Tải bản đầy đủ (.pdf) (45 trang)

Chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn thực tiễn thi hành pháp luật tại tòa án nhân dân tỉnh ninh thuận

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (753.56 KB, 45 trang )

TRƢỜNG ĐẠI HỌC THỦ DẦU MỘT
KHOA KHOA HỌC QUẢN LÝ
***********

BÁO CÁO TỐT NGHIỆP
TÊN ĐỀ TÀI: CHIA TÀI SẢN CHUNG CỦA VỢ CHỒNG KHI LY
HÔN – THỰC TIỄN THI HÀNH PHÁP LUẬT TẠI TÒA ÁN
NHÂN DÂN TỈNH NINH THUẬN

Sinh viên thực hiện

: ĐÀNG NỮ QUỲNH NHƢ

Mã số sinh viên

: 1723801010277

Lớp

: D17LUHC02

Chuyên ngành

: LUẬT HÀNH CHÍNH

GVHD

: Ts NGUYỄN THỊ HỒNG PHƢỚC

Bình Dƣơng, ngày tháng 12 năm 2020



TRƢỜNG ĐẠI HỌC THỦ DẦU MỘT
KHOA KHOA HỌC QUẢN LÝ
***********

BÁO CÁO TỐT NGHIỆP
TÊN ĐỀ TÀI: CHIA TÀI SẢN CHUNG CỦA VỢ CHỒNG KHI LY
HÔN – THỰC TIỄN THI HÀNH PHÁP LUẬT TẠI TÒA ÁN
NHÂN DÂN TỈNH NINH THUẬN

Sinh viên thực hiện

: ĐÀNG NỮ QUỲNH NHƢ

Mã số sinh viên

: 1723801010277

Lớp

: D17LUHC02

Chuyên ngành

: LUẬT HÀNH CHÍNH

GVHD

: Ts NGUYỄN THỊ HỒNG PHƢỚC


Bình Dƣơng, ngày tháng 12 năm 2020

i


LỜI CAM ĐOAN
Tôi cam đoan đây là đề tài nghiên cứu của tôi trong thời gian vừa qua.
Những kết quả được trình bày trong bài báo cáo chưa được cơng bố tại bất cứ
cơng trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong bài báo cáo đảm bảo
tính chính xác, tin cậy và trung thực. bài báo cáo này được thực hiện một cách
độc lập dưới sự hướng dẫn của Ts. Nguyễn Thị Hồng Phước.

Người Cam Đoan

Đàng Nữ Quỳnh Như

ii


LỜI CẢM ƠN
Em xin gửi lời cảm ơn chân thành và sự tri ân sâu sắc đối với các thầy
cô của trường, đặc biệt là các thầy cô khoa Khoa học quản lí của trường Đại
học Thủ Dầu Một đã giúp đỡ em về tài liệu tham khảo để em có thể hồn
thành tốt Báo cáo tốt nghiệp. Và em cũng xin chân thành cám ơn Cô Nguyễn
Thị Hồng Phước đã nhiệt tình hướng dẫn em trong việc lựa chọn đề tài nghiên
cứu, hướng tiếp cận và giúp em chỉnh sửa những thiếu sót trong q trình
nghiên cứu. Trong q trình nghiên cứu, khó tránh khỏi sai sót, rất mong các
Thầy, Cơ bỏ qua và giúp em hồn thiện hơn cho em. Đồng thời do trình độ lý
luận cũng như kinh nghiệm thực tiễn còn hạn chế nên bài báo cáo khơng thể
tránh khỏi những thiếu sót, em rất mong nhận được ý kiến đóng góp từ phía

Thầy, Cơ để em học thêm được nhiều kinh nghiệm và sẽ hoàn thành tốt hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!

iii


BLDS
BTP
DS
Đ
GRDP
HN&GĐ
K
LHN&GĐ
NXB
QSDĐ
TANDTC
TTLT
VKSNDTC

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
: Bộ luật dân sự
: Bộ tư pháp
: Dân sự
: Điều
: Tổng sản phẩm trên địa bàn
: Hơn nhân và gia đình
: Khoản
: Luật Hơn nhân và gia đình
: Nhà xuất bản

: Quyền sử dụng đất
: Tịa án nhân dân tối cao
: Thơng tư liên tịch
: Viện kiểm sát nhân dân tối cao

iv


DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 2.1. Công tác giải quyết các vụ việc HN&GĐ tại Ninh Thuận ..................25
Bảng 2.2. Báo cáo số liệu án HN&GĐ năm 2020 của TAND huyện Ninh Phƣớc,
tỉnh Ninh Thuận ......................................................................................................25

v


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .............................................................................................................................. 1
1. Tính cấp thiết của đề tài .......................................................................................... 1
2. Tình hình nghiên cứu ............................................................................................... 2
3. Mục đích nghiên cứu ................................................................................................ 3
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu .......................................................................... 3
4.1Đối tượng nghiên cứu .............................................................................................. 3
CHƢƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ CHIA TÀI SẢN
CHUNG CỦA VỢ CHỒNG KHI LY HÔN .................................................................. 4
1.1KHÁI NIỆM VỀ CHIA TÀI SẢN CHUNG CỦA VỢ CHỒNG .................... 4
1.1.1Tài sản chung của vợ chồng:........................................................................... 4
1.1.2Chia tài sản chung của vợ chồng: .................................................................. 7
1.2NỘI DUNG PHÁP LUẬT VỀ CHIA TÀI SẢN CHUNG CỦA VỢ CHỒNG
SAU KHI LY HÔN: ...................................................................................................10

1.2.1Cơ sở pháp lý:..................................................................................................10
1.2.2Phƣơng thức chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn: ......................11
1.2.3Nguyên tắc chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn:..........................12
1.2.4Hậu quả pháp lý của việc chia tài sản chung của vợ chồng sau khi ly
hôn:

.......................................................................................................................18

1.3MỘT SỐ TRƢỜNG HỢP CHIA TÀI SẢN CỦA VỢ CHỒNG KHI LY
HÔN:

.......................................................................................................................18

1.3.1 Chia tài sản chung trong trƣờng hợp vợ chồng sống chung với gia
đình mà ly hơn: ........................................................................................................18
1.3.2 Chia quyền sử dụng đất của vợ chồng khi ly hôn .................................19
CHƢƠNG 2: THỰC TIỄN THI HÀNH PHÁP LUẬT CỦA VIỆC CHIA TÀI
SẢN CHUNG CỦA VỢ CHỒNG KHI LY HƠN TẠI TỊA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH NINH THUẬN, THUẬN LỢI, KHÓ KHĂN VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP
NHẰM HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT ..........................................................................23
2.1 THỰC TRẠNG GIẢI QUYẾT VIỆC CHIA TÀI SẢN CHUNG CỦA VỢ
CHỒNG KHI LY HƠN TỪ THỰC TIỄN XÉT XỬ CỦA TỊA ÁN NHÂN
DÂN TẠI NINH THUẬN..........................................................................................23
2.1.1 Khái quát chung về tỉnh Ninh Thuận.........................................................23
vi


2.1.2 Tình hình xét xử của việc thi hành pháp luật của việc chia tài sản
chung của vợ chồng khi ly hơn tại Tịa án nhân dân tỉnh Ninh Thuận và
những thành tựu đạt đƣợc.....................................................................................24

