Tải bản đầy đủ (.docx) (20 trang)

Tiểu luận về điều tra viên cơ quan điều tra viện kiểm sát nhân dân tối cao – những vấn đề lý luận và thực tiễn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (154.41 KB, 20 trang )

Mục lục


2

A. MỞ ĐẦU
Trong hệ thống Viện kiểm sát nhân dân, Cơ điều tra được tổ chức, thuộc
bộ máy làm việc của Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Viện kiểm sát quân sự
trung ương. Cơ quan điều tra VKSNDTC có Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng, Điều
tra viên và các chức danh khác. Trong đó, Điều tra viên là chức danh tư pháp
chủ chốt, đóng vai trị quan trọng trong việc thực hiện thẩm quyền, nhiệm vụ của
Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Trong nhiều năm qua, điều tra
viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao đang dần khẳng định được vị trí và vai trị
của mình trên con đường phát hiện, xử lý và đấu tranh với tôi phạm xâm phạm
hoạt động tư pháp. Cũng chính qua những hoạt động đó cũng trên thực tiễn
cũng bộc lộ khơng ít những quy định cịn hạn chế về Điều tra viên của Viện
kiểm sát nhân dân tối cao , vấp phải nhiều ý kiến trái chiều về trình độ năng lực
và điều kiện thi hành chức danh của điều tra đó. Do đó em xin được lựa chọn
chủ đề: “ Điều tra viên cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao – những
vấn đề lý luận và thực tiễn” để phân tích và đưa ra kiến nghị của mình về vấn đề
trên.


3

B. NỘI DUNG
I. LÝ LUẬN CHUNG VỀ ĐIỀU TRA VIÊN CƠ QUAN ĐIỀU TRA
VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỐI CAO
1. Chức danh điều tra viên
Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Cơ quan điều tra Viện
kiểm sát quân sự trung ương điều tra tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp, tội


phạm về tham nhũng, chức vụ xảy ra trong hoạt động tư pháp theo quy định của
luật mà người phạm tội là cán bộ, công chức thuộc Cơ quan điều tra, Tòa án,
Viện kiểm sát nhân dân, Cơ quan thi hành án, người có thẩm quyền tiến hành
hoạt động tư pháp. Điều tra viên của Viện kiểm sát nhân dân là chức danh quan
trọng,là chủ thể trực tiếp thực hiện vai trò điều tra được quy định cho cơ quan
điều tra của Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
Tại khoản 1 điều 45 luật Tổ chức cơ quan điều tra hình sự 2015 quy định:
“Điều tra viên là người được bổ nhiệm để làm nhiệm vụ điều tra hình sự”. Như
vậy qua chức năng của cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao và khái
niệm về điều tra viên theo quy định của luật Tổ chức cơ quan điều tra hình sự
2015 có thể hiểu điều tra viên của Viện kiểm sát nhân dân tối cao là những
người được bổ nhiệm là nhiệm vụ điều tra hình sự đối với các tội xâm phạm
hoạt động tư pháp tại Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân tối cao.
Điều tra viên của Viện kiểm sát nhân dân tối cao cũng tương tự như các
điều tra viên khác bao gồm 3 ngạch: Điều tra viên sơ cấp, điều tra viên trung cấp
và điều tra viên cao cấp
Điều tra viên là một chức danh tư pháp theo đó nhiệm kỳ của điều tra viên
cũng giống như các chức danh tư pháp khác được bổ nhiệm lần đầu có thời hạn
là 5 năm; trường hợp được bổ nhiệm lại hoặc nâng ngạch thì thời hạn là 10 năm.
2. Nhiệm vụ, quyền hạn


4

Là người làm việc trong một trong những cơ quan có nhiệm vụ điều tra
nên ngồi việc tn thủ theo các quy định của luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân
dân 2014 , điều tra viên của cơ quan điều tra còn phải trực tiếp chịu sự điều
chỉnh của các quy định tại luật Tổ chức cơ quan điều tra hình sự 2015.
Do đó căn cứ vào điều 30 luật Tổ chức cơ quan Điều tra hình sự 2015 quy
định về nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối

