu kinh tế nhiều thành phần. Chính sự phát triển của
nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần đưa đến sự biến đổi cơ cấu thành phần kinh
tế, cơ cấu ngành nghề, cơ cấu hành chính, kinh tế, xã hội. Điều đó đưa tới cơ cấu xã
hội- giai cấp đa dạng phức tạp với những giai cấp tầng lớp khác nhau. Sự biến đổi

đó đưa tới một cơ cấu xã hội mới, tác động trực tiếp đến cơ cấu kinh tế tạo cho nó
định hướng xã hội chủ nghĩa. Biểu hiện của sự biến đổi đó là:
-

-

Trong giai cấp nơng dân đã hình thành những nơng dân làm dịch vụ, mở xưởng cơ
khí, làm nghề phụ, bn bán nhỏ...; có nơng dân làm chủ trang trại, có nơng dân
làm th, có nơng dân sống và làm việc ở nơng thơn nhưng cũng đã ly nơng. Sự
chuyển dịch đó dẫn đến tính chất thuần nơng trong giai cấp nơng dân ngày một
thuyên giảm. Trong thời gian tới, thực hiện chủ trương chuyển mạnh cơ cấu lao
động ở nông thôn theo hướng giảm nhanh tỷ trọng lao động làm nông nghiệp, tăng
tỷ trọng lao động công nghiệp, dịch vụ, tạo điều kiện để nơng dân có việc làm trong
và ngồi khu vực nơng thơn, kể cả ở nước ngồi sẽ làm cho giai cấp nơng dân có sự
chuyển dịch mạnh về kết cấu và tính chất giai cấp.
Trong giai cấp cơng nhân nước ta hiện nay hình thành một nhóm xã hội có vị trí
kinh tế, xã hội và dễ nhận thấy vai trò của họ trong sản xuất, kinh doanh như: chủ
trang trại. Tên gọi chủ trang trại chỉ mới phản ánh vị trí, vị thế trong sản xuất của họ
- với tính cách là những ơng chủ sở hữu (sử dụng một số đất đai, ao hồ, ruộng vườn,
mở mạng sản xuất, th khốn nhân cơng, sản xuất ra nơng lâm, hải sản), chứ chưa
phản ánh vị trí, vị thế xã hội. Trên thực tế, họ chưa có sự “liên hệ bên trong” để hình
thành một tầng lớp xã hội, tuy nhiên cho thấy rõ hơn sự phân hóa, tính phức tạp
trong kết cấu của giai cấp nông dân.Trong quá trình đẩy mạnh cơng nghiệp hóa,
hiện đại hóa, mở cửa và hội nhập quốc tế, giai cấp công nhân Việt Nam đã có nhiều
chuyển dịch về ngành nghề, dẫn đến sự chuyển dịch về kết cấu trong nội bộ giai
cấp. Tính phức tạp trong giai cấp cơng nhân ngày càng tăng lên, công nhân làm thuê
đan xen với công nhân có cổ phần, thậm chí là chủ xưởng. Trong giai cấp công nhân
đã xuất hiện công nhân “cổ trắng” bên cạnh những công nhân “cổ xanh” truyền
thống. Điều này rất cần chúng ta phải tiếp tục nghiên cứu để có thể đưa ra những
quyết sách thích hợp.

3 Giáo trình Chủ nghĩa xã hội khoa học, NXB Hà Nội, 2019, tr.90.
4 C.Mác và Ph.Ăngghen, Tồn tập, Nxb Chính trị quốc gia, H.1995, tập 19, tr.33.

4


-

Tầng lớp trí thức ngày càng đơng đảo về mặt số lượng và cũng chứa đựng sự phức
tạp về kết cấu và sự biến động về tính chất của tầng lớp trong xã hội. Tầng lớp trí
thức Việt Nam là một tầng lớp hội đủ các thành phần xã hội: nông dân, công nhân,
tiểu thương, tiểu chủ với mọi lứa tuổi và dân tộc. Đây cũng là tầng lớp làm việc
trong tất cả các ngành nghề trong xã hội, họ gia nhập “không tự giác” vào các giai
cấp và tầng lớp xã hội khác. Có trí thức đã trở thành doanh nhân, có trí thức chỉ là
những người lao động bình thường trong các cơ sở sản xuất kinh doanh...5
1.2.3. Cơ cấu xã hội – giai cấp biến đổi trong mối quan hệ vừa đấu tranh, vừa liên
minh, từng bước xóa bỏ bất bình đẳng xã hội dần xích lại gần nhau
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội vẫn còn xuất hiện những mâu thuẫn, sự
đấu tranh giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, tàn dư của chế độ cũ liên tục
không ngừng chống phá địi hỏi cần phải chú ý và có những biện pháp để giải quyết
mâu thuẫn đấu tranh đó trong thời kỳ nhảy cảm mà được ví như “những cơn đau đẻ
kéo dài”.6
Bên cạnh nhưng mâu thuẫn đấu tranh thì các giai cấp trong xã hội cịn có mối quan
hệ liên minh gắn kết giữa giai cấp công nhân, nông dân, và tầng lớp tri thức. Sự liên
minh gắn kết này xuất phát từ việc giai cấp công nhân và nơng dân có những đặc
điểm giống nhau. Họ đều là giai cấp bị trị, bị bóc lột, có số lượng đông đảo trong xã
hội, đặc biệt giai cấp công nhân ở Việt Nam cịn có nguồn gốc xuất thân từ nơng
dân, cịn đối với tầng lớp trí thức họ là người nắm giữ tri thức tiếp cận nhanh với
luồng tư tưởng mới, nhạy bén với thời cuộc, và họ cũng bị bóc lột một cách gián
tiếp. Chính điều đó đã tạo cơ sở để hình thành một liên minh giai cấp giữa giai cấp

công nhân, giai cấp nông dân và tầng lớp tri thức … Mức độ liên minh, xích lại gần
nhau giữa các giai cấp, tầng lớp trong xã hội tùy thuộc vào điều kiện kinh tế - xã hội
của đất nước trong từng giai đoạn của thời kỳ quá độ. Ở giai đoạn đầu của thời kỳ
quá độ sự phân chia giai cấp thống trị và bị trị rất rõ ràng khi giai cấp tư sản nắm
giữ tư liệu sản xuất và tiến hành bóc lột giai cấp bị trị cụ thể giai cấp công nhân và
giai cấp nông dân và tầng lớp tri thức, cho đến khi giai cấp cơng nhân nhận thức
được vai trị và sứ mệnh lịch sử của tiến hành cách mạng cùng với giai cấp khác
giành chiến quyền và tiến lên chủ nghĩa xã hội và từ lúc đó mối quan hệ giữa giai
cấp công nhân giai cấp nông dân và tầng lớp tri thức ngày càng gắn bó, liên kết với
nhau.
Sự gắn kết này phù hợp với quy luật phổ biến. Trong một chế độ xã hội nhất định,
chính cuộc đấu tranh giai cấp của các giai cấp có lợi ích đối lập nhau đều đặt ra nhu
cầu tất yếu khách quan mỗi giai cấp đứng ở vị trí trung tâm đều phải tìm cách liên
minh với các giai cấp, tầng lớp xã hội khác có những lợi ích phù hợp với mình để
tập hợp lực lượng thực hiện những nhu cầu và lợi ích chung.
Tính đa dạng và tính độc lập tương đối của các giai cấp, tầng lớp sẽ diễn ra trong
việc hòa nhập, chuyển đổi bộ phận giữa các nhóm xã hội và có xu hướng tiến tới
từng bước xóa bỏ dần tình trạng bóc lột giai cấp trong xã hội, vươn tới những giá trị
cơng bằng bình đẳng. Số lượng giai cấp cơng nhân hiện nay có nhiều số lượng
tương đối khác biệt do tiêu chí, quy mơ và cách đánh giá của mỗi chủ thể nghiên
5 Bàn luận về giai tầng xã hội, cơ cấu xã hội - giai tầng xã hội, Tạp chí Thơng tin Khoa học xã hội, số
9/2007, tr.51-tr.53.
6 Theo C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr.47.