2.1.3 Nguyên nhân và hạn chế của việc thi hành pháp luật của việc chia tài
sản chung của vợ chồng khi ly hơn tại Tịa án nhân dân tỉnh Ninh Thuận ..27
2.2 KIẾN NGHỊ VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ CHIA
TÀI SẢN CHUNG CỦA VỢ CHỒNG KHI LY HÔN ........................................31
2.2.1 Kiến nghị pháp luật .......................................................................................31
2.2.2 Một số giải pháp khác hoàn thiện pháp luật .............................................32
KẾT LUẬN .......................................................................................................................35
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO..........................................................................

vii


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Từ xưa đến nay, gia đình ln là tế bào của xã hội, là nơi những người có
quan hệ huyết thống, hơn nhân và ni dưỡng cùng chung sống. Gia đình hịa
thuận và hạnh phúc sẽ góp phần vào sự phát triển bền vững và phồn thịnh
chung của xã hội. Nhận thức được vị thế quan trọng của gia đình, Đảng và
Nhà nước ta luôn quan tâm, chú trọng đến việc xây dựng và giữ gìn gia đình
êm ấm, hịa thuận, thể hiện ở sự quan tâm đó là Đảng và Nhà nước ta đã ban
hành các văn bản quy phạm pháp luật về hơn nhân và gia đình góp phần giúp
cho sự tồn tại và phát triển của gia đình đi vào chuẩn mực, khuôn khổ, giúp
tạo ra sự bền vững trong quan hệ gia đình.
Khi nam nữ kết hơn, cùng nhau xây dựng một gia đình thì sự bền vững của
quan hệ hôn nhân là mong muốn của những người vợ, người chồng, đây cũng
là mục đích của việc xây dựng gia đình mà pháp luật đặt ra. Tuy nhiên, trong
nhiều trường hợp, quan hệ hôn nhân do chịu sự tác động của nhiều yếu tố chủ
quan và khách quan, đã không giữ được ý nghĩa và giá trị như mong muốn
ban đầu, cuộc sống chung của vợ, chồng đã không còn hạnh phúc, nên pháp
luật dự liệu khả năng cho họ quyền được giải phóng khỏi quan hệ hơn nhân

bằng việc ly hôn. Ly hôn là một mặt trong quan hệ hơn nhân, nó là mặt trái,
mặt bất bình thường nhưng là mặt không thể thiếu của quan hệ hôn nhân. Dù
khơng ai mong muốn một gia đình được xây dựng từ những nỗ lực của hai
bên tan vỡ, nhưng đôi khi trong cuộc sống, ly hôn lại là cách giải quyết tốt
nhất. Trong những năm gần đây, tình trạng ly hôn ở nước ta và các nước trên
thế giới tăng đáng kể, với những nguyên nhân, lý do ly hôn cũng rất đa dạng
và phức tạp. Vấn đề giải quyết hậu quả của ly hôn cũng phức tạp không kém
và cịn nhiều vướng mắc, hạn chế trong đó có vấn đề chia tài sản chung của
vợ chồng.
Dưới tác động mạnh mẽ của nền kinh tế thị trường, tính chất mối quan hệ
tài sản giữa các thành viên trong gia đình cũng có nhiều thay đổi. Vì vậy, các
quy định điều chỉnh chế độ tài sản của vợ chồng luôn được các nhà làm luật
quan tâm và xây dựng để trở thành một trong những chế định quan trọng nhất
của pháp luật hơn nhân và gia đình. Trong xã hội hiện đại, để đảm bảo đời
sống chung của gia đình và lợi ích thiết thực của bản thân mỗi thành viên
trong gia đình, vợ chồng có nhu cầu tham gia vào các quan hệ xã hội được
pháp luật điều chỉnh và có quyền, nghĩa vụ tài sản phát sinh từ các quan hệ
đó. Lúc gia đình hạnh phúc ranh giới giữa tài sản chung và tài sản riêng ít
1


người để ý và quan tâm. Khi tình cảm vợ chồng rạn nứt, đổ vỡ, vợ chồng có
quyền tự thỏa thuận việc chia tài sản chung của họ, nhưng khi họ khơng thỏa
thuận được thì việc vận dụng những quy định của pháp luật hơn nhân và gia
đình để giải quyết tranh chấp tài sản của vợ chồng là điều cần thiết để đảm
bảo quyền và lợi ích cho các bên. Chia tài sản chung của vợ chồng là một vấn
đề phức tạp khi ly hôn. Do vậy, việc nghiên cứu, phân tích để làm sáng tỏ
những quy định của luật hơn nhân và gia đình hiện hành về vấn đề chia tài
sản chung của vợ chồng khi ly hôn là một việc làm thiết thực, vấn đề có ý
nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc, nhằm luận giải các quy định của pháp luật

liên quan đến chia tài sản chung của vợ chồng khi vợ chồng ly hôn, giúp cho
các bên thực hiện quyền của mình góp phần hoàn thiện các quy định của pháp
luật, tạo ra cách hiểu thống nhất, đảm bảo cho các quy định của pháp luật đi
vào cuộc sống, giúp cho Tóa án trong đó có Tịa án nhân dân tỉnh Ninh Thuận
giải quyết một cách kịp thời và hiệu quả các tranh chấp phát sinh trong việc
yêu cầu chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn.
Với những lý do trên em quyết định lựa chọn đề tài “Chia tài sản chung
của vợ chồng khi ly hôn – Thực tiễn thi hành pháp luật tại Tòa án nhân
dân tỉnh Ninh Thuận ” để làm đề tài báo cáo tốt nghiệp của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Xuất phát từ vai trị quan trọng của gia đình, trước những địi hỏi khách
quan của xã hội nên việc nghiên cứu các tranh chấp trong quan hệ hơn nhân
và gia đình như là vấn đề chia tài sản chung, riêng của vợ chồng trong thời kỳ
hôn nhân, giải quyết tranh chấp về chia tài sản khi ly hôn luôn được quan tâm,
đặc biệt là được nhiều nhà nghiên cứu chú ý và đề cập đến.
Một số về hơn nhân và gia đình như: Giáo trình Luật HN&GĐ Việt Nam –
Khoa Luật Dân sự, Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh, Giáo trình
Luật Dân sự 1, Nxb Đại học quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh – 2014,…các
giáo trình này đều đề cập đến các kiến thức pháp lý cơ bản và khái quát về tài
sản chung của vợ chồng. Bên cạnh đó, có thể kể đến một số cơng trình nghiên
cứu như: “ Chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn từ thực tiễn xét xử của
Tòa án nhân dân tại hà Nội”, Luận văn thạc sĩ Luật học của tác giả Nguyễn
Thị Lan; “ Giải quyết tranh chấp về chia tài sản chung của vợ chồng khi ly
hôn, Luận văn Thạc sĩ Luật học của tác giả Đinh Thị Minh Mẫn; “ Phân chia
tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn theo Luật HN&GĐ năm 2014 từ thực
tiễn huyện Ba Tơ, tỉnh Quãng Ngãi”, Luận văn Thạc sĩ Luật học của tác giả
Trần Thị Thúy An; “ Chia tài sản chung của vợ chồng theo pháp luật Việt
2



