Tải bản đầy đủ (.doc) (47 trang)

Các giải pháp đề xuất đối với việc cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước ở nước ta hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (290.29 KB, 47 trang )

MỤC LỤC
* Lời mở đầu
* Chương 1: Cơ sở lý thuyết của quá trình cổ phần hóa
I/ Khái niệm về công ty cổ phần
1. Định nghĩa
2. Đặc điểm
3. Lịch sử hình thành và phát triển công ty cổ phần
3.1 Hình thái kinh doanh một chủ
3.2 Hình thái kinh doanh chung vốn
3.3 Hình thái công ty cổ phần
3.4 Cấu trúc quản lý và kiểm soát chung cổ phần
II/ Các đặc điểm và các yếu tố tác động tới quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp
Nhà nước
A/ Các đặc điểm của cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước
1. Sự cần thiết phải cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước
2. Thực chất của cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước
3. Các mục tiêu cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước
4. Các phương pháp cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước
5. Các bước cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước
5.1 Xác định giá trị tài sản doanh nghiệp
5.2 Mệnh giá cổ phiếu và số lượng cổ phần
5.3 Bán cổ phiếu doanh nghiệp được cổ phần hóa
5.4 Ra mắt công ty cổ phần, đăng ký kinh doanh
6. Chính sách đối với cán bộ công nhân viên trước và sau khi cổ phần hóa
6.1 Lao động và chính sách đối với người lao độngtrong doanh nghiệp trước
khi cổ phần hóa
6.2 Lao động và chính sách đối với người lao động khi doanh nghiệp đã
chuyển thành công ty cổ phần
B/ Những yếu tố tác động đến quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước ở
nước ta
1. Thực trạng của khu vực kinh tế Nhà nước ở nước ta


2. Các yếu tố thuận lợi và khó khăn trong quá trình cổ phần hóa
3. Thực trạng cổ phần hóa của doanh nghiệp ô tô khách Quảng Ninh
* Chương 2: Các giải pháp đề xuất đối với việc cổ phần hóa doanh
1
nghiệp Nhà nước ở nước ta hiện nay
1. Môi trường pháp lý cẩn thiết cho sự ra đời và hoạt động của công ty cổ phần
2. Từng bước xây dựng thị trường Chứng khoán và sở giao dịch Chứng khoán
3. Thành lập cơ quan Nhà nước có quyền lực để thực hiện chương trình cổ phần
hóa doanh nghiệp Nhà nước
* Kết luận
* Các tài liệu tham khảo
LỜI NÓI ĐẦU
Cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước là một giải pháp quan trọng
mà nhiều nền kinh tế tiến hành, ngay cả những quốc gia có nền kinh tế
phát triển, có phương thức quản lý doanh nghiệp tiến tiến như Anh, Pháp,
Mỹ… cũng phải áp dụng.
Với Việt Nam, cổ phẩn hóa doanh nghiệp Nhà nước luôn được tạo
điều kiện và cơ chế để chương trình cổ phần hóa đạt kết quả cao.
Vào những thập niên cuối cùng của thế kỷ XX, đặc biệt là trong
thập niên 90, khu vực hóa toàn cầu là xu thế phát triển tất yếu của nền
kinh tế Thế gới. Việc gia nhập các tổ chức kinh tế của khu vực và Thế
giới như AFTA, NAFTA, WTO… luôn là mong muốn của bất kỳ một
quốc gia nào. Xu thế hội nhập này tạo cơ hội cạnh tranh bình đẳng cho tất
2
cả các doanh nghiệp, song nó cũng đặt các doanh nghiệp vào một cuộc
chơi khắc nghiệt với quy luật “mạnh được, yếu thua”. Hàng rào thuế quan
mà Chính phủ các nước đặt ra để bảo vệ các sản phẩm do các doanh
nghiệp trong nước sản xuất sẽ mất tác dụng. Vì vậy, biện pháp duy nhất
của các doanh nghiệp để không bị loại khỏi “cuộc chơi” là phải tự tăng
cường khả năng cạnh tranh của mình để chiếm lĩnh và tạo thế đứng vững

trên thị trường.
Theo báo cáo của Bộ Tài Chính những năm đầu thập niên 90, các
doanh nghiệp Nhà nước (chiếm vị trí chủ đạo hoạt động trong những lĩnh
vực then chốt của nền kinh tế) chủ yếu trong trạng thái thiết bị lạc hậu 3-5
thế hệ. Cơ cấu kinh tế chưa phù hợp, chủ yếu là nông nghiệp chiếm 27%,
thương mại 43%, công nghiệp và xây dựng 30%; quy mô các doanh
nghiệp Nhà nước nhỏ (dưới 1 tỷ đồng) chiếm 68%. Thực tế khiến hiệu quả
sử dụng vốn rất thấp. Mỗi đồng vốn chỉ tạo 2-3 đồng doanh thu và 0.1
đồng lợi nhuận. Tài sản cố định trong các doanh nghiệp Nhà nước chiếm
tới 70-80% nhưng chỉ tạo ra 44% tổng sản phẩm. Théo các chuyên gia
kinh tế, Việt Nam sẽ không có đủ sức cạnh tranh khi Việt Nam gia nhập
các tổ chức các tổ chức thương mại khu vực và Thế giới. Do vậy, để tạo
chỗ đứng trên thương trường, Việt Nam phải cải cách để tìm ra con đường
cho sự phát triển. Nhiều giải pháp đã được đưa ra như: cơ cấu lại vốn và
lĩnh vự hoạt động của các doanh nghiệp, sát nhập các doanh nghiệp vốn
nhỏ hoạt động trong cùng lĩnh vực lại với nhau, liên doanh liên kết với
nước ngoài… Nhưng những giải pháp này vẫn chưa thể mang đến những
bước ngoặt, hiệu quả sản xuất-kinh doanh của các doanh nghiệp còn thấp,
sức cạnh tranh yếu. Trước thực trạng này, Nghị quyết Trung Ương II khóa
VII đã đưa ra một giải pháp quan trọng để cải cách. Theo đó: “chuyển một
số doanh nghiệp quốc doanh có điều kiện thành công ty cổ phần, phải chỉ
đạo chặt chẽ quy mô, hình thức thí điểm, rút kinh nghiệm chu đáo trước
khi mở rộng phạm vi thích hợp”.
Vậy cổ phần hóa là gì? Quá trình tiến hành cổ phần hóa tại Việt
Nam đã diễn ra như thế nào? Những kết quả cũng như những mặt tồn tại
của nó? Trong khuôn khổ bài tiểu luận nghiên cứu và tài chính này, chúng
tôi được nêu một vài điều về vấn đề “Cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà
3
nước ở Việt Nam” được tóm tắt lại qua quá trình tìm hiểu ở một số tài liệu
và một vài ví dụ thực tế để thông qua đó chúng ta có thể có cái nhìn đầy

