Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

SKKN Giáo dục công dân 6 Rèn Kỹ năng sống cho hs lớp 6

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (819.61 KB, 17 trang )

1
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
ĐƠN YÊU CẦU CÔNG NHẬN SÁNG KIẾN

Kính gửi: Hội đồng sáng kiến
Tơi (chúng tơi) ghi tên dưới đây:
Là tác giả (nhóm tác giả) đề nghị xét công nhận sáng kiến: “Rèn luyện kĩ
năng sống cho học sinh thông qua môn Giáo dục công dân 6”
1. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến (trường hợp tác giả không đồng thời là
chủ đầu tư tạo ra sáng kiến): Không
2. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Bộ môn Giáo dục công dân
3. Ngày sáng kiến được áp dụng lần đầu hoặc áp dụng thử, (ghi ngày
nào sớm hơn): Tháng 8/2019 tại trường
4. Mô tả bản chất của sáng kiến:
4.1. Những vấn đề chung:
Mơn Giáo dục cơng dân nói chung và mơn Giáo dục cơng dân ở trường
THCS nói riêng là mơn học có vai trị quan trọng trong việc thực hiện nhiệm vụ
xây dựng tư cách và trách nhiệm công dân cho học sinh mà Luật giáo dục đã xác
định: “Mục tiêu của giáo dục phổ thông là giúp học sinh phát triển tồn diện về
đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mĩ và các kĩ năng cơ bản nhằm hình thành nhân
cách con người Việt Nam, xây dựng tư cách và trách nhiệm công dân, chuẩn bị cho
học sinh tiếp tục học lên hoặc đi vào cuộc sống lao động, tham gia xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc”. Môn học cung cấp cho học sinh một hệ thống các giá trị đạo đức,
pháp luật và các chuẩn mực lối sống phù hợp với lứa tuổi, giúp học sinh biết sống
hòa nhập trong xã hội hiện tại với tư cách là những cơng dân tích cực, năng động;
góp phần quan trọng hình thành những phẩm chất, năng lực cần thiết của nhân cách
con người Việt Nam nhằm đáp ứng u cầu của sự nghiệp cơng nghiệp hóa – hiện
đại hóa đất nước, tăng cường khả năng hội nhập trong xu thế phát triển và tiến bộ
của thời đại.




2
Để nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện thế hệ trẻ, đáp ứng nguồn lực và
đáp ứng yêu cầu phát triển của người học, giáo dục phổ thông đã và đang được đổi
mới mạnh mẽ theo bốn trụ cột của thế kỉ XXI, mà thực chất là cách tiếp cận kĩ năng
sống, đó là “Học để biết, học để làm, học để tự khẳng định mình và học để cùng
chung sống”. Mục tiêu giáo dục phổ thông đã và đang chuyển hướng từ trang bị
kiến thức sang trang bị những năng lực cần thiết cho các em học sinh. Phương pháp
giáo dục phổ thông cũng đã và đang được đổi mới theo hướng phát huy tính tích
cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của người học, phù hợp với đặc điểm của từng lớp
học, tăng cường khả năng làm việc theo nhóm, rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến
thức vào thực tiễn, tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho
học sinh. Nội dung giáo dục kĩ năng sống đã được tích hợp trong môn học. Việc
giáo dục kĩ năng sống cho học sinh cịn được thực hiện thơng qua nhiều chương
trình, dự án như: giáo dục bảo vệ mơi trường, giáo dục phịng chống HIV/AIDS,
giáo dục phòng chống ma túy... Đặc biệt bộ tài liệu “Giáo dục kĩ năng sống” dành
cho học sinh THCS đã chính thức được được đưa vào dạy học từ tháng 10 năm
2016- 2017, được bố trí dạy lồng ghép, tích hợp với các mơn học gần gũi khác ở
mỗi khối lớp, trở thành “cẩm nang” giáo dục kĩ năng sống riêng biệt có tính chất
đặc thù đối với giáo viên dạy bộ môn Giáo dục công dân.
4.2. Thực trạng của vấn đề:
Hiện nay, nội dung giáo dục kĩ năng sống đã được đưa vào giảng dạy ở các
trường dưới nhiều hình thức khác nhau. Chương trình hành động về giáo dục cho
mọi người đặt ra trách nhiệm cho các trường phải đảm bảo cho người học được tiếp
cận với chương trình giáo dục kĩ năng sống phù hợp và cần thiết được coi là một
nội dung của chất lượng giáo dục.
Lứa tuổi học sinh là lứa tuổi đang hình thành nhân cách, giàu ước mơ, ham
hiểu biết, thích tìm tịi, khám phá song cịn thiếu kinh nghiệm sống, dễ bị lơi kéo,
kích động... Đặc biệt thế hệ trẻ thường xuyên chịu tác động đan xen của những yếu

tố tích cực và tiêu cực, ln phải đặt vào hồn cảnh phải lựa chọn những giá trị,
phải đương đầu với khó khăn, thách thức, những áp lực tiêu cực, bạo lực, với lối
sống ích kỉ, thực dụng, dễ bị phát triển lệch lạc về nhân cách. Một trong những
nguyên nhân dẫn đến các hiện tượng tiêu cực của một bộ phận học sinh phổ thông
thời gian vừa qua như: bạo lực học đường, đua xe máy, ăn chơi sa đọa, các trị chơi
điện tử... chính là các em thiếu kĩ năng sống cần thiết như: Kĩ năng thể hiện sự cảm
thông, kĩ năng tư duy phê phán, kĩ năng ra quyết định, kĩ năng hợp tác, kĩ năng tìm
kiếm sự hỗ trợ, kĩ năng tìm kiếm và xử lí thơng tin, kĩ năng đảm nhận trách nhiệm,
kĩ năng giải quyết mâu thuẫn, kĩ năng giao tiếp...