Nam – Thực tiễn áp dụng và hướng hoàn thiện”, Luận văn Thạc sĩ - Luật
Dân sự của tác giả Nguyễn Thị Hạnh” và một số trang mạng điện tử khác.
Các cơng trình nghiên cứu kể trên là tài liệu tham khảo hữu ích cho em trong
q trình thực hiện bài báo cáo với việc tiếp tục nghiên cứu về vấn đề chia tài
sản chung của vợ chồng khi ly hơn từ thực tiễn thi hành pháp luật tại Tịa án
nhân dân tỉnh Ninh Thuận.
3. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của đề tài tài là để làm sáng tỏ những lý luận cũng
như phân tích nội dung, ý nghĩa các quy định của pháp luật hiện hành về chia
tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn. Đồng thời thơng qua việc tìm hiểu
hoạt động xét xử và thực tiễn thực thi pháp luật của Tòa án nhân dân tỉnh
Ninh Thuận, phát hiện ra những bất cập, đưa ra kiến nghị nhằm bổ sung và từ
đó hồn thiện quy định của pháp luật về lĩnh vực này.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1 Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn pháp lý và chia tài sản
chung của vợ chồng khi ly hôn.
4.2 Phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu những vấn đề chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn đối
với quan hệ hôn nhân trong nước theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn xét xử
tại Tòa án nhân dân tỉnh Ninh Thuận.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Phương pháp hệ thống, khảo sát thực tiễn, phân tích, so sánh, tổng hợp dựa
trên các báo cáo thống kê, phân tích các bản án, quyết định của Tòa án nhân
dân tỉnh Ninh Thuận.
6. Cơ cấu đề tài
Ngoài lời cam đoan, lời cảm ơn, danh mục từ viết tắt, danh mục các bảng,
phần mở đầu, nội dung của báo cáo gồm 2 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận chung và pháp lý về chia tài sản chung
của vợ chồng khi ly hôn

Chương 2: Thực tiễn thi hành pháp luật của việc chia tài sản chung của vợ
chồng khi ly hơn tại Tịa án nhân dân tỉnh Ninh Thuận, thuận lợi, khó khăn và
một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

3


CHƢƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ CHIA TÀI SẢN CHUNG
CỦA VỢ CHỒNG KHI LY HÔN
1.1 KHÁI NIỆM VỀ CHIA TÀI SẢN CHUNG CỦA VỢ CHỒNG
1.1.1
Tài sản chung của vợ chồng:
1.1.1.1 Khái niệm tài sản chung của vợ chồng:
Trong bối cảnh nền kinh tế đất nước đang phát triển sôi động trên tất cả
các ngành, các lĩnh vực như hiện nay, gia đình là chủ thể tham gia vào rất
nhiều các hoạt động kinh tế, xã hội khác nhau. Việc hộ gia đình được BLDS
cơng nhận là một chủ thể của quan hệ pháp luật dân sự và Luật Đất đai công
nhận hộ là chủ thể được Nhà nước giao đất, cho thuê đất…đã tạo những tiền
đề cơ bản để kinh tế hộ gia đình nói chung và tài sản của vợ chồng nói riêng
phát triển ngày càng nhanh chóng.
“Tài sản là điều vơ cùng thân thuộc, một phần không thể thiếu của con
người trong cuộc sống. Tài sản là điều kiện duy trì hoạt động kinh tế, đời sống
xã hội, giúp tồn tại để đáp ứng các nhu cầu về vật chất và tinh thần cho con
người. Trong cuộc sống vợ chồng để đảm bảo các điều kiện vật hất phục vụ
đời sống gia đình cũng như để thực hiện các quyền, nghĩa vụ chăm sóc, ni
dưỡng con cái, phụng dưỡng cha mẹ thì cần phải có tài sản. Tài sản của vợ
chồng là nguồn quan trọng để xây dựng gia đình và phục vụ nhu cầu sinh hoạt

hàng ngày. Tài sản của vợ chồng có được từ thời điểm kết hôn, cùng nhau
chung sống tạo lập ra khối tài sản chung và cùng nhau gánh vác công việc của
gia đình”[1].
Với ý nghĩa thơng dụng hàng ngày thì tài sản là những vật có thể cảm
nhận bằng các giác quan, đem lại lợi ích cho con người, con người có thể
chiếm giữ được. Trước kia thì con người chỉ coi tài sản là những vật hữu hình
có thể cảm nhận bằng các giác quan, nhưng cùng với sự phát triển của xã hội
con người đã thừa nhận giá trị của tài sản vơ hình như thương hiệu, những
sáng tạo của con người, sở hữu trí tuệ,… Tài sản là chế định nền tảng của xã
hội, đối tượng nghiên cứu của rất nhiều ngành khoa học khác nhau như kinh
tế, tài chính ngân hàng…và nhiều ngành khoa học pháp lý trong đó có luật
dân sự.

[1]

Nguyễn Thị Lan( 2017), “ Chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn từ thực tiễn xét xử của Tòa án nhân
dân tại Hà Nội” , Luận văn Thạc sĩ Luật học, Học viện Khoa học xã hội

4


Theo tác giả Nguyễn Ngọc Điện thì thuật ngữ tài sản được hiểu theo 2
cách[2]: “Cách thứ nhất: về phương diện pháp lý, tài sản là của cải được con
người sử dụng; Cách thứ 2: trong ngôn ngữ thông thường, tài sản là một vật
được con người sử dụng, một vật cụ thể, nhận biết được bằng giác quan tiếp
xúc”….Như vậy tài sản có thể hiểu theo nghĩa thơng thường là của cải vật
chất hoặc tinh thần có giá trị đối với chủ sở hữu. Với ý nghĩa này, tài sản luôn
gắn với một chủ thể xác định trong một xã hội nhất định.
Theo quy định tại Điều 105 Bộ luật dân sự năm 2015 thì:“Tài sản là vật,
tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản; tài sản bao gồm bất động sản và động

sản. Bất động sản và động sản có thể là tài sản hiện có và tài sản hình thành
trong tương lai.” So với BLDS 2005 thì BLDS 2015 đã liệt kê cụ thể và rõ
ràng hơn về tài sản.
“Trong luật của các nước Châu Âu, tài sản có thể được nhìn nhận như một
vật hoặc một quyền. Điều quan trọng là tài sản phải có giá trị tiền tệ, nghĩa là
có giá trị được định lượng bằng một số tiền, cái mà vật hay quyền khác khơng
có. Chẳng hạn, khơng khí đến nay chưa được coi là tài sản; quyền bầu cử
cũng không phải ( không thể) là tài sản. Dẫu sao, của cải hay vật chỉ có thể là
tài sản nếu chúng có thể được sở hữu, tức là có thể thuộc về riêng một người
nào đó, một chủ thể nào đó của quan hệ pháp luật dân sự: người ta luôn sử
dụng không khí; nhưng ít nhất cho đến thời đại này, khơng khí chưa bao giờ
được coi là tài sản theo nghĩa pháp lý hoặc theo nghĩa thông dụng”[3].
Trước khi kết hôn, tài sản của vợ, chồng là tài sản riêng của từng cá nhân,
sau khi kết hơn thì tài sản của vợ chồng bao gồm tài sản riêng của vợ chồng
và tài sản chung của vợ chồng, các lợi ích và quyền liên quan đến tài sản này
như là quyền chiếm hữu, định đoạt và sử dụng cũng được hình thành.
Theo quy định tại điều 33 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 thì:
1. Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập
do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài
sản riêng và thu nhập hợp pháp khác trong thời kỳ hôn nhân, trừ trường hợp
được quy định tại khoản 1 Điều 40 của Luật này; tài sản mà vợ chồng được
thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và tài sản khác mà vợ chồng thỏa
thuận là tài sản chung.