đủ, chính xác hơn về vấn đề này cũng như có thêm những kiến thức về
mảng tài chính vốn vô cùng rộng lớn này.
Bài viết tất nhiên khó tránh khỏi những thiếu sót, vậy rất mong
được tiếp nhận những ý kiến đóng góp, đánh giá của tất cả các bạn để bài
viết thêm phong phú và chính xác hơn.
Qua đây xin cho phép chúng tôi gửi lời cảm ơn sâu sắc tới người đã
hướng dẫn cho tôi hết lòng từ khi chưa hiểu biết về đề tài này và cho đến
khi hoàn thành. Dù nội dung chỉ đạt đến một chừng mực nào đó nhưng
qua lần nghiên cứu này nó giúp cho tôi dần làm quen với nghiên cứu bậc
đại học và tôi tin rằng nó sẽ giúp tôi ngày càng hoàn thiện hơn về lý luận
của mình.
Xin chân thành cảm ơn !
Hà Nội, tháng 4 năm 2008
CHƯƠNG 1:
CƠ SỞ LÝ THUYẾT CỦA QUÁ TRÌNH CỔ PHẦN HOÁ

I- KHÁI NIỆM VỀ CÔNG TY CỔ PHẦN
1. Định nghĩa: là loại công ty được thành lập do nhiều người bỏ vốn ra (cổ
đông). Tiền vốn được chia thành các cổ phần bằng nhau, người hùn vốn với tư
cách là các cổ đông sẽ mua một số cổ phần đó.
Theo luật công ty ở nước ta, công ty cổ phần là công ty trong đó:
- Số thành viên gọi là cổ đông mà công ty phải có trong suốt thời gian
hoạt động ít nhất là bảy.
4
- Vốn điều lệ của công ty được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ
phần. Giá trị mỗi cổ phần gọi là mệnh giá cổ phiếu. Mỗi cổ đông có thể mua một
hoặc nhiều cổ phiếu.
- Cổ phiếu được phát hành có thể có ghi tên hoặc không ghi tên. Cổ phiếu
của sáng lập viên, của thành viên hội đồng quản trị phải là những cổ phiếu có
ghi tên.

- Cổ phiếu không ghi tên được tự do chuyển nhượng. Cổ phiếu có ghi tên
chỉ được chuyển nhượng nếu được sự đồng ý của hội đồng quản trị.
Công ty cổ phần được tự do đặt tên. Trên bảng hiệu, hoá đơn, quảng cáo,
báo cáo, tài liệu, giấy tờ giao dịch khác của công ty đều phải ghi tên công ty
kèm theo các chữ "công ty cổ phần" và vốn điều lệ.
2. Đặc điểm:
+ Rủi ro: Trong trường hợp công ty bị phá sản thì họ cũng chỉ mất số tiền
đã đầu tư vào công ty mà thôi, không chịu trách nhiệm vô hạn như hình thức
kinh doanh một chủ hoặc chung vốn. Nhờ đặc điểm này, các công ty cổ phần
dám mạo hiểm đầu tư vào các dự án kinh doanh lớn hơn các loại hình công cộng
khác bằng cách bán các cổ phiếu, trái phiếu cho những người có vốn muốn đầu
tư để gia tăng thu nhập, nó đã làm những người này không phải e ngại những
hậu quả tài chính có thể xảy ra đối với toàn bộ tài sản của họ.
Như vậy, nhờ đặc điểm của hình thái công ty cổ phần - mọi cổ đông bây
giờ chỉ có trách nhiệm pháp lý hữu hạn và công ty là một hình thức pháp lý đầy
đủ, thuận lợi để kinh doanh tìm kiếm lợi nhuận, - đã cho phép khắc phục được
phần lớn các trở ngại đặt ra của hình thái kinh doanh chung vốn. Nó bổ sung cho
doanh nghiệp một hình thái pháp lý gần như hoàn hảo để huy động những lực
lượng vốn lớn trong xã hội. Mệnh giá cổ phiếu của các công ty thường định giá
rất thấp để có khả năng khai thác được ngay cả những số tiền tiết kiệm nhỏ nhất
trong công chúng.
5
+ Xét về mặt huy động vốn: Công ty cổ phần đã giải quyết hết sức thành
công. Bởi vì những số tiền nhỏ dành dụm của nhiều gia đình nếu để riêng không
đủ để lập doanh nghiệp nhỏ, và do đó không thể đem ra kinh doanh được. Sự có
mặt của các công ty cổ phần đã tạo điều kiện cho họ có cơ hội để đầu tư một
cách có lợi và an toàn trong khoản vốn nhỏ nhưng gộp lại sẽ trở thành rất lớn.
Các khoản tiền nhỏ trên có thể được gửi ở ngân hàng hay mua trái phiếu Song
hình thức cổ phần có sức hấp dẫn riêng mà các hình thức khác không thể thay
thế được. Thứ nhất, việc mua cổ phiếu không những đem lại cho cổ đông lợi tức

cổ phần (bằng hoặc cao hơn lãi suất tiền gửi ngân hàng) mà còn hứa hẹn mang
đến cho cổ đông một khoản thu nhập "ngầm" nhờ việc gia tăng giá trị giá cổ
phiếu khi công ty làm ăn có hiệu quả. Thứ hai, các cổ đông có quyền được tham
gia quản lý theo điều lệ của công ty và được pháp luật bảo đảm, điều đó làm cho
quyền sở hữu của cổ đông trở nên cụ thể và có sức hấp dẫn hơn. Thứ ba, cổ
đông có quyền được ưu đãi trong việc mua những cổ phiếu mới phát hành của
công ty trước khi được đem bán rộng rãi cho công chúng.
+ Hình thái công ty cổ phần đã thực hiện được việc tách quan hệ sở hữu
khỏi quá trình kinh doanh, tách quyền sở hữu với quyền quản lý và sử dụng, tạo
nên một hình thái xã hội hoá sở hữu của đông đảo công chúng ở một bên, còn
bên kia là tầng lớp các nhà quản trị kinh doanh chuyên nghiệp sử dụng tư bản xã
hội cho các công cuộc kinh doanh quy mô lớn.
Những người đóng vai trò sở hữu trong công ty cổ phần không trực tiếp
đứng ra kinh doanh mà uỷ thác chức năng đó cho bộ máy quản lý của công ty.
Bản thân công ty được pháp luật thừa nhận như một pháp nhân độc lập tách rời
với các cá nhân góp vốn và kiểm soát nó. Nhờ đó, công ty cổ phần tiến hành tất
cả các hoạt động kinh doanh dưới danh nghĩa của chính mình và nhận trách
nhiệm đến cùng với các cam kết tài chính của công ty.
Luật công ty của nhiều nước đều nêu ra hai tổ chức chính đại diện cho
quyền sở hữu của các cổ đông trong công ty. Đại hội cổ đông và Hội đồng quản
trị. Quyền sở hữu tối cao đối với công ty thuộc Đại hội cổ đông. Đại hội cổ đông
6
thường được tổ chức mỗi năm một lần để lựa chọn và bãi miễn Hội đồng quản
trị, quyết định sửa đổi điều lệ công ty, phân chia lợi nhuận cổ phần, phát hành
thêm cổ phiếu hoặc hợp nhất vào các công ty khác Hội đồng quản trị được bầu
ra có trách nhiệm bảo toàn và phát triển giá trị các khoản vốn đầu tư của cổ
đông. Chức năng chủ yếu của nó là đưa ra những chỉ dẫn mang tính chiến lược
bao gồm những kế hoạch tài chính và những quyết định đầu tư lớn. Toàn bộ
hoạt động quản lý kinh doanh thuộc về Ban giám đốc điều hành. Bên cạnh đó,
Đại hội cổ đông cũng bầu ra Ban kiểm soát thực hiện việc kiểm tra, giám sát