3
Trường THCS ngay từ đầu năm học mới Ban giám hiệu nhà trường đã triển
khai và tập huấn về công tác giáo dục kĩ năng sống tới toàn thể cán bộ giáo viên,
nhân viên và học sinh trong nhà trường. Trong q trình giảng dạy các giáo viên
dạy bộ mơn cũng đã có sự tích hợp nội dung giáo dục kĩ năng sống cho học sinh
thông qua các môn học như Ngữ văn, Giáo dục công dân, Địa lý, Sinh học, Lịch sử,
Hóa học, Cơng nghệ, Âm nhạc, Mĩ thuật,... Ngồi việc tích hợp nội dung này thơng
qua các mơn học, nhà trường còn chú ý lồng ghép giáo dục kĩ năng sống cho các
em vào các hoạt động tập thể như các giờ chào cờ, giờ sinh hoạt, hoạt động ngồi
giờ lên lớp, các buổi ngoại khóa, các buổi lao động, các hoạt động vui chơi như tổ
chức Văn nghệ, Hội trại, Hội khỏe Phù Đổng… khuyến khích các em tham gia vào
các câu lạc bộ như: Câu lạc bộ thể dục thể thao, Câu lạc bộ văn hóa văn nghệ, Câu
lạc bộ Mĩ thuật để cho các em có nhiều cơ hội rèn luyện các kĩ năng sống có ích
cho bản thân.
Các em chưa có kĩ năng làm chủ bản thân, chưa xử lí linh hoạt các tình
huống giao tiếp hằng ngày để thể hiện lối sống có đạo đức, có văn hóa. Một số em
chưa có thái độ phê phán đối với những biểu hiện thiếu lành mạnh, chưa tự tin tham
gia các hoạt động.
Trong năm học 2019 – 2020, Trường THCS , khối lớp 6 có 2 lớp với tổng số

học sinh là 48 em. Trước khi tiến hành áp dụng đề tài này, ngay từ đầu năm học,
tơi đã tiến hành khảo sát tình hình học sinh mà tôi được phân công giảng dạy môn
GDCD lớp 6. Qua khảo sát, tôi thấy 48/48 học sinh lớp 6 chưa hiểu biết được đầy
đủ các kĩ năng sống cơ bản và sự cần thiết của các kĩ năng sống có thể giúp cho bản
thân sống tự tin, lành mạnh, phòng tránh được các nguy cơ gây ảnh hưởng xấu đến
sự phát triển thể chất và tinh thần của các em.
Các em học sinh lớp 6 của trường hầu hết sinh ra trong gia đình làm nghề
nơng thuần túy. Là một xã vùng kinh tế xã hội còn khá nhiều khó khăn, nên người
dân và các em học sinh ít có điều kiện, thời gian tiếp cận thơng tin qua các phương
tiện thơng tin đại chúng nên trình độ nhận thức của người dân và học sinh còn
nhiều hạn chế. Các em phải lao động phụ giúp gia đình ngồi giờ học nên điều kiện
để đọc sách báo, hay theo dõi thơng tin đại chúng cịn ít. Chính vì vậy 100% các
em chưa nhận thức được một cách đúng đắn và đầy đủ về những vấn đề xã hội có
nguy cơ ảnh hưởng đến cuộc sống an tồn và lành mạnh của bản thân.
Xuất phát từ tình hình đã nêu ở trên, bằng thực tế kinh nghiệm của bản thân
trong q trình làm cơng tác dạy học, tơi đã mạnh dạn đề ra và tham mưu với Ban
giám hiệu nhà trường cùng các ban ngành đoàn thể khác trong đơn vị một số biện


4
pháp và kinh nghiệm giáo dục kĩ năng sống cho học sinh của trường có hiệu quả
thiết thực.
4.3. Các biện pháp giải quyết vấn đề:
Nội dung giáo dục kĩ năng sống cho học sinh trong nhà trường phổ thông
tập trung vào các kĩ năng tâm lí – xã hội là những kĩ năng được vận dụng trong
những tình huống hằng ngày để làm chủ bản thân, tương tác với người khác và giải
quyết có hiệu quả những vấn đề, những tình huống của cuộc sống. Việc hình thành
những kĩ năng này không loại bỏ mà ngược lại phải gắn kết và song hành với việc
hình thành các kĩ năng học tập như: nghe, nói, đọc, viết, tính tốn...
Nội dung giáo dục kĩ năng sống cần được vận dụng linh hoạt tùy theo từng