[2]

Nguyễn Ngọc Điện, nghiên cứu về tài sản trong Luật Dân sự Việt Nam, Nxb Trẻ, thành phố Hồ Chí Minh,
tr.5
[3]
Giáo trình Luật Dân sự 1, Nxb Đại học quốc gia thành phố Hồ Chí Minh – 2014, tr. 141, 142


5


Quyền sử dụng đất mà vợ, chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung
của vợ chồng, trừ trường hợp vợ hoặc chồng được thừa kế riêng, được tặng
cho riêng hoặc có được thơng qua giao dịch bằng tài sản riêng.
2. Tài sản chung của vợ chồng thuộc sở hữu chung hợp nhất, được dùng
để bảo đảm nhu cầu của gia đình, thực hiện nghĩa vụ chung của vợ chồng.
3. Trong trường hợp khơng có căn cứ để chứng minh tài sản mà vợ, chồng
đang có tranh chấp là tài sản riêng của mỗi bên thì tài sản đó được coi là tài
sản chung.
Như vậy có thể kết luận như sau: Tài sản chung của vợ chồng là vật, tiền,
giấy tờ có giá và quyền tài sản, tài sản bao gồm bất động sản và động sản, vợ,
chồng có quyền và nghĩa vụ ngang nhau trong việc định đoạt, chiếm hữu, sử
dụng tài sản chung.
1.1.1.2 Xác định tài sản chung của vợ chồng:
Sau khi kết hôn, nhiều cặp vợ chồng không biết xác định đâu là tài sản
chung, đâu là tài sản riêng của vợ chồng. Vấn đề xác định tài sản chung, tài
sản riêng của vợ chồng là rất quan trọng trong trường hợp có tranh chấp liên
quan đến tài sản giữa vợ chồng hoặc giữa vợ, chồng với người thứ ba. Thông
thường mỗi cặp vợ chồng đều không quan tâm đến việc tài sản chung hay
riêng mà chỉ có một khối tài sản chung hợp nhất. Chỉ khi nào có sự phân chia
tài sản của vợ chồng thì mới xác định được phần tài sản của từng người trong
khối tài sản chung đó. Mặc dù sự dóng góp của mỗi người khơng có bằng
chứng nhưng quyền và nghĩa vụ của việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt là
ngang nhau. Tuy nhiên, khi tài sản là nguồn sống duy nhất của gia đình, muốn
thực hiện những giao dịch hoặc là đầu tư vào kinh doanh thì phải có sự thỏa
thuận của hai vợ chồng.
Trong trường hợp mà giữa vợ và chồng khơng có sự thỏa thuận, hay sự

thỏa thuận đó khơng được rõ ràng hoặc là khơng đầy đủ thì tài sản chung của
vợ chồng được xác định theo quy định tại Điều 33 Luật Hôn nhân và gia đình
thì: “Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do
lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản
riêng và thu nhập hợp pháp khác trong thời kỳ hôn nhân, trừ trường hợp được
quy định tại khoản 1 Điều 40 Luật này; tài sản mà vợ chồng được thừa kế
chung hoặc được tặng cho chung và tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là
tài sản chung.

6


Quyền sử dụng đất mà vợ, chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung
của vợ chồng, trừ trường hợp vợ hoặc chồng được thừa kế riêng, được tặng
cho riêng hoặc có được thơng qua giao dịch bằng tài sản riêng.
Trong trường hợp khơng có căn cứ để chứng minh tài sản mà vợ, chồng
đang có tranh chấp là tài sản riêng của mỗi bên thì tài sản đó được coi là tài
sản chung”
Bên cạnh đó, Điều 9 Nghị định 126/2014/NĐ-CP hướng dẫn chi tiết, giải
thích thu nhập hợp pháp khác của vợ, chồng trong thời kỳ hôn nhân. Theo đó,
thu nhập hợp pháp khác của vợ, chồng trong thời kỳ hôn nhân bao gồm:
Khoản tiền thưởng, tiền trúng thưởng xổ số, tiền trợ cấp, trừ trường hợp
quy định tại khoản 3 Điều 11 của nghị định này;
Tài sản mà vợ, chồng được xác lập quyên sở hữu theo quy định của Bộ
luật dân sự đối với vật vơ chủ, vật bị chơn giấu, bị chìm đắm, vật bị đánh rơi,
bị bỏ quên, gia súc, gia cầm bị thất lạc, vật nuôi dưới nước;
Thu nhập hợp pháp khác theo quy định của pháp luật.
1.1.2 Chia tài sản chung của vợ chồng:
Bình thường, tài sản chung của vợ chồng là tài sản chung hợp nhất – phần
quyền sở hữu của vợ, chồng không được xác định trước. Khi đem chia, khối

tài sản chung được phân, tách theo từng phần( tính theo hiện vật hoặc giá trị)
để vợ, chồng có quyền sở hữu riêng. Như vậy, chia tài sản chung của vợ
chồng là phân chia tài sản chung của vợ chồng thành từng phần thuộc sở hữu
riêng của vợ và của chồng.
“Tài sản chung của vợ chồng được chia theo thỏa thuận của các bên vợ
chồng. Vợ chồng có thể tự nguyện thỏa thuận việc chia tài sản chung thành
hai phần bằng nhau hoặc chia theo các tỷ lệ nhất định trên cơ sở sự thống nhất
ý chí của vợ và chồng. nguyện vọng của vợ chồng trên cơ sở thỏa thuận về
việc chia tài sản chung có thể được công chứng theo yêu cầu của họ”[4].
1.1.2.1 Bản chất của việc phân chia tài sản chung của vợ chồng:
Bản chất của việc phân chia tài sản chung của vợ chồng chính là việc chấm
dứt quyền sở hữu chung hợp nhất của vợ chồng đối với toàn bộ khối tài sản
chung của vợ chồng hoặc một phần khối tài sản chung của vợ chồng. sau khi
phân chia, tài sản chung sẽ được chia thành từng phần tài sản xác định và xác
lập quyền sở hữu riêng của vợ, chồng đối với phần tài sản được chia.
1.1.2.2 Các trường hợp chia tài sản chung của vợ chồng

[4]