5


cứu. Năm 2012, Ngân hàng Thế giới (WB) cho biết, thế giới đã có 1.000 triệu cơng
nhân. Một nghiên cứu của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) năm 2014 khẳng định,
trên thế giới hiện có 1.540 triệu “cơng nhân làm công ăn lương” (salaried workers)

trong tổng số gần 3.300 triệu người lao động của thế giới hiện nay. Cũng theo ILO,
dự báo về số lượng nhóm này, năm 2018 sẽ là 1.702 triệu người 7. Cũng có một phân
tích khác đưa ra số liệu tương đương: “Khi C. Mác viết Tuyên ngôn của Đảng Cộng
sản, năm 1848, trên thế giới chỉ có khoảng 10 - 20 triệu cơng nhân, tương đương
chiếm 2% - 3% số dân toàn cầu và chỉ trong vài lĩnh vực có máy móc. Đến đầu thế
kỷ XX, tồn thế giới có 80 triệu cơng nhân. Năm 2013, lần đầu tiên trong lịch sử có
đa số cư dân tham gia vào lực lượng lao động và là người lao động ăn lương. Hiện
nay có khoảng 1,6 tỷ người lao động ăn lương, tăng thêm 600 triệu kể từ giữa
những năm 1990, hơn 1 tỷ trong số đó là cơng nhân” 8. Số liệu về số lượng cơng
nhân có thể khác nhau đơi chút, nhưng nhận thức chung là sự tăng lên mạnh mẽ của
lao động công nghiệp trên thế giới trong vài thập niên gần đây. Tỷ lệ lao động bằng
phương thức công nghiệp hiện nay chiếm trên 60% số lao động tồn cầu. Q trình
cơng nghiệp hóa, nhu cầu phát triển văn minh (tồn cầu hóa, đơ thị hóa, hiện đại
hóa cuộc sống...) là những nguyên nhân của hiện tượng này.
Cơ cấu nghề nghiệp của công nhân hiện nay vô cùng đa dạng và chưa ngừng lại ở
những nghề hiện có. Năm 1893, Ph.  Ăngghen quan niệm: “Khi tơi nói “cơng
nhân”, tơi có ý nói người lao động của tất cả mọi giai cấp. Người tiểu thương bị các
hãng buôn lớn lấn gạt, viên chức văn phịng, thợ thủ cơng, cơng nhân thành thị và
cơng nhân nông nghiệp bắt đầu cảm thấy ách áp bức của chế độ tư bản chủ nghĩa
hiện nay ở nước chúng tôi”.9
Như vậy, quan niệm “giai cấp công nhân” đã được lý luận mở rộng rất nhiều, khơng
chỉ có những người trực tiếp hoặc gián tiếp vận hành công cụ lao động có tính chất
cơng nghiệp nữa, mà cịn là tất cả những người lao động trong chế độ tư bản.
Cơ cấu công nhân theo lĩnh vực hoạt động. Giai cấp công nhân hiện nay lao động
trên ba lĩnh vực cơ bản là nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ. Mặc dù đang có sự
dịch chuyển lao động giữa các lĩnh vực nhưng xu hướng chung là nhóm lao động ở
lĩnh vực dịch vụ tăng mạnh, số lượng lao động trong lĩnh vực công nghiệp và nông
nghiệp giảm nhẹ. Số liệu của ILO về so sánh tỷ trọng lao động trong các ngành sản
xuất nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ trong những năm cuối thế kỉ XX, đầu thế
kỷ XXI cho thấy rõ điều đó.

Cơ cấu của giai cấp cơng nhân xét theo trình độ cơng nghệ hiện nay được nhìn nhận
là đa dạng và khơng đồng đều. Các nghiên cứu về trình độ cơng nghệ của cơng nhân
thường xét theo khả năng tiếp cận các cuộc cách mạng công nghiệp, cách tính tốn
thường là cơng nghiệp 2.0; 3.0 hoặc tiệm cận 4.0. Cũng có những đánh giá trình độ
cơng nghệ của cơng nhân theo đặc tính của kỹ thuật của từng ngành cơng nghiệp mà
họ đang hoạt động. Nhìn chung, công nghệ mà công nhân trên thế giới hiện đang sử
dụng là một “dải khá rộng” được mô tả bằng “cây phả hệ công nghệ đa tầng”, hàm
7 Website ILO, Báo cáo Xu hướng việc làm toàn cầu 2014: Bộ dữ liệu hỗ trợ: Việc làm theo ngành và giới
tính của tồn cầu, khu vực và từng nước. Hiện nay chưa có số liệu nào mới hơn và đáng tin cậy hơn.
8 Báo Công nhân xã hội chủ nghĩa (Socialist Worker) của Đảng Công nhân xã hội chủ nghĩa Anh, số ra ngày
11-8-2015.
9 C. Mác và Ph.Ăng-ghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t.22, tr. 809.

6


ý là ở nhiều trình độ, phát triển vốn theo quy luật không đều và sự phát triển của
giai cấp công nhân hiện nay cũng vẫn tuân theo quy luật đó.
Cơ cấu giai cấp cơng nhân dựa theo trình độ phát triển kinh tế thường được giới
nghiên cứu phân tích theo hai nhóm nước là nước phát triển và nước đang phát
triển. Trình độ phát triển kinh tế, trình độ công nghệ thường tỷ lệ thuận với năng
suất lao động đạt được. Cơng nhân của các nước phát triển có năng suất lao động
cao hơn so với các nước đang phát triển.
Cơ cấu giai cấp công nhân theo chế độ xã hội là cách tiếp cận theo chế độ chính trị.
Theo quan niệm của chủ nghĩa Mác, có mối quan hệ biện chứng giữa công nhân,
công nghiệp và chủ nghĩa xã hội (chế độ chính trị). Chế độ chính trị cũng có thể tác
động đến sự phát triển của cơng nhân và công nghiệp. Lịch sử cận đại, hiện đại xác
định điều đó. Thống kê về giai cấp cơng nhân các nước xã hội chủ nghĩa năm 2019
cho thấy: Việt Nam có khoảng 15 triệu; Lào có khoảng gần 0,8 triệu; Cu-ba có gần
3 triệu, Trung Quốc có khoảng 300 triệu cơng nhân và 270 triệu “nơng dân - cơng”

(nhóm xã hội tham gia 2 phương thức và 2 lĩnh vực lao động, có 2 nơi cư trú; là
trung giới của q trình chuyển biến từ nơng dân sang cơng nhân, nhưng chưa hoàn
toàn sống bằng thu nhập từ lao động cơng nghiệp).
Trình độ của giai cấp cơng nhân cịn được tính theo quan điểm của chủ nghĩa Mác Lênin là trình độ giác ngộ chính trị, ý thức về sứ mệnh lịch sử của mình. Cách tiếp
cận này khá phổ biến trong nhiều nghiên cứu của các nước phát triển theo định
hướng xã hội chủ nghĩa hiện nay. Nhận thức chung là, giác ngộ chính trị của cơng
nhân khơng đồng đều, có biểu hiện bất cập so với yêu cầu của sứ mệnh lịch sử mà
họ phải đảm trách. Điều đáng quan tâm là hiện tượng suy giảm tính tích cực chính
trị của một bộ phận cơng nhân trong cơ chế kinh tế thị trường hiện đại đang diễn ra
ở nhiều quốc gia. Có thể thấy sự đa dạng của các giai cấp, tầng lớp đặc biệt là giai
cấp công nhân với sự tăng lên không ngừng cả số lượng và chất lượng trên các mặt
kinh tế, chính trị, xã hội. Họ nhận thức được vai trị của mình và biết mình cần phải
làm gì, với sự đa dạng đó các giai cấp tầng lớp có thể dễ dàng liên kết với nhau hơn
và sự liên kết đó diễn ra trong hịa hợp từng bước có thể loại bỏ mâu thuẫn để tiến
lại gần nhau hơn.
C.Mác, Ph.Ăngghen và V.I.Lênin trong các tác phẩm kinh điển đã dành sự quan tâm
đặc biệt đến vấn đề dân tộc và độc lập dân tộc; chỉ rõ con đường đấu tranh để giải
phóng dân tộc. V.I.Lênin đã phát triển luận điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen "vơ sản
tồn thế giới liên hiệp lại" thành "vơ sản tồn thế giới và các dân tộc bị áp bức đoàn
kết lại", trở thành khẩu hiệu của phong trào đấu tranh giành độc lập dân tộc của các
nước bị áp bức trên toàn thế giới. Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là hai chặng
đường nối tiếp nhau của một tiến trình cách mạng. Trong đó, độc lập dân tộc là mục
tiêu của cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, thực hiện người cày có ruộng, hoàn
chỉnh chế độ dân chủ nhân dân. Đây là nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng dân tộc,
dân chủ, làm tiền đề để thực hiện các mục tiêu khác, như quyền lực chính trị, dân
chủ, vấn đề ruộng đất, bảo đảm đời sống vật chất và tinh thần, nâng cao trình độ dân
trí. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu rõ mối liên hệ biện chứng giữa đấu tranh giải
phóng dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Tư tưởng này là cơ sở quá độ từ cách
mạng dân tộc dân chủ nhân dân lên cách mạng xã hội chủ nghĩa. Chính cách mạng
xã hội chủ nghĩa đã kế thừa, khẳng định và bảo đảm vững chắc thành quả của cuộc

cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân. Sự phát triển này là quy luật tất yếu của lịch
sử. Sự nghiệp đổi mới đất nước do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo từ Đại hội đại
7


biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (1986) đã từng bước hồi sinh đất nước về mọi
mặt. Trước những bối cảnh mới của tình hình, Đảng ta ln xác định phải giương
cao ngọn cờ “Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội”. Công cuộc đổi mới theo định
hướng xã hội chủ nghĩa là một chủ trương chiến lược đúng đắn, phù hợp với quy
luật khách quan trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội; tạo điều kiện, tiền đề cho
chủ nghĩa xã hội. Trong quá trình thực hiện công cuộc đổi mới, Đảng ta vẫn kiên
định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trong mối liên hệ gắn kết biện
chứng. Học thuyết C.Mác, Ph.Ăngghen và V.I.Lênin về chủ nghĩa xã hội luôn đề
cao các giá trị của độc lập dân tộc, khẳng định chủ nghĩa xã hội là mục tiêu của độc
lập dân tộc.
Từ những điều nêu trên có thể thấy đây là một q trình lâu dài thơng qua những cải
biến cách mạng toàn diện của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đó là xu hướng
tất yếu và là biện chứng của sự vận động, phát triển cơ cấu xã hội – giai cấp trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.

