Tải bản đầy đủ (.docx) (111 trang)

Hoạt động nhập khẩu nguyên liệu nhựa phục vụ sản xuất trong nước tại công ty thương mại và xuất nhập khẩu hà nội thực trạng và giải pháp 60

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (379.36 KB, 111 trang )

Lời mở đầu
Việc xóa bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, chuyển nền
kinh tế nước ta sang cơ chế thị trường có sự quản lý điều tiết của Nhà
nước, thực hiện chính sách kinh tế mở, hội nhập với các nước trên
thế giới được xem là bước ngoặt có ý nghĩa quyết định đến việc phát
triển nền kinh tế nước ta hiện nay.
Xuất nhập khẩu là lĩnh vực không thể thiếu đối với bất kỳ quốc
gia nào đặc biệt là đối với những nước đang phát triển. Để tăng
trưởng kinh tế nhanh chóng quốc gia cần đẩy mạnh hoạt động xuất
khập khẩu bởi vì xuất khẩu sẽ thúc đẩy nền kinh tế trong nước còn
nhập khẩu sẽ đảm bảo cho q trình sản xuất được liên tục có hiệu
quả. Hoạt động xuất nhập khẩu đưa nền kinh tế Việt Nam hồ nhập
với thế giới, tham gia tích cực vào phân công lao động quốc tế. Cụ
thể là hoạt động xuất khẩu cho phép ta tận dụng được những lợi thế
của đất nước, đồng thời thiết lập được các mối quan hệ về văn hoá,
xã hội. Hoạt động nhập khẩu cho phép ta có điều kiện tiếp cận nhanh
với đời sống kinh tế thế giới, tiếp cận với khoa học và công nghệ tiên
tiến phục vụ cho việc phát triển đất nước và nâng cao đời sống nhân
dân. Nhập khẩu cịn là cơng cụ thúc đẩy q trình sản xuất và tiêu
dùng trong nước theo kịp với trình độ chung của thế giới. Thông qua
XNK, sản xuất trong nước đã có những biến đổi lớn lao, con người
cũng trở nên năng động, sáng tạo hơn và sự đáp ứng nhu cầu trong
nước cũng trở nên đa dạng và đầy đủ hơn.
Đối với Việt Nam, tuy là một quốc gia giàu tài nguyên thiên
nhiên nhưng vẫn chưa thể đảm bảo được đầy đủ nguyên vật liệu đầu
vào cho sản xuất trong nước. Nắm được thực trạng đó Cơng ty
Thương mại và xuất nhập khẩu Hà Nội đã rất chú trọng vào lĩnh vực

1



nhập khẩu nguyên liệu nhựa để phục vụ sản xuất trong nước. Công
ty đã đầu tư rất lớn vào lĩnh vực này và biến nó thành một trong
những ngành hàng kinh doanh chủ yếu của của công ty nhằm cung
cấp nguyên liệu cho các doanh nghiệp sản xuất sản phẩm nhựa trong
nước.
Qua nhận thức về mặt lý luận tại trường Đại học Kinh tế quốc
dân cùng với thời gian thực tập nghiên cứu tại Công ty Thương mại
và xuất nhập khẩu Hà Nội, được sự hướng dẫn của thầy giáo Phó
giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Duy Bột và thầy giáo Thạc sĩ Nguyễn Trọng
Hà cùng với sự gợi ý của các cán bộ trong công ty tôi xin chọn đề tài
: Hoạt động nhập khẩu nguyên liệu nhựa phục vụ sản xuất trong
nước tại Công ty Thương mại và xuất nhập khẩu Hà Nội : thực
trạng và giải pháp.

Luận văn này gồm ba chương :

Chương I : Cơ sở lý luận về hoạt động nhập khẩu
Chương II:

Thực trạng hoạt động kinh doanh nhập khẩu

nguyên liệu nhựa phục vụ sản xuất ở Công ty Thương mại và xuất
nhập khẩu Hà Nội.

Chương III : Giải pháp nhằm đẩy mạnh hoạt động kinh doanh
nhập khẩu nguyên liệu nhựa phục vụ sản xuất tại Công ty Thương
mại và xuất nhập khẩu Hà Nội.
Với hạn chế về thời gian thực tập và trình độ có hạn của một
sinh viên nên bài luận văn của em khơng tránh khỏi thiếu sót, kính
mong được sự chỉ bảo của các thầy cô giáo, các cán bộ kinh doanh

của công ty. Qua đây, em xin chân thành cảm ơn thầy giáo Nguyễn

2


Duy Bột và thầy giáo Nguyễn Trọng Hà đã tận tình giúp đỡ em hồn
thành bài luận văn tốt nghiệp này.

Chương I : Cơ sở lý luận về hoạt động
kinh doanh nhập khẩu
I. Khái niệm, vai trị và các hình thức Nhập khẩu :

1. Khái niệm :
Hoạt động nhập khẩu là một q trình trao đổi hàng hố, dịch vụ giữa
các doanh nghiệp và cá nhân có quốc tịch khác nhau trên nguyên tắc ngang
giá, lấy tiền tệ làm môi giới để đưa lại lợi ích cho các bên.
Nhập khẩu là một khâu cơ bản của hoạt động ngoại thương. Có thể
hiểu một cách đơn giản nhập khẩu là việc mua bán hàng hoá từ các tổ chức
kinh tế, các cơng ty nước ngồi và tiến hành tiêu thụ hàng hoá nhập khẩu tại
thị trường nội địa hoặc tái xuất khẩu với mục đích thu lợi nhuận và nối liền
sản xuất với tiêu dùng giữa các quốc gia.
Nhập khẩu là một bộ phận không thể tách rời của thương mại quốc tế,
tác động trực tiếp đến sản xuất và đời sống của mỗi quốc gia. Nhập khẩu
thể hiện mối quan hệ kinh tế, mức độ phụ thuộc, gắn bó với nhau giữa nền
kinh tế từng quốc gia với nền kinh tế thế giới. Nó tác động tích cực đến sự
phát triển cân đối và khai thác tiềm năng, thế mạnh của nền kinh tế mỗi
quốc gia về sức lao động, vốn, tài nguyên và khoa học kĩ thuật...
Trong xu thế hội nhập của nền kinh tế thế giới, các quốc gia không
ngừng mở rộng quan hệ buôn bán quốc tế, sự phụ thuộc lẫn nhau trong quan
hệ kinh tế quốc tế ngày càng lớn mạnh cùng với việc hình thành trung tâm

thương mại, khối mậu dịch tự do đã chứng tỏ việc lưu chuyển hàng hố
giữa các quốc gia khơng ngừng dược cải thiện và nâng cao. Khi đó vai trị
của hoạt động nhập khẩu có ý nghĩa rất lớn đối với việc ổn định và phát
3


triển kinh tế của từng quốc gia nói riêng và phát triển nền kinh tế thế giới
nói chung.