cao, điều 53 quy định về nhiệm vụ, trách nhiệm, quyền hạn của điều tra viên và
Điều 92 Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân 2014, Điều tra viên của viện kiểm
sát nhân dân tối cao có các nhiệm vụ và quyền hạn sau:
- Điều tra viên được tiến hành các hoạt động kiểm tra, xác minh và các
hoạt động điều tra thuộc thẩm quyền của cơ quan điều tra theo sự phân công của
thủ trưởng, phó thủ trưởng cơ quan điều tra
- Điều tra viên thực hiện nhiệm vụ quyền hạn theo quy định của bộ luật tố
tụng hình sự khi đang được phân công giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm,
kiến nghị khởi tố và điều tra vụ án hình sự, tiến hành Điều tra tội phạm xâm
phạm hoạt động tư pháp, tội phạm về tham nhũng, chức vụ quy định tại Chương
XXIII và Chương XXIV của Bộ luật hình sự xảy ra trong hoạt động tư pháp mà
người phạm tội là cán bộ, công chức thuộc Cơ quan Điều tra, Tòa án nhân dân,
Viện kiểm sát nhân dân, cơ quan thi hành án, người có thẩm quyền tiến hành
hoạt động tư pháp khi các tội phạm đó thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân
dân.
- Điều tra viên có trách nhiệm áp dụng các biện pháp theo quy định của
BLTTHS và pháp luật khác có liên quan để điều tra, xác định sự thật vụ án một
cách khách quan, toàn diện, đầy đủ.
- Điều tra viên phải tuân theo pháp luật và chịu sự chỉ đạo trực tiếp của
thủ trưởng, phó thủ trưởng cơ quan điều tra.
- Điều tra viên phải từ chối tiến hành tố tụng hoặc bị thay đổi trong các
trường hợp BLTTHS quy định.


5

- Chấp hành quy định của pháp luật về những việc cán bộ, công chức
không được làm.
- Điều tra viên chịu trách nhiệm trước pháp luật và trước thủ trưởng, phó
thủ trưởng cơ quan điều tra về hành vi, quyết định của mình.

- Kiến nghị với cơ quan, tổ chức hữu quan áp dụng biện pháp khắc phục
nguyên nhân, Điều kiện làm phát sinh tội phạm.
- Tổ chức sơ kết, tổng kết công tác tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về
tội phạm, kiến nghị khởi tố và công tác Điều tra, xử lý tội phạm thuộc nhiệm vụ,
quyền hạn của Cơ quan Điều tra của Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
Như vậy, về nhiệm vụ, quyền hạn có thể thấy nhìn chung Điều tra viên
của cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao không có nhiều sự khác biệt
đối với các điều tra viên của các cơ quan điều tra khác, đều có những nhiệm vụ
quyền hạn chung được quy định theo luật Tổ chức cơ quan điều tra hình sự
2015. Ngồi ra cịn có những nhiệm vụ mang tính đặc thù của mỗi cơ quan ở
phạm vi hoạt động của mình. Điều tra viên của cơ quan điều tra Viện kiểm sát
nhân dân tối cao có phạm vi hoạt động hẹp hơp so với điều tra viên thông
thường, phần lớn các hoạt động chỉ tập trung điều tra, xử lí các cơng việc liên
quan đến tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp. Do đặc thù này nên đối tượng
điều tra của Điều tra viên cũng bó hẹp hơn trong phạm vi những người thực hiện
các công việc liên quan đến sự hoạt động khách quan, nghiêm minh, trong sạch
của hệ thống tư pháp nước ta như: những chủ thể làm việc tại Tòa án , Viện kiểm
sát, các cơ quan điều tra khác, chứ khơng hướng tới tồn bộ các chủ thể khác
trong xã hội.
3. Tiêu chuẩn bổ nhiệm
Tiêu chuẩn bổ nhiệm của Điều tra viên của VKSND tuân thủ theo quy
định chung và quy trình bổ nhiệm Điều tra viên được quy định tại luật Tổ chức
cơ quan điều tra 2015.Theo quy định tại Điều 46 Luật tổ chức cơ quan Điều tra


6

hình sự năm 2015 để là điều tra viên phải đáp ứng được các tiêu chuẩn chung
sau:
1. Là công dân Việt Nam trung thành với Tổ quốc và Hiến pháp nước

Cộng hịa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, có phẩm chất đạo đức tốt, liêm khiết,
trung thực, bản lĩnh chính trị vững vàng, có tinh thần kiên quyết bảo vệ pháp chế
xã hội chủ nghĩa.
2. Có trình độ đại học An ninh, đại học Cảnh sát hoặc cử nhân luật trở lên.
3. Có thời gian làm cơng tác pháp luật theo quy định của Luật này.
4. Đã được đào tạo về nghiệp vụ điều tra.
5. Có sức khỏe bảo đảm hoàn thành nhiệm vụ được giao
Tiêu chuẩn chung cho điều tra viên vẫn cịn mang tính lý thuyết cao, vẫn
cịn quy định chung chung chưa cụ thể rõ ràng. Quy định này vừa để thích hợp
với đặc thù của mỗi cơ quan điều tra khác nhau tuy nhiên cũng đem lại nhiều
thắc mắc và băn khoăn trong việc hiểu luật. Ví dụ như quy định tại khoản 1 về
bản lĩnh chính trị vững vàng hay tại khoản 5 về việc có sức khỏe để bảo đảm
hồn thành nhiệm vụ, vậy phải căn cứ vào đâu để đánh giá là đã đạt được chuẩn
quy định này cũng là vấn đề khiến nhiều người còn vướng mắc.
Điều tra viên là chức danh tư pháp được chia thành 3 ngạch như Kiểm sát
viên đó là :
-