II.

Liên minh giai cấp, tầng lớp trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
C.Mác và Ph.Ăngghen đã luận bàn đến liên minh giai cấp. Từ những cuộc đấu tranh
thất bại vì giai cấp cơng nhân đơn độc đấu tranh, điển hình là Cơng xã Paris, và đi
đến kết luận rằng những cuộc cách mạng sắp tới chỉ có thể thu được những thắng
lợi nếu giai cấp cơng nhân có được sự ủng hộ, liên minh của các giai cấp khác. Đó
là những nguyên tắc mang tính sống cịn, nếu khơng thì cách mạng của giai cấp vô
sản sẽ trở thành “bài đơn ca ai điếu”.10 Ở trong bài tiểu luận này, nhóm tác giả sẽ
phân tích liên minh giai cấp, tầng lớp trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội về

hai khía cạnh là chính trị và kinh tế.
2.1.

Góc độ chính trị

Trong một chế độ xã hội, các cuộc đấu tranh giai cấp giữa các giai cấp có lợi ích đối
lập nhau đặt ra nhu cầu tất yếu khách quan mỗi giai cấp đứng ở vị trí trung tâm phải
liên minh với các tầng lớp, giai cấp khác có lợi ích phù hợp với mình để tập hợp lực
lượng thực hiện những nhu cầu và lợi ích chung – đó là quy luật mang tính phổ biến
và là động lực to lớn cho sự phát triển của các xã hội có giai cấp. Dưới sự lãnh đạo
của Đảng Cộng sản, giai cấp công nhân trong cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa phải
liên minh với giai cấp nông dân và các tầng lớp nhân dân lao động khác để tạo sức
mạnh tổng hợp đảm bảo cho thắng lợi của cuộc cách mạng trong giai đoạn giành
chính quyền và giai đoạn xây dựng chế độ xã hội mới.
Sự cần thiết của liên minh cơng - nơng khơng chỉ từ phía giai cấp cơng nhân, mà
cịn từ phía giai cấp nơng dân. Bên cạnh mâu thuẫn giai cấp phổ biến giữa công
nhân với tư sản, giai cấp nông dân và các tầng lớp nhân dân lao động khác cũng
10 C. Mác và Ph Ăngghen, Tồn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H.1993, tập 8, tr.762.

8


khơng thể thốt khỏi ách áp bức bóc lột của giai cấp tư sản, khơng thể được giải
phóng một cách thực sự và triệt để nếu không liên minh với giai cấp công nhân,
không trở thành người bạn đồng minh của giai cấp công nhân. C.Mác khẳng định:
“Đứng trước giai cấp tư sản phản cách mạng đã liên minh lại thì dĩ nhiên là những
phần tử đã được cách mạng hóa của giai cấp tiểu tư sản và của nơng dân, phải liên
minh với người đại biểu chủ yếu cho những lợi ích cách mạng, tức là giai cấp vơ
sản cách mạng”. Vì “...người nơng dân thấy rằng giai cấp vơ sản thành thị, giai cấp
có sứ mệnh lật đổ chế độ tư sản là người bạn đồng minh, người lãnh đạo tự nhiên

của mình”11. Tuy vậy, để có thể liên minh được với giai cấp nông dân, cần phải thấy
rõ đặc điểm, vai trị của giai cấp nơng dân trong tiến trình cách mạng. Nơng dân
kinh tế gần như tự túc, văn hóa tư tưởng cịn rất hạn hẹp, khơng có lý tưởng chính
trị, những đặc điểm trên đã quy định vị trí, vai trị của giai cấp nơng dân trong xã
hội tư bản là tầng lớp trung gian. Tính tự phát tiểu tư sản cũng được nảy sinh trên cơ
sở tư hữu của người nông dân, do tập quán và điều kiện sản xuất. Mặc dù đã xoá bỏ
tư hữu ruộng đất, nhưng do nơng dân vẫn cịn chút quyền tư hữu về công cụ sản
xuất hay gia súc, vẫn tự do bn bán nên tính tự phát của họ vẫn tồn tại. Về thái độ
đối với nông dân và tư tưởng liên minh công - nông do giai cấp công nhân lãnh đạo,
trong tác phẩm “Những người bạn dân” là thế nào và họ đấu tranh chống những
người dân chủ - xã hội ra sao?”, V.I.Lênin cho rằng, do quan niệm không đúng, nên
Plêkhanốp đã đoạn tuyệt với nơng dân, V.I.Lênin đã luận chứng vai trị của nông
dân, đưa ra tư tưởng liên minh công - nông và yêu cầu cần phải ủng hộ yêu sách của
họ. Người chỉ rõ: Phải có thái độ đúng với nơng dân, tuyên truyền giác ngộ họ, cần
phải đoạn tuyệt với tư tưởng nông dân, nhưng không đoạn tuyệt với nông dân, mà
phải có sách lược với họ. Và cho rằng, những người dân chủ - xã hội có nhiệm vụ
thành lập một đảng cơng nhân mácxít và đề ra tư tưởng liên minh cách mạng giữa
giai cấp công nhân và nơng dân, coi đó là phương sách chủ yếu để lật đổ chế độ
Nga hoàng, bọn địa chủ và giai cấp tư sản Do đó nhiệm vụ chủ yếu của chính đảng
vơ sản là phải khơng ngừng giải thích cho nông dân thấy rằng, chừng nào chủ nghĩa
tư bản đang cịn nắm chính quyền thì tình cảnh của họ vẫn là tuyệt vọng mà thôi,
tuyệt đối chắc chắn là nền sản xuất tư bản chủ nghĩa quy mô lớn sẽ đè bẹp sản xuất
quy mô nhỏ, bất lực và lỗi thời của họ. Để liên minh, cần phải cho giai cấp nơng
dân biết giai cấp cơng nhân mới là có lợi ích chung phù hợp với mình.
Xét ở mọi phương diện đều có sự phát triển của tính tự phát tiểu tư sản, là thời kỳ
chứa đựng mâu thuẫn không thể dung hồ giữa tính kỷ luật của giai cấp vơ sản và
tính vơ kỷ luật, vơ chính phủ của tầng lớp tiểu tư sản. Lênin đã từng nói: “Và đằng
sau bọn tư bản bóc lột là quảng đại quần chúng tiểu tư sản, tầng lớp mà hàng chục
năm kinh nghiệm lịch sử ở tất cả các nước đã chứng tỏ rằng họ ngập ngừng và dao
động, hơm nay thì đi theo giải cấp vơ sản và ngày mai, vì sợ những khó khăn của

cách mạng và khi thấy cơng nhân hơi thất bại hoặc thất bại một nửa, thì đã sinh ra
hoảng sợ, hoang mang, cuống cuồng, khóc lóc, chạy hết phe này sang phe khác”.12
Vì vậy nhiệm vụ kêu gọi tầng lớp tiểu tư sản, trí thức vào liên minh cũng rất quan
trọng. Họ có trình độ nhận thức cao nhưng do mang lợi ích trung gian giữa tư sản
với vơ sản nên khó gắn bó với cách mạng. Cần phải cho tầng lớp tiểu tư sản thấy
rằng nếu để tư bản nắm quyền, thì tầng lớp tiểu tư sản với địa vị thấp sớm muộn gì
11 C.Mác và Ph. Ăng-ghen, Toàn tập, Sđd, t.8, tr. 269.
12 V.I Lênin: Sđd, t.37, tr. 320-tr.321.

9


cũng bị tư sản chèn ép, cần cho họ thấy giai cấp công nhân và nông dân là những
người đảm bảo được lợi ích cho họ.
Vận dụng sáng tạo quan điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen trong giai đoạn đế quốc
chủ nghĩa, V.I.Lênin khẳng định “Nếu không liên minh với nông dân thì khơng thể
có được chính quyền của giai cấp vơ sản, càng khơng thể nghĩ đến việc duy trì
chính quyền đó… Ngun tắc cao nhất của chun chính là duy trì khối liên minh
giữa giai cấp vơ sản và nơng dân để giai cấp vơ sản có thể giữ được và duy trì lãnh
đạo chính quyền nhà nước”.13 Thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga là một
điển hình về sự chuẩn bị lực lượng: tập hợp sức mạnh từ quần chúng nhân dân, xây
dựng lực lượng vũ trang, xây dựng kế hoạch khởi nghĩa vũ trang với những nguyên
tắc cơ bản như phải dựa vào quần chúng nhân dân mà nịng cốt là liên minh giai cấp
cơng nhân, nông dân và các tầng lớp nhân dân lao động khác.VI.Lênin đã khẳng
định: “Khơng có sự đồng tình ủng hộ của đại đa số nhân dân lao động đối với đội
tiền phong của mình tức là đối với giai cấp vơ sản, thì cách mạng vơ sản khơng thể
thực hiện được”14. Một nguyên tắc trong liên minh giai cấp, tầng lớp theo quan
điểm của V.I.Lênin đó là vấn đề thỏa hiệp cả với giai cấp tư sản. Trong tác phẩm
“Bệnh ấu trĩ “tả khuynh” trong phong trào cộng sản”, V.I.Lênin đã phê phán:
“Những người cộng sản Đức đã gạt bỏ việc tham gia nghị viện phản động tư sản và