2. Vai trị của kinh doanh nhập khẩu nguyên liệu nhựa:

2.1. Vai trò của kinh doanh nhập khẩu nguyên liệu nhựa
đối với nền kinh tế Việt Nam :
Việt Nam là một quốc gia đang phát triển lại đang trong thời kỳ cơng
nghiệp hố hiện đại hoá, do vậy hoạt động nhập khẩu nguyên vật liệu đang
đóng một vai trị hết sức quan trọng. Trong vòng 10 năm (1990 – 2000)
kinh tế Việt nam ln duy trì được tốc độ tăng trưởng cao, đặc biệt là sản
xuất công nghiệp luôn tăng trưởng ở mức 15%-17% /năm. Để đạt được
thành tựu đó, Nhà nước đã phải tăng cường đầu tư hiện đại hoá sản xuất
cũng như đảm bảo nguyên vật liệu đầu vào ổn định cho sản xuất . Hoạt
động nhập khẩu đã hoàn thành tốt vai trị của mình, kim ngạch nhập khẩu
tăng nhanh hàng năm. Trong những năm qua cơ cấu nhập khẩu của nước ta
được đánh giá là lành mạnh, tỷ lệ nguyên liệu - vật tư trong tổng kim ngạch
nhập khẩu luôn đạt ở mức xấp xỉ 70%.

Bảng 1: Cơ cấu nhập khẩu của Việt nam
Chỉ tiêu

1998


1999

2000

KN NK (tỷ $)

11.495

11.636

15.200

Tỷ lệ NVL

72.15%

73.6%

71.2%

(Nguồn : Thời báo kinh tế Việt Nam)
Thật vậy thông qua nhập khẩu nguyên vật liệu thì cơ sở sản xuất được
tăng cường hiện đại hoá, năng lực sản xuất kinh tế của nền kinh tế quốc dân
4


ngày càng được nâng cao và mở rộng, với nguồn lực dồi dào trong khi đó
nguyên vật liệu cho nhiều nghành công nghiệp chúng ta chưa tự sản xuất
được. Đặc biệt là đối với nguyên vật liệu nhựa, nó gắn liền với nghành cơng
nghiệp hố dầu bởi vì ngun liệu nhựa là sản phẩm được chế biến từ dầu

mỏ mà chúng ta hiện nay tuy đã khai thác được một lượng lớn dầu thô
nhưng chưa xây dựng được nhà máy lọc dầu (hiện nay mới đang đi vào xây
dựng nhà máy lọc dầu số 1 Dung Quất). Vì vậy hiện nay phần lớn những
nguyên liệu nhựa để phục vụ cho sản xuất trong nước đều phải nhập khẩu,
còn một số ngun liệu nhựa thì chúng ta đã có nhà máy liên doanh trong
nước sản xuất nhưng số lượng vẫn hạn chế và giá thành cịn q cao. Vì thế
vai trị của nhập khẩu nguyên vật liệu nhựa phục vụ cho sản xuất trong
nước là rất quan trọng nó thể hiện trên các khía cạnh sau :
Nhập khẩu nguyên liệu nhựa tạo điều kiện thúc đẩy nhanh quá trình
xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng
từng bước cơng nghiệp hố hiện đại hố đất nước. Bởi vì khi nhập khẩu
nguyên liệu nhựa thì đòi hỏi đồng bộ về kỹ thuật nên sẽ tạo ra dây chuyền
hiện đại kéo theo sự đổi mới trong đội ngũ cán bộ kỹ thuật và quản lý tạo ra
kỷ luật lao động chặt chẽ tạo ra hiệu quả trong sản xuất. Nhập khẩu ngun
liệu cịn góp phần phát triển các nghành có mối quan hệ bổ xung với
nghành được cơng nghiệp hố nhờ nhập khẩu tạo điều kiện mở rộng khả
năng cung ứng cho sản xuất nâng cao năng lực sản xuất trong nước.
Nhập khẩu nguyên liệu nhựa cịn có vai trị tích cực để thúc đẩy xuất
khẩu, giải quyết tình trạng thiếu nguyên liệu trong nước tạo đầu vào cho sản
xuất nâng cao chất lượng sản phẩm nhựa xuất khẩu, đảm bảo tiêu chuẩn
quốc tế để xuất khẩu đồng thời giảm các hao phí tiết kiệm nguyên liệu đầu
vào dẫn đến giảm giá thành sản phẩm nâng cao sức cạnh tranh của sản
phẩm nhựa trong nước trên thị trường quốc tế.
Nhập khẩu nguyên vật liệu nhựa còn phát huy cao độ tính năng động
sáng tạo của mỗi doanh nghiệp, mỗi nghành nghề địa phương và mỗi cán bộ
5


tham gia hoạt động nhập khẩu trong điều kiện kinh tế nhiều thành phần có
nhiều cạnh tranh sâu sắc để tồn tại thì phải ln ln đổi mới, nỗ lực vươn

lên xuất phát từ lợi ích của bản thân doanh nghiệp và lợi ích của tồn bộ nền
kinh tế.
Nước ta là một nước giàu tài nguyên thiên nhiên nhưng không phải
chúng ta ln có đủ ngun liệu đầu vào cho sản xuất. Nhà nước ta ln
khuyến khích nhập khẩu các mặt hàng trong nước không sản xuất được, đặc
biệt là các loại ngun vật liệu. Trong q trình cơng nghiệp hố hiện đại
hố đất nước khi mà máy móc thiết bị được đổi mới thì việc nhập khẩu
nguyên liệu càng trở nên cấp thiết. Nhập khẩu nguyên liệu cho nghành nhựa
sẽ đáp ứng những nhu cầu về nguyên liệu cho các doanh nghiệp sản xuất
trong nước còn thiếu, đảm bảo cho hoạt động sản xuất được liên tục. Trong
những năm tới đời sống nhân dân ta ngày càng cao sức tiêu dùng ngày càng
lớn đòi hỏi số lượng nguyên liệu nhựa nhập khẩu vào Việt nam để sản xuất
thành phẩm nhựa đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng đó. Với những đặc tính
đặc biệt của mình các sản phẩm nhựa có vị trí ngày càng quan trọng trong
tương lai. Các sản phẩm nhựa không chỉ đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của
nhân dân mà còn cung cấp cho các lĩnh vực khác nhau của nền kinh tế.