Giáo trình Luật HN&GĐ, Trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh

7


Trong hầu hết các gia đình, chức năng kinh tế được đảm bảo chủ yếu bằng
tài sản chung của vợ chồng. nó được sử dụng để đáp ứng những nhu cầu vật
chất hằng ngày của gia đình. Nói cách khác, tài sản chung của vợ chồng chính
là nguồn sống của gia đình. Bởi vậy, việc duy trì sự ổn định, thường xuyên bổ
sung và phát triển khối tài sản chung là hết sức cần thiết. tuy nhiên, trong quá
trình chung sống, do những lý do hoặc sự kiện đặc biệt mà việc duy trì khối

tài sản chung đó lại khơng đảm bảo lợi ích của gia đình hoặc khơng cịn điều
kiện để tồn tại khối tài sản chung của vợ chồng; việc chia tài sản chung của
vợ chồng trong những trường hợp này được đặt ra như một tất yếu khách
quan.
Thứ nhất, chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân:
Do cuộc sống chung của vợ chồng khó tránh khỏi những xung đột, mâu
thuẫn, nhiều trường hợp chỉ muốn yêu cầu chia tài sản chung của vợ chồng
mà khơng muốn ly hơn mà chỉ muốn có tài sản để thực hiện việc đầu tư, kinh
doanh…Đáp ứng nhu cầu này của vợ chồng nhằm mục đích xây dựng gia
đình êm ấm, hạnh phúc và ổn định quan hệ xã hội, pháp luật cho phép vợ
chồng có quyền chia tài sản chung ngay khi hơn nhân cịn tồn tại.
Về ngun tắc, khi hơn nhân cịn tồn tại thì tài sản chung vẫn còn tồn tại,
chế độ tài sản này chỉ chấm dứt khi quan hệ hôn nhân chấm dứt. Tuy nhiên,
trong thực tế nhiều cặp vợ chồng muốn được chia tài sản chung trong thời kỳ
hôn nhân bởi vợ chồng có mẫu thuẫn trong quản lý tài chính hoặc nhiều lý do
khác. Do đó, trong thời kỳ hơn nhân, vợ, chồng có nhu cầu thì có quyền thỏa
thuận chia tài sản chung của vợ chồng. Nguyên tắc chia tài sản chung của vợ
chồng như sau:
- Vợ, chồng tự thỏa thuận phân chia một phần hoặc toàn bộ tài sản chung;
- Vợ, chồng yêu cầu Tòa án giải quyết.
Theo quy định tại Điều 39 Luật HN&GĐ 2014, việc chia tài sản chung
trong thời kỳ hôn nhân được xác định theo từng trường hợp như sau:
Trường hợp vợ chồng có thỏa thuận thì thời điểm có hiệu lực của việc chia
tài sản chung của vợ chồng là thời điểm do vợ chồng thỏa thuận và được ghi
nhận trong văn bản; nếu trong văn bản khong xác định thời điểm có hiệu lực
thì thời điểm có hiệu lực được tính từ ngày lập văn bản;
Trường hợp tài sản được chia mà theo quy định của pháp luật, giao dịch
liên quan đến tài sản đó phải tn theo hình thức nhất định thì việc chia tài
sản chung của vợ chồng có hiệu lực từ thời điểm việc thỏa thuận tuân thủ
hình thức mà pháp luật quy định;

8


Trường hợp Tòa án chia tài sản chung của vợ chồng thì việc chia tài sản
chung có hiệu lực kể từ ngày bản án, quyets định của Tịa án có hiệu lực.
Quyền và nghĩa vụ về tài sản giữa vợ, chồng với người thứ ba phát sinh
trước thời điểm việc chia tài sản chung có hiệu lực vẫn có giá trị pháp lý, trừ
trường hợp các bên có thỏa thuận khác.
Sau khi chia tài sản chung của vợ, chồng trong thời kỳ hơn nhân thì tài sản
được chia, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng của mỗi bên sau khi chia
tài sản chung là tài sản riêng của vợ, chồng , trừ trường hợp vợ, chồng có thỏa
thuận khác. Phần tài sản cịn lại khơng chia vẫn là tài sản chung của vợ chồng.
Việc chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân không làm
chấm dứt chế độ tài sản của vợ chồng theo luật định.
Từ thời điểm việc chia tài sản chung của vợ chồng có hiệu lực, nếu tài sản có
được từ việc khai thác tài sản riêng của vợ chồng mà khơng xác định được đó là
thu nhâp do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh của vợ, chồng hay là hoa
lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng đó thì thuộc sở hữu chung của vợ, chồng.
Thứ hai, chia tài sản chung của vợ chồng khi một bên vợ hoặc chồng chết
Khi một trong hai người là vợ hoặc chồng chết thì hơn nhân giữa họ sẽ
chấm dứt. Việc chia tài sản lúc này sẽ còn phụ thuộc vào việc giữa vợ chồng
có thỏa thuận gì về tài sản chung và riêng hay khơng và trước đó người chết
có để lại di chúc hay khơng.
Căn cứ theo quy định Điều 66 của Luật HN&GĐ như sau:
- Khi một bên chết hoặc một bên bị Tòa án tuyên bố là đã chết, nếu trong di
chúc khơng có chỉ định ai quản lý di sản hoặc những người thừa kế tài sản của
người đã chết khơng có thỏa thuận cử người khác quản lý di sản thì việc quản lý
tài sản chung của vợ chồng sẽ do bên vợ hoặc chồng cịn sống quản lý.
- Nếu vợ chồng khơng có các thỏa thuận về chế độ tài sản thì tài sản
chung của vợ chồng sẽ được chia đơi. Cịn đối với phần tài sản của vợ, chồng

chết thì sẽ được chia theo pháp luật về thừa kế.
- Nếu việc chia di sản dẫn đến ảnh hưởng nghiêm trọng về đời sống của
gia đình, của một bên vợ hoặc chồng cịn sống thì người này có quyền u
cầu Tịa án hạn chế việc phân chia di sản
Như vậy, việc phân chia tài sản chung của vợ chồng khi một bên vợ, chồng
chết sẽ được giải quyết như sau:
– Trường hợp có di chúc và di chúc có nêu rõ ai là người quản lý di sản
hoặc trường hợp những người thừa kế có thỏa thuận về việc ai là người chịu
trách nhiệm quản lý di sản thì tiến hành làm theo di chúc hoặc theo thỏa
9


thuận. Cịn nếu người chết khơng để lại di chúc và cũng khơng có thỏa thuận
giữa những thừa kế thì vợ hoặc chồng còn sống sẽ là người quản lý đối với di
sản nêu trên.
– Nếu có yêu cầu chia di sản của người đã mất thì phần tài sản chung của
vợ chồng được chia theo nguyên tắc chia đôi. Tuy nhiên, nếu trước đó giữa vợ
và chồng có sự thoả thuận khác thì pháp luật sẽ ưu tiên thỏa thuận trước. Vợ
hoặc chồng còn sống sẽ được hưởng phần di sản thừa kế mà người mất để lại
trong đó có tài sản chung của vợ chồng đã được chia.
Thứ ba, chia tài sản của vợ chồng khi ly hôn
“Ly hôn là sự kiện làm chấm dứt quan hệ hôn nhân giữa nam và nữ, đồng
thời với sự chấm dứt quan hệ hơn nhân thì chế độ tài sản chung của vợ chồng
cũng chấm dứt kể từ thời điểm ly hơn. Khi ly hơn do có mâu thuẫn về quan hệ
tình cảm nên vợ chồng khó tìm được tiếng nói chung trong việc phân chia tài
sản dẫn đến việc tranh chấp chia tài sản chung”[5].
Tài sản của vợ chồng khi ly hôn được phân chia trước hết theo chế độ tài
sản vợ chồng đã lựa chọn trong thời kỳ hôn nhân. Nếu trong thời thời kỳ hôn
nhân vợ chồng lựa chọn chế độ tài sản của vợ chồng theo luật định thì việc
giải quyết tài sản do các vợ chồng thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được giải