việc tham gia các cơng đồn phản động”. V.I.Lênin cịn khẳng định: Đấu tranh cách
mạng có lúc phải thoả hiệp. Bởi vì, tiến hành cách mạng khơng phải hồn tồn
thuận lợi và dễ dàng, mà cịn có những lúc cách mạng gặp khó khăn. Trong những
hồn cảnh khó khăn phức tạp đòi hỏi người cách mạng phải biết lựa chiều, liên
minh, thoả hiệp để tránh tổn thất cho cách mạng. Cách mạng khơng phải chỉ biết có
tiến cơng, khoa học tiến công phải được bổ sung bằng khoa học rút lui khi cần thiết,
rút lui là để chuẩn bị tiến công những thắng lợi lớn hơn. Vì vậy, V.I.Lênin địi hỏi
những người cộng sản có nhiệm vụ phải tìm kiếm và tìm ra một hình thức thoả hiệp
thích đáng để có thể, một mặt làm dễ dàng và xúc tiến việc thống nhất hoàn toàn và
cần thiết với cách ấy, mặt khác, khơng làm trở ngại gì đến cuộc đấu tranh tư tưởng
và chính trị của những người cộng sản. Người nhấn mạnh nguyên tắc: “Không bao
giờ được thoả hiệp, không bao giờ được lựa chiều chỉ làm hại cho sự mở rộng ảnh
hưởng của giai cấp vô sản” Thực tiễn của Cách mạng Tháng Mười Nga cho thấy sự
cần thiết phải xây dựng được khối liên minh công nhân – nơng dân – trí thức vững
mạnh nhằm thực hiện các mục tiêu chính trị chung, sự cần thiết của việc thỏa hiệp
với kẻ thù tư sản ở thời điểm phù hợp nhằm giúp cách mạng tiến lên. Cách mạng
dân tộc dân chủ nhân dân ở Trung Quốc dẫn đến sự ra đời của Cộng hòa Nhân dân
Trung Hoa, hay Cách mạng Tháng Tám 1945 ở Việt Nam cũng là những minh
chứng lịch sử về việc liên minh giai cấp đoàn kết sẽ tạo sức mạnh và cả sự thỏa hiệp
cần thiết có thể mang đế thành cơng.
Trên thực tế, V.I.Lênin luôn chủ trương mở rộng khối liên minh giai cấp công nhân
với giai cấp nông dân và các tầng lớp xã hội khác. Trong suốt thời kỳ quá độ, các
giai cấp bóc lột vẫn thường xun ni hy vọng phục hồi chính quyền tư sản. Từ hy
vọng chúng sẽ biến nó thành hành động. Và có nguy cơ tầng lớp tiểu tư sản-những
người hoang mang dao động sẽ tiếp tay cho chúng. V.I Lênin viết: "Sau khi bị thất
bại nặng nề lần đầu tiên, bọn bóc lột bị lật đổ vốn khơng ngờ mình sẽ bị quật xuống,
khơng tin tình hình sẽ như thế và khơng thừa nhận ý nghĩ về việc đó, thì nay lao
13 V.I. Lênin, Tồn tập, Nxb Tiến bộ, M.1978 tập 44, tr.57.
14 V.I.Lênin: Toàn tập, t. 39, NXB Tiến bộ, Mát-xcơ-va, 1977, tr. 251.


10


mình vào cuộc chiến với một nghị lực tăng gấp mười lần, với một sự cuồng nhiệt và
lòng hận thù gấp trăm lần, để chiếm lại cái "thiên đường" đã mất.15 V.I.Lênin chỉ rõ:
“Chun chính vơ sản là một hình thức đặc biệt của liên minh giai cấp giữa giai cấp
vô sản, đội tiên phong của những người lao động, với đông đảo những tầng lớp lao
động không phải vô sản (tiểu tư sản, tiểu chủ, nơng dân, trí thức, v.v…), hoặc với
phần lớn những tầng lớp đó, liên minh nhằm chống lại tư bản, liên minh nhằm lật
đổ hoàn toàn tư bản, tiêu diệt hoàn toàn sự chống cự của giai cấp tư sản và những
mưu toan khôi phục của giai cấp ấy, nhẳm thiết lập và củng cố vĩnh viễn chủ nghĩa
xã hội”.16 Điều này có thể được chứng minh qua cuộc chiến bảo vệ nước Nga Xô
viết của nhân dân Nga chống lại Bạch Vệ, Chiến tranh Vệ quốc, toàn thể tầng lớp,
giai cấp, nhân dân Liên Xơ dưới sự lãnh đạo của Stalin đã đồn kết bảo vệ Tổ quốc
và tiêu diệt phát xít Đức, hay ở Việt Nam là các cuộc cách mạng dân tộc dân chủ
nhân dân giai đoạn 1945- 1975. Nội dung chính trị liên minh giai cấp không chỉ là
tạo nên, mà cịn là duy trì củng cố chính quyền của giai cấp vô sản.
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, tính tất yếu của liên minh giai cấp tầng
lớp được phản ánh trong nhiệm vụ chính trị - xã hội mà giai cấp công nhân phải tiến
hành. Giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và tầng lớp lao động khác vừa là lực
lượng sản xuất cơ bản, vừa là lực lượng chính trị xã hội to lớn. Khi cơ cấu xã hội
-giai cấp diễn biến rất phức tạp trong thời kỳ quá độ, giai cấp công nhân, thơng qua
đội tiên phong là Đảng Cộng sản, chỉ có thể xây dựng, kiểm sốt và sử dụng chính
quyền Nhà nước của mình khi có đường lối, chính sách liên minh đúng đắn với giai
cấp, tầng lớp lao động khác, trong đó có đội ngũ trí thức. V.I.Lênin đã chỉ rõ:
“Trước sự liên minh của các đại biểu khoa học, giai cấp vô sản và giới kỹ thuật,
không một thế lực đen tối nào đứng vững được”.17
2.2. Góc độ kinh tế
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bên cạnh tính tất yếu của chính trị xã
hội, nổi lên là tất yếu kinh tế của liên minh với tư cách là nhân tố quyết định nhất

cho sự thắng lợi hoàn toàn của chủ nghĩa xã hội, liên minh về kinh tế là liên minh
cơ bản, thường xuyên và lâu dài, là cơ sở cho liên minh trên các lĩnh vực khác. Liên
minh này được hình thành xuất phát từ u cầu khách quan của q trình cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa và chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ một nền sản xuất nhỏ
nơng nghiệp là chính sang sản xuất hàng hóa lớn, phát triển cơng nghiệp, dịch vụ và
khoa học – công nghệ....xây dựng nền tảng vật chất – kỹ thuật cần thiết cho chủ
nghĩa xã hội. Mỗi lĩnh vực của nền kinh tế chỉ phát triển được khi gắn bó chặt chẽ,
hỗ trợ cho nhau để cùng hướng tới phục vụ phát triển sản xuất và tạo thành nền cơ
cấu kinh tế quốc dân thống nhất. Sau khi thực hiện Chính sách kinh tế mới, Lênin
thừa nhận có 5 thành phần kinh tế tồn tại trong thời kỳ quá độ. Lênin đã xếp thứ tự
5 thành phần kinh tế như sau: Kinh tế tư gia trưởng, kinh tế hàng hoá nhỏ, kinh tế tư
bản; kinh tế nhà nước tư bản chủ nghĩa, kinh tế xã hội chủ nghĩa. Hiện tại ở các
nước xã hội chủ nghĩa cũng phát triển kinh tế nhiều thành phần như Lênin đã nói. Ở
thời kỳ kinh tế hội nhập, liên minh công nhân, nông dân, tri thức ngày càng được
15 V.I Lênin: Sđd, t.37, tr.320-tr.321.
16 V.I.Lênin: Toàn tập, t.38, NXB Tiến bộ, Mát-xcơ-va, 1977, tr.452.
17 V.I.Lênin: Toàn tập, t.39, NXB Tiến bộ, Mát-xcơ-va, 1977, tr. 251.