lứa tuổi, cấp học, môn học, hoạt động giáo dục và điều kiện cụ thể.
Giáo dục kĩ năng sống cho học sinh trong nhà trường bao gồm nhiều kĩ năng.
Tuy nhiên, do tình hình thực tế của Trường THCS , tôi chỉ áp dụng một số kĩ năng
sống cơ bản sau:
4.3.1. Các kĩ năng sống cơ bản:
* Kĩ năng thể hiện sự cảm thông:
Kĩ năng thể hiện sự cảm thơng là khả năng có thể hình dung và đặt mình
trong hồn cảnh của người khác, giúp chúng ta hiểu và chấp nhận người khác vốn
là những người rất khác mình, qua đó chúng ta có thể hiểu cảm xúc và tình cảm của
người khác và cảm thơng vời hoàn cảnh hoặc nhu cầu của họ và biết thể hiện sự
cảm thơng bằng những lời nói, cử chỉ, hành động, việc làm cụ thể phù hợp.
Kĩ năng này có ý nghĩa quan trọng trong việc tăng cường hiệu quả giao tiếp
và ứng xử với người khác; cải thiện các mối quan hệ giao tiếp xã hội. Kĩ năng thể
hiện sự cảm thơng cũng giúp khuyến khích thái độ quan tâm và hành vi thân hiện,
gần gũi với những người cần giúp đỡ.
Kĩ năng thể hiện sự cảm thông được dựa trên kĩ năng tự nhận thức và kĩ năng
xác định giá trị, đồng thời là yếu tố cần thiết trong kĩ năng giao tiếp, giải quyết vấn
đề, giải quyết mâu thuẫn, thương lượng, kiên định và kiềm chế cảm xúc.
Ví dụ: Khi dạy bài “Cơng ước Liên Hợp Quốc về quyền trẻ em”
Giáo viên nêu câu hỏi: Nêu một số hành vi vi phạm quyền trẻ em mà em biết?
Em có suy nghĩ gì về vấn đề này?


5
Học sinh: Một số hành vi vi phạm quyền trẻ em như: Đánh đập, ngược đãi trẻ
em, bắt trẻ em làm việc nặng quá sức, cha mẹ ly hôn không ai chăm sóc con cái,
khơng cho con đi học... Đây là những mảnh đời bất hạnh cần được sự quan tâm,
giúp đỡ, cảm thơng, chia sẻ nhiều hơn từ phía mọi người.
Với câu hỏi trên, giáo viên có thể rèn cho học sinh kĩ năng thể hiện sự cảm
thông đối với những trẻ em bị thiệt thòi.

* Kĩ năng tư duy phê phán:
Kĩ năng tư duy phê phán là khả năng phân tích một cách khách quan và tồn
diện các vấn đề, sự vật, hiện tượng... xảy ra.
Kĩ năng tư duy phê phán rất cần thiết để con người có thể đưa ra được
những quyết định, những hành động phù hợp. Nhất là trong xã hội hiện đại ngày
nay, khi mà con người luôn phải đối mặt với nhiều vấn đề gay cấn của cuộc sống,
luôn phải xử lý nhiều nguồn thơng tin đa dạng, phức tạp thì kĩ năng tư duy phê
phán càng trở nên quan trọng đối với mỗi cá nhân.
Ví dụ: Khi dạy bài “Lễ độ”
Giáo viên nêu vấn đề: Bị mẹ mắng, Hải giận dỗi cãi lại và bỏ đi chơi đến tối
mới về. Em có nhận xét gì về hành vi của Hải?
Học sinh: Hành vi của Hải là quá vô lễ đối với người đã sinh thành, cưu
mang, dưỡng dục mình.
Giáo viên: Hành vi của Hải cần phê phán. Giáo viên rèn cho học sinh kĩ
năng tư duy phê phán hành vi thiếu lễ độ.
* Kĩ năng ra quyết định:
Kĩ năng ra quyết định là khả năng của cá nhân biết quyết định, lựa chọn
phương án tối ưu để giải quyết vấn đề hoặc tình huống gặp phải trong cuộc sống
một cách kịp thời. Mỗi cá nhân phải tự mình ra quyết định cho bản thân; không nên
trông chờ, phụ thuộc vào người khác; mặc dù có thể tham khảo ý kiến của những
người tin cậy trước khi ra quyết định.
Kĩ năng ra quyết định rất cần thiết trong cuộc sống, giúp cho con người có
được sự lựa chọn phù hợp và kịp thời, đem lại thành công trong cuộc sống. Ngược
lại, nếu không có kĩ năng, con người ta có thể có những quyết định sai lầm hoặc
châm trễ, gây ảnh hưởng tiêu cực đến các mối quan hệ, đến công việc và tương lai
cuộc sống của bản thân; đồng thời có thể làm ảnh hưởng đến gia đình, bạn bè và
những người có liên quan.
Ví dụ: Khi dạy bài “Sống chan hịa với mọi người”



6
Giáo viên nêu vấn đề: Bạn thân của em thường trốn học đi chơi.
Câu hỏi: Trong trường hợp đó, em sẽ xử sự như thế nào?
Học sinh: Em sẽ gần gũi và khuyên bạn không nên trốn học nữa, nếu bạn
không nghe em sẽ báo với thầy cô giáo và gia đình bạn ấy.
Giáo viên rèn cho học sinh kĩ năng ra quyết định.
* Kĩ năng hợp tác:
Kĩ năng hợp tác là khả năng cá nhân biết chia sẻ trách nhiệm, biết cam kết và
cùng làm việc có hiệu quả với những thành viên khác trong nhóm.
Giáo viên nêu vấn đề: Mai là học sinh giỏi lớp 5 do nhà nghèo nên Mai
không được đi học nữa. Thấy vậy cô giáo chủ nhiệm đến nhà vận động cho Mai đi
học nhưng bố Mai khơng đồng ý vì Mai phải phụ bố bán hàng.
Câu hỏi: Em có nhận xét gì về sự việc trên? Nếu em là bạn của Mai, em sẽ
làm gì để giúp đỡ Mai được đi học?
Giáo viên: Chia lớp thành 2 nhóm và yêu cầu các nhóm thảo luận.
Học sinh: Đại diện từng nhóm lần lượt báo cáo, các nhóm khác nhận xét, bổ
sung.
Giáo viên: Giới thiệu Điều 16 Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em:
“Trẻ em có quyền được học tập; trẻ em học bậc tiểu học trong các cơ sở giáo dục
công lập khơng phải trả học phí”
Giáo viên: Rèn cho học sinh biết bày tỏ ý kiến, tham gia xây dựng hoạt động
của nhóm, biết chia sẻ với các thành viên trong nhóm.
* Kĩ năng tìm kiếm sự hỗ trợ:
Kĩ năng tìm kiếm sự hỗ trợ giúp chúng ta có thể nhận được những lời
khuyên, sự can thiệp cần thiết để tháo gỡ, giải quyết những vấn đề, tình huống của
mình; đồng thời là cơ hội để chúng ta chia sẻ, bày tỏ khó khăn, giảm bớt được sự
căng thẳng tâm lý do bị dồn nén cảm xúc. Biết tìm kiếm sự giúp đỡ kịp thời sẽ giúp
cá nhân không cảm thấy đơn độc, bi quan và trong nhiều trường hợp, giúp chúng ta
có cách nhìn mới và hướng đi mới.
Ví dụ: Khi dạy bài “Quyền được pháp luật bảo hộ về tính mạng, thân thể, sức