Điều tra viên sơ cấp
Điều tra viên trung cấp
Điều tra viên cao cấp
Như vậy ngoài tiêu chuẩn chung tùy vào mỗi ngạch mà tiêu chuẩn bổ

nhiệm của Điều tra viên mỗi ngạch sẽ được nâng lên theo những mức nhất định.
Căn cứ Quy định tại Điều 47, 48, Điều 49 Luật tổ chức cơ quan Điều tra hình sự
năm 2015 có các tiêu chuẩn bổ nhiệm như sau:


7


Đối với điều tra viên sơ cấp: cần đảm bảo thời gian công tác pháp luật từ
04 năm trở lên; có năng lực điều tra các vụ án thuộc loại tội ít nghiêm trọng,
nghiêm trọng; đã trúng tuyển kỳ thi vào ngạch Điều tra viên sơ cấp
Đối với điều tra viên trung cấp: đã là điều tra viên sơ cấp ít nhất 5 năm;
có năng lực Điều tra các vụ án thuộc loại tội rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm
trọng; có khả năng hướng dẫn các hoạt động Điều tra của Điều tra viên sơ cấp;
đã trúng tuyển kỳ thi vào ngạch Điều tra viên trung cấp.
Ngoài ra, trường hợp do nhu cầu cán bộ của Cơ quan Điều tra, người đã
đáp ứng được các tiêu chuẩn chung cho điều tra viên và đáp ứng một số điều
kiện khác như có năng lực Điều tra các vụ án thuộc loại tội rất nghiêm trọng,
đặc biệt nghiêm trọng; có khả năng hướng dẫn các hoạt động Điều tra của Điều
tra viên sơ cấp; đã trúng tuyển kỳ thi vào ngạch Điều tra viên trung cấp, đã có
thời gian làm cơng tác pháp luật từ 09 năm trở lên thì có thể được bổ nhiệm làm
Điều tra viên trung cấp chứ không cần tuân thủ quy định về thời gian làm điều
tra viên sơ cấp nữa.
Đối với điều tra viên cao cấp : đã là Điều tra viên trung cấp ít nhất 05
năm; có năng lực Điều tra các vụ án thuộc loại tội phạm rất nghiêm trọng, đặc
biệt nghiêm trọng, phức tạp; có khả năng nghiên cứu, tổng hợp, đề xuất biện
pháp phịng, chống tội phạm; có khả năng hướng dẫn các hoạt động Điều tra của
Điều tra viên sơ cấp, Điều tra viên trung cấp; đã trúng tuyển kỳ thi vào ngạch
Điều tra viên cao cấp.
Trong trường hợp do nhu cầu cán bộ của Cơ quan Điều tra, người tuy
không đáp ứng được quy định về thời gian làm điều tra viên trung cấp nhưng
đáp ứng được các điều kiện cịn lại và đã có thời gian làm cơng tác pháp luật từ
14 năm trở lên thì có thể được bổ nhiệm làm Điều tra viên cao cấp.
Như vậy có thể thấy tiêu chuẩn để bổ nhiệm điều tra viên tăng dần theo
các ngạch, ngạch càng cao thì yêu cầu về trình độ nghiệp vụ, sự tích lũy kinh


8


nghiệm, thời gian công tác càng phải tăng cao. Để là điều tra viên nói chung hay
là điều tra viên của VKSND thì thơng thường đều phải trải qua kỳ thi tuyển điều
tra viên của Hội đồng thi tuyển. Đối với Điều tra viên của VKSND sẽ trải qua kỳ
thi tuyển của Hội đồng thi tuyển Điều tra viên ở Viện kiểm sát nhân dân tối cao
gồm có Chủ tịch là Phó Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao do Viện
trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao chỉ định; các ủy viên là đại diện Uỷ ban
kiểm sát Viện kiểm sát nhân dân tối cao, đại diện lãnh đạo Viện kiểm sát quân sự
Trung ương, Cơ quan Điều tra và Vụ Tổ chức Cán bộ Viện kiểm sát nhân dân tối
cao.
Danh sách uỷ viên Hội đồng thi tuyển Điều tra viên ở Viện kiểm sát nhân
dân tối cao do Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao quyết định theo đề
nghị của Chủ tịch Hội đồng thi tuyển.
Việc thông qua kỳ thi tuyển tạo nên sự khách quan, công bằng trong việc
lựa chọn, đánh giá đúng những người có năng lực đảm nhiệm cơng tác điều tra
cho cơ quan điều tra. Tuy nhiên không phải bất kỳ trường hợp nào cũng phải trở
qua thi tuyển mới có thể trở thành Điều tra viên trung cấp và Điều tra viên cao
cấp. Luật có quy định trong những trường hợp đặc biệt, tuy không đáp ứng được
những tiêu chuẩn về thời hạn công tác, chưa được đào tạo về nghiệp vụ nhưng
nếu đáp ứng được các điều kiện cịn lại thì vẫn có thể được bổ nhiệm làm điều
tra viên cho hai ngạch trên. Đây là sự linh động của luật pháp, trọng dụng được
người có năng lực trong những trường hợp đặc biệt nhưng bên cạch đó cũng đặt
ra các câu hỏi khác về sự nhạy bén, sắc sảo trong công tác và chuyên môn
nghiệp vụ của những người được bổ nhiệm theo diện này. Mặt khác việc quy
định các trường hợp đặc biệt cũng không được quy định một cách rõ ràng có thể
dẫn đến việc lạm dụng quy định này trên thực tiễn.
4. Sự khác biệt giữa Điều tra viên của VKSND và Điều tra viên của
CQĐT