11


tăng cường khi mà nông nghiệp, công nghiệp, khoa học-công nghệ ngày càng liên
hệ chặt chẽ với nhau. Chính những biến đổi trong cơ cấu kinh tế này đã và đang
từng bước tăng cường khối liên minh giữa giai cấp cơng nhân với giai cấp nơng
dân, tầng lớp trí thức và các tầng lớp trong xã hội khác.
Trong giai cấp nơng dân, có một bộ phận cốt lõi là tiểu nơng. Về kinh tế, mỗi gia
đình nơng dân là một đơn vị kinh tế gần như tự túc hoàn toàn, cho thấy tính liên kết
giữa họ rất ít. C.Mác và Ph.Ăngghen chỉ rõ sự liên minh về kinh tế giữa giai cấp
công nhân và giai cấp nông dân. Trong giai đoạn xây dựng chủ nghĩa xã hội thì liên
minh về kinh tế là liên minh cơ bản, thường xuyên, lâu dài, là cơ sở cho liên minh

trên các lĩnh vực khác.Theo Ph.Ăngghen, nhiệm vụ chủ yếu của chính đảng vơ sản
là phải khơng ngừng giải thích cho nơng dân thấy rằng, chừng nào chủ nghĩa tư bản
đang cịn nắm chính quyền thì tình cảnh của họ vẫn là tuyệt vọng mà thôi, tuyệt đối
chắc chắn là nền sản xuất tư bản chủ nghĩa quy mô lớn sẽ đè bẹp sản xuất quy mô
nhỏ, bất lực và lỗi thời của họ. Chỉ cần cho nơng dân thấy lợi ích chân chính của họ
là phải chuyển ruộng đất của họ thành tài sản của hợp tác xã, tức là đưa nông dân đi
vào sản xuất hợp tác: “Dù sao thì điều chủ yếu cũng là phải làm cho nông dân hiểu
rằng chúng ta chỉ có thể cứu vãn và bảo tồn được tài sản của họ bằng cách biến tài
sản đó thành tài sản hợp tác xã và thành những doanh nghiệp hợp tác xã” 18.
Ph.Ăngghen cũng cho rằng, đó là khâu trung gian trong việc chuyển nền sản xuất cá
thể của nông dân quá độ lên chủ nghĩa xã hội, không qua phát triển tư bản chủ
nghĩa. C.Mác và Ph.Ăngghen cũng chỉ rõ nguyên tắc cải tạo xã hội chủ nghĩa đối
với nông nghiệp và nông dân. Nguyên tắc thứ nhất là, không được dùng bạo lực đối
với nông dân, “... mà là bằng những tấm gương và bằng sự giúp đỡ của xã hội”.
Nguyên tắc thứ hai là, tự nguyện, khơng được gị ép, bắt buộc đối với nơng dân:
“Chúng ta kiên quyết đứng về phía người tiểu nơng... để cho họ có thời gian suy
nghĩ với tư cách là người sở hữu mảnh đất của họ nếu họ chưa có thể quyết định
như thế”19. Nguyên tắc thứ ba là, tiến dần từ thấp đến cao: phải phát triển các hợp
tác xã từ bậc thấp đến bậc cao, từ quy mô từng xã đến quy mô liên xã. Các ông cho
rằng, để nông dân đi lên chủ nghĩa xã hội một cách thuận lợi, nhà nước phải có
nhiệm vụ giúp đỡ nông dân trong cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa. Trong sách lược đối
với nông dân, theo Ph.Ăngghen, trong điều kiện của chủ nghĩa tư bản không thể coi
nông dân là một khối thống nhất, vì họ khơng ngừng phân hóa, do đó, sách lược của
các đảng xã hội chủ nghĩa cần phải khác nhau đối với các thành phần nông dân khác
nhau.
V.I.Lênin đặc biệt nhấn mạnh khi chuyển từ giai đoạn giành quyền sang giai đoạn
“chun chính vơ sản”, chính trị đã chuyển sang chính trị trong lĩnh vực kinh tế,
liên minh muốn được phát huy và củng cố hơn phải lấy kinh tế làm cơ sở. Phải xuất
phát từ yêu cầu khách quan về kinh tế - kỹ thuật của một nước nông nghiệp lạc hậu
đi lên chủ nghĩa xã hội. Do đó, phải gắn cơng nghiệp với nông nghiệp và khoa học

công nghệ hiện đại. Về tất yếu kinh tế - kỹ thuật, Lênin chỉ rõ: “Nếu khơng có kinh
tế nơng nghiệp làm cơ sở, thì một nước nông nghiệp không thể xây dựng được nền
công nghiệp”.20

18 C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, Sđd, t.22, tr.737 – tr.738.
19 C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, Sđd, t.22, tr.738.
20 V.I.Lênin, Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva, 1977, t.38, tr.452.

12


Khi nước Nga Xô viết ra đời, bắt đầu thực thi “Sắc lệnh ruộng đất”. Nông dân đã
nhận được miễn phí hơn 150 triệu ha ruộng đất từ giai cấp địa chủ, được xóa tiền
nợ. Một vấn đề quan trọng nhằm cải thiện đời sống nhân dân lao động là cần phải
nâng cao năng suất lao động. Như V.I.Lenin nhận định: “Công nhân tự nguyện tự
giác, liên hợp với nhau, sử dụng kỹ thuật hiện đại thì mới có thể tạo ra năng suất lao
động cao hơn”. Joseph Stalin, người kế tục sự nghiệp của V.I.Lenin từng chỉ rõ:
“Biến nước Nga từ một nước nông nghiệp thành một nước công nghiệp có thể tự
lực sản xuất thiết bị cần thiết, đưa nước ta từ một nước nhập khẩu thiết bị thành một
nước chế tạo được các thiết bị ấy. Đó là điều bảo đảm sự độc lập kinh tế của nước ta
và không phụ thuộc vào các nước tư bản chủ nghĩa”. Từ tinh thần đó, Liên Xơ quyết
tâm trở thành một quốc gia tự cường. Sau chiến tranh Vệ quốc, dưới sự chỉ đạo của
quyết định “Về những biện pháp cấp bách khôi phục kinh tế ở các vùng được giải
phóng khỏi sự chiếm đóng của phát-xít” của Joseph Stalin, đến cuối năm 1945, Liên
Xô đã khôi phục được 7.500 nhà máy và xí nghiệp, hàng nghìn nơng trường quốc
doanh và hợp tác xã. Thời kỳ 1945 - 1953 là giai đoạn mà niềm phấn khởi, tự hào
của người dân Liên Xô dâng cao khi nền kinh tế đã được hồi phục và phát triển
nhanh chóng. Thu nhập quốc dân từ năm 1940 đến năm 1950 tăng 64%. Năm 1954,
Liên Xơ là quốc gia đầu tiên có nhà máy điện nguyên tử. Hai sự kiện này đặt dấu
chấm hết cho sự độc quyền về vũ khí hạt nhân của Mỹ. Thủ tướng Anh Winston

Churchill cũng phải đành thừa nhận: “Stalin đã tiếp nhận một nước Nga đi giày cỏ
và để lại một nước Nga với vũ khí hạt nhân”. Hay từ sau công cuộc Đổi mới 1986
Việt Nam lọt top các quốc gia có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao nhất,Từ đó thấy
được ý nghĩa của liên minh giai cấp trên lĩnh vực kinh tế.
Như vậy, theo quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin, liên minh giữa giai cấp công nhân
với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức là do sự gắn bó thống nhất giữa sản xuất
công nghiệp, nông nghiệp với khoa học kỹ thuật. Nếu khơng có sự liên minh chặt
chẽ của cả 3 lực lượng này thì các ngành kinh tế sẽ khó phát triển. Và như vậy, liên
minh giai cấp, tầng lớp trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là sự liên kết, hợp
tác, hỗ trợ nhau... giữa các giai cấp, tầng lớp xã hội nhằm thực hiện nhau cầu và lợi
ích của các chủ thể trong khối liên minh, đồng thời tạo động lực thực hiện thắng lợi
mục tiêu của chủ nghĩa xã hội.
Tuy nhiên, việc thực hiện liên minh giai cấp cũng đem lại những thuận lợi và khó
khăn riêng:
Thuận lợi:
Giai cấp cơng nhân phần lớn xuất phát từ giai cấp nơng dân nên giữa họ có nhiều sự
tương đồng,có mối quan hệ gắn bó mật thiết với nhau. Họ cũng đều là những người
bị bóc lột việc họ đoàn kết đấu tranh là điều tất yếu.
Nhu cầu lợi ích của giai cấp cơng nhân là hài hịa với lợi ích của dân tộc, với lợi ích
của đa số nhân dân. Quan hệ hợp tác chặt chẽ trong cả đấu tranh giai cấp và xây
dựng chủ nghĩa xã hội. Đó là điều kiện thuận lợi để giai cấp công nhân liên minh
chặt chẽ hơn với giai cấp công nhân và các tầng lớp lao động khác.
Về cơ bản thì giai cấp cơng nhân, nơng dân, tri thức đều có chung lập trường chính
trị là độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Trong điều kiện hội nhập kinh tế thị trường, q trình tồn cầu hóa, tầng lớp tri thức
có điều kiện để gắn bó nhiều hơn đối với hoạt động sản xuất công nghiệp của công
13