quyết theo quy định của Luật Hơn nhân gia đình. Nếu trong thời thời kỳ hôn
nhân vợ chồng lựa chọn chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận thì việc
giải quyết tài sản khi ly hôn được áp dụng theo thỏa thuận đó; nếu thỏa thuận
khơng đầy đủ, rõ ràng thì áp dụng quy định tương ứng của Luật hôn nhân gia
đình để giải quyết.
Việc chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hơn thì chế độ tài sản chung
của vợ chồng cũng hoàn toàn chấm dứt. Tài sản chung của vợ chồng sau khi
chia cho vợ, chồng sẽ trở thành tài sản riêng của mỗi người và chịu sự điều
chỉnh bởi các quy định của pháp luật về sở hữu riêng.
1.2 NỘI DUNG PHÁP LUẬT VỀ CHIA TÀI SẢN CHUNG CỦA VỢ
CHỒNG SAU KHI LY HÔN:
1.2.1 Cơ sở pháp lý:
Luật HN&GĐ 2014 quy định nguyên tắc phân chia tài sản của vợ chồng
khi ly hôn tại Điều 59 và phân chia tài sản trong một số trường hợp cụ thể từ
Điều 60 đến Điều 64. Nếu vợ chồng có thỏa thuận trong việc phân chia tài sản
chung thì phân chia theo thỏa thuận đó, trường hợp thỏa thuận khơng đầy đủ,
[5]

Đinh Thị Minh Mẫn (2014), “Giải quyết tranh chấp về chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn”, Luận
văn Thạc sĩ Luật học, Đại học quốc gia Hà Nội

10


rõ ràng thì áp dụng quy định tương ứng từ Điều 59 đến Điều 60 của Luật
HN&GĐ năm 2014 để giải quyết.
1.2.2 Phƣơng thức chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn:
Để chia tài sản của vợ chồng khi ly hôn, pháp luật HN&GĐ đã quy định về
phương thức phân chia cũng như các nguyên tắc của việc phân chia này.
Thứ nhất, phương thức tự thỏa thuận:

Tại K1Đ28 Luật HN&GĐ năm 2014 quy định: “ Vợ chồng có quyền lựa
chọn áp dụng chế độ tài sản theo luật định hoặc chế độ tài sản theo thỏa
thuận. Chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận được thực hiện theo quy
định tại các điều 47, 48, 49, 50, 59”. Trong trường hợp hai bên kết hôn mà
lựa chọn chế độ tài sản theo thỏa thuận thì thỏa thuận này phải được lập trước
khi kết hơn, bằng hình thức văn bản có cơng chứng hoặc chứng thực. Chế độ
tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận được xác lập kể từ ngày đăng ký kết hôn
quy định cụ thể tại Đ47 Luật HN&GĐ 2014. Thỏa thuận này vẫn có thể được
sửa đổi, bổ sung sau khi kết hôn hoặc bị tịa án tun bố vơ hiệu quy định tại
Điều 49 và 50 của luật này.
Như vậy, Luật HN&GĐ năm 2014 cũng đề cao ý chí của các bên, quyền tự
định đoạt của vợ chồng. Tuy nhiên việc tự định đoạt này không được trái với
nguyên tắc mà pháp luật quy định. Ngoài ra, quy định tự thỏa thuận chia tài
sản của vợ chồng khi ly hơn cịn giúp các bên tiết kiệm được thời gian và tiền
bạc so với yêu cầu Tòa án giải quyết, giúp cho việc chia tài sản được tiến
hành nhanh chóng, hiệu quả tránh được những tranh chấp và mâu thuận.
Thứ hai, phương thức yêu cầu tòa án giải quyết việc chia tài sản chung
của vợ chồng khi ly hơn:
Nhà nước ln khuyến khích việc vợ chồng tự thỏa thuận về chia tài sản
chung của vợ chồng. Tuy nhiên, không phải lúc nào vợ chồng cũng có thể
thỏa thuận được vấn đề này, nhất là cuộc sống hơn nhân tan vỡ, tình u
khơng cịn dẫn đến nhiều mâu thuẫn, xung đột khiến họ trở nên tranh chấp
quyết liệt hơn. Theo K1Đ59 quy định thì:
1. Trong trường hợp chế độ tài sản của vợ chồng theo luật định thì việc
giải quyết tài sản do các bên thỏa thuận; nếu khơng thỏa thuận được thì theo
u cầu của vợ, chồng hoặc của hai vợ chồng, Tòa án giải quyết theo quy
định tại các khoản 2, 3, 4 và 5 Điều này và tại các điều 60, 61, 62, 63 và 64
của Luật này.
Trong trường hợp chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận thì việc giải
quyết tài sản khi ly hôn được áp dụng theo thỏa thuận đó; nếu thỏa thuận

11


khơng đầy đủ, rõ ràng thì áp dụng quy định tương ứng tại các khoản 2, 3, 4
và 5 Điều này và tại các điều 60, 61, 62, 63 và 64 của Luật này để giải quyết.
Như vậy, phương thức này được tiến hành khi thỏa thuận của vợ chồng
không đầy đủ, rõ ràng hoặc là vợ chồng lựa chọn theo chế độ tài sản theo quy
định nhưng không thỏa thuận được.
1.2.3 Nguyên tắc chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn:
Chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hơn là một quan hệ phát sinh mà
Tịa án đồng thời phải giải quyết trong vụ án ly hôn. Các tranh chấp này khi
phát sinh thường rất phức tạp và kéo dài bởi thực tiễn giải quyết tranh chấp về
chia tài sản chung nó gắn liền với quan hệ hơn nhân giữa vợ chồng nên nhiều
tình tiết của vụ án khó làm sáng tỏ bởi trong q trình hơn nhân cịn tồn tại,
việc xác lập, thỏa thuận, định đoạt chia tài sản chung của vợ chồng là quan hệ
kín mà chỉ vợ chồng họ mới nắm được.
Luật Hơn nhân và Gia đình (LHN&GĐ) năm 2014 và các văn bản pháp luật
hướng dẫn thi hành đã có những quy định tạo cơ sở pháp lý để giải quyết những
tranh chấp về tài sản của vợ chồng khi ly hôn, nhằm đáp ứng các yêu cầu của
thực tiễn và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho các đương sự. Để giải quyết,
phân chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hơn được chính xác, địi hỏi người
tiến hành tố tụng cần phải nắm chắc quy định của pháp luật hơn nhân và gia đình
về các ngun tắc chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn.
1.2.3.1 Nguyên tắc giải quyết tranh chấp tài sản vợ chồng khi ly hôn trong
trường hợp chế độ tài sản vợ chồng theo thỏa thuận:
Về chế độ tài sản của vợ chồng, bên cạnh chế độ tài sản vợ chồng theo luật
định, thì LHN&GĐ 2014 đã thừa nhận thêm một chế độ so với LHN&GĐ
2000 là chế độ tài sản theo thỏa thuận. Chế độ tài sản thỏa thuận (hay còn gọi
là chế độ tài sản ước định), là tập hợp các quy tắc do chính vợ, chồng xây
dựng nên một cách hệ thống trên cơ sở sự cho phép của pháp luật để thay thế

cho chế độ tài sản luật định nhằm điều chỉnh quan hệ tài sản của vợ chồng.
Chế độ tài sản này được quy định như một điểm mới rất tiến bộ trong
LHN&GĐ Việt Nam năm 2014, tồn tại song song cùng với chế độ tài sản
theo luật định (được áp dụng khi vợ chồng không xác lập chế độ tài sản theo
thoả thuận). Chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận được thực hiện theo
quy định tại các điều 47, 48, 49, 50 và 59 của LHN&GĐ.
“Vợ chồng có quyền lựa chọn áp dụng chế độ tài sản theo luật định hoặc
chế độ tài sản theo thỏa thuận”[6]. Thỏa thuận này phải được lập trước khi kết
[6]