hoạt động của công ty để bảo vệ lợi ích cho những người góp vốn.
+ Các cổ phiếu và trái phiếu thông thường của công ty cổ phần có thể
được quyền chuyển nhượng dễ dàng trên thị trường chứng khoán. Các cổ đông
có thể rút lại vốn của mình để đầu tư vào một công cuộc kinh doanh khác bằng
cách bán các cổ phiếu, trái phiếu và mua các cổ phiếu, trái phiếu ở những công
ty mà mình muốn. Mặt khác, các cổ phiếu, trái phiếu của một công ty cổ phần
chỉ được thanh lý khi công ty phá sản, vì thế cho dù có bao nhiêu cổ đông bán
cổ phiếu và cổ phiếu được chuyển chủ bao nhiêu lần do bán hoặc do thừa kế,
doanh nghiệp vẫn tiếp tục hoạt động một cách bình thường mà không bị ảnh
hưởng. Có thể nói, công ty cổ phần và thị trường chứng khoán vừa duy trì được
sự ổn định của doanh nghiệp, đồng thời vừa tạo nên sự di chuyền linh hoạt của
các luồng vốn xã hội.
Nhờ sự phát triển và hoàn thiện của thị trường chứng khoán, khả năng huy
động vốn đầu tư được mở ra hết sức rộng rãi, nó cung cấp cho những cơ hội đầu
tư đa dạng, đơn giản, dễ dàng và thuận tiện cho đông đảo công chúng. Mặt khác,
nó không chỉ là nơi cung cấp vốn mà còn là nơi xếp đặt và phân phối lại các cơ
hội đầu tư theo các nhu cầu đầu tư đa dạng của công ty và công chúng. Ở đây,
vai trò của các chủ ngân hàng và những người buôn bán cổ phiếu hết sức quan
trọng. Họ góp phần chuyển đổi các khoản đầu tư thông qua mua bán cổ phiếu,
trái phiếu, hối phiếu v.v trên thị trường cho mọi người và khuyến khích các
công ty mới ra đời huy động vốn và đứng vững được trong kinh doanh. Khi một
7
công ty mới thành lập, còn chưa đứng vững trên thương trường đó là lúc nó cần
có những nhà đầu tư táo bạo, dám chấp nhận mạo hiểm để có lợi nhuận cao. Khi
công ty đã ổn định vững chắc, các nhà đầu tư thận trọng mới vào cuộc. Giá cổ
phiếu đã tăng lên, nhưng bù lại có độ an toàn cao. Các nhà đầu tư táo bạo đã có
thể bán lại cổ phiếu, thu được khoản lợi nhuận vốn là mục tiêu cho mạo hiểm
của họ để tiếp tục theo đuổi một cuộc đầu tư táo bạo khác. Nền kinh tế cần phải
có các nhà đầu tư táo bạo và có sự chuyển đổi giữa các loại nhà đầu tư để thúc
đẩy quá trình hình thành các doanh nghiệp mới hay các dự án đầu tư mới.

Những hoạt động "đầu cơ" kiểu như thế có một vai trò quan trọng và được
khuyến khích ở các nước.
Là nơi cung cấp vốn, nơi hội tụ các cơ hội và nhu cầu đầu tư, thị trường
chứng khoán phản ứng rất nhạy bén với những thay đổi, giao động của nền kinh
tế. Chính vì vậy, sau này, Nhà nước với tư cách là một "tư bản tài chính" lớn
nhất đã coi thị trường chứng khoán như công cụ để điều tiết các luồng tài chính
và tiền tệ nói chung bằng cách quy định các hoạt động của nó, bơm vào hay hút
ra các luồng công trái, trái phiếu chính phủ, qua đó điều chỉnh một phần khối
lượng tiền tệ trong nền kinh tế.
3. Lịch sử hình thành và phát triển công ty cổ phần
3.1 Hình thái kinh doanh một chủ
Hình thái kinh doanh một chủ là các loại hình doanh nghiệp, trong đó sở
hữu của người chủ tư nhân được duy trì và phát triển bằng lao động của bản thân
hoặc thuê mướn với vốn liếng sẵn có và sự tính toán của anh ta trên cơ sở những
đòi hỏi của thị trường. Đây là hình thái phổ biến thống trị trong nền sản xuất
hàng hoá nhỏ và trong giai đoạn đầu của CNTB cạnh tranh tự do. Trong hình
thái kinh doanh này bao gồm hai loại hình chủ yếu: Kinh doanh theo phương
thức sản xuất hàng hoá nhỏ và kinh doanh theo phương thức sản xuất TBCN.
Mục đích phương thức kinh doanh của những người sản xuất hàng hoá là sự duy
trì và bảo tồn mối quan hệ của họ đối với tư liệu sản xuất như là người sở hữu.
8
Phương thức kinh doanh này có đặc điểm người sở hữu đồng thời là người lao
động và người đó chỉ có thể làm giàu bằng lao động của chính mình. Do vậy, sự
phát triển sản xuất có được rất chậm chạp, quy mô mở rộng từ từ tuỳ theo sự
phát triển của thị trường địa phương và khu vực. Tuy nhiên, cùng với sự phát
triển nền kinh tế hàng hoá, lưu thông tiền tệ cũng ngày càng phát triển cho phép
đẩy nhanh và mở rộng quá trình trao đổi, thanh toán cũng như tích trữ tiền tệ, và
điều đó, góp phần làm thay đổi dần dần bản chất của phương thức kinh doanh
này. Quá trình xã hội hoá sở hữu tư nhân nhờ hai tác nhân chủ yếu là trao đổi và
tín dụng thì về mặt lịch sử trong quá trình chuyển hoá ấy phải kể đến hai yếu tố

hết sức quan trọng, có tác dụng phân giải nền kinh tế của những người sản xuất
hàng hoá nhỏ và thúc đẩy quá trình hình thành nền kinh tế thị trường TBCN, đó
là tư bản thương nghiệp và tư bản cho vay nặng lãi. Chúng ta hãy lần lượt xem
xét vai trò của từng yếu tố này:

a- Đối với tư bản thương nghiệp
Sự phát triển của thương nghiệp và tư bản thương nghiệp làm cho nền sản
xuất hướng vào giá trị trao đổi. Nó làm cho quy mô sản xuất được mở rộng, sản
phẩm mang nhiều hình, nhiều vẻ và đi vào lưu thông một cách phổ biến; nó làm
tan rã các hình thái tổ chức sản xuất lấy giá trị sử dụng làm mục đích và thúc
đẩy sự phân công lao động xã hội trên cơ sở một thị trường thống nhất. Cùng
với sự phát triển của tư bản thương nghiệp, hình thái tiền tệ cũng ngày càng phát
triển. Đặc biệt với chức năng của tiền làm phương tiện thanh toán, các hoạt động
mua bán được thực hiện dưới hình thức ứng trước và thanh toán có kỳ hạn ngày
một nhiều và trở nên phổ biến trong nền kinh tế. Đó là cơ sở sâu xa để ngày
càng xác lập mối quan hệ phụ thuộc chặt chẽ của những người sản xuất hàng
hoá nhỏ vào thương nhân. Từ chỗ đóng vai trò môi giới giữa những người sản
xuất với thị trường, tư bản thương nghiệp ngày càng xâm nhập sâu vào sản xuất
và dần dần chi phối toàn bộ sản xuất, bắt sản xuất phục vụ cho mục đích của tư
bản. Về mặt lịch sử, đó là cách phổ biến để chuyển các ngành thủ công có tính
9
chất phường hội của công nghiệp thành thị thời phong kiến và các ngành nghề
phụ ở nông thôn thành các ngành sản xuất mang tính chất TBCN.
Như vậy, quá trình chuyển hoá từ phương thức kinh doanh của những
người sản xuất hàng hoá nhỏ lên phương thức kinh doanh TBCN đã diễn ra
với sự tham gia đắc lực của tư bản thương nghiệp. Một nền sản xuất mà mọi
thứ từ nguyên liệu tư liệu sản xuất đến sản phẩm tiêu dùng đều đi vào lưu
thông, và do đó, phải qua tay tư bản thương nghiệp thực sự là môi trường cho
các nhà tư bản công nghiệp ra đời, phát triển và khẳng định một phương thức
kinh doanh mới.

b- Đối với tư bản cho vay nặng lãi
Tư bản tiền tệ hoạt động ở thời kỳ tiền sử CNTB mang hình thái tư bản cho
vay nặng lãi.
Sự phát triển của tiền tệ làm chức năng phương tiện thanh toán đã trở
thành một địa bàn rộng lớn và đặc biệt của tư bản cho vay nặng lãi. Một mặt,
mọi đảm phụ bằng tiền phải nộp theo kỳ hạn nhất định, dù đó là địa tô, cống
nạp, thuế má đều phải thanh toán bằng tiền. Mặt khác, do thương nghiệp ngày
càng phát triển, sản xuất hàng hoá ngày càng phổ biến, thời gian mua bán và
thanh toán ngày càng tách rời nhau thì càng cần thiết có một khối lượng tiền để
thanh toán cho những kỳ hạn nhất định. Đó là mảnh đất mầu mỡ để tư bản cho
vay nặng lãi phát triển và nó đã tham gia đắc lực vào công việc làm cho những
người sản xuất hàng hoá nhỏ ngày càng mắc nợ nhiều hơn, dần dần mất hết
những phương tiện để duy trì quá trình tái sản xuất bình thường của họ.
Ở nơi nào mà tư liệu sản xuất bị phân tán thì tư bản cho vay nặng lãi tập
trung hoá dần dần lại dưới hình thức của cải bằng tiền bằng cách xâm nhập vào
các ngành sản xuất dưới dạng cầm cố và làm chủ nợ, làm cho quá trình tái sản
xuất của họ ngày càng co hẹp lại, khánh kiệt và tan rã. Nó đóng vai trò như là
một chất phân giải đẩy nhanh quá trình, một mặt, tích luỹ tư bản dưới hình thái
10
của cải bằng tiền và mặt khác, tách người lao động ra khỏi tư liệu sản xuất của
họ, tập trung họ trong các ngôi nhà lao động của công trường thủ công TBCN.
Như vậy, trong quá trình phát triển nền kinh tế hàng hoá, với sự trợ giúp
của tư bản thương nghiệp và tư bản cho vay nặng lãi, dựa trên chế độ tín dụng
đang ngày càng phổ biến, hình thái kinh doanh một chủ đã có sự chuyển biến về
chất từ phương thức kinh doanh xé lẻ ruộng đất và phân tán những tư liệu sản
xuất của những người tư hữu nhỏ sang phương thức kinh doanh theo lối TBCN
bằng quá trình tích tụ, tập trung ruộng đất và tư liệu sản xuất vào tay một số ít
người. Chế độ tư hữu có được nhờ lao động của bản thân, gắn chặt người lao
động cá thể độc lập với những điều kiện lao động của người đó đã dần dần bị
thay thế bằng chế độ tư hữu TBCN dựa trên lao động làm thuê.

Hình thái kinh doanh một chủ ngày càng phát triển theo những quy luật
kinh tế nội tại của nền sản xuất TBCN thì quy mô tích tụ và tập trung tư bản
ngày càng lớn. Với mục đích kinh doanh là thu được lợi nhuận ngày càng cao và
bị chi phối bởi hai cực cạnh tranh và độc quyền, quá trình trên đã làm cho các tư
bản nhỏ lần lượt bị tư bản lớn đánh bại và bị thu hút vào tay những kẻ chiến
thắng.
Tuy nhiên, cùng với sự phát triển của kinh tế hàng hoá. Thị trường Thế
giới ngày càng mở rộng, quy mô buôn bán và sản xuất đòi hỏi phải tập trung tư
bản ngày càng lớn, các nhà tư bản cá biệt không thể tự mình đáp ứng được nữa.
Do đó, để có thể đứng vững trong cạnh tranh và đáp ứng được nhu cầu của thị
trường, các hình thức kinh doanh chung vốn lần lượt ra đời và phát triển. Hình
thái kinh doanh một chủ ngày càng rút khỏi những ngành chủ yếu và lùi dần về
những ngành công nghiệp có cấu tạo hữu cơ thấp, các ngành nông nghiệp, dịch
vụ buôn bán lẻ, cần ít vốn đầu tư và thu hồi vốn nhanh.