nhân và hoạt động sản xuất nông nghiệp của nông dân. Từ đó quan hệ liên minh

giữa các giai cấp tầng lớp được tăng cường.
Khó khăn
Giai cấp nơng dân vẫn còn thiếu điều kiện để phát triển, nhất là ở các vùng nơng
thơn khó khăn. Đời sống của nhiều nơng dân cịn khó khăn, trình độ, học vấn,nhận
thức chính trị của họ cịn thấp. Điều đó khơng chỉ ảnh hưởng đến khả nằn phát triển
của nơng dân, mà cịn ảnh hưởng đến khả năng liên minh giữa nông dân với công
nhân và tri thức.
Vấn đề thất nghiệp trong giai cấp cơng nhân và tri thức cũng là khó khăn lớn trong
thực hiện liên minh giai cấp, nhất là trong thời điểm dân số ngày càng gia tăng.
Trong xu thế toàn cầu hóa, gia tăng khả năng bị bóc lột của các doanh nghiệp trong
và ngồi nước đối với cơng nhân. Thu nhập không đồng đều giữa các công nhân
trong doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi với doanh nghiệp trong nước, rồi cả
xu hướng “trung lưu hóa”. Điều này gây ra sự mất đoàn kết trong nội bộ giai cấp
cơng nhân và cả liên minh giai cấp.
Vẫn cịn tồn tại một số điểm khác biệt về lập trường chính trị giữa công nhân, nông
dân, tri thức, tạo nên một số mâu thuẫn giữa các giai cấp, tầng lớp này với nhau,
thêm vào đó là sự chống phá của các thế lực thù địch khiến mâu thuẫn nặng nề hơn.
Cách giải quyết khó khăn
Nhà nước, cơng nhân, tri thức cần quan tâm đến nông dân, giúp đỡ phát triển nông
thôn, xóa đói giảm nghèo và cải thiện đời sống nơng dân. Hướng dẫn giai cấp nông
dân chủ động phát triển và liên minh với công nhân và nông dân. Nhằm phát huy
tiềm năng của nông dân và tăng cường khối liên minh giai cấp.
Cần phải giải quyết vấn đề việc làm cho công nhân và tri thức. Không chỉ giúp cải
thiện đời sống của họ, phát triển kinh tế đất nước, mà cịn tăng cường sự gắn bó
trong liên minh giai cấp.
Nhà nước phải có biện pháp để hạn chế sự bóc lột của các doanh nghiệp đối với
cơng nhân. Bên cạnh đó cũng cần giải quyết vấn đề mâu thuẫn về vấn đề chênh lệch
thu nhập và khác biệt lập trường chính trị trong liên minh giai cấp. Có biện pháp
chống hoạt động chia rẽ của các thế lực thù địch.
III.


Tầng lớp, giai cấp, tầng lớp trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam
3.1. Cơ cấu xã hội- giai cấp trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam
3.1.1. Sự biến đổi cơ cấu xã hội- giai cấp vừa đảm bảo tính qui luật phổ biến, vừa
mang tính đặc thù của xã hội Việt Nam
Sự vận động, biến đổi cơ cấu xã hội- giai cấp trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội ở nước ta biến đổi theo đúng quy luật.
Sự vận động, biến đổi cơ cấu xã hội- giai cấp trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội ở nước ta biến đổi theo đúng quy luật đó là sự biến đổi của cơ cấu xã hội - giai
14


cấp bị chi phối bởi những biến đổi trong cơ cấu kinh tế. Sự biến đổi của cơ cấu xã
hội-giai cấp gắn liền và được quy định bởi biến động cơ cấu kinh tế, thành phần
kinh tế, cơ cấu hành chính kinh tế-xã hội. Kể từ Ðại hội IX của Ðảng tháng 4-2001,
Ðảng ta đã khẳng định: Kinh tế thị trường định hướng Xã hội Chủ nghĩa là mơ hình
kinh tế tổng quát trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta và kể từ
đó đến nay vấn đề hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng Xã hội Chủ
nghĩa được đặt ra cấp bách trong các Ðại hội X, XI, XII, XIII của Ðảng. Ðại hội
XIII khẳng định: Kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa là mơ hình kinh tế
tổng quát của nước ta trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. 21
Khác với những nước tư bản phát triển, khi tiến lên chủ nghĩa xã hội, họ trực tiếp
thực hiện bước quá độ từ chủ nghĩa tư bản, Việt Nam khi bước vào thời kỳ quá độ
chưa trải qua sự phát triển của chủ nghĩa tư bản. Sự chuyển đổi trong cơ cấu kinh tế
đã dẫn đến những biến đổi trong cơ cấu xã hội - giai cấp với việc hình thành một cơ
cấu xã hội - giai cấp đa dạng. Sự tồn tại của nhiều thành phần kinh tế 22 tất yếu dẫn
đến cơ cấu xã hội- giai cấp đa dạng và phức tạp với việc hình thành một cơ cấu giai
cấp- xã hội đa dạng thay thế cho xã hội- giai cấp đơn giản bao gồm giai cấp công

nhân, giai cấp nông dân và tầng lớp tri thức của thời kì trước được đổi mới một cách
rõ rệt. Tính đa dạng thể hiện ở sự tồn tại nhiều giai cấp, nhiều tầng lớp xã hội: giai
cấp công nhân, giai cấp nông dân, đội ngũ trí thức, bộ phần tư sản và các tầng lớp
nhân dân lao động khác. Tính đa dạng cịn thể hiện trong cơ cấu nội bộ của mỗi giai
tầng, thậm chí có sự chuyển hóa qua lại lẫn nhau giữa các giai cấp tầng lớp xã hội
và cũng đồng thời xuất hiện những tầng lớp xã hội mới. Chính những biến đổi mới
này cũng là một trong những yếu tố có tác động trở lại làm cho nền kinh tế đất nước
phát triển trở nên năng động, đa dạng hơn và trở thành động lực to lớn, quan trọng
của sự nghiệp đổi mới vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng văn
minh, định hướng xã hội chủ nghĩa.23 Cơ cấu giai cấp biến đổi nhanh chóng và có
yếu tố mang tính tự phát trong khn khổ của xã hội mới. Nhiều mối quan hệ giai
cấp được hình thành hoặc đã tồn tại từ trước đó song sự thay đổi của cơ cấu kinh tế
– xã hội các quan hệ lại biến đổi nhanh chóng. Cơ cấu giai cấp ở nước ta hiện nay
bao gồm: công nhân, nông dân, tầng lớp trí thức, tư sản, tiểu tư sản, tiểu chủ, thợ
thủ công, tiểu thương...
Sự vận động, biến đổi cơ cấu xã hội- giai cấp trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội ở nước ta mang những đặc trưng của mơ hình xã hội xã hội chủ nghĩa Việt Nam
vừa mang tính chất định hướng lâu dài, vừa mang tính chất những nhiệm vụ cụ thể
cần đạt tới trong từng bước đi, từng giai đoạn của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội.
3.1.2. Trong sự biến đổi của cơ cấu xã hội- giai cấp, vị trí, vai trò của các giai
cấp, tầng lớp xã hội ngày càng được khẳng định
-

Giai cấp công nhân

21 Báo Nhân dân điện tử, Hoàn thiện thể chế, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
22 Văn kiện XII của Đảng Cộng sản Việt Nam nhấn mạnh: “Phát triển nền kinh tế nhiều hình thức sở hữu,
nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế nhà nước cùng kinh tế tập thể
ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân; kinh tế tư nhân trở thành một trong những

động lực quan trọng của sự phát triển”.

23 Bộ Giáo dục và Đào tạo, Giáo trình Chủ nghĩa Xã hội khoa học, Hà Nội, 2019.
15


Giai cấp công nhân là lực lượng đi đầu của quá trình quá độ lên chủ nghĩa xã
hội làm biến đổi nhanh cả về số lượng, chất lượng và có sự thay đổi đa dạng
về cơ cấu. Trước đổi mới, trong điều kiện nền kinh tế khép kín, vận hành
theo cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp, giai cấp cơng nhân nước ta ít về số
lượng, tương đối thuần nhất. Trong quá trình đổi mới, mở cửa và hội nhập
quốc tế, chủ trương phát triển kinh tế nhiều thành phần đã tạo bước chuyển
quan trọng đối với cơ cấu nền kinh tế. Bên cạnh thành phần kinh tế nhà nước
và thành phần kinh tế tập thể, đã hình thành và phát triển nhanh thành phần
kinh tế tư nhân và thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngồi. Điều đó đã
tạo ra sự chuyển biến trong cơ cấu lực lượng lao động xã hội, làm cho lực
lượng công nhân- lao động công nghiệp và dịch vụ phát triển nhanh về số
lượng, đa dạng về cơ cấu: “công nhân nước ta đang tiếp tục tăng nhanh về số
lượng, đa dạng về cơ cấu theo ngành nghề và thành phần kinh tế. Trong đó,
số cơng nhân trong khu vực kinh tế tư nhân và khu vực kinh tế có vốn đầu tư
nước ngoài tăng mạnh và chiếm tỷ trọng ngày càng lớn” 24. Sự đa dạng của
giai cấp công nhân không chỉ phát triển theo thành phần kinh tế mà cịn phát
triển theo ngành nghề. Bộ phận “cơng nhân hiện đại”, “công nhân tri thức”
sẽ ngày càng lớn mạnh. Quá trình hội nhập quốc tế đã tiếp nhận những thành
tựu khoa học, kỹ thuật và công nghệ hiện đại vào sản xuất, làm cho nền kinh
tế nước ta đang chuyển biến nhanh theo hướng cơng nghiệp hóa, hiện đại
hóa. Điều đó tạo động lực để giai cấp cơng nhân nước ta ngày càng phát triển
cao về trình độ chun mơn nghề nghiệp. Trình độ cơng nhân ngày càng
được nâng cao, góp phần nâng cao chất lượng, bảo đảm sứ mệnh của giai cấp
cơng nhân Việt Nam trong q trình q độ lên chủ nghĩa xã hội. Trình độ