khỏe, danh dự và nhân phẩm”
Giáo viên nêu vấn đề: Hằng ngày trên đường đi học, Lan thường bị một
nhóm con trai lớn hơn trêu ghẹo, có hành vi đụng chạm vào người.
Câu hỏi: Trong trường hợp đó, Lan nên xử lý như thế nào?
Học sinh: Lan tỏ thái độ phản đối nhóm con trai và báo cho cha mẹ, thầy cô
giáo biết.


7
Giáo viên: Lan ý thức được nhu cầu cần giúp đỡ, biết xác định được những
địa chỉ hỗ trợ đáng tin cậy.
Qua vấn đề này, giáo viên rèn cho học sinh kĩ năng tìm kiếm sự hỗ trợ khi
gặp phải vấn đề cần sự giúp đỡ của những người khác.
* Kĩ năng tìm kiếm và xử lí thơng tin:
Kĩ năng tìm kiếm và xử lí thơng tin là một kĩ năng quan trọng giúp con
người có thể có được những thông tin cần thiết một cách đầy đủ, khách quan, chính
xác, kịp thời.
Ví dụ: Khi dạy bài “Thực hiện trật tự an tồn giao thơng”
Giáo viên nêu câu hỏi: Em hãy nhận xét tình hình tai nạn giao thơng trong
thời gian gần đây (số liệu cụ thể)?
Học sinh: Số vụ tai nạn giao thơng có chiều hướng giảm dần (Cụ thể, trong
năm 2019, trên địa bàn cả nước xảy ra 17.626 vụ tai nạn giao thông, bao gồm
9.229 vụ tai nạn giao thơng từ ít nghiêm trọng trở lên và 8.397 vụ va chạm giao
thông, làm 7.624 người chết, 13.624 người bị thương và 8.528 người bị thương
nhẹ).
Giáo viên Qua mạng Internet, đài, báo, trên truyền hình học sinh có được
thông tin về số liệu các vụ tai nạn giao thơng trong những năm qua.
Như vậy, với câu hỏi đó giáo viên đã giúp học sinh rèn được kĩ năng tìm
kiếm và xử lý thơng tin.
* Kĩ năng đảm nhận trách nhiệm:

Kĩ năng đảm nhận trách nhiệm là khả năng con người thể hiện sự tự tin, chủ
động nhận nhiệm vụ phù hợp với khả năng của bản thân, nỗ lực hoàn thành nhiệm
vụ và ý thức cùng chia sẻ cơng việc với các thành viên khác trong nhóm. Khi đảm
nhận trách nhiệm, cần dựa trên những điểm mạnh, tiềm năng của bản thân, đồng
thời tìm kiếm thêm sự giúp đỡ cần thiết để hoàn thành nhiệm vụ.
Khi các thành viên trong nhóm có kĩ năng đảm nhận trách nhiệm sẽ tạo được
một khơng khí hợp tác tích cực và xây dựng trong nhóm, giúp giải quyết vấn đề,
đạt được mục tiêu chung của cả nhóm đồng thời tạo ra được sự thỏa mãn và thăng
tiến cho mỗi thành viên.
Ví dụ: Khi dạy bài “Yêu thiên nhiên, sống hòa hợp với thiên nhiên”
Giáo viên nêu câu hỏi: Là học sinh em sẽ làm gì để góp phần giữ gìn, bảo vệ
thiên nhiên?
Học sinh: Không vứt rác bừa bãi; Trồng cây xanh; Chăm sóc cây, hoa trong
trường...


8
Giáo viên rèn cho học sinh kĩ năng đảm nhận trách nhiệm để giữ gìn, bảo vệ
thiên nhiên.
* Kĩ năng đặt mục tiêu:
Kĩ năng đặt mục tiêu là khả năng của con người biết đề ra mục tiêu cho bản
thân trong cuộc sống cũng như lập kế hoạch để thực hiện mục tiêu đó.
Kĩ năng đặt mục tiêu là khả năng giúp con người biết đề ra mục tiêu cho bản
thân trong cuộc sống cũng như lập kế hoạch để thực hiện được mục tiêu đó.
Kĩ năng đặt mục tiêu giúp chúng ta sống có mục đích, có kế hoạch và có khả
năng thực hiện mục tiêu của mình.
Ví dụ: Khi dạy bài “Mục đích học tập của học sinh”
Giáo viên nêu câu hỏi: Em có ước mơ gì về nghề nghiệp của tương lai? Em
sẽ làm gì để có thể thực hiện được ước mơ của mình?
Học sinh: Tự liên hệ.