3.2 Hình thái kinh doanh chung vốn:
Trong lịch sử hình thái kinh doanh chung và có hai loại hình, đó là: hợp
tác xã và công ty chung vốn.
11

a- Hình thái kinh doanh hợp tác xã
Đây là hình thái kinh doanh của những người sản xuất hàng hoá nhỏ
nhằm chống lại quá trình tan rã và phá sản của họ trước phương thức kinh doanh
TBCN. Sự phát triển của chế độ tín dụng đã thúc đẩy những hình thức tự cấp
vốn cho nhau chuyển dần thành các hợp tác xã tín dụng, nhằm chống lại sức ép
của tư bản cho vay nặng lãi. Tương tự, các hợp tác xã cung tiêu cũng lần lượt ra
đời để chống lại sức ép của tư bản thương nghiệp. Từ chỗ thống nhất về vốn
liếng, mua bán sản phẩm, dần dần loại hình hợp tác xã xâm nhập vào trong sản
xuất hình thành nên hình thái kinh doanh hợp tác xã như là sự thống nhất của
quá trình tái sản xuất: từ sản xuất đến lưu thông và huy động vốn. Trên cơ sở

góp chung tư liệu sản xuất, vốn liếng và sức lao động, các hợp tác xã tiến hành
kinh doanh theo nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng trong việc hưởng lợi và chịu
rủi ro.
Tuy nhiên, quy mô hợp tác xã với một nhóm những người sản xuất hàng
hoá nhỏ cùng chung vốn làm ăn nên thường bó hẹp trong một hoạt động kinh
doanh nhất định; hoạt động của hợp tác xã với tính chất tập thể, tự nguyện lỏng
lẻo, ít chấp nhận mạo hiểm vì trách nhiệm pháp lý vô hạn của xã viên, nên ít khi
kinh doanh quy mô lớn và đạt được thành công lớn; sự phát triển chủ yếu là đủ
chống đỡ sức mạnh cạnh tranh của tư bản, và do đó, luôn có nguy cơ tan vỡ mỗi
khi có công việc kinh doanh gặp khó khăn. Vì vậy, hình thái kinh doanh hợp tác
xã ngày càng lùi bước dần khỏi các ngành công nghiệp, và chỉ còn trụ được
trong tiểu thủ công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ, đại lý bán buôn và bán lẻ.

b- Công ty chung vốn
Hình thái kinh doanh công ty chung vốn của các tư bản có ba loại hình
phổ biến: công ty dân sự, công ty hợp danh và công ty hợp tư đơn giản. Đặc
điểm chung của các loại hình công ty này là góp vốn thiên về thân nhân (đối
nhân), trách nhiệm pháp lý vô hạn và cơ cấu tổ chức gọn nhẹ, đơn giản. Trong
12
ba loại trên, dạng công ty hợp danh là phổ biến hơn cả vì nó hoạt động dưới hình
thái công ty thương mại cả về pháp lý và hình thức; loại công ty dân sự thường
mang tính chất gia đình cùng quản lý một tài sản (bất động sản hoặc động sản)
hay một nhóm những người cùng nghề như nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp,
thầy thuốc còn loại công ty hợp tư đơn giản chủ yếu dành cho các tầng lớp có
vốn (nhưng do quy chế chuyên môn không được phép kinh doanh như thầy tu,
quan toà, quý tộc ) góp lại cho một người hay một số người có chuyên môn và
đủ tư cách pháp nhân đứng ra kinh doanh.
Trong thời kỳ đầu của sự phát triển phương thức sản xuất TBCN khi mà
cạnh tranh còn đang thống trị, thì sự ra đời của các loại hình công ty này là một
bước tiến của chế độ tín dụng để đứng vững và chiến thắng trong cạnh tranh,

cũng như giảm sức ép của tín dụng ngân hàng và các hình thức vay mượn khác.
Tuy nhiên, càng về sau, những hình thức này càng ít được ưu chuộng và thưa
thớt dần, nhường chỗ cho các hình thức công ty vô danh và công ty trách nhiệm
hữu hạn. Sở dĩ các hình thức này ngày càng bị thu hẹp vì trách nhiệm pháp lý
không hạn chế trong kinh doanh chung vốn làm cho nó mang tính mạo hiểm quá
cao. Do đó, rất khó khăn trong việc huy động những số vốn lớn. Thêm nữa, sự
tồn tại ràng buộc của nó hết sức lỏng lẻo dễ bị giải tán bất kỳ lúc nào nếu một
người chung vốn muốn rút lui, trong khi đó, về mặt pháp lý gặp nhiều khó khăn
để đảm bảo duy trì nó. Tất cả những hạn chế đó làm cho những hình thức này
ngày nay có xu hướng thu về những ngành kinh doanh nhỏ trong nông nghiệp,
dịch vụ, bán lẻ, đại lý cho các hãng và thường là các nhóm có tính chất gia đình.
3.3 Hình thái công ty cổ phần
Sự ra đời và phát triển loại hình công ty cổ phần đánh dấu sự chuyển
hướng nền kinh tế từ trạng thái vay mượn chủ yếu qua ngân hàng hoặc chung
vốn sang huy động vốn trên thị trường tài chính. Các công ty cổ phần là nguồn
cung cấp sản phẩm cho sự phồn vinh của thị trường này. Đổi lại, sự thịnh vượng
của thị trường tài chính tạo điều kiện cho các công ty cổ phần sinh sôi nảy nở.
13
Ngay từ thời kỳ phát triển ban đầu của sở giao dịch và thị trường chứng khoán,
Ăng -ghen đã nhận định: "Ngày nay, sở giao dịch có một tầm quan trọng lớn
hơn nhiều và ngày càng tăng; những sự thay đổi ấy, trong sự phát triển về sau
của chúng, có xu thế tích tụ vào tay những nhà giao dịch chứng khoán toàn bộ
nền sản xuất,- công nghiệp cũng như nông nghiệp,- và toàn bộ lưu thông - cả
những phương tiện giao thông liên lạc cũng như chức năng trao đổi; như vậy, sở
giao dịch trở thành người đại biểu nổi bật nhất của nền sản xuất tư bản chủ
nghĩa.
Sự mở rộng của thị trường thế giới bằng việc chinh phục các thuộc địa
làm cho khối lượng tín dụng được huy động theo phương thức truyền thống
ngày càng không đáp ứng đủ so với yêu cầu tăng nhanh về quy mô thương mại
và sản xuất. Tình hình đó đã khiến cho các hình thức công ty cổ phần trong

thương mại và ngân hàng lần lượt ra đời như là kết quả của sự phát triển tín
dụng thương nghiệp và tín dụng ngân hàng. Nhờ đó, nó đã tạo ra cơ sở tín dụng
cần thiết cho sự hình thành công ty cổ phần trong các ngành công nghiệp mà
trước hết là các ngành cần khối lượng vốn đầu tư rất lớn như chế tạo máy,
đường sắt, hoá chất, khai khoáng. Có thể coi, chế độ tín dụng dựa trên sự phát
triển hệ thống ngân hàng cổ phần và có sự tiếp sức của các công ty thương mại
cổ phần đã duy trì được sự hoạt động hiệu quả của thị trường tài chính và góp
phần thúc đẩy các công ty cổ phần trong các ngành công nghiệp ra đời. Hoạt
động và phát triển.
Do những ưu điểm của nó, hình thái công ty cổ phần vừa mới ra đời đã
lần lượt chiếm lĩnh hết ngày này sang ngành khác từ lĩnh vực này sang lĩnh vực
khác. Trải qua thời gian, hình thái công ty cổ phần ngày càng được hoàn thiện,
phát triển và đa dạng hoá. Có thể nói công ty cổ phần là một phát minh quan
trọng nhất trong lịch sử phát triển các hình thái tổ chức doanh nghiệp kể từ cuộc
cách mạng trong công nghiệp của TBCN, chứ không đơn thuần chỉ là sản phẩm
thụ động của sự phát triển nền kinh tế thị trường.
14
15
3.4 Cấu trúc quản lý và kiểm soát chung CF
Đại hội cổ đông
Hội đồng quản
trị
Ban kiểm
soát
Giám đốc (hoặc Tổng
giám đốc) điều hành
Phó giám đốc (hoặc
giám đốc) điều hành
Phó giám đốc (hoặc
giám đốc) điều hành