chun mơn kỹ thuật, kỹ năng nghề nghiệp, ý thức tổ chức kỷ luật lao động,
tác phong công nghiệp của công nhân cũng ngày càng được được nâng lên
nhằm đáp ứng yêu cầu của q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với
kinh tế tri thức và cách mạng công nghiệp lần thứ tư (4.0) đang có xu hướng
phát triển mạnh. Bên cạnh đó, sự phân hố giàu nghèo trong giai cấp cơng
nhân ngày càng rõ rệt. Trong q trình hội nhập kinh tế, dưới sự tác động của
kinh tế thị trường, dẫn đến sự chênh lệch mức thu nhập giữa các công nhân.
Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học kỹ thuật, việc áp dụng khoa
học kỹ thuật với sản xuất ngày càng đẩy mạnh, dẫn đến sự phân tầng giai cấp
về mức thu nhập giữa công nhân lao động phức tạp và công nhân lao động
đơn giản, ảnh hưởng sâu sắc đến sự thống nhất, đoàn kết của giai cấp công
nhân. Một số bộ phân công nhân thu nhập thấp, giác ngộ lập trường giai cấp,
ý thức chính trị giai cấp chưa cao. Hiện nay, mặt trái của hội nhập quốc tế
đang làm cho công nhân nước ta không đồng đều về nhận thức xã hội, giác
ngộ giai cấp, bản lĩnh chính trị, ý thức tổ chức và kỷ luật lao động. Khơng ít
cơng nhân cịn chưa nhận thức đầy đủ về sứ mệnh lịch sử của giai cấp mình;
ý chí phấn đấu, ý thức tổ chức kỷ luật, tính tiên phong gương mẫu của một
bộ phận cơng nhân giảm sút. Chủ nghĩa cá nhân, thực dụng, cơ hội có điều
kiện phát triển nhanh chóng. Một bộ phận cơng nhân trẻ cịn bị ảnh hưởng
bởi các tệ nạn xã hội, sống buông thả, phai nhạt lý tưởng, suy thoái về đạo
đức, lối sống, xa rời bản chất tốt đẹp của giai cấp công nhân. Gây ảnh hưởng
24 Tạp chí của Ban Tuyên giáo trung ương, Sự biến đổi giai cấp công nhân Việt Nam dưới tác động của hội
nhập quốc tế.

16


đến doanh nghiệp và hình ảnh người cơng nhân Việt Nam trong q trình hội
nhập quốc tế.
Giai cấp cơng nhân Việt Nam có vai trị quan trọng đặc biệt, là giai cấp lãnh đạo

cách mạng thông qua đội tiền phong là Đảng Cộng sản Việt Nam; đại diện cho
phương thức sản xuất tiên tiến; giữ vai trò tiên phong trong sự nghiệp xây dựng chủ
nghĩa xã hội, là lực lượng đi đầu trong sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, cơng bằng, văn minh và là lực
lượng nịng cốt trong liên minh giai câos công nhân với giai cấp nông dân và đội
ngũ tri thức.25
- Giai cấp nông dân
Giai cấp nông dân là giai cấp của những người lao động sản xuất trong nông nghiệp
(bao gồm cả lâm nghiệp và ngư nghiệp), trực tiếp sử dụng một tư liệu sản xuất cơ
bản và đặc thù gắn với thiên nhiên là đất, rừng, biển để sản xuất ra sản phẩm nông
nghiệp.
Giai cấp nông dân cùng với nông nghiệp, nông thôn có vị trí chiến lược trong sự
nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa nơng nghiệp, nơng thơn gắn với xây dựng
nơng thơn mới, góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Giai cấp nông dân là cơ sở
và lực lượng quan trọng để phát triển kinh tế- xã hội bền vững, giữ vững ổn định
chính trị, đảm bảo an ninh, quốc phịng; giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc
và bảo vệ mơi trường sinh thái; là chủ thể của q trình phát triển, xây dựng nơng
thơn mới gắn với xây dựng các cơ sở công nghiệp, dịch vụ và phát triển đô thị theo
hướng quy hoạch; phát triển tồn diện, hiện đại hóa nơng nghiệp...26
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, giai cấp nơng dân cũng có sự biến đổi đa
dạng về cơ cấu giai cấp; có xu hướng giảm dần về số lượng và tỉ lệ trong cơ cấu xã
hội- giai cấp. Một bộ phận nông dân chuyển sang lao động trong các khu cơng
nghiệp, hoặc dịch vụ có tính chất cơng nghiệp và trở thành công nhân. Trong giai
cấp nông dân xuất hiện những chủ trang trại lớn, đồng thời vẫn cịn những nơng dân
mất ruộng đất, nơng dân đi làm thuê... và sự phân hóa giàu nghèo trong nội bộ nông
dân cũng ngày càng rõ.
Những đặc điểm trên đã cho thấy rằng trong cuộc đấu tranh giữa giai cấp công nhân
và giai cấp tư sản, nông dân là tầng lớp trung gian đơng đảo, khơng có khả năng tự
giải phóng mình khỏi các chế độ tư hữu, áp bức bóc lột, càng không thể là giai cấp
lãnh đạo xã hội trong các cuộc giải phóng đó. Giai cấp nơng dân chỉ có thể là liên

minh với giai cấp cơng nhân, chịu sự lãnh đạo của giai cấp công nhân thông qua
ĐCS, cả trong giành chính quyền cũng như trong quá trình cải tạo và xây dựng Chủ
nghĩa xã hội, thì mới phát huy được vai trị của mình và được giải phóng.
Đội ngũ trí thức
Trí thức là những người lao động trí óc, có hiểu biết sâu rộng về một hoặc một số
lĩnh vực khoa học – công nghệ, văn hóa – nghệ thuật, quản lý kinh tế -xã hội,
thường xuyên vận dụng những hiểu biết đó để phát hiện và giải quyết những vấn đề
lý luận và thực tiễn nảy sinh trong lĩnh vực hoạt động của mình vì lợi ích chung của
cộng đồng và nhu cầu nhận thức của bản thân.
25 Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Hội nghị lần thứ sáu Ban chấp hành Trung ương khóa X, Nxb. Chính
trị quốc gia, H.2008, tr.43-tr.44.

26 Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Hội nghị lần thứ sáu Ban chấp hành Trung ương khóa X, Nxb.Chính
trị quốc gia, H. 2008.

17


Đội ngũ trí thức là lực lượng lao động sáng tạo đặc biệt quan trọng trong tiến trình
đẩy mạnh cơng nghiệp, hóa hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế, xây dựng
kinh tế tri thức, phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc;
là lực lượng trong khối liên minh.27
Trí thức Việt Nam xuất thân từ nhiều giai cấp, tầng lớp xã hội, nhất là từ công nhân
và nông dân; phần lớn trưởng thành trong xã hội mới, được hình thành từ nhiều
nguồn đào tạo cả trong và ngoài nước. Đội ngũ trí thức nước ta có tinh thần u
nước, có lịng tự hào, tự tôn dân tộc sâu sắc, luôn gắn bó với sự nghiệp cách mạng
do Đảng lãnh đạo. Bằng hoạt động sáng tạo, trí thức nước ta đã có đóng góp to lớn
trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Trí thức khơng có phương thức sản xuất riêng và địa vị kinh tế, xã hội độc lập nên
trí thức cũng khơng có hệ tư tưởng độc lập. Mặc dù vậy, trí thức ln giúp giai cấp

thống trị khái quát về lý luận để hình thành hệ tư tưởng của giai cấp thống trị xã hội.
Tri thức tuy có tinh thần đấu tranh chống áp bức, bóc lột nhưng lại thiếu kiên quyết,
triệt để. Vì vậy, trí thức muốn được giải phóng phải chịu sự lãnh đạo của giai cấp
cơng nhân và tham gia vào khối liên minh.
Trí thức phục vụ cho giai cấp nào thì mang ý thức của hệ giai cấp đó. Trí thức chủ
nghĩa xã hội mang ý thức hệ của giai cấp công nhân. Ngày nay, cách mạng khoa học
kỹ thuật và công nghệ hiện đại đã và đang trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp thì
trí thức ngày càng có vai trong quan trọng trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã
hội và hội nhập khu vực, quốc tế. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nhiều lần khẳng
định rằng: “Kiến thiết cần có nhân tài”, “cách mạng cần có lực lượng của trí thức”;
“trong xây dựng xã hội chủ nghĩa, lao động trí óc có một vai trị quan trọng và vẻ
vang”. Vai trị quan trọng và vẻ vang của trí thức nghĩa là vừa có lập trường chính
trị vững vàng, vừa giỏi về chuyên môn, tinh thông nghiệp vụ ở các lĩnh vực được
giao, đồng thời coi phẩm chất hàng đầu của người trí thức là phải “chính tâm” và
trách nhiệm người trí thức của nhân dân là phải “vì nhân dân”, phải “đoàn kết chặt
chẽ, để phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân”. Trí thức đóng vai trị quan trọng
trong cách mạng xã hội chủ nghĩa, đặc biệt là trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa
xã hội. Lenin đã từng khẳng định: “Khơng có trí thức khơng thể có chủ nghĩa xã
hội” vì trí thức là những người có cơng lao chăm sóc sức khỏe cho nhân dân, phát
triển dân trí, đào tạo nguồn nhân lực cho đất nước; tham gia xây dựng đường lối của
Đảng, chính sách của nhà nước, đưa nó vào trong quần chúng nhân dân. Đặc biệt là
trong thời đại ngày nay, khi khoa học kĩ thuật và công nghệ hiện đại phát triển thì
vai trị động lực phát triển xã hội của trí thức lại càng cao. 28
So với yêu cầu phát triển của đất nước, sự phát triển của đội ngũ trí thức Việt Nam
còn gặp nhiều hạn chế. Việt Nam vẫn đang thiếu các nhà lãnh đạo, các chuyên gia
giỏi, các nhà khoa học thực sự tâm huyết với nghề, các cơng chức trong bộ máy
chính quyền các cấp tinh thơng nghề nghiệp và đáp ứng đòi hỏi ngày càng cao về
đạo đức cơng vụ. Cơ chế, chính sách đãi ngộ dành cho đội ngũ trí thức cịn dàn trải,
chưa đúng trọng tâm, trọng điểm, mức lương và phụ cấp thấp, chưa thật sự đáp ứng
yêu cầu của cuộc sống hiện đại. Cơ chế tuyển dụng, đãi ngộ và thu hút nhân tài của

27 Bộ Giáo dục và Đào tạo (2019), Giáo trình Chủ nghĩa xã hội khoa học, Nhà xuất bản Hà Nội, tr.95.
28 GS, TS. Nguyễn Trọng Chuẩn, “Trí thức Việt Nam với sự nghiệp đổi mới và phát triển đất nước trong bối
cảnh chuyển đổi số”, truy cập ngày 18/08/2021.