Giáo viên: Phải cố gắng học tập tốt, để có thể trở thành con ngoan, trị giỏi,
người cơng dân hữu ích.
Qua câu hỏi này, giáo viên rèn cho học sinh kĩ năng đặt mục tiêu trong học
tập.
* Kĩ năng giải quyết mâu thuẫn:
Kĩ năng giải quyết mâu thuẫn là khả năng con người nhận thức được nguyên
nhân nảy sinh mâu thuẫn và giải quyết mâu thuẫn đó với thái độ tích cực, khơng
dùng bạo lực, thỏa mãn được nhu cầu, quyền lợi các bên và giải quyết mối quan hệ
giữa các bên một cách .
Yêu cầu của kĩ năng giải quyết mâu thuẫn là phải luôn kiềm chế cảm xúc,
tránh bị kích động, nóng vội, giữ bình tĩnh trước mọi sự việc để tìm ra nguyên nhân
nảy sinh mâu thuẫn cũng như tìm ra cách giải quyết tốt nhất.
Ví dụ: Khi dạy bài “Quyền được pháp luật bảo hộ về tính mạng, thân thể, sức
khỏe, danh dự và nhân phẩm”
Giáo viên nêu vấn đề: Lan cho rằng Hoa đã nói xấu mình, nên Lan xơng vào
đánh Hoa.
Câu hỏi: Trong tình huống đó, nếu em là Hoa, em nên xử sự ra sao?
Học sinh đưa ra ý kiến: Trước sự việc xảy ra, Hoa phải biết kiềm chế, giữ
bình tĩnh và giải thích cho Lan hiểu đây chỉ là hiểu nhầm.
Giáo viên: Với cách giải quyết đó sẽ tránh được sự tranh cãi, xung đột với
nhau. Giáo viên rèn cho học sinh kĩ năng giải quyết mâu thuẫn.


9
* Kĩ năng giao tiếp:
Kĩ năng giao tiếp là khả năng có thể bày trình bày, diễn đạt suy nghĩ, quan
điểm, nhu cầu, mong muốn, cảm xúc của bản thân dưới hình thức nói, viết hoặc sử
dụng ngơn ngữ cơ thể một cách phù hợp với đối tượng giao tiếp, hồn cảnh giao
tiếp, đồng thời biết lắng nghe, tơn trọng ý kiến người khác ngay cả khi bất đồng
quan điểm.

Kĩ năng giao tiếp giúp con người biết đánh giá tình huống giao tiếp và điều
chỉnh cách giao tiếp một cách phù hợp, hiệu quả; cởi mở bày tỏ suy nghĩ, cảm xúc
nhưng không làm hại hay gây tổn thương cho người khác.
Kĩ năng này giúp chúng ta có mối quan hệ tích cực với người khác, bao gồm
biết giữ gìn mối quan hệ tích cực với các thành viên trong gia đình, xây dựng mối
quan hệ với bạn bè mới.
Ví dụ: Khi dạy bài “Lịch sự, tế nhị”
GV nêu vấn đề: Thầy giáo đang giảng bài, một bạn đến lớp muộn.
Câu hỏi: Nếu là em thì em sẽ xử sự như thế nào?
HS: Đứng nép ngoài cửa đợi thầy giáo nói hết câu. Sau đó bước ra trước
cửa, đứng nghiêm chào thầy và nói: “Em xin lỗi thầy vì đã đến lớp muộn và xin
phép thầy cho em được vào lớp.
GV rèn cho HS kĩ năng giao tiếp thể hiện sự lịch sự, tế nhị.
Lưu ý: Trên thực tế, các kĩ năng sống khơng hồn tồn tách rời nhau mà có
liên quan chặt chẽ đến nhau. Chẳng hạn, để có thể giao tiếp một cách có hiệu quả
chúng ta cần phải phối hợp nhiều kĩ năng như: kĩ năng tự nhận thức, kĩ năng tư duy
phê phán, kĩ năng thương lượng, kĩ năng tìm kiếm sự cảm thơng,...
4.3.2. Các giải pháp thực hiện:
Trong quá trình nghiên cứu sáng kiến kinh nghiệm: “Rèn luyện kĩ năng sống
cho học sinh thông qua môn Giáo dục công dân 6” đạt hiệu quả, theo tôi cần kết
hợp các giải pháp sau:
- Thực hiện nghiêm túc nội dung giáo dục kĩ năng sống theo chương trình của
Bộ Giáo dục – Đào tạo ban hành.
- Giáo viên phải là những người có lịng nhiệt huyết, biết lựa chọn và kết hợp
tốt các phương pháp dạy học và hình thức kiểm tra đánh giá, đẩy mạnh phong trào
thi đua học tập sôi nổi, hiệu quả, động viên, khuyến khích kịp thời để giúp đỡ học
sinh có tiến bộ từng ngày.


10

- Biết vận dụng những phương pháp dạy học tích cực, các kĩ thuật dạy học
mới kết hợp với những phương pháp, kĩ thuật dạy học truyền thống phù hợp để tạo
sự hứng thú cho học sinh đem lại hiệu quả cao cho giờ học.
- Dạy học tích hợp giáo dục kĩ năng sống phù hợp với đặc thù môn học, bám
sát đối tượng học sinh, rèn luyện kĩ năng và tinh thần tự giác, trung thực trong các
hoạt động học tập, qua kiểm tra đánh giá phản ánh đúng năng lực học sinh.
- Có sự phối hợp chặt chẽ giữa gia đình, nhà trường và xã hội trong việc giáo
dục kĩ năng sống cho học sinh nhằm trang bị cho các em những kĩ năng sống cần
thiết, biến các kĩ năng sống hữu ích thành các thói quen lành mạnh, tích cực.
- Nhà trường quan tâm giáo dục và lồng ghép tích cực các hoạt động tập thể (
Sinh hoạt dưới cờ, thể dục thể thao, văn nghệ, ngoại khóa, giáo dục ngồi giờ lên
lớp…),kết hợp với các hoạt động xã hội khác ( Từ thiện, ủng hộ, quyên góp…)với
nội dung và hình thức đa dạng, phong phú, dễ nhớ, dễ hiểu, đem lại hiệu quả cao,
tạo cơ hội cho học sinh được tham gia phát triển toàn diện về phẩm chất, năng lực,
được rèn luyện các kĩ năng sống cần thiết cho bản thân.