Phó giám đốc
(hoặc giám đốc)
điều hành.
Phòng (ban)
chuyên môn
Phòng
(ban)
chuyên
môn
Phòng
(ban)
chuyên
môn
Phòng
(ban)
chuyên
môn
Phòng
(ban)
chuyên
môn
Phòng (ban)
chuyên môn
16
II. CÁC ĐẶC ĐIỂM VÀ YẾU TỐ TÁC ĐỘNG TỚI QUÁ TRÌNH CỔ
PHẦN HÓA DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC
A/ CÁC ĐẶC ĐIỂM CỦA CỔ PHẦN HÓA DOANH NGHIỆP NHÀ
NƯỚC
1. Sự cần thiết phải cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước
Tình trạng hoạt động thiếu hiệu quả của các doanh nghiệp Nhà nước. Đây

là nguyên nhân quan trọng khiến cho hầu hết các Chính phủ đi đến quyết định
cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước. Do đâu mà có tình trạng này? Một điều dễ
nhận thấy nhất là ngay cả những điều kiện thuận lợi thì hiệu quả của các xí
nghiệp của các xí nghiệp quốc doanh cũng chỉ đạt mức thấp hơn nhiều so với
mức trung bình của khu vực kinh tế tư nhân. Ở những nước đang phát triển và
Đông Âu, các xí nghiệp quốc doanh được gọi là có hiệu quả cũng cần được cân
nhắc vì thị trường ở đây có sự sai lệch lớn do giá cả bị điều tiết, không phản ánh
đúng tính khan hiếm hay các chi phí cơ hội thực tế. Và những doanh nghiệp này
thường có vị trí độc quyền, được Nhà nước bảo hộ và không có sự cạnh tranh
với hàng nhập khẩu, mặc dù về quản lý đã được điều hành không có hiệu quả
của các doanh nghiệp Nhà nước.
+ Hệ thống kế hoạch hoá và tài chính cứng nhắc không có tính chất thích
ứng với cơ chế thị trường vì được quản lý theo hệ thống hành chính từ trên
xuống với nhiều cấp trung gian. Nguồn tài chính được sử dụng hoàn toàn theo
kế hoạch được duyệt từ đầu năm, không có sự chuyển đổi linh hoạt nhằm sử
dụng hợp lý nguồn vốn và cũng không được chuyển sang cho năm sau. Điều này
làm cho các kế hoạch tài chính của doanh nghiệp không có động cơ tiết kiệm, vì
vậy không hợp lý hoá được sản xuất và giá thành luôn luôn phải cộng nhiều chi
phí so với các doanh nghiệp tư nhân
+ Tính tự chủ trong quản lý và hoạt động sản xuất kinh doanh của các
doanh nghiệp Nhà nước bị hạn chế vì nhiếu quy chế liên quan đến quyền sở hữu
17
của Nhà nước, do đó gây ra những yếu tố làm cản trở đến hoạt động có hiệu quả
của doanh nghiệp.
+ Tình trạng độc quyền của các doanh nghiệp Nhà nước trên thị trường
được pháp luật của Nhà nước củng cố đã đánh mất những động lực nâng cao
hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp này, đưa đến tình trạng xã hội buộc
phải chấp nhận tiêu dùng các hàng hoá và dịch vụ do chúng sản xuất ra với chất
lượng ít được cải tiến nhưng giá cả ngày càng tăng không hợp lý và nếu không
tăng giá thì Nhà nước phải chịu những gánh nặng trợ cấp ngày càng lớn.

+ Các doanh nghiệp Nhà nước được thành lập nhờ nguồn vốn của Nhà
nước không được phép phá sản và được trợ cấp từ ngân sách hoặc được sử dụng
các nguồn vốn nội bộ với lãi suất thấp hoặc được ưu tiên tiếp cận với các nguồn
tài chính nước ngoài. Vì vậy, các doanh nghiệp Nhà nước không có các yếu tố
kích thích phải nâng cao hiệu quả để tồn tại trong cạnh tranh đối với các doanh
nghiệp tư nhân.
+ Động cơ hoạt động của các doanh ngiệp Nhà nước chỉ nhằm cố gắng
tránh né sự thẩm xét của các cơ quan cấp trên trước những sản phẩm và dịch vụ
đối với người tiêu dùng cũng như tránh né sự xung đột trong nội bộ, tránh né
những sự cải tổ, đổi mới tổ chức quản lý để nâng cao hiệu quả, đảm bảo cho xí
nghiệp có điều kiện hoạt động dễ chịu và ổn định. Do đó, mua sắm trang bị ngày
càng dư thừa, biên chế ngày càng phình to dẫn đến chi phí quá mức so với
nguồn thu.
Thâm hụt ngân sách và nợ nước ngoài. Đây cũng là một nguyên nhân
quan trọng thúc đẩy các nước phải tiến hành cổ phần hoá vì các khoản trợ cấp
ngày càng lớn cho khu vực kinh tế quốc doanh để đảm bảo Nhà nước kiểm soát
giá cả sản phẩm hoặc trang trải các chi phí về giá vốn được duy trì thấp để ổn
định sản xuất ở một số ngành. Ngoài ra các khoản trợ cấp trực tiếp còn có khoản
gián tiếp bị che giấu như ưu tiên vốn và ngoại tệ để nhập khẩu cho các doanh
nghiệp Nhà nước với giá cả không phản ánh được tính khan hiếm của chúng.
18
Kết quả tài chính nghèo nàn của các doanh nghiệp Nhà nước làm tăng sự
phụ thuộc của chúng vào ngân sách Nhà nước. Thực tế, các nguồn tài chính có
thể được Chính phủ huy động và vay nợ để trang trải thâm hụt ngân sách ngày
càng suy giảm đã làm bộc lộ nghiêm trọng sự yếu kém của các doanh nghiệp
Nhà nước và điều này đã làm cho việc đánh giá lại vai trò của khu vực kinh tế
này ngày càng trở nên cấp bách.
Sự thay đổi quan điểm về vai trò điều tiết Nhà nước trong nền kinh tế thị
trường. Đây là nguyên nhân nhận thức dựa trên thực tiễn đã thay đổi về tình
hình phát triển kinh tế theo hướng trì trệ và hiệu quả thấp ở hầu hết các nước.