9

Mặc dù đều là chức danh điều tra viên và có nhiều điểm chung nhất định
những giữa điều tra viên của VKSND và điều tra viên của CQĐT vẫn có những
khác biệt nhất định về mặt lý luận, nhiệm vụ và hoạt động thực tiễn mà cần phải
nắm để từ đó có cái nhìn tổng qt nhất về điều tra viên của các cơ quan. Có thể
theo dõi sự khác nhau cơ bản giữa điều tra viên của hai cơ quan thơng qua một
số tiêu chí so sánh sau:
ĐTV CQĐT
CAND

ĐTV CQĐT
VKSNDTC

Vị trí

Là biên chế ngành
Là biên chế ngành
CAND: gồm CSĐT và
KSND: Cơ quan điều tra
ANĐT (điều 5 Luật điều
Viện kiểm sát nhân dân
tra HS 2015)
tối cao (cục 6)

Thẩm quyền

Điều tra tất cả các tội
phạm, trừ những tội
phạm thuộc thẩm quyền

điều tra của Cơ quan điều
tra trong Quân đội nhân
dân và Cơ quan điều tra
của Viện kiểm sát nhân
dân tối cao.

Điều tra tội phạm xâm
phạm hoạt động tư pháp,
tội phạm về tham nhũng,
chức vụ quy định tại
Chương
XXIII

Chương XXIV của Bộ
luật hình sự xảy ra trong
hoạt động tư pháp mà
người phạm tội là cán bộ,
cơng chức thuộc Cơ quan
Điều tra, Tịa án nhân
dân, Viện kiểm sát nhân
dân, cơ quan thi hành án,
người có thẩm quyền tiến
hành hoạt động tư pháp
khi các tội phạm đó thuộc
thẩm quyền xét xử của
Tịa án nhân dân.(38 tội
danh)

Bổ nhiệm


Bổ nhiệm ĐTV trong hệ
thống CQĐT thuộc lực
lượng CAND: CQĐT
trong lực lượng CAND
chia làm hai cấp là các
CQĐT thuộc Bộ Công an

Bổ nhiệm ĐTV trong
CQĐT của VKSND tối
cao:Hội đồng tuyển chọn
ĐTV do một Phó Viện
trưởng VKSNDtối
caolàm Chủ tịch, đại diện


10

và các CQĐT địa phương
(cấp tỉnh, huyện), nên có
hai Hội đồng tuyển chọn
ĐTV.

Chế độ lương, phụ cấp, Căn cứ Quyết định số

91/2009/QĐ-TTg, ngày
06/7/2009 của Thủ tướng
Chính phủ. Tức là ở đây
phải tn theo quy định
trong ngành CAND


Trình độ chun mơn

Ủy ban kiểm sát
VKSNDTC, đại diện
lãnh đạo Viện kiểm sát
Quân sự trung ương,
CQĐT và Vụ Tổ chức cán bộ VKSNDTC là ủy
viên.
Căn cứ Quyết định số
138/2005/QĐ-TTg "Về
chế độ phụ cấp trách
nhiệm đối với Kiểm sát
viên, Điều tra viên và
Kiểm tra viên ngành
Kiểm sát". Tức ở đây
phải tuân theo quy định
trong ngành KSND.

Có trình độ là đại học An Thường là cử nhân luật
ninh, Đại học cảnh sát

II. THỰC TIỄN HOẠT ĐỘNG CỦA ĐIỀU TRA VIÊN VIỆN KIỂM
SÁT NHÂN DÂN TỐI CAO – HẠN CHẾ TRONG HOẠT ĐỘNG CỦA
ĐIỀU TRA VIÊN VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỐI CAO
1. Thực tiễn hoạt động của điều tra viên
1.1 Thành quả đạt được
Không thể phủ nhận kể từ khi được thành lập,trải qua nhiều sự thay đổi,
Cơ quan điều tra của VKSND đạt được nhiều thành tự nhất định trong việc thực
hiện vai trò, nhiệm vụ của mình trong cơng tác đấu tranh phịng chống tội phạm.
Trải qua nhiều vụ án Cơ quan điều tra của VKSND đã chứng minh được vai trị

của mình là thanh bảo kiếm bảo vệ sự hoạt động nghiêm minh trong sạch của
các cơ quan tư pháp được thể hiện qua các số liệu sau:
Từ năm 2003 đến năm 2009, Cơ quan điều tra Viện kiểm sát đó tiếp nhận
2192 tin, trong đó có 450 tin về xâm phạm hoạt động tư pháp; đó khởi tố 70
vụ/95 bị can (chủ yếu là các vụ án về tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp).