Học sinh lao động, quét dọn vệ sinh khu vực Đài tưởng niệm


11

HS lao động cải tạo, chăm sóc vườn cây cảnh trong khuôn viên trường học

Học sinh tập thể dục giữa giờ theo nhạc

Hội thi văn nghệ


12


Tuyên truyền Luật Bình đẳng giới và tháng hành động Vì trẻ em được tổ chức dưới
hình thức sinh hoạt ngoại khóa và phát thanh trong phịng Phát thanh tun truyền
Măng non của Liên đội

Hoạt động tuyên truyền bảo vệ mơi trường và thực hiện trật tự an tồn giao thơng
tại đường xóm Phố Hích, xã
- Động viên, khích lệ, khen ngợi,... kịp thời những học sinh biết cách lựa
chọn các kĩ năng sống phù hợp với hoàn cảnh thực tế cuộc sống mà các em gặp
phải. Đồng thời cần có biện pháp uốn nắn các em với những biểu hiện sai lệch khi
lựa chọn các kĩ năng sống không phù hợp hoặc có những hành vi sai lệch với các
chuẩn mực đạo đức và chuẩn mực pháp luật quy định.
5. Những thơng tin cần được bảo mật (nếu có): không
6. Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến:
6.1. Đối với giáo viên:


13
Sáng kiến kinh nghiệm của tôi mọi giáo viên giảng dạy môn GDCD, Ngữ
văn, giáo viên Tổng phụ trách Đội, giáo viên chủ nhiệm lớp và giáo viên bộ môn
khác ở trường THCS đều có thể áp dụng được.
6.2. Đối với học sinh:
Sáng kiến có thể áp dụng cho mọi đối tượng là học sinh cấp THCS.
7. Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp dụng
sáng kiến theo ý kiến của tác giả:
Sau khi áp dụng sáng kiến “Rèn kĩ năng sống cho học sinh thông qua môn
Giáo dục công dân 6”, bản thân tôi nhận thấy phần nào các em cũng đã biết vận
dụng một số kĩ năng vào những tình huống hằng ngày để tương tác với bạn bè, mọi
người xung quanh và giải quyết có hiệu quả những vấn đề, những tình huống của
cuộc sống. Chẳng hạn:
Khi thấy một bạn trong lớp có hồn cảnh khó khăn thì các em cũng đã có sự

cảm thơng, chia sẻ với bạn (em Ngơ Hồng Hải lớp 6B), hồn cảnh gia đình khó
khăn, mồ côi cha mẹ. Lúc vào đầu năm học em cịn giữ khoảng cách với các bạn,
có thái độ mặc cảm. Thấy vậy cả lớp đã động viên, khích lệ Hải, tạo ra sự hòa
đồng, thân thiện, gần gũi để xóa đi sự mặc cảm và khoảng cách nơi Hải. Lúc đầu
chưa được học kĩ năng thể hiện sự cảm thơng qua các bài GDCD lớp 6, tơi thấy cịn
có 18/48 em là chưa biết cảm thơng với hồn cảnh của bạn, có em thực hiện theo
nhưng cịn miễn cưỡng, lấy lệ nhưng sau khi được học và với sự tích cực giáo dục
kĩ năng sống cho các em, tơi thấy 48/48 em đã rèn cho mình kĩ năng thể hiện sự
cảm thơng một cách có hiệu quả, các em chủ động giúp đỡ bạn một cách rất nhiệt
tình, thoải mái khơng cịn miễn cưỡng như trước nữa.
Trong một tình huống thực tế khác, em Nguyễn Thùy Linh lớp 6A đang ngồi
học trong lớp khi giờ học mới được bắt đầu, bỗng dưng em bị cảm và bị nơn ói vội
chạy ra khỏi lớp. Thấy vậy, em Phạm Quỳnh Anh đứng dậy xin phép cơ giáo cho
em ra ngồi lấy nước cho bạn xúc miệng, lấy khăn mặt cho bạn lau, rửa mặt. Sau
khi ổn định lớp xong, tôi ra xem em mệt như thế nào để đưa em xuống phòng y tế
của nhà trường nghỉ ngơi và để cán bộ y tế chăm sóc. Nhưng ra đến nơi em Phạm
Quỳnh Anh đã nói với tơi rằng: “Cơ cứ vào lớp đi để em đưa bạn xuống phòng y tế
cho ạ!”. Trước tình huống đó, tơi cảm thấy rất xúc động và trong lịng cảm thấy rất
vui vì em đã có cách xử trí rất nhanh để giúp bạn và cơ giáo. Như vậy tơi thấy mình