2.2. Vai trò của kinh doanh nhập khẩu nguyên liệu nhựa
đối với công ty TM và XNK Hà Nội :
Ngày nay hoạt động ngoại thương của các quốc gia trên thế giới đều
phát triển mạnh mẽ, tỷ trọng của kim ngạch ngoại thương trong tổng sản
phẩm quốc dân của mỗi nước ngày càng lớn. Bên cạnh đó cơ cấu mặt hàng
cũng có những thay đổi sâu sắc hình thành theo hai dịng xu hướng : các
nước phát triển chủ yếu nhập khẩu nguyên vật liệu nhiên liệu và xuất khẩu
vật tư thiết bị kĩ thuật cao và ngược lại đối với các nước đang phát triển chủ
yếu nhập khẩu nguyên vật liệu máy móc thiết bị và xuất khẩu những sản
phẩm thơ có giá trị thấp. Các nước đang phát triển tham gia vào hoạt động
6



ngoại thương với vai trị là nước có nền kinh tế qui mô nhỏ nên bị chèn ép
và phải chấp nhận giá, nhập khẩu chủ yếu là sản phẩm kỹ thuật cao để phục
vụ cho cơng cuộc cơng nghiệp hố, hiện đại hoá đất nước. Một đặc trưng cơ
bản của các nước đang phát triển là tỷ trọng thiết bị, nguyên vật liệu, vật tư
phục vụ sản xuất trong kim ngạch nhập khẩu cao thường là 60- 70 % tổng
kim ngạch. Vai trò của nhập khẩu đối với các nước đang phát triển hết sức
quan trọng, nó là tác nhân thúc đẩy quá trình tăng trưởng và phát triển kinh
tế đặc biệt là việc nhập khẩu nguyên vật liệu phục vụ sản xuất trong nước.
Trước tình hình đó, cơng ty thương mại và xuất nhập khẩu Hà Nội không
thể không tham gia vào hoạt động nhập khẩu nguyên liệu nhựa phục vụ sản
xuất trong nước và hoạt động kinh doanh nhập khẩu nguyên liệu nhựa là
một trong những hoạt động đem lại lợi nhuận lớn cho công ty, đây là nguồn
thu để duy trì hoạt động của cơng ty và bổ sung vào nguồn vốn đang rất
hạn chế của công ty.
3. Tình hình nhập khẩu nguyên liệu nhựa
Các sản phẩm nhựa ngày nay không chỉ phục vụ các nhu cầu tiêu
dùng mà còn phục vụ cho mọi ngành kinh tế nên kinh nghiệm ở các nước
phát triển cho thấy tốc độ tăng trưởng các ngành nhựa phù hợp là 2%-3%
trong khi nền kinh tế tăng trưởng 1%. Để đánh giá đúng mức ứng dụng của
ngành nhựa người ta thường dùng chỉ tiêu sản lượng nhựa bình quân đầu
người.
Bảng 2: Chỉ tiêu sản lượng nhựa bình quân / người

Nước
Sảnlượng
bq/người

7

Nhật, Mỹ,


Đài

Đức

Loan

100-200Kg

70Kg

Malayxia

Thái Lan Indonexia

28Kg

16Kg

8Kg


(Nguồn : Báo cáo về sản lượng nhựa
các nước của Tổng công ty Nhựa)
Qua bảng trên ta thấy ở các nước phát triển như Nhật, Mỹ, Đức... thì sản
lượng nhựa bình quân đầu người của họ rất cao gấp nhiều lần so với các
nước đang phát triển. Còn các nước đang phát triển ở Châu á thì sản lượng
thấp hơn rất nhiều so với các nước phát triển. Điều này chứng tỏ rằng cùng
với sự phát triển kinh tế thì nguyên liệu nhựa được sử dụng ngày càng nhiều
và các sản phẩm nhựa được ứng dụng vào các ngành công nghiệp ngày một

lớn hơn.
Nước ta hiện nay trung tâm phát triển ngành nhựa là thành phố Hồ Chí
Minh với sản lượng chiếm 70% sản lượng ngành nhựa cả nước với sản
phẩm đa dạng công nghệ tiên tiến. Tuy nhiên sự phát triển còn đặt cho
ngành nhựa những vấn đề cần quan tâm về cơ cấu phát triển trong khi tỷ
trọng các ngành quốc doanh chỉ là 30% còn 70% sản lượng thuộc về lĩnh
vực tư nhân và các loại hình doanh nghiệp khác. Hầu hết các cơ sở sản xuất
nhựa đều là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, các doanh nghiệp lớn cịn rất ít
do vậy khả năng đầu tư trên qui mô lớn cho các sản phẩm kỹ thuật cao rất
hạn chế. Do vậy sản lượng nhựa bình quân đầu người của Việt nam còn rất
thấp chỉ đạt khoảng từ 2kg-5kg. Cho đến nay nước ta vẫn phải nhập hầu hết
nguyên liệu cho ngành nhựa. Nguyên liệu nhựa là những sản phẩm được
chế tạo trực tiếp từ dầu thô, qua mỗi quá trình chế biến mà tạo ra những
nguyên liệu khác nhau. Tuy nước ta đã khai thác được dầu thơ nhưng vẫn
cịn chưa đủ trình độ để chế tạo ra các loại nguyên liệu nhựa cần thiết. Hiện
nay các loại nguyên liệu nhựa có rất nhiều ở các nước phát triển và đang
phát triển như : Anh, Đức, Mỹ, Hàn Quốc, Nhật...Nhà nước ta đã đặt quan
hệ thương mại với tất cả các nước này. Mặt khác đã có một số nhà máy liên
doanh cung cấp nguyên liệu nhựa đã đi vào hoạt động nhưng vẫn chưa thể

8


đáp ứng nhu cầu trong nước và trong những năm tới lượng nguyên liệu
nhựa nhập khẩu cũng sẽ không giảm đáng kể .
Để đạt được mục tiêu sản lượng bình quân trên 10kg/người trong những
năm sắp tới thì chúng ta cần số vốn đầu tư khoảng 1 tỷ USD trong đó
khoảng 50% hy vọng huy động từ nguồn vốn nước ngoài để đầu tư xây
dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho ngành nhựa. Trong những năm tới Việt
Nam cần đầu tư phát triển nguồn nguyên liệu nhựa bán thành phẩm, cơ khí

khuân mẫu và chế tạo thiết bị gia công nhựa, dự án đầu tư PVC compound,
bột PVC, màng PP cho bao bì, sản xuất tấm PS PVC, BMMA, tăng cường
đầu tư cho các cơ sở phía Bắc và miền Trung để đảm bảo phân vùng lãnh
thổ hợp lý vì hiện nay thị trường phía Nam chiếm tới 70%.
Do nền kinh tế Việt nam có điểm xuất phát thấp, hầu hết nguyên liệu
hoá chất thiết bị nhập ngoại mà sản phẩm xuất khẩu chưa đáng kể và mới
chỉ đáp ứng được các nhu cầu cấp thấp, thông thường nên chưa thực sự
cạnh tranh được hàng ngoại nhập.