11

Từ năm 2010 đến nay, thực hiện Điều 4 Quy chế 1169/2010 ngày
19/8/2010 của Viện trưởng Viện KSND tối cao về tổ chức và hoạt động của Cơ
quan điều tra VKSND tối cao, Cơ quan điều tra VKSNDTC đó tiếp nhận tổng số
2677 thông tin vi phạm, tội phạm. Qua phân loại, xử lý xác định 595 tố giác, tin
báo về tội phạm thuộc thẩm quyền giải quyết. Trong đó, Cơ quan điều tra Viện
KSND tối cao khởi tố, thụ lý tổng số 169 vụ/ 206 bị can. Trong đó, ngành Công
an: 82 vụ/ 130 bị can (Chiếm 48,5 % số vụ; 63% số bị can); ngành Kiểm sỏt: 10
vụ/ 13 bị can (Chiếm 5,9 % số vụ; 6,3 % số bị can); ngành Tòa án: 33 vụ/28 bị
can (Chiếm 19,5 % số vụ; 13,3% số bị can); ngành Thi hành ỏn: 37 vụ/ 32 bị
can (chiếm 21,9 % số vụ; 16 % số bị can); ngành khác: 07 vụ/ 03 bị can (Chiếm
4,2 % số vụ; 1,4% số bị can). Về cơ cấu tội phạm: Tội phạm xâm phạm hoạt
động tư pháp: 74 vụ /97 bị can; Tội phạm về tham nhũng, chức vụ và tội phạm
khác trong quá trình thực hiện cỏc hoạt động tư pháp: 95 vụ/ 109 bị can (Tội
phạm về tham nhũng, chức vụ: 86 vụ/103 bị can).
Quá trình khởi tố và thụ lý điều tra, Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân
dân tối cao luôn tuân thủ đầy đủ các quy định của pháp luật, đảm bảo việc điều
tra và lập hồ sơ xử lý đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không bỏ lọt tội
phạm, không làm oan người vô tội. Không có vụ án nào phải đình chỉ điều tra vì
bị can không phạm tội hoặc đề nghị truy tố mà Tịa án tun khơng phạm tội.
Khơng có vụ án nào bị hủy án để điều tra lại. Số vụ án phải trả hồ sơ để điều tra
bổ sung chiếm tỷ lệ thấp. Trong đó đó phỏt hiện, điều tra, xử lý nhiều vụ án đặc

biệt nghiêm trọng, phức tạp, được dư luận quan tâm; ví dụ như:
- Vụ án Ngơ Thanh Phong, Nguyễn Văn Nên và Phạm Văn Út bị khởi tố
về tội “Lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ” xảy ra tại Cơ
quan Cảnh sát điều tra Cơng an tỉnh Tiền Giang do có hành vi sử dụng tiền tang
vật trong vụ án để gửi ngân hàng thu lợi hơn 1,2 tỷ đồng.
Ngày 24/6/2013, Tịa án Nhân dân tỉnh Tiền Giang đó tuyờn phạt bị cáo
Ngô Thanh Phong 03 năm tù giam; bị cáo Phạm Văn Út 01 năm tù giam về tội
“Lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ”.


12

Trong quá trình điều tra vụ án trên, Cơ quan điều tra Viện KSND tối cao
còn phát hiện một số hành vi vi phạm nhưng chưa được xử lý nên đã khởi tố 02
vụ án có liên quan chuyển cho Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Hải
Phòng để điều tra giải quyết.
Cùng với việc chủ động phát hiện, xử lý nghiêm minh các hành vi xâm
phạm hoạt động tư pháp, Cơ quan điều tra VKSNDTC đó đặc biệt chú trọng và
tích cực phát hiện, xác định nguyên nhân, điều kiện dẫn đến vi phạm, tội phạm
để kiến nghị đến các cơ quan hữu quan có biện pháp xử lý và phòng ngừa. Trong
thời gian từ 2010 đến nay, Cơ quan điều tra VKSND tối cao đó ban hành 198
bản kiến nghị đến các cơ quan tư pháp Trung ương và địa phương để xử lý và
phòng ngừa vi phạm, tội phạm, trong đó 107 kiến nghị đến ngành Công an
(chiếm 54,1%), 41 kiến nghị đến ngành Tòa án (chiếm 20,7%), 20 kiến nghị đến
ngành Thi hành án dân sự (chiếm 10,1 %), 23 kiến nghị đến ngành Kiểm sát
(chiếm 11,6 %)và 07 kiến nghị đến ngành khác (chiếm 3,5%). Các kiến nghị đều
được các cơ quan hữu quan tiếp thu và thực hiện. 1 Để đạt được những thành tựu
này là cả một quá trình đấu tranh không mệt mỏi của cả một hệ thống các cơ
quan nhà nước nói chung, và của cơ quan điều tra mà trong đó vai trị chủ chốt
phải kể đến sự tận tụy, nhiệt tình hết lịng của các điều tra viên cơ quan điều tra