14
giảng dạy các em những kĩ năng sống cơ bản thông qua môn giáo dục công dân 6,
các em đã biết áp dụng những kiến thức được học vào việc xử lý các tình huống
thực tiễn một cách hiệu quả.
Hoặc khi xảy ra mâu thuẫn các em đã biết kiềm chế nhờ sự can thiệp từ phía
giáo viên chứ khơng dùng đến bạo lực để giải quyết vấn đề (em Lăng Văn Cảnh và
em Trần Viết Hảo lớp 6B trêu đùa nhau dẫn đến mâu thuẫn nhỏ nhưng khi nghe
giáo viên giảng giải 2 em học sinh này đã biết kiềm chế và lại vui vẻ với nhau). Khi
xảy ra hiểu lầm trong cuộc sống các em đã biết giải thích cho người đối thoại với

mình hiểu rõ vấn đề. Chính vì vậy, trong thời gian nghiên cứu và thực hiện sáng
kiến này tôi nhận thấy tập thể lớp 6: 100% các em đồn kết, hịa nhã, biết chia sẻ
khó khăn với bạn bè và mọi người xung quanh.
Khi nhà trường có phát động phong trào thi đua hay tổ chức các hoạt động
tập thể thì các em rất tích cực, tự giác tham gia như em Lý Diễm Như, Nguyễn
Thu Quỳnh, Vũ Thùy Linh… tham gia biểu diễn văn nghệ và đã giành giải Ba cuộc
thi “Giai điệu tuổi hồng” trong buổi hoạt động ngoài giờ lên lớp nhân dịp ngày
Nhà giáo Việt Nam 20/11; em Nguyễn Thùy Linh lớp trưởng lớp 6B, tham gia
nhiều hoạt động do nhà trường tổ chức rất tự tin ( Thi thuyết trình bồn hoa cây cảnh
đẹp, thi cờ Vua, thi đọc diễn cảm thơ ).... Tóm lại tập thể lớp khối 6 là tập thể tham
gia rất nhiệt tình các hoạt động văn nghệ, trò chơi trong các buổi lễ như: Khai
giảng, Ngày Nhà giáo Việt Nam 20/11, Ngày thành lập Quân đội nhân dân 22/12,...
Trong các buổi chào cờ, buổi sinh hoạt lớp, các hoạt động ngoài giờ lên
lớp... cùng với sự kết hợp lồng ghép nội dung giáo dục kĩ năng sống vào các môn
học, lúc đầu nhiều em học sinh của trường hay nói trống khơng, khơng biết chào
thầy cơ giáo,... thì đến nay 100% các em đã biết nói năng lễ phép hơn, biết chào
mọi người như chào thầy cô giáo, người lớn tuổi; các em biết thể hiện mình là
những con người có đạo đức, có văn hóa. Các em là cán sự lớp đã biết tự tổng hợp
nội dung cho tiết chào cờ đầu tuần và chính các em đã tự tin lên điều khiển, nhận
xét trước tồn trường trong tiết chào cờ đó. Như vậy, ta thấy các em đã có sự tiến
bộ vượt bậc về các kĩ năng sống cần thiết cho bản thân.
Tuần nào lớp có kết quả học tập khơng cao các em biết đề ra mục tiêu và
cùng nhau hợp tác, phấn đấu để đạt mục tiêu đó. Trong q trình giảng dạy mơn
Giáo dục cơng dân khi tích hợp nội dung rèn luyện kĩ năng sống cho học sinh thông
qua các bài học tôi đã thu được kết quả như sau: 95% các em tham gia phát biểu
xây dựng bài sơi nổi, 96% các em tham gia thảo luận nhóm tích cực, 28/48 em


15
tham gia đóng vai xử lý tình huống đạt hiệu quả, 100% các em biết liên hệ thực tế

có liên quan đến nội dung bài học phù hợp.
Đặc biệt, trong năm học 2019-2020 này đã xảy ra đại dịch Covid-19 trên
tồn cầu và Việt Nam cũng khơng ngoại lệ. Trong bối cảnh đại dịch hoành hành
ngành Giáo dục đã gặp rất nhiều khó khăn, các em học sinh được tạm thời cho nghỉ
học tại nhà để phòng tránh dịch. Nhưng với phương châm chung “ Chống dịch như
chống giặc”, “ Tránh dịch nhưng không ngừng việc học” nên các em đã bước vào
một giai đoạn mới của nhiệm vụ học tập: học online trực tuyến, học trên truyền
hình, học qua các phần mềm ứng dụng xã hội zalo, facebook… Chính trong hoàn
cảnh mới này các kĩ năng sống của các em đã được bộc lộ rõ ràng, hiệu quả trông
thấy đó chính là các kĩ năng thích nghi nhanh, kĩ năng hợp tác, kĩ năng giải quyết
vấn đề, kĩ năng tìm kiếm và xử lí thơng tin; kĩ năng tìm kiếm sự hỗ trợ… Sau khi
trở lại trường học vào ngày 4/5/2020 các em khối lớp 6 đã tuân thủ rất nghiêm
chỉnh các quy định của Chính phủ và Bộ Y tế về phòng chống dịch trong trường
học ( tự giác đeo khẩu trang, rửa tay sát khuẩn đúng cách, đo thân nhiệt trước khi
vào học, giữ khoảng cách tiếp xúc với các bạn, tự trang bị khăn tay khô, bình nước
uống riêng cho bản thân; vệ sinh khử khuẩn lớp học sau khi kết thúc buổi học…).
Điều đó cho thấy các em đã có kĩ năng sống trong việc bảo vệ sức khỏe của bản
thân ,của bạn bè, người xung quanh và có trách nhiệm trong phịng chống dịch
bệnh đối với cộng đồng.
Để thể thấy rõ hơn hiệu quả của việc áp dụng sáng kiến kinh nghiệm “Rèn
luyện kĩ năng sống cho học sinh thông qua môn Giáo dục công dân 6”, tôi đưa ra
bảng so sánh mà bản thân đã tiến hành khảo sát, theo dõi trước và sau khi áp dụng
sáng kiến kinh nghiệm này của HS khối lớp 6 trong năm học 2018 – 2019 và năm
học 2019 – 2020 như sau:
Trước khi chưa áp dụng sáng kiến này, tơi khảo sát được kết quả:
Lớp/Năm học

TSHS

Hồn toàn chưa

biết áp dụng 10
kĩ năng sống
trên.