3. Các hình thức nhập khẩu :
Hoạt động kinh doanh nhập khẩu hiện nay được tồn tại dưới nhiều
hình thức rất đa dạng và phong phú. Có thể kể ra đây một vài hình thức
nhập khẩu thơng dụng đang được áp dụng ở nước ta hiện nay :

3.1. Nhập khẩu uỷ thác :
Đó là hoạt động hình thành giữa một doanh nghiệp trong nước có
vốn ngoại tệ riêng và có nhu cầu nhập khẩu một số loại mặt hàng nhưng lại
không đủ điều kiện tham gia nhập khẩu trực tiếp đã uỷ thác cho một doanh
nghiệp khác có chức năng trực tiếp giao dịch ngoại thương tién hành nhập
khẩu hàng theo yêu cầu của mình. Bên nhận uỷ thác phải tiến hành đàm
phán với phía bên nước ngồi để làm thủ tục nhập hàng theo yêu cầu của
bên uỷ thác và được hưởng một phần thù lao gọi là phí uỷ thác.
Đặc điểm của loại hình nhập khẩu này là :

9


Doanh nghiệp nhận uỷ thác không phải bỏ vốn, không phải xin

-


hạn nghạch nhập khẩu (nếu có), khơng phải đi tìm thị trường tiêu thụ do
khơng tiêu thụ hàng nhập khẩu mà chỉ đứng ra đại diện cho bên uỷ thác để
tìm và giao dịch với bạn hàng nước ngồi, ký hợp đồng và làm thủ tục nhập
hàng cũng như thay mặt bên uỷ thác khiếu nại, đòi bồi thường với bên nước
ngồi khi có tổn thất phát sinh.
Khi tiến hành nhập uỷ thác thì đại diện các doanh nghiệp xuất

-

nhập khẩu chỉ được tính kim nghạch xuất khẩu chứ khơng được tính doanh
số, khơng phải chịu thuế doanh thu. Khi nhập uỷ thác thì các doanh nghiệp
này phải lập hai hợp đồng : Một hợp đồng mua hàng hoá với nước ngoài,
một hợp đồng uỷ thác với nhà uỷ thác.

3.2. Nhập khẩu liên doanh :
Là loại hoạt động nhập khẩu hàng hoá trên cơ sở liên kết kinh tế một
cách tự nguyện giữa các doanh nghiệp (trong đó có ít nhất một doanh ngiệp
xuất khẩu trực tiếp) phối hợp với nhau để tiến hành giao dịch và đề ra các
chủ trương biện pháp có liên quan đến hoạt động nhập khẩu, thúc đẩy hoạt
động nhập khẩu theo hướng có lợi nhất cho cả hai bên, cùng phân chia lỗ lãi
tuỳ theo trách nhiệm của mỗi bên.
Đặc điểm của loại hình nhập khẩu liên doanh là :
Các doanh nghiệp chịu ít rủi ro hơn vì mỗi doanh nghiệp tham gia

-

liên doanh nhập khẩu chỉ phải góp một phần vốn nhất định nên quyền hạn
và trách nhiệm của mỗi bên sẽ được phaan bổ dựa trên phần vốn góp đó.
Rủi ro (nếu có) sẽ được san sẻ cho các bên và như thế doanh nghiệp thành

viên chỉ phải chịu phần rủi ro ít hơn. Việc phân chia chi phí, thuế doanh thu,
lãi lỗ...sẽ dựa trên phần vốn góp và thoả thuận giữa các bên với nhau.
Doanh nghiệp đứng ra nhập khẩu sẽ được tính kim nghạch nhập

-

khẩu nhưng khi đưa hàng về tiêu thụ thì chỉ được tính doanh số trên số hàng
tính theo tỷ lệ vốn góp và chỉ phải chịu thuế doanh thu dựa trên phần được
chia đó.
10


Doanh nghiệp hoạt động theo loại hình nhập khẩu này cần phải

-

lập hai hợp đồng : một hợp đồng mua hàng với nước ngoài, một hợp đồng
liên doanh với doanh nghiệp khác. Sở dĩ có sự phân chia như thế là do căn
cứ vào chủ thể của hoạt động nhập khẩu. Nếu quan tâm đến hình thức thanh
tốn trong hoạt động này thì ta có thể thấy hai hình thức là mua bán thanh
toán bằng tiền và mua bán thanh toán bằng hàng. Thanh toán bằng tiền là
cahs thức truyền thống. Thanh tốn bằng hàng (cịn gọi là bn bán đối lưu)
là một hình thức cịn khá mới mẻ đối với chúng ta. Vì thế ta nên tìm hiểu kỹ
trước khi quyết định sử dụng loại hình nhập khẩu này.

3.3. Nhập khẩu đối lưu :
Nhập khẩu hàng đổi hàng cùng với trao đổi bù trừ là hai nghiệp vụ
chủ yếu của bn bán đối lưu. Nó kà một hình thức nhập khẩu gắn liền với
xuất khẩu, thanh toán ở đây khơng phải bằng tiền mà là bằng hàng hố.
Mục đích của nhập hàng ở đây không phải chỉ thu lãi từ hoạt động nhập

khẩu mà còn nhằm để xuất được hàng, thu lãi cả từ hoạt động xuất

khẩu.
Đặc điểm của hình thức nhập khẩu đối lưu là : Hình thức nhập
khẩu này rất có lợi bởi cùng một hợp đồng mà có thể tiến hành đồng thời
hoạt động nhập và xuất, do đó mà có thể thu lãi từ cả hai hoạt động đó.
Trong việc tiến hành loại hình nhập khẩu này cần chú ý các đặc điểm sau :
-

Hoạt động nhập và xuất tương đương nhau về giá trị.

-

Bạn hàng bán cũng chính là bạn hàng mua.

-

Doanh ngiệp xuất nhập khẩu trực tiếp được tính cả kim nghạch
nhập và xuất khẩu. Doanh số tiêu thụ tính trên cả hai lô hàng xuất khẩu và
nhập khẩu.

-

Biện pháp để đảm bảo thực hiện hợp đồng có thể là :
+ Dùng thư tín dụng đối ứng (Recipprocal Letter of Credit). Đây là
một loại L/C mà trong nội dung của nó có thể có điều khoản qui định : L/C

11



này chỉ có hiệu lực khi người hưởng mở một L/C khác có kim nghạch
tương đương.
+ Dùng người thứ ba khống chế chứng từ sở hữu hàng hoá. Người này
sẽ chỉ giao chứng từ cho người nhận hàng khi họ đổi một chứng từ sở hữu
hàng hố có giá trị tương đương.
+ Phạt về việc giao thiếu hay giao chậm.