Khoản 1 Điều 28 Luật HN&GĐ năm 2014

12


hơn, bằng hình thức văn bản có cơng chứng hoặc chứng thực. “Chế độ tài sản
của vợ chồng có hiệu lực kể từ thời điểm đăng ký kết hơn”[7]. Vì vậy, khi ly
hơn mà có u cầu chia tài sản chung thì Tịa án sẽ xem xét, nếu có văn bản
thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng và văn bản này khơng bị Tịa án
tun bố vơ hiệu tồn bộ thì áp dụng các nội dung của văn bản thỏa thuận để
chia tài sản của vợ chồng khi ly hôn. Đối với những vấn đề không được vợ
chồng thỏa thuận hoặc thỏa thuận không rõ ràng hoặc bị vơ hiệu thì áp dụng
các quy định áp dụng theo luật định, những thỏa thuận có hiệu lực vẫn được
tôn trọng và thực hiện.
1.2.3.2. Các nguyên tắc giải quyết tranh chấp tài sản vợ chồng khi ly hôn
trong trường hợp chế độ tài sản vợ chồng theo luật định:
Bên cạnh chế độ tài sản theo thỏa thuận, thì Luật hơn nhân và gia đình tiếp
tục ghi nhận chế độ tài sản theo luật định là nên tảng trong chế độ tài sản
chung của vợ chồng. Chế độ tài sản của vợ chồng theo luật định được thực
hiện theo quy định tại các điều từ Điều 33 đến Điều 46 và từ Điều 59 đến

Điều 64 của LHN&GĐ.
Các nguyên tắc giải quyết tranh chấp tài sản vợ chồng khi ly hôn trong
trường hợp chế độ tài sản vợ chồng theo luật định được quy định bao gồm các
nguyên tắc sau:
- Nguyên tắc tôn trọng sự thỏa thuận của vợ chồng
Nguyên tắc đầu tiên trong việc chia tài sản của vợ chồng khi ly hơn chính
là sự thoả thuận. Tài sản của vợ chồng được chia như thế nào trước hết phụ
thuộc vào chính ý chí của họ. “Thỏa thuận” có nghĩa là “đi tới sự đồng ý sau
khi cân nhắc, thảo luận”[8]. Quan hệ pháp luật dân sự nói chung và quan hệ
hơn nhân và gia đình nói riêng đều tôn trọng quyền tự định đoạt của các chủ
thể hay nói các khác là tơn trọng sự thỏa thuận của vợ chồng đối với tài sản
chung khi ly hôn. Quá trình giải quyết tranh chấp chia tài sản chung của vợ
chồng khi ly hơn, vợ chồng có quyền thỏa thuận chia một phần hoặc toàn bộ
khối tài sản chung. Tất nhiên cần phải hiểu rằng sự thoả thuận này phải phù
hợp với quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình.
Sự tự nguyện thỏa thuận, ý chí đồng thuận của các bên luôn được tôn trọng
dù trong bất kỳ trường hợp vợ chồng lựa chọn chế độ tài sản vợ chồng theo
thỏa thuận hoặc theo luật định. Cụ thể: Vợ chồng khi ly hơn có quyền tự thỏa
thuận với nhau về tồn bộ các vấn đề, trong đó có cả việc phân chia tài sản.
[7]
[8]

Điều 47 Luật HN&GĐ năm 2014
Viện ngôn ngữ học ( 2010), Từ điển Tiếng Việt, Nxb Từ Điển Bách Khoa, Hà Nội

13


Trường hợp vợ chồng khơng thỏa thuận được mà có u cầu thì Tịa án phải
xem xét, quyết định việc áp dụng chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận

hay theo luật định, tùy từng trường hợp cụ thể mà Tòa án xử lý như sau:
+ Trường hợp khơng có văn bản thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng
hoặc văn bản thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng bị Tòa án tuyên bố vơ
hiệu tồn bộ thì áp dụng chế độ tài sản của vợ chồng theo luật định để chia tài
sản của vợ chồng khi ly hôn;
+ Đối với những vấn đề không được vợ chồng thỏa thuận hoặc thỏa thuận
không rõ ràng hoặc bị vơ hiệu thì áp dụng các quy định tương ứng tại các
khoản 2, 3, 4, 5 Điều 59 và các điều 60, 61, 62, 63 và 64 của LHN&GĐ để
chia tài sản của vợ chồng khi ly hơn.
Có thể thấy, việc cho phép vợ chồng tự thỏa thuận với nhau về việc khi tài
sản khi ly hơn có ý nghĩa rất lớn, thể hiện sự đổi mới tư duy lập pháp của các nhà
làm luật. Việc thừa nhận này không chỉ đảm bảo quyền tự do định đoạt đối với
quyền sở hữu tài sản, đáp ứng nhu cầu của cá nhân vợ, chồng mà còn tạo điều
kiện thuận lợi cho cơ quan Nhà nước trong việc giải quyết tranh chấp về tài sản
của vợ chồng. Đặc biệt, trong bối cảnh hiện nay, số lượng các vụ việc về ly hôn
ngày càng gia tăng, việc giải quyết tài sản của vợ chồng khi ly hôn nhưng không
cần phải xác minh nguồn gốc cũng như giá trị tài sản của vợ chồng sẽ giúp Tòa
án rất nhiều trong việc tiết kiệm thời gian và nguồn nhân lực.
Ngoài ra, theo quy định tại Điều 5 Bộ luật tố tụng Dân sự năm 2015:
“1. Đương sự có quyền quyết định việc khởi kiện, u cầu Tịa án có thẩm
quyền giải quyết vụ việc dân sự. Tòa án chỉ thụ lý giải quyết vụ việc dân sự
khi có đơn khởi kiện, đơn yêu cầu của đương sự và chỉ giải quyết trong phạm
vi đơn khởi kiện, đơn yêu cầu đó.
2.Trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự, đương sự có quyền chấm dứt,
thay đổi yêu cầu của mình hoặc thỏa thuận với nhau một cách tự nguyện,
không vi phạm điều cấm của luật và không trái đạo đức xã hội”[9].
Theo đó, xuất phát từ bản chất của quan hệ dân sự nói chung và quan hệ vợ
chồng nói riêng, vợ, chồng có quyền thương lượng, thỏa thuận với nhau để
giải quyết phân chia tài sản trong tất cả các giai đoạn của q trình tố tụng.
Tịa án có trách nhiệm tôn trọng thỏa thuận hợp pháp của các bên. Nội dung

của thỏa thuận vi phạm điều cấm của luật hoặc đạo đức xã hội thì sẽ khơng
được cơng nhận.