VKSND
1.2 Hạn chế, tồn tại
Tuy nhiên, chính thơng qua hoạt động thực tiễn mà cũng bộc lộ nhiều
điểm còn hạn chế, tồn tại đến từ nhiều ngun nhân như chính sách pháp luật,
trình độ chun mơn, sự phối hợp của các cơ quan cịn lỏng lẻo, hạn chế.
Về mặt pháp lý, các quy định về hoạt động, nhiệm vụ của điều tra viên
VKSND còn chưa cụ thể , rõ ràng, trong nhiều trường hợp còn có sự chồng chéo
1 Bài viết: “Hoạt động điều tra của Viện kiểm sát nhân dân tối cao theo yêu cầu cải
cách tư pháp”- TS Nguyễn Thị Quỳnh Chi, ngày 12/11/2014


13

giữa thẩm quyền giữa các cơ quan điều tra. Các quy định về việc tiếp nhận tin
báo và xử lý tố giác tội phạm cũng còn hạn chế đối với cơ quan điều tra, sự kết
hợp giữa các cơ quan khác còn chưa đem lại hiệu quả cao, trong nhiều trường
hợp cịn mang tính hình thức.
Mặt khác, các quy định về bổ nhiệm, thi tuyển còn chưa chặt chẽ sẽ là lỗ
hổng trong việc thi tuyển, lựa chọn người tài để phục vụ cho cơ quan điều tra.
Số lượng và chất lượng của điều tra viên cũng là điểm cần khắc phục. Đơn cử
như: Về cán bộ lãnh đạo Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao thời
điểm này gồm có: Cục trưởng và 5 Phó Cục trưởng; 5 Trưởng phịng, 8 Phó
Trưởng phịng và 16 Đội Trưởng Đội nghiệp vụ, trong đó có 33 Điều tra viên
các cấp (15 Cao cấp, 16 Trung cấp và 2 Sơ cấp). Về trình độ có 2 Tiến sỹ luật, 7
Thạc sỹ luật, 28 Cử nhân luật, 5 Cử nhân chuyên ngành khác, 8 đồng chí tốt
nghiệp Học viện An ninh nhân dân và Học viện Cảnh sát nhân dân. Từ đó đến
nay, Cơ quan điều tra VKSNDTC đã tiếp nhận tổng số 2677 thông tin vi phạm,
tội phạm, qua phân loại, xử lý xác định 595 tố giác, tin báo về tội phạm thuộc
thẩm quyền giải quyết và đã khởi tố, thụ lý tổng số 169 vụ/ 206 bị can. 2 Với số
lượng công việc lớn nhưng số lượng điều tra viên hạn chế đã gây khó khăn rất

lớn cho quá trình thực thi nhiệm vụ của các điều tra viên.Cùng với đó, sự ra đời
của Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân 2014, Bộ luật tố tụng hình sự 2015,
Luật tổ chức cơ quan điều tra năm 2015 đã phạm vi thẩm quyền của cơ quan
điều tra VKSNDTC đã mở rộng hơn rất nhiều. Về số lượng tội phạm, trước đây
CQĐT VKSNDTC chỉ tiến hành điều tra đối với một số loại tội phạm xâm phạm
hoạt động tư pháp, đến nay, có thẩm quyền điều tra với 38 tội danh gồm tất cả
các tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp quy định tại Chương XXIV BLHS
năm 2015 và các tội phạm về tham nhũng, chức vụ xảy ra trong hoạt động tư

2 Bài viết “Cơ quan điều tra VKSNDTC 55 năm xây dựng và trưởng thành”- Vũ Đăng Khoa, Kiểm sát
viên, VKSNDTC, Thủ trưởng CQĐT VKSNDTC, TCKS số 8/2017


14

pháp theo quy định tại Chương XXIII BLHS năm 2015. Theo đó, chủ thể phạm
tội thuộc thẩm quyền điều tra của CQĐT VKSNDTC cũng tăng lên.
Khơng chỉ vậy trình độ, chất lượng của các điều tra viên hiện nay còn hạn
chế. Các điều tra viên chủ yếu là những kiểm sát viên dày dạn kinh nghiệm
trong lĩnh vực thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra nhưng lại không
được đào tạo một cách bài bản về nghiệp vụ điều tra đây có thể xem là hạn chế
rất lớn của điều tra viên VKSND. Trong khi đó, các đối tượng của hoạt động
điều tra lại là những người công tác trong lĩnh vực tư pháp, hiểu biết pháp luật
sâu sắc, rất nhiều thủ đoạn để đối phó với CQĐT. Điều tra viên khơng trải qua
một q trình đào tạo bài bản nhiều năm như điều tra viên của điều tra viên của
CQĐT khác. Nhiều điều tra viên khi tiến hành cơng vụ cịn nể nang, dễ bị tác
động bởi sức ép bởi mối quan hệ của đối tượng bị điều tra với những người có
địa vị cao trong cơ quan nhà nước dẫn đến kết quả điều tra chưa phản ánh đúng
sự thật khách quan. Chế độ lương, phụ cấp đối với điều tra viên chưa được đảm
bảo dẫn đến không thu hút được nguồn nhân lực chất lượng cho CQĐT, không