3.4. Nhập khẩu tái xuất :
Là loại nhập hàng nhưng không để tiêu thụ trong nước mà để xuất
sang một nước thứ ba nào đó nhằm thu lợi nhuận song những hàng này
không được chế biến tại nước tái xuất. Như vậy, nhập khẩu tái xuất luôn thu
hút ba nước : nước xuất khẩu, nước nhập khẩu, nước tái xuất.
Loại hình nhập khẩu này có các đặc điểm cơ bản sau :
-

Doanh nghiệp nước tái xuất phải tính tốn tồn bộ chi phí khi gặp
mỗi bạn hàng xuất và bạn hàng nhập sao cho thu được số tiền lớn hơn chi
phí bỏ ra để tiến hành hoạt động.

-

Doanh nghiệp nước tái xuất phải tiến hành ký kết và thực hiện hai
hợp đồng : một hợp đồng xuất khẩu và một hợp đồng nhập khẩu nhưng
không phải chịu thuế xuất nhập khẩu với mặt hàng kinh doanh.

-

Để đảm bảo thanh toán, hợp đồng tái xuất thường dùng thư tín
dụng giáp lưng, hàng hố khơng nhất thiết phải chuyển về nước tái xuất mà
chuyển thẳng sang nước thứ ba nhưng tiền trả thì phải do người tái xuất thu

từ người nhập khẩu và trả cho người xuất khẩu. Nhiều khi người tái xuất
còn thu được lợi tức về tiền hàng do thu được nhanh và trả được chậm.

3.5. Nhập khẩu trực tiếp :
Nhập khẩu trực tiếp là hoạt động nhập khẩu độc lập của một doanh
nghiệp, trực tiếp nghiên cứu thị trường, tính tốn chi phí, ký kết hợp đồng,
thực hiện hợp đồng, chịu trách nhiệm về lỗ lãi, đảm bảo đúng phương
hướng, phù hợp luật pháp quốc gia cũng như luật pháp quốc tế.

12


Hoạt động nhập khẩu trực tiếp có những đặc điểm sau :
-

Doanh nghiệp phải chịu trách nhiệm pháp lý về mọi mặt hoạt
động, phải tự nghiên cứu thị trường, chịu mọi chi phí giao dịch, giao nhận
hàng hố, lưu kho, chi phí quảng cáo, chi phí tiêu thụ hàng hố...

-

Doanh nghiệp xuất nhập khẩu trực tiếp được tính kim nghạch
nhập khẩu và khi tiêu thụ hàng hoá nhập khẩu này sẽ được tính doanh số và
doanh số đó phải chịu thuế GTGT.

-

Trong loại hình nhập khẩu này, thơng thường doanh nghiệp chỉ
cần lập một hợp đồng ngoại được hai bên ký kết, còn hợp đồng bán trong
nước khi hàng về sẽ lập sau hoặc bán với các hình thức khác nhau.

II. Nội dung hoạt động kinh doanh Nhập khẩu
Giao dịch bn bán hàng hố dịch vụ trong thương mại quốc tế bao
giờ cũnh phức tạp hơn việc mua bán trao đổi trong nước. Sở dĩ như vậy là
do các bên ở các quốc gia khác nhau, đồng tiền thanh toán khác nhau, hệ
thống tài chính tiền tệ, luật pháp và tập qn bn bán ở các nước là khác
nhau. Vì vậy để tiến hành hoạt động nhập khẩu có hiệu quả thì một doanh
nghiệp xuất nhập khẩu cần tuân thủ theo các bước sau đây :

1. Nghiên cứu thị trường Nhập khẩu
Nghiên cứu thị trường nhập khẩu là việc làm cần thiết đầu tiên đối
với bất kỳ doanh nghiệp nào muốn tham gia vào thương mại quốc tế.
Nghiên cứu thị trường nhập khẩu là quá trình điều tra nhu cầu và khả năng
nhập khẩu cho một sản phẩm cụ thể hay một nhóm sản phẩm trên thị trường
nào đó. Quá trình nghiên cứu thị trường là quá trình thu thập thơng tin về
các loại hàng hố, dịch vụ, các nguồn cung ứng, khả năng dự trữ, số liệu
mua bán... từ đó so sánh, phân tích, rút ra kết luận cần thiết cho cơng tác
xâm nhập thị trường.
Trong q trình chuẩn bị giao dịch, vấn đề nghiên cứu thị trường để có
một hệ thống thơng tin về thị trường đầy đủ, chính xác, kịp thời sẽ làm cơ
13


sở cho doanh nghiệp có những quyết định đungs đắn, đáp ứng được tình thế
của thị trường. Đồng thời, hệ thống thông tin không những làm cơ sở để
doanh nghiệp lựa chon đối tác giao dịch thích hợp mà cịn làm cơ sở cho
quá trình giao dịch, đàm phán, ký kết hợp đồng và thực hiện hợp đồng sau
này có hiệu quả.

1.1. Nghiên cứu thị trường trong nước
Đây chính là việc nghiên cứu thị trường tiêu thụ hàng nhập khẩu. Có nghiên

cứu thị trường trong nước một cách kỹ lưỡng, chặt chẽ thì doanh nghiệp
mới nắm bắt thơng tin về nhu cầu, giá cả, chất lượng hàng hoá, dịch vụ. Từ
đó đề ra các hướng cho hoạt động nhập khẩu. Quá trình nghiên cứu thị
trường này bao gồm các bước sau :

1.1.1. Nhận biết mặt hàng nhập khẩu :
Mục đích của việc nghiên cứu thị trường mặt hàng nhập khẩu là để
tìm ra mặt hàng nhập khẩu mà nhu cầu trong nước đang cần nhưng phải phù
hợp với mục tiêu và lợi nhuận của doanh nghiệp. Muốn biết mặt hàng nào
đang được khách hàng và người tiêu dùng trong nước cần, đang là nhu cầu
thiết yếu của thị trường trong nước thì phải tiến hành nghiên cứu khảo sát
trên các khía cạnh sau :
+ Về mặt hàng, phẩm chất, kiểu dáng, bao bì, nhãn hiệu...
+ Về tình hình tiêu dùng mặt hàng đó thế nào? Phải hiểu rõ tập quán, thị
hiếu và qui luật biến động của quan hệ cung cầu để có thể đáp ứng kịp thời
nhu cầu của thị trường một cách tốt nhất.
+ Dự đoán được mặt hàng đó đang ở thời kỳ nào của chu kỳ sống của mặt
hàng đó để có thể quyết định chính xác phương án nhập khẩu nhằm nâng
cao hiệu quả hoạt động nhập khẩu.