Vấn đề đa dạng hoá sở hữu được đặt ra và thực hiện do sự thay đổi nhận thức từ
chỗ nhấn mạnh vai trò của khu vực kinh tế Nhà nước đến chỗ tôn trọng nhiều
hơn vào khu vực kinh tế tư nhân và vai trò điều tiết của cơ chế thị trường. Đây
cũng là một bước phát triển mới về nhận thức đối với nền kinh tế thị trường hỗn
hợp, trong đó vai trò Nhà nước được coi như một biến số của sự phát triển kinh
tế - nó chỉ có tác dụng thúc đẩy khi sự can thiệp và điều tiết ở mức độ hợp lý
dựa trên sự tôn trọng các quy luật thị trường.
2. Thực chất của cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước
Xét về mặt hình thức, cổ phần hoá là việc Nhà nước bán một phần hay
toàn bộ giá trị cổ phần của mình cho các đối tượng tổ chức hoặc tư nhân trong
và ngoài nước hoặc cho cán bộ quản lý và công nhân của xí nghiệp bằng đấu giá
công khai hay thông qua thị trường chứng khoán để hình thành các công ty trách
nhiệm hữu hạn hoặc công ty cổ phần. Xét về mặt thực chất, cổ phần hoá chính là
phương thức thực hiện xã hội hoá sở hữu, chuyển hình thái kinh doanh một chủ
với sở hữu Nhà nước trong doanh nghiệp thành công ty cổ phần với nhiều chủ
sở hữu để tạo ra một mô hình doanh nghiệp phù hợp với nền kinh tế thị trường
và đáp ứng được yêu cầu của kinh doanh hiện đại.
19
3. Các mục tiêu cố phần hóa doanh nghiệp Nhà nước
Chuyển doanh nghiệp Nhà nước thành công ty cổ phần nhằm các mục tiêu
sau:
a) Huy động vốn của toàn xã hội, bao gồm cá nhân, các tổ chức kinh tế, tổ
chức xã hội trong nước và ngoài nước để đầu tư đổi mới công nghệ, tạo thêm
việc làm, phát triển doanh nghiệp, nâng cao sức cạnh tranh, thay đổi cơ cấu
doanh nghiệp Nhà nước.
b) Tạo điều kiện để người lao động trong doanh nghiệp có cổ phần và
những người đã góp vốn được làm chủ thực sự; thay đổi phương thức quản lý
tạo động lực thúc đẩy doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả, tăng tài sản Nhà
nước, nâng cao thu nhập của người lao động, góp phần tăng lượng kinh tế đất
nước.

4. Các phương pháp cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước.
* Bán cổ phần cho công chúng
Nhà nước bán toàn bộ hay một phần sở hữu Nhà nước trong doanh nghiệp
cho công chúng. Việc bán này thường được thực hiện thông qua sở giao dịch
chứng khoán hay một tổ chức tài chính trung gian.
Việc bán cổ phần hoá cho công chúng đòi hỏi doanh nghiệp phải có tỷ lệ
sinh lợi hấp dẫn; đã có các thông tin, quản lý để thông báo công khai trên thị
trường chứng khoán; có cơ chế tổ chức để thu hút các nguồn đầu tư trong xã hội.
Thông qua việc bán cổ phần cho công chúng cho phép các tầng lớp dân cư
rộng rãi có thể mua được cổ phần và phù hợp với mong muốn của Chính phủ
khuyến khích việc mở rộng và đa dạng hoá cơ cấu sở hữu trong doanh nghiệp
nhà nước. Mặt khác, biện pháp này cũng làm giảm sự tập trung tài sản kinh tế
của các nhóm tư nhân, mở rộng quy mô và chiều sâu của thị trường chứng
khoán.
20
* Bán cổ phần cho tư nhân
Nhà nước bán một phần hay toàn bộ số cổ phần của doanh nghiệp thuộc
sở hữu một phần hay hoàn toàn của Nhà nước cho một số cá nhân hay một nhóm
nhà đầu tư tư nhân thông qua đấu thầu có tính cạnh tranh hay những người mua
đã được xác định trước.
Các lý do đưa đến việc áp dụng rộng rãi phương pháp cổ phần hoá này
bao gồm:
1) Tính linh hoạt của nó trong các điều kiện cụ thể.
2) Tính đơn giản về các yêu cầu pháp lý khi chuyển nhượng.
3) Tốc độ triển khai thực hiện nó nhanh hơn. Mặt khác, do những đặc tính
trên, phương pháp này thường được ưu tiên sử dụng đối với các doanh nghiệp
Nhà nước đang hoạt động yếu kém hay những doanh nghiệp Nhà nước cần
những người chủ đủ mạnh và có kinh nghiệm về kỹ thuật, tài chính, quản lý và
thương mại, hay những doanh nghiệp có quy mô không đáng kể để có thể bán
rộng rãi cho công chúng.

Phương pháp cổ phần hoá này thường được lựa chon để thực hiện đối với
các doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ. Phương pháp này cũng tạo ra sự
khuyến khích lớn đối với việc tăng năng suất lao động, đồng thời, cũng là cách
giải quyết vấn đề lao động trong trường hợp doanh nghiệp sắp bị giải thể.
Trở ngại chính với áp dụng phương pháp này là thiếu nguồn tài chính và
tín dụng bảo đảm việc chuyển giao doanh nghiệp cho cán bộ quản lý và người
lao động. Các biện pháp hỗ trợ về tài chính và tín dụng được nhiều Chính phủ
nều ra trong việc bán cổ phần như ưu tiên giảm giá, cho những người mua vay
lãi suất thấp và dài hạn Tuy vậy, sở hữu cổ phần gắn liền với rủi ro, thất bại và
những người công nhân dễ dạng chấp nhận giảm tiền công để cơ cấu lại doanh
nghiệp nhưng nếu mất cả vốn góp lẫn việc làm trong doanh nghiệp thì họ sẽ trở
nên thờ ơ với ý định này của Chính phủ.
21
5. Các bước cổ phần hoá doanh nghiệp
5.1. Xác định giá trị tài sản doanh nghiệp
a) Xác định giá trị tài sản cố định
Tài sản cố định phải xác định rõ nguyên giá, giá trị hao mòn và giá trị còn
lại, xác định cho từng tài sản đang dùng, không dùng, chưa dùng, cho thuê, chờ
thanh lý.
Trong trường hợp doanh nghiệp có tài sản cố định vô hình, như: bằng
phát minh, sáng chế, hoặc tài sản vô hình khác cũng được xác định vào tài sản
doanh nghiệp.
Toàn bộ tài sản cố định sau khi đã kiểm kê và được tính theo giá trên sổ
sách, doanh nghiệp căn cứ vào chất lượng còn lại và giá trị hiện hành của từng
loại tài sản, giá trị tài sản vô hình để xác định lại giá trị tài sản thực còn. Riêng
nhà cửa, vật kiến trúc, căn cứ vào biểu giá hiện hành của địa phương, nơi doanh
nghiệp đóng trụ sở để xác định lại giá trị.
Đất đai đang sử dụng: Không tính giá trị đất vào giá trị doanh nghiệp,
Nhà nước cho phép các doanh nghiệp và công ty cổ phần sử dụng đất theo thời
hạn nhất định. Công ty cổ phần phải nộp tiền thuê đất hàng năm, thực hiện theo