đảm bảo cho các điều tra viên yên tâm tham gia công tác.
Trên thực tiễn, các điều kiện để Điều tra viên VKSND thực hiện nhiệm vụ
của mình cũng cịn hạn chế như việc trang bị vũ khí, công cụ hỗ trợ cho điều tra
viên. Trước đây, theo quy định của Pháp lệnh về quản lý, sử dụng vũ khí vật liệu
nổ và cơng cụ hỗ trợ cũng có phần hạn chế hơn so với Điều tra viên của CQĐT,
những điều kiện để đảm bảo về lực lượng bảo đảm sức khỏe, tính mạng cho
những điều tra viên này cũng chưa thực sự được chú trọng. Mặt khác, CQĐT
VKSND tối cao khơng có hệ thống nhà tạm giữ, trại tạm giam, trại giam do
mình quản lý do đó bị can vẫn phải gửi giam giữ tại trại tạm giam của Bộ quốc
phòng. Điều này gây ảnh hưởng rất lớn đến quá trình điều tra của điều tra viên
khi việc hỏi cung, đối chất, thực nghiệm điều tra hay nhận dạng tiến hành một
cách thụ động nhất là không thể đáp ứng những trường hợp tiến hành hỏi cung
đột xuất, nhiều trường hợp khơng thể đảm bảo được bí mật điều tra cũng như
đảm bảo an toàn cho bị can, bị cáo. Nó chính là nền tảng, căn cơ cho việc bị can,


15

bị cáo bị bức cung, nhục hình, mớm cung,… các vi phạm nghiêm trọng khác
trong việc điều tra như quản lí lỏng lẻo, giúp đỡ phạm nhân bỏ trốn,..
Hơn nữa, nguyên tắc tổ chức quyền lực nhà nước cần có sự chế ước, giám
sát giữa các cơ quan quyền lực, tuy nhiên trên thực tế khi thực hiện hoạt động
của mình, các điều tra viên cịn bị vấp phải nhiều vấn đề liên quan đến đạo đức
của người hành nghề, còn xảy ra vấn đề vi phạm pháp luật, tham nhũng trong
khi thực hiện nhiệm vụ của mình mà chưa có cơ chế giám sát chặt chẽ từ các cơ
quan khác, khiến hoạt động của điều tra viên vẫn chưa thực sự hiệu quả cao.
2. Kiến nghị khắc phục hạn chế
Để nâng cao hiệu quả hoạt động cũng như phát huy tối đa toàn lực của cơ
quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao nói chung và Điều tra viên của
VKSND nói riêng cần phải khắc phục những điểm còn hạn chế trên tất cả các

mặt:
Thứ nhất, tạo sự thống nhất và các chế định pháp lý hoàn chỉnh để là nền
tảng lý luận vững chắc để có thể tiến hành hoạt động của Điều tra viên trên thực
tế. Cần có những quy định cụ thể chi tiết hơn cũng như củng cố thêm về thẩm
quyền và các điều kiện hỗ trợ cho Cơ quan điều tra VKSND để đảm bảo điều
kiện thực hiện trên thực tế. Mặt khác trên con đường cải cách tư pháp cũng cần
cân nhắc đến những yếu tố xung quanh như sự quản lí trại giam, cơ chế giám sát
để có sự điều chỉnh phù hợp hơn với xã hội, vừa không làm mất đi tính độc lập
của các cơ quan mà vẫn có sự giám sát, điều chỉnh từ các cơ quan khác tránh
trường hợp bỏ lọt tội phạm hoặc các hoàn cảnh không khách quan khác. CQĐT
VKSNDTC cần được tổ chức lại theo mơ hình hiệu quả hơn trong đó CQĐT
được tổ chức tập trung, thống nhất ở VKSND tối cao và có nhiều hơn các
thường trực CQĐT ở các tỉnh, thành phố, để vừa bảo đảm việc phát hiện và phân
loại, xử lý thông tin tội phạm được kịp thời, chính xác; việc điều tra xử lý tội
phạm đảm bảo thời hạn tố tụng, phát huy sức mạnh đồng bộ của cả hệ thống
VKSND, vừa bảo đảm hoạt động độc lập, chỉ huy thống nhất của Thủ trưởng