14


+ Xác định được tình hình sản xuất mặt hàng đó trong nước (nếu có) như
thế nào để quyết định xem số lượng nhập khẩu là bao nhiêu cho phù hợp,
tránh tình trạng nhập về thừa khơng tiêu thụ được.
+ Xác định tỷ suất ngoại tệ nhập khẩu là bao nhiêu? Trong thương mại quốc
tế do các nước có hệ thống tiền tệ khác nhau nên việc xác định tỷ suất ngoại
tệ hàng nhập khẩu là cần thiết để xem xét việc kinh doanh có hiệu quả hay
khơng (nếu tỷ suất này lớn hơn tỷ giá hối đoái giữa đồng Việt Nam và đồng

ngoại tệ thì việc nhập khẩu có lãi và ngược lại sẽ bị thua lỗ.

1.1.2. Nghiên cứu thị trường và các nhân tố
ảnh hưởng đến dung lượng thị trường
Dung lượng thị trường là khối lượng hàng hoá được giao dịch trên
phạm vi một thị trường nhất định trong một thời gian nhất định (thường là
một năm). Đối với đơn vị kinh doanh nhập khẩu, nghiên cứu dung lượng thị
trường cần xác định khả năng cung cấp của thị trường bao gồm cả việc xem
xét đặc điểm, tính chất, khả năng sản xuất hàng thay thế, khả năng lựa chọn
mua bán của loại hàng hố đó.
Dung lượng thị trường khơng cố định, nó thay đổi tuỳ theo diễn biến
của từng giai đoạn nhất định. Các nhân tố ảnh hưởng đến dung lượng thị
trường có thể chia làm ba giai đoạn như sau :
Thứ nhất là các nhân tố làm dung lượng biến đổi có tính chất chu kỳ. Đó
là sự vận động của tình hình kinh tế và tính chất thời vụ trong sản xuất, lưu
thơng và tiêu dùng.
Thứ hai là các nhân tố ảnh hưởng lâu dài tới sự biến động của thị trường
bao gồm những tiến bộ khoa học cơng nghệ, các chính sách của Nhà nước
và các tập đồn tư bản tài chính lũng đoạn thị trường, thị hiếu, tập quán tiêu
dùng, ảnh hưởng của khả năng sản xuất hàng thay thế.

15


Thứ ba là nhân tố ảnh hưởng tạm thời tới dung lượng thị trường như
biến động về kinh tế, chính trị, thiên tai của quốc gia chiếm tỷ trọng lớn
trong tổng mức cung hoặc cầu về hàng hoá nhập khẩu hay hiện tượng đầu
cơ tích trữ gây đột biến về cung cầu.
Khi phân tích sự ảnh hưởng của các nhân tố đến sự đột biến của
dung lượng thị trường cần phải đánh giá đúng mức ảnh hưởng của từng

nhân tố, xác định nhân tố nào có quyết định xu hướng vận động của thị
trường trong thời gian nghiên cứu, từ đó xác định chính xác nhu cầu nhập
khẩu mặt hàng đã lựa chọn.

1.1.3. Nghiên cứu đối thủ cạnh tranh
Nghiên cứu đối thủ cạnh tranh cũng nắm vững thông tin số lượng các
đối thủ cạnh tranh trong mặt hàng kinh doanh, tình hình hoạt động, tỷ trọng
thị trường, điểm mạnh, điểm yếu của các đối thủ cạnh tranh. Đặc biệt cần
nghiên cứu kỹ các chiến lược kinh doanh và khả năng thay đổi chiến lược
kinh doanh của đối thủ cạnh tranh trong thời gian tới để đưa ra các phương
án đối phó tối ưu, hạn chế các điểm mạnh và tận dụng các điểm yếu của đối
thủ để vượt lên trên.

1.1.4. Nghiên cứu sự vận động của môi
trường kinh doanh
Các yếu tố thuộc môi trường kinh doanh là các yếu tố khách quan mà
doanh nghiệp khơng kiểm sốt được bao gồm : mơi trường tự nhiên, văn
hố xã hội, chính trị, luật pháp...Mơi trường kinh doanh có tác động rất lớn
và chi phối hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp , do đó cần phải tiến
hành nghiên cứu sự vận động của nó để nắm bắt quy luật vận động của mơi
trường kinh doanh để có biện pháp, chính sách phịng ngừa có hiệu quả. Bởi

16


lẽ môi trường kinh doanh tác động liên tục tới hoạt động của doanh nghiệp
theo những xu hướng khác nhau.

1.2. Nghiên cứu thị trường nước ngoài
Đối với những đơn vị kinh doanh nhập khẩu, việc nghiên cứu thị

trường nước ngoài có ý nghĩa quan trọng. Trong việc nghiên cứu đó nắm
vững những nội dung về tình hình chính trị, pháp luật, điều kiện thương mại
nói chung, thái độ quan điểm của nước xuất khẩu, điều kiện tín dụng, vận
tải, giá cước...Ngoài ra phải nghiên cứu dung lượng thị trường và giá cả trên
thị trường quốc tế.

1.2.1. Nguồn cung cấp trên thị trường quốc
tế
Doanh nghiệp cần nắm vững được tình hình các nguồn cung cấp
trên thị trường quốc tế mà doanh nghiệp có khả năng giao dịch từ đó nghiên
cứu đặc điểm thị trường các nước cung cấp trên các phương diện :
+ Thái độ và quan diểm của các nước cung cấp thể hiện qua các chính
sách ưu tiên xuất khẩu hay hạn chế xuất khẩu.
+ Tình hình chính trị quốc gia đó có ổn định hay khơng, có tác động đến
nguồn cung cấp mặt hàng đó như thế nào?
+ Về vị trí địa lý có thuận lợi cho giao dịch mua bán, có đem lại hiệu quả
kinh doanh hay khơng, có tiết liệm chi phí vận chuyển, bảo hiểm trong quá
trình nhập khẩu của doanh nghiệp...

1.2.2. Nghiên cứu giá cả hàng hoá trên thị
trường quốc tế
17


Giá cả là biểu hiện bằng tiền của giá trị hàng hoá, đồng thời thể hiện
một cách tổng hợp các hoạt động kinh tế trên thi trường. Giá cả không
những phản ánh mà còn điều tiết mối quan hệ cung cầu hàng hoá. Việc xác
định đúng giá cả trong nhập khẩu có ý nghĩa to lớn với hiệu quả thương mại
quốc tế, cụ thể sẽ làm giảm lượng ngoại tệ chi ra. Vì vậy, giá cả là chỉ tiêu
quan trọng để đánh giá hiệu quả của hoạt động ngoại thương.