18


Việt Nam còn nhiều hạn chế và bất cập. Các chủ trương, chính sách của Đảng và
Nhà nước đối với đội ngũ trí thức cịn thiếu, chưa đồng bộ hoặc chưa đáp ứng yêu
cầu của thực tiễn.
Trước những yêu cầu, nhiệm vụ mới của thời kỳ cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước, khi thế giới đang tiến hành cuộc Cách mạng cơng nghiệp lần thứ tư, đội ngũ
trí thức nói chung, trong đó có các nhà trí thức đóng vai trò động lực, đi đầu trong
việc nghiên cứu, ứng dụng các tiến bộ khoa học, tiếp nhận và chuyển giao công
nghệ ở nhiều lĩnh vực. Để tiếp tục xây dựng và phát triển đội ngũ này, phục vụ sự
nghiệp đổi mới, trước hết là góp phần thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng
tới đây với tầm nhìn đến năm 2030, 2045 vì một Việt Nam hùng cường, thịnh
vượng.
-

Đội ngũ doanh nhân
Doanh nhân là người giải quyết các vấn đề cho người khác để kiếm lợi nhuận 29.
Doanh nhân Việt Nam là đội ngũ những người làm nghề kinh doanh ,trước hết là
những người chủ sở hữu ,lãnh đạo ,quản lý, hoạt động nghiệp vụ kinh doanh (có
mục tiêu vị lợi) của các hộ gia đình và doanh nghiệp30.
Đội ngũ doanh nhân là lực lượng có vai trị quan trọng trong sự nghiệp cơng nghiệp
hóa, hiện đại hố đất nước. Xây dựng đội ngũ doanh nhân lớn mạnh, có năng lực,
trình độ và phẩm chất, uy tín cao sẽ góp phần tích cực nâng cao chất lượng, hiệu
quả, sức cạnh tranh, phát triển nhanh, bền vững vào bảo đảm độc lập, tự chủ của
nền kinh tế. Hay nói cách khác thúc đẩy kinh tế phát triển và tạo nên vị thế của Việt

Nam trên bản đồ kinh tế thế giới là sứ mệnh, trọng trách của đội ngũ doanh nhân,
cộng đồng doanh nghiệp31. Doanh nhân Việt Nam gồm 5 nhóm chính: Những người
điều hành, quản lý hoặc sở hữu các doanh nghiệp vừa và nhỏ; những người quản lý,
điều hành, làm nghiệp vụ kinh doanh trong các doanh nghiệp nhà nước; những
người quản lý, điều hành, làm nghiệp vụ kinh doanh cho các doanh nghiệp có vốn
đầu tư nước ngoài; những người làm chủ trong các trang trại, hợp tác xã, cơ sở kinh
tế phi nông nghiệp và các hộ gia đình nơng dân hoạt động sản xuất kinh doanh có
đăng ký thành lập và hoạt động theo Luật doanh nghiệp; những doanh nhân gốc
Việt (mang quốc tịch Việt Nam hoặc quốc tịch nước sở tại) điều hành, quản lý, sở
hữu hoặc làm nghiệp vụ kinh doanh ở nước ngoài32.
Trong những năm qua Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều chủ trương, chính sách
khuyến khích phát triển doanh nghiệp, phát huy vai trò của doanh nhân trong sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước. Nhờ đó nhận thức về vai trị của đội ngũ
doanh nhân có những chuyển biến tích cực, nhiều cấp Uỷ Đảng, chính quyền
thường xuyên quan tâm đến hoạt động và sự phát triển của doanh nhân, đội ngũ
doanh nhân. Đội ngũ doanh nhân ngày càng lớn mạnh, có khát vọng vươn lên làm
29 Bí mật tư duy triệu phú (Secret of Millionaire Mind),T.Harv Eker, Nhà xuất bản trẻ,Thành phố Hồ Chí
Minh, năm 2011, trang 114.

30 Bài đăng trên Tạp chí Lý luận Chính trị số 11-2017.Đỗ Minh Cương: “Bàn về khái niệm doanh nhân Việt
Nam”, Tạp chí Khoa họcĐại học quốc gia Hà Nội, chuyên san Kinh tế và Kinh doanh 25, 2009

31 Tapchitaichinh.vn
32 TS Nguyễn Anh Tuấn- Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh -Vai trị của đội ngũ doanh nhân trong
phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội.

19


giàu chính đáng, khơng ngừng nâng cao năng lực kinh doanh và quản trị doanh

nghiệp. Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp, đạo đức, văn hóa kinh doanh của
doanh nhân dần được nâng lên33. Doanh nhân đóng vai trị quyết định trong việc
huy động các nguồn lực tạo ra sản phẩm và dịch vụ cho xã hội, đóng góp tích cực
vào việc thực hiện chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, xố đói, giảm nghèo, tạo
cơng ăn việc làm cho người lao động, góp phần giải quyết các vấn đề an sinh xã hội
của đất nước34. Sự phát triển đã đem lại vai trò quan trọng của đội ngũ doanh nhân
Việt Nam những năm qua được thể hiện qua những mặt chủ yếu sau: Doanh nhân là
lực lượng xã hội đóng vai trị quan trọng trong giải phóng lực lượng sản xuất, phát
triển kinh tế và hội nhập quốc tế. Trong thời kì đổi mới, doanh nhân là lực lượng
chủ yếu huy động nguồn lực sản xuất tạo ra nhiều hàng hóa, sản phẩm cho xã hội
thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển; doanh nhân Việt Nam đã góp phần quan trọng
trong hình thành cơ cấu xã hội và quan hệ xã hội mới; đội ngũ doanh nhân nước ta
đã hình thành một tầng lớp xã hội mới. Theo đó, đội ngũ doanh nhân nước ta tham
gia ngày càng đông đảo vào các hiệp hội nghề nghiệp, các tổ chức xã hội và có vị
thế ngày càng quan trọng hơn trong hệ thống chính trị - xã hội35.
Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng, đội ngũ doanh nhân
Việt Nam còn đứng trước nhiều khó khăn. Nguyên nhân của những hạn chế, yếu
kém trước hết là do những sơ hở, lỏng lẻo và yếu kém của hệ thống các quy định
pháp luật và công tác quản lý nhà nước; đội ngũ doanh nhân nước ta mới hình thành
và phát triển, chưa có tích lũy nhiều về vốn, tri thức, cơng nghệ và kinh nghiệm,
truyền thống kinh doanh, đa số doanh nhân Việt Nam thành lập doanh nghiệp xuất
phát từ yêu cầu thực tế của cuộc sống và khát vọng làm giàu cho bản thân, gia đình
và xã hội. Vai trị lãnh đạo của các tổ chức đảng đối với sự phát triển của khu vực
kinh tế tư nhân còn bất cập; hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức
chính trị - xã hội, xã hội - nghề nghiệp, các hiệp hội ngành nghề chưa thực sự hiệu
quả, chậm đổi mới theo yêu cầu thực tiễn; chưa làm tốt vai trò đại diện, bảo vệ
quyền lợi hợp pháp, chính đáng của doanh nghiệp, người lao động và người sử dụng
lao động36.
Xây dựng đội ngũ doanh nhân lớn mạnh, có năng lực, trình độ và phẩm chất, uy tín
cao sẽ góp phần tích cực nâng cao chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh, phát triển

nhanh, bền vững và bảo đảm độc lập, tự chủ của nền kinh tế. Góp phần đưa đất
nước khơng ngừng phát triển, phấn đấu hồn thành mục tiêu có nhiều doanh nhân,
doanh nghiệp có thương hiệu đạt tầm cỡ khu vực Đông - Nam Á.

33 Nghị quyết 10-NQ/TW 2017 về phát triển kinh tế tư nhân trở thành một động lực của nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

34 TS Nguyễn Anh Tuấn- Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh -Vai trò của đội ngũ doanh nhân trong
phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội.

35 Tapchitaichinh- Phát triển đội ngũ doanh nhân Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh hội nhập kinh tế quốc tế.
36 Nghị quyết 10-NQ/TW 2017 về phát triển kinh tế tư nhân trở thành một động lực của nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

20


×