Biết áp dụng một
số trong 10 kĩ
năng sống trên.

Biết áp dụng 10
kĩ năng sống
trên.

Lớp 6

49

32/49 = 63,3%

17/49 = 36,7%

0

2018 - 2019
Sau khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm này, tôi thu được kết quả:


16
Lớp / Năm học

TSHS


Hoàn toàn chưa
biết áp dụng 10
kĩ năng sống
trên.

Biết áp dụng một
số trong 10 kĩ
năng sống trên.

Biết áp dụng 10
kĩ năng sống
trên.

Lớp 6
2019 – 2020
(Học kì I và
nửa học kì II)

48

5/48 = 10,4%

27/48 = 56,3%

16/48 = 33,3%

Kết quả hạnh kiểm và học lực của khối lớp 6 trong học kì I năm học 2019 –
2020:
+ Hạnh kiểm: 100% học sinh đạt hạnh kiểm khá, tốt.

+ Học lực môn GDCD 6:
Giỏi: 9/48 = 18,8% Khá: 25/48 = 52,1% TB: 14/48 = 29,1%

Y: 0

Như vậy tổ chức cho học sinh được thực hành, trải nghiệm một số kĩ năng
sống là hết sức cần thiết, chúng ta cần thực hiện ở mọi lúc, mọi nơi (thực hiện trong
các giờ học, các hoạt động lao động, hoạt động đoàn thể - xã hội, hoạt động giáo
dục ngoài giờ lên lớp và các hoạt động giáo dục khác).
Tôi nhận thấy việc giáo dục kĩ năng sống rất cần thiết, sẽ không làm nặng
nề, quá tải nội dung môn học mà sẽ giúp cho việc học của học sinh nhẹ nhàng thoải
mái, thiết thực và hiệu quả. Qua mỗi tiết học, học sinh được trang bị rất nhiều kĩ
năng giúp các em có khả năng ứng phó tích cực trước các tình huống của cuộc
sống, xây dựng được mối quan hệ tốt đẹp với bạn bè, gia đình và mọi người xung
quanh.
Từ kết quả sáng kiến “Rèn luyện kĩ năng sống cho học sinh thông qua môn
Giáo dục công dân 6”, bản thân tôi thấy, việc giáo dục kĩ năng sống có thể tiếp tục
triển khai thông qua môn giáo dục công dân khối lớp 7,8,9 và có thể áp dụng linh
hoạt được ở tất cả các trường THCS trên phạm vi huyện, tỉnh, tồn quốc, có tính
bền vững, lâu dài. Hiệu quả giáo dục sẽ cao hơn đối với nhà trường, cán bộ, giáo
viên, phụ huynh và học sinh khi có mối quan tâm thực sự chặt chẽ, đúng cách và có
nghệ thuật trong giáo dục.
Nhìn chung các em có nhiều biểu hiện tiến bộ vượt bậc về kĩ năng sống, có ý
thức trong học tập và ứng xử văn hóa trong các tình huống thực tế diễn ra. Nhiều
em tiến bộ trơng thấy về kĩ năng ứng xử thân thiện, hòa nhập đối với giáo viên, bạn
bè và người xung quanh. Hơn thế, có tương đối học sinh nhìn nhận tốt về sự tự ý
thức của bản thân trong các công tác, nhiệm vụ ở trường, biết tu dưỡng rèn luyện
đạo đức, biết noi gương, vươn lên trong học tập, biết học hỏi và nhận thức về các



17
hành vi, việc làm mang tính nhân ái, đồn kết, lễ độ, tơn trọng, chan hịa… trong
các mối quan hệ xã hội, có tính xây dựng cao trong các cơng tác hoạt động phong
trào và thực hiện nội quy, điều lệ của trường.
8. Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp dụng
sáng kiến theo ý kiến của tổ chức, cá nhân đã tham gia áp dụng sáng kiến lần
đầu, kể cả áp dụng thử (nếu có):
Sáng kiến này đã được thực hiện trong nhà trường, nhiều giáo viên tham gia
áp dụng có hiệu quả, được nhà trường và đồng nghiệp đánh giá cao đã góp phần rèn
luyện các kĩ năng sống cần thiết cho học sinh và nâng cao ý thức, thái độ, tác
phong, lối sống, đạo đức…của các em ở trường THCS . Nhiều em đã có sự tiến bộ
rõ rệt, biết điều chỉnh suy nghĩ, rèn luyện hành vi và nâng cao kĩ năng sống của
mình trong quá trình học tập, tu dưỡng; nhiều em có ý chí vươn lên để trở thành
con ngoan trò giỏi, cháu ngoan Bác Hồ, là tấm gương tiêu biểu trong học tập và
làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh.
9. Danh sách những người đã tham gia áp dụng thử hoặc áp dụng sáng
kiến lần đầu (nếu có):
Tơi (chúng tơi) xin cam đoan mọi thông tin nêu trong đơn là trung thực, đúng
sự thật và hoàn toàn chịu trách nhiệm trước pháp luật.
, ngày 19 tháng 5 năm 2020
Người nộp đơn



×