Giá cả trong hoạt động xuất nhập khẩu là giá cả quốc tế. Do vậy, để
đạt được hiệu quả cao trong kinh doanh trên thị trường quốc tế và để cả giá
cả thực sự trở thành đòn bẩy trong ngoại thương, phải có biện pháp tính
tốn giá cả một cách chính xác, khoa học, phải nắm vững được xu hưỡng
vận động giá cả trên thị trường quốc tế. Nghiên cứu giá cả bao gồm việc
nghiên cứu giả cả của từng mặt hàng tại từng thời điểm trên thị trường, xu
hướng biến động và nhân tố ảnh hưởng đến giá cả.

2. Lựa chọn đối tác giao dịch và đàm phán
Việc nghiên cứu thị trường giúp cho đơn vị kinh doanh xuất nhập khẩu
lựa chọn được mặt hàng, thời cơ thuận lợi, lựa chọn phương thức mua bán
và điều kiện giao dịch thích hợp. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp, kết
quả hoạt động kinh doanh còn phụ thuộc vào đối tác giao dịch. Trong
những điều kiện như nhau việc giao dịch với khách hàng cụ thể này thì
thành cơng nhưng với khách hàng khác thì thất bại. Vì vậy, một nhiệm vụ
quan trọng của việc lựa chọn này là tìm người cung ững khả dĩ, an tồn và
có lợi. Trong q trính lựa chọn đối tác cần nghiên cứu các vấn đề sau :
+ Khả năng kỹ thuật của người cung ứng : Đây là yếu tố quan trọng
quyết định đến trình độ chất lượng, mức độ đồng nhất, độ tin cậy và tính
khơng khuyết tật của hàng hố được giao dịch với giá cả tối ưu nhất.

18


+ Khả năng sản xuất : Qui mô sản xuất của nhà cung ứng đảm bảo cung
cấp hàng hoá đúng số lượng, đúng thời điểm quy định. Khi xem xét phải
chú ý đến công suất, chất lượng và điều kiện sản xuất.
+ Khả năng tài chính : Tiềm lực tài chính của người cung cấp có tầm
quan trọng đặc biệt để đánh giá khả năng của người cung cấp trong thực
hiện hợp đồng.

+ Năng lực quản ký của đối tác : Khả năng quản lý có ý nghĩa sống cịn
trong việc đảm bảo hoạt động của doanh nghiệp đặc biệt lag việc thực hiện
hợp đồng lớn và sản phẩm phức tạp về kỹ thuật.
+ Đánh giá mức độ tín nhiệm :
Đánh giá khả năng tin cậy và độ tín nhiệm chung của nguồn cung cấp
trên thị trường thế giới. Ngoài ra còn phải xem xét thái độ quan điểm kinh
doanh của đối tác và tình hình chính trị nước người cung ứng. Sau khi
nghiên cứu doanh nghiệp mới lựa chọn một đối tác phù hợp.

2.1. Giao dịch

2.1.1. Hỏi giá
Hỏi giá là việc người mua đề nghị người bán cho biết giá cả và các điều
kiện thương mại cần thiết để mua hàng như : giá cả, thời hạn giao hàng,
điều kiện thanh tốn...Mục đích cơ bản của việc hỏi giá là việc nhận được
các báo giá với thông tin đầy đủ nhất. Do đó, nội dung cơ bản của hổi giá là
yêu cầu người bán cho biết các thông tin chi tiết về quy cách, phẩm chất, số
lượng, bao bì, điều kiện giao hàng, giá cả, điều kiện thanh toán và các điều
kiện thượng mại khác.
Hỏi giá không ràng buộc trách nhiệm của người hỏi giá nên người hỏi
giá có thể gửi hỏi giá đến nhiều nơi để lựa chọn ra các báo giá tối ưu, từ đó

19


chính thức lựa chọn nhà cung cấp. Tuy nhiên, khong nên hoie qua nhiều sẽ
tạo ra nhu cầu giả không có lợi cho người mua.

2.1.2. Chào hàng, báo giá
Chào hàng là một đề nghijkys kết hợp đồng mua bán hàng hoá được

khuyển cho một hay nhiều người xác định. Nội dung cơ bản của một chào
hàng : địa điểm, thời gian nhận hàng cùng một số điều khoản khác như bao
bì, ký mã hiệu...
Chào hàng có thể do người bán hoặc người mua đưa ra. Nếu là người
mua đưa ra gọi là chào hàng mua, nếu là người bán đưa ra gọi là chào hàng
bán.
Báo giá là nghiệp vụ tiếp theo của giao dịch và ký kết hợp đồng. Nếu
đã báo giá là đã có sự cam kết của người bán sẽ bán hàng với giá đó kèm
theo điều kiện trong thư báo giá mà người bán khơng có quyền từ chối. Do
đó cần cân nhắc mọi mặt khi đưa ra báo giá.

2.1.3. Đặt hàng
Đặt hàng là lời đề nghị ký kết hợp đồng thương mại của người mua
nên về nguyên tắc, nội dung của đơn đặt hàng phải đầy đủ nội dung cần
thiết cho việc ký hợp đồng. Trong thực tế, người ta chỉ đặt hàng với những
khách hàng có quan hệ thường xuyên hoặc hai bên đã ký hợp đồng dài hạn
và thoả thuận giao hàng theo nhiều lần. Trong trường hợp này nội dung đặt
hàng chỉ nêu những điều kiện riêng biệt đối với lần đặt hàng đó. Cịn những
điều kiện khác, hai bên áp dụng theo những điều kiện của hợp đòng đã ký
kết trong những lần giao dịch trước. Cả hai bên đều phải xác định số lượng
hàng cho một lần đặt hàng bao nhiêu là tối ưu nhất. Trong khi xác định cần
phải tính đến chi phí vận chuyển.

20


2.1.4. Hồn giá
Khi người nhận chào hàng khơng chập nhận hồn tồn chào hàng đó
mà đưa ra những đề nghị mới thì đề nghị mới này là hồn giá. Khi có hồn
giá, chào hàng trước được coi là hết hiệu lực.