[9]

Điều 5 BLTTDS năm 2015

14


+ Nếu thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng có những vấn đề khơng
thỏa thuận, thỏa thuận khơng rõ ràng hoặc thỏa thuận bị vơ hiệu thì áp dụng
quy định tương ứng tại các khoản 2, 3, 4 và 5 Điều 59 và tại các Điều 60, 61,
62, 63 và 64 của LHN&GĐ năm 2014 để giải quyết.
+ Nếu văn bản thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng bị Tịa án tun
bố vơ hiệu tồn bộ thì áp dụng chế độ tài sản của vợ chồng theo luật định để
chia tài sản của vợ chồng khi ly hơn.
Bên cạnh đó, pháp luật hiện hành khơng quy định hình thức ghi nhận thỏa
thuận phân chia tài sản. Chỉ duy nhất trong trường hợp khi vợ chồng thuận tình
ly hơn, nếu họ thỏa thuận được với nhau về việc phân chia tài sản chung thì Tịa
án ra quyết định cơng nhận thuận tình ly hơn và thỏa thuận của các đương sự.
Tuy nhiên thực tiễn xét xử cho thấy, trong vụ án hôn nhân và gia đình, Tịa án
giải quyết 03 mối quan hệ là quan hệ hôn nhân, quan hệ tài sản và con chung,
trong trường hợp các bên thỏa thuận được vấn đề tài sản chung thì Tịa án vẫn
cơng nhận sự thỏa thuận này và sẽ được quyết định trong bản án.
- Nguyên tắc đảm bảo sự bình đẳng về quyền sở hữu tài sản của vợ chồng
Trên cơ sở của nguyên tắc vợ, chồng có quyền bình đẳng trong việc hưởng
các quyền dân sự nói chung và quyền sở hữu tài sản nói riêng, trong trường
hợp khơng có thỏa thuận phân chia tài sản, khi ly hôn, tài sản chung của vợ
chồng được chia theo nguyên tắc chia đôi. Quy định này là hồn tồn hợp lý

vì hình thức sở hữu chung của vợ chồng là sở hữu chung hợp nhất, được sử
dụng để đảm bảo nhu cầu đời sống chung của gia đình, thực hiện nghĩa vụ
chung của vợ chồng. Sở hữu chung hợp nhất là hình thức sở hữu mà trong đó
quyền của các đồng chủ sở hữu khơng được xác định đối với khối tài sản
chung nên về nguyên tắc, tài sản chung của vợ chồng sẽ chia đôi khi ly hôn.
Tuy nhiên, để đảm bảo việc phân chia tài sản chung của vợ chồng được
thực hiện công bằng, phù hợp với thực tế, khoản 2 Điều 59 LHN&GĐ năm
2014 được hướng dẫn tại khoản 4 Điều 7 Thông tư liên tịch số 01/2016/TTLT
– TANDTC – VKSNDTC – BTP quy định rằng khi ly hôn, tài sản chung của
vợ chồng về ngun tắc được chia đơi nhưng có tính đến các yếu tố sau đây
để xác định tỷ lệ tài sản mà vợ chồng được chia:
+ “Hoàn cảnh của gia đình và của vợ, chồng: là tình trạng về năng lực
pháp luật, năng lực hành vi, sức khỏe, tài sản, khả năng lao động tạo ra thu
nhập sau khi ly hôn của vợ, chồng cũng như của các thành viên khác trong gia
đình mà vợ chồng có quyền, nghĩa vụ về nhân thân và tài sản theo quy định

15


của LHN&GĐ”[10]. Bên gặp khó khăn hơn sau khi ly hôn được chia phần tài
sản nhiều hơn so với bên kia hoặc được ưu tiên nhận loại tài sản để bảo đảm
duy trì, ổn định cuộc sống của họ nhưng phải phù hợp với hồn cảnh thực tế
của gia đình và của vợ, chồng.
+ “Cơng sức đóng góp của vợ, chồng vào việc tạo lập, duy trì và phát triển
khối tài sản chung là sự đóng góp về tài sản riêng, thu nhập, cơng việc gia
đình và lao động của vợ, chồng trong việc tạo lập, duy trì và phát triển khối
tài sản chung”[11]. Sự đóng góp đó có thể trực tiếp bằng sức lao động hoặc tài
sản mà người đó bỏ ra để tạo nên tài sản chung của vợ chồng như dùng tài sản
riêng để sửa chữa, cải tạo, tu bổ làm tăng giá trị của tài sản chung, tài sản
riêng của mỗi bên đem nhập vào khối tài sản chung của vợ chồng…

Ngoài ra điểm mới rất đáng lưu ý trong LHN&GĐ năm 2014 chính là việc
thừa nhận lao động của vợ, chồng trong gia đình được coi như lao động có thu
nhập. Đây được coi là quy định rất tiến bộ bởi thực tiễn ở Việt Nam hiện nay,
vì rất nhiều gia đình vẫn khơng coi trọng đóng góp của người phụ nữ trong việc
quán xuyến, chăm lo cơng việc nội trợ gia đình, vì khơng có thu nhập, cịn kinh
tế sẽ thuộc sở hữu của người chồng làm ra. Sẽ là bất công đối với người phụ nữ
khi công sức họ bỏ ra trong thời kỳ hôn nhân này sẽ không được coi là lao
động có thu nhập khi đánh giá chia tài sản chung khi ly hôn. Quy định trên của
LHN&GĐ đã phần nào khắc phục được hạn chế nêu trên, theo đó người chăm
lo cơng việc gia đình vẫn được coi là lao động có thu nhập.
+ “Bảo vệ lợi ích chính đáng của mỗi bên trong sản xuất, kinh doanh và
nghề nghiệp để các bên có điều kiện tiếp tục lao động tạo thu nhập là việc
chia tài sản chung của vợ chồng phải bảo đảm cho vợ, chồng đang hoạt động
nghề nghiệp được tiếp tục hành nghề; cho vợ, chồng đang hoạt động sản xuất,
kinh doanh được tiếp tục được sản xuất, kinh doanh để tạo thu nhập và phải
thanh toán cho bên kia phần giá trị tài sản chênh lệch”[12]. Việc bảo vệ lợi ích
chính đáng của mỗi bên trong sản xuất, kinh doanh và hoạt động nghề nghiệp
không được ảnh hưởng đến điều kiện sống tối thiểu của vợ, chồng và con
chưa thành niên, con đã thành niên nhưng mất năng lực hành vi dân sự.
+ “Lỗi của mỗi bên trong vi phạm quyền, nghĩa vụ của vợ chồng là lỗi của
vợ hoặc chồng vi phạm quyền, nghĩa vụ về nhân thân, tài sản của vợ chồng

[10]

Điểm a khoản 4 Điều 7 Thông tư 01/2016/TTLT – TANDTC – VKSNDTC - BTP
Điểm b khoản 4 Điều 7 Thông tư 01/2016/TTLT – TANDTC – VKSNDTC - BTP
[12]
Điểm c khoản 4 Điều 7 Thông tư 01/2016/TTLT – TANDTC – VKSNDTC - BTP
[11]


16


dẫn đến ly hơn”[13]. Lỗi ở đây có thể là khơng chăm lo làm ăn, cố tình tẩu tán
tài sản, cờ bạc, rượu chè, có hành vi ngoại tình, bạo lực gia đình… mà các lỗi
này là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến ly hơn, nếu một bên có lỗi nhưng không
phải là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến ly hơn