luật đất đai và các quy định khác của Nhà nước về sử dụng đất. Trước khi giao
cho công ty cổ phần sử dụng, doanh nghiệp Nhà nước đã nộp một số khoản,
như: tiền đền bù, tiền san lấp mặt bằng, khoản tiền này được tính vào giá trị
doanh nghiệp.
b) Xác định giá trị tài sản lưu động.
Bao gồm: vốn bằng tiền, vật tư, hàng hoá (căn cứ vào kiểm kê thực tế và
giá trị đã được đinh giá lại theo thời giá hiện hành); các khoản phải thu, giá trị
tài sản lưu động khác (Khoản thế chấp, ký quỹ, ký cược, ngắn hạn )
Tổng hợp giá trị tài sản lưu động của doanh nghiệp được xác định như sau:
22
Giá trị TSCĐ
thực tế
vốn
= bằng
tiền
Giá trị VTHH
+ Sau khi đánh
giá lại
Các
+ khoản
phải thu
Nợ
- khó
đòi
Giá
+ trị TSLĐ
khác
c) Giá trị XDCB dở dang. Đối với các công trình xây dựng dở dang gẵn liền với
các hoạt động sản xuất - kinh doanh của doanh nghiệp, mà công ty cổ phần sau
này có nhu cầu xây dựng tiếp, thì cũng định giá như tài sản cố định.

d) Giá trị vốn góp liên doanh, liên kết (nếu có). Phần giá trị vốn góp liên doanh
phải được xác định, đánh giá lại bằng số thực có, theo mặt bằng giá trị khi thực
hiện cổ phần hoá. Vốn góp liên doanh: bằng tiền, vật tư, hàng hoá, tài sản cố
định, mặt bằng đất đai
e) Xác định nguồn vốn hình thành
+ Nguồn vốn chủ sở hữu: Các nguồn vốn và quỹ phải xác định rõ nguồn
thuộc sở hữu Nhà nước (ngân sách cấp, tự bổ sung), vốn nhận liên doanh và các
nguồn thuộc chủ sở hữu khác.
+ Nợ phải trả: Bao gồm nợ ngắn hạn, nợ dài hạn và nợ khác
Sau khi xác định lại giá trị từng loại tài sản và nguồn hình thành, giá trị
doanh nghiệp được tính theo công thức sau:
Giá trị DN
Sau khi kiểm kê =
đánh giá lại
Giá
trị
TSCĐ
Giá
+ trị
TSLĐ
Giá trị
+ XDCB
dở dang
Vốn góp
+liên doanh
liên kết
Nợ
phải
trả
Nợ phải trả

- không có
chủ trả
Các
+ khoản
lỗ
Quỹ
+ PL
KT
Vốn
+ nhận
LD
23
f) Xác định lợi thế doanh nghiệp.
Căn cứ để xác định lợi thế doanh nghiệp là: vị trí địa lý thuận tiện, nhãn
mác có uy tín, trình độ quản lý tốt, hiệu quả kinh doanh , được tính vào giá trị
doanh nghiệp khi tiến hành cổ phần hoá.
Cách tính như sau:
Lấy tỉ suất lợi nhuận trên vốn kinh doanh bình quân của 3 năm trước khi
cổ phần hoá so với lợi nhuận trên vốn kinh doanh của các doanh nghiệp cùng
loại, trong ngành kinh tế - kỹ thuật, theo phân loại, trong cùng ngành kinh tế
quốc dân của Nhà nước. Giá trị lợi thế bằng phần chênh lệch về tỷ suất lợi
nhuận trên vốn kinh doanh của doanh nghiệp cổ phần hoá nhân với giá trị doanh
nghiệp sau khi kiểm kê, đánh giá lại.
Giá trị DN = giá trị DN sau khi kiểm kê đánh giá lại
(hoặc -) giá trị lợi thế + Chi phí tiến hành cổ phần hoá.
5.2. Mệnh giá cổ phiếu và số lượng cổ phần
a) Một số khái niệm:
- Cổ phần: là phần vốn tối thiểu mà mỗi cổ đông tham gia đầu tư vào công
ty cổ phần, giá trị tối thiểu mỗi cổ phần là 50.000đ.
- Cổ đông là pháp nhân hay thể nhân chủ sở hữu cổ phần

- Cổ phiếu doanh nghiệp là chứng chỉ xác nhận sự đầu tư và quyền sở hữu
về vốn của chủ sở hữu cổ phần đối với công ty cổ phần.
b) Mức mua
- Mỗi cổ đông là pháp nhân (các tổ chức kinh tế có tư cách pháp nhân, các
tổ chức xã hội được pháp luật công nhận) có quyền mua một hoặc nhiều cổ phần
ở các doanh nghiệp cổ phần hoá, nhưng mức tối đa không quá 10% giá trị doanh
nghiệp.
24
- Mỗi cổ đông là thể nhân - công dân Việt Nam từ 18 tuổi trở lên có
quyền mua tối đa không quá 5 % giá trị doanh nghiệp.
- Mỗi cổ phần của công ty có giá trị như nhau và ghi bằng tiền Việt Nam.
Trường hợp mua cổ phần bằng vàng hoặc ngoại tệ, đều được chuyển đổi ra tiền
Việt Nam theo tỷ giá tại thời điểm thu tiền mua cổ phần.
c) Cổ phiếu doanh nghiệp bao gồm các loại: cổ phiếu ghi tên (ký danh) và cổ
phiếu không ghi tên (vô danh)
- Cổ phiếu ghi tên là loại cổ phiếu có ghi tên người chủ sở hữu trên cổ
phiếu, bao gồm: của sáng lập viên, thành viên Hội đồng quản trị, người lao động
được Nhà nước cấp không và cho vay tiền mua chịu cổ phiếu. Cổ phiếu của cổ
đông là thành viên Hội đồng quản trị không được chuyển nhượng trong suốt thời
gian tại chức và sau 2 năm, kể từ ngày thôi giữ chức thành viên Hội đồng quản
trị.
- Cổ phiếu vô danh là loại cổ phiếu không ghi tên người chủ sở hữu trên
cổ phiếu. Cổ phiếu vô danh được tự do mua bán, chuyển nhượng. Cổ phiếu được
Nhà nước cho vay mua chịu được chuyển thành cổ phiếu vô danh khi các cổ
đông trả hết nợ.
Việc chuyển nhượng quyền sở hữu đối với các loại cổ phiếu (vô danh, ký
danh), được thực hiện tại công ty cổ phần, nơi phát hành cổ phiếu và theo các
quy định khác của Nhà nước (nếu có)
Cổ phiếu Nhà nước cấp cho người lao động không được chuyển nhượng
mà chỉ được hưởng cổ tức đến suốt đời.

d) Các pháp nhân kinh tế là doanh nghiệp Nhà nước đem vốn mua cổ phần phải
được xác nhận của cơ quan quản lý vốn và tài sản Nhà nước tại doanh nghiệp.
e) Cổ phiếu do Bộ Tài chính quy định mẫu, tổ chức in, quản lý và bán cho công
ty cổ phần để phát hành, mọi chứng chỉ không do Bộ Tài chính ấn hành đều
không có giá trị.
25

×