2.1.5. Chấp nhận
Chấp nhận là sự đồng ý hoàn toàn tất cả mọi điều kiện của chào hàng.
Khi đó hợp đồng được thành lập. Một chấp nhận có hiệu lực phải đảm bảo
được các điều kiện sau :
+ Phải được người nhận chào hàng chấp nhận
+ Phải chấp nhận hoàn toàn nội dung của chào hàng
+ Phải chấp nhận trong thời gian hiệu lực của chào hàng
+ Chấp nhận phải được chuyển đến cho người chào hàng

2.1.6. Xác nhận
Sau khi thống nhất với nhau các điều kiện giao dịch, hai bên ghi kại
kết quả đã đạt được rồi trao đổi cho nhau, đó là xác nhận. Xác nhận được
lập thành hai hản, được hai bên ký kết và mỗi bên giữ một bản.

2.2. Đàm phán
Sau khi nhận được thư chào hàng hay đặt hàng và có sự trả lời của
phía bên kia, hai bên tổ chức thương lượng để đi tới một thoả thuận chung
về điều kiện mua bán.
Đàm phán thương mại là một quá trình mà các bên tiến hành thương
lượng, thảo luận nhằm thống nhất mối quan tâm chung và những quan điểm
cịn bất đồng để có thể đi đến một hợp đồng thương mại.

21


Trong đàm phán hợp đồng thương mại quốc tế có ba hình thức đàm
phán đó là :
-


Đàm phán qua thư tín

-

Đàm phán qua điện thoại

-

Đàm phán bằng cách gặp gỡ trực tiếp
Mỗi hình thức đàm phán đều có những ưu nhược điểm nhất định. Tuỳ
từng trường hợp cụ thể mà nhà kinh doanh có thể lựa chọn hình thức đàm
phán cho phù hợp.

3. lập phương án kinh doanh
Việc lựa chọn phương án kinh doanh xác định được mục tiêu kinh
doanh của doanh nghiệp và chỉ đạo các bộ phận đồng bộ thực hiện các
chương trình đã định hướng tới đạt mục tiêu của doanh nghiệp. Đồng thời
phương án kinh doanh giúp doanh nghiệp giảm được rủi ro và mang lại hiệu
quả trong kinh doanh.
Việc hoạch định phương án kinh doanh đã thúc đẩy các cấp quản trị
hướng tới sự suy nghĩ có hệ thống và dẫn đến sự phối hợp có nỗ lực của các
doanh nghiệp trong hoạt động kinh doanh được hoàn hảo hơn. Phương án
kinh doanh cũng dẫn đến việc triển khai các tiêu chuẩn kiểm tra thực tiễn và
các biện pháp tác động làm cho các hoạt động có hiệu quả hơn.

Sơ đồ 1 : Q trính xây dựng phương án
kinh doanh bao gồm các bước sau :

22



Phân tích để
lựa chọn thị
trường và các
mặt hà ng
nhập khẩu

-

Xác định
mục tiêu

Phác
thảo
phương
án nhập
khẩu

Lựa chọn
phương
án nhập
khẩu

Phân tích để lựa chọn thị trường và mặt hàng nhập khẩu tức là
phải phân tích đánh giá tình hình và dự đốn sự thay đổi của mội trường
kinh doanh.

-

Xác định mục tiêu : mục tiêu doanh số, lợi nhuận, tỷ suất, lãi trên

vốn đầu tư và các mục tiêu như an toàn. phát triển, thế vị đạt được từ hoạt
động nhập khẩu.

-

Phác thảo phương án kinh doanh :
+ Mơ tả tình hình kinh doanh trên thị trường mục tiêu
+ Xác định các cách thức tiến hành kinh doanh trên thị trường mục tiêu.
+ Đề ra các biện pháp và tiến trình để tổ chức thực hiện.
+ Dự đốn các tình huống có thể xảy ra và phương pháp ứng xử

-

Lựa chọn phương án kinh doanh : Để lựa chọn được phương án
kinh doanh tối ưu vẫn phải tiến hành đánh giá các phương án đã được hoạch
định trên cơ sở hệ thống các chỉ tiêu : doanh thu, mức lợi nhuận dự tính,
tổng chi phí giao dịch (chi phí nhập khẩu hàng hố, chi phí vận chuyển, chi
phí bảo quản, giao dịch...).

4. ký kết hợp đồng

4.1. Đưa ra các điều khoản

23


Trước khi ký kết hợp đồng, công ty phải đưa ra các yêu cầu của mình
để đối tác xem xét. Đồng thời công ty cũng phải nghiên cứu kỹ các điều
khoản mà đối tác đưa ra.


4.2. Thương lượng
Nếu việc đưa ra thoả thuận khơng được hai bên chấp nhận, thì cả hai
phải tiến hành thương lượng để đi đến thoả thuận chung trước khi ký hợp
đồng để tránh xảy ra tranh chấp trong việc thực hiện hợp đồng sau này.

4.3. Ký kết hợp đồng
Việc giao dịch đàm phán nếu có kết quả sẽ dẫn tới việc ký kết hợp
đồng nhập khẩu. Hợp đồng nhập khẩu là hợp đồng kinh tế đặc biệt mà
người bán có nghĩa vụ chuyển giao quyền sở hữu hàng hố cho người mua
và người mua có trách nhiệm bồi hoàn một khoản tiền theo giá trị hợp đồng
được chuyển giao theo phương thức than toán quốc tế.
Hợp đồng thương mại quốc tế là sự thoả thuận giữa các đương sự có trụ
sở kinh doanh ở các quốc gia khác nhau, theo đó một bên gọi là bên bán
(bên xuất khẩu) có nghĩa vụ chuyển giao quyền sở hữu cho bên khác gọi là
bên mua (bên nhập khẩu) một tài sản nhất định gọi là hàng hoá. Bên mua có
nghĩa vụ nhận hàng và trả tiền.
Hình thức hợp đồng bằng văn bản là hình thức bắt buộc với đơn vị
kinh doanh xuất nhập khẩu ở nước ta. Các điều khoản của hợp đồng do bên
bán và bên mua tự nguyện thoả thuận một cách chi tiết. Mặc dù trước đó đã
có đơn đặt hàng hoặc chào hàng nhưng hai bên vẫn phải thiết lập một văn
bản. Hợp đồng tạo cơ sở pháp ký cụ thể cho việc trao đổi hàng hoá từ quốc
gia này sang quốc gia khác và làm căn cứ để xác định lỗi khi có tranh chấp
xảy ra.
Hợp đồng kinh doanh xuất nhập khẩu hàng hoá là bằng chứng bảo vệ
quyền lợi và trách nhiệm của các bên tham gia ký kết và giải quyết tranh
24


chấp về mua bán xảy ra giữa các bên. Hợp đồng tạo điều kiện thuận lợi cho
việc theo dõi, kiểm tra, thống kê việc thực hiện hợp đồng theo qui định

chung của quản lý Nhà nước.

5. Thực hiện hợp đồng nhập khẩu

Sơ đồ 2 : Các bước thực hiện nhập khẩu

25


×