16

CQĐT và chỉ đạo của Viện trưởng VKSND tối cao. Lực lượng điều tra viên của
VKSNDTC cần được tăng cường số lượng và phân bổ đều về các khu vực, địa
phương để kịp thời phát hiện, điều tra xử lý trong phạm vi thẩm quyền các tội
phạm tư pháp, tham nhũng tại các đơn vị hành chính trên cả nước.
Thứ hai, Đội ngũ Điều tra viên cần được bổ sung về số lượng để có thể
đảm bảo nguồn nhân lực cần thiết cho thực hiện nhiệm vụ đặc thù phức tạp. Cần
phải thay đổi chính sách thu hút cũng như đào tạo nhân lực chất lượng cao cho
CQĐT VKSND. Chế độ lương, phụ cấp đối với điều tra viên cần được cải thiện
để thu hút nguồn nhân lực chất lượng. Để làm được điều đó, cần phải làm cho
tồn thể xã hội hiểu được vai trò của Viện kiểm sát trong việc bảo vệ nhà nước,

xã hội chủ nghĩa, quyền con người và quyền cơng dân; có như vậy mới thu hút
được sức dân tạo nguồn tài chính hợp lý cho ngành.
Thứ ba, nâng cao trình độ khả năng của điều tra viên bằng cách xây dựng
những chương trình đào tạo nghiệp vụ điều tra đặc thù phù hợp cho cán bộ điều
tra ngành kiểm sát nhân dân bởi nhiệm vụ đối với các tội phạm đặc thù của
chúng ta. Đồng thời điều tra viên phải được đào tạo bài bản để có sự nhận thức
đầy đủ, đúng đắn các quy định của pháp luật ở nhiều lĩnh vực, có bản lĩnh chính
trị, nghiệp vụ vững vàng, có kinh nghiệm điều tra mới đáp ứng được yêu cầu
đấu tranh phòng, chống tội phạm tư pháp.
Thứ tư, đẩy mạnh sự phối hợp giữa các Viện kiểm sát các cấp trong ngành
cũng như sự phối hợp hoạt động liên ngành với các cơ quan khác nhằm nâng cao
khả năng phát hiện, điều tra và xử lý kịp tội phạm. Do lực lượng của CQĐT
VKSNDTC còn mỏng và yếu nên việc phối hợp trong ngành và liên ngành cũng
là yếu tố quan trọng nhằm nâng cao hiệu quả xử lý các tội phạm xâm phạm hoạt
động tư pháp và các tội phạm tham nhũng chức vụ trong hoạt động tư pháp. Bởi
đây là những tội phạm đặc thù, khó phát hiện, để có thể thực hiện tốt nhiệm vụ
của mình, CQĐT VKSNDTC cần có sự giúp đỡ của tồn thể ngành và các cơ
quan khác.


17


18

C. KẾT LUẬN
Có thể nói, hoạt động điều tra là một quyền năng quan trọng và được ví
như “quyền cơng tố nối dài” của Viện kiểm sát; không thể bảo đảm thực hiện tốt
chức năng, nhiệm vụ của ngành Kiểm sát nếu khơng có hoạt động điều tra trực
tiếp. Trước yêu cầu của cải cách tư pháp, hội nhập quốc tế và đấu tranh phịng,

chống các tội phạm nói chung và tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp nói
riêng thì Cơ quan điều tra VKSNDTC ngày càng phải được củng cố, tăng cường
để bảo đảm thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của ngành Kiểm sát và đáp ứng
với yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới. Đồng thời với đó Điều tra viên càng
phải nỗ lực nâng cao nghệp vụ, hồn thành trọng trách của mình để xứng đáng
với lòng tin yêu và nhiệm vụ mà nhân dân đã giao phó. Củng cố lịng tin của
nhân dân vào nhà nước,góp phần xây dựng một nền tư pháp trong sạch, vững
mạnh.


19

D. DAMH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015
2. Luật tổ chức cơ quan điều tra hình sự 2015
3. Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân 2015
4. Luật quản lý, sử dụng vũ khí, vật liệu nổ, cơng cụ hỗ trợ năm 2017
5. Pháp lệnh về quản lý, sử dụng vũ khí, vật liệu nổ, công cụ hỗ trợ

năm

2011
6. Tập bài giảng Lý luận chung về VKS và công tác kiểm sát – Trường
ĐHKSHN
7. Giáo trình đào tạo bồi dưỡng nghiệp vụ kiểm sát tập 1- Trường ĐHKSHN
- 2017
8. Bài viết “Cơ quan điều tra VKSNDTC 55 năm xây dựng và trưởng
thành” của tác giả Vũ Đăng Khoa, Kiểm sát viên, VKSNDTC, Thủ trưởng
CQĐT VKSNDTC, TCKS số 8/2017
9. Bài viết “Đổi mới tổ chức, hoạt động của CQĐT VKSNDTC đáp ứng yêu

cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới” của tác giả TS. Nguyễn Hải Phong,
Phó Viện trưởng thường trực VKSNDTC, TCKS số 8/2017.
10.
Bài viết “Hoạt động điều tra của Viện kiểm sát nhân dân tối cao
theo yêu cầu cải cách tư pháp”- TS Nguyễn Thị Quỳnh Chi, ngày
12/11/2014
11.
Tài liệu Hội thảo “ Công tác điều tra của CQĐT VKSND” – TS
Nguyễn Xuân Hưởng
12.
/>13.
/>14.
/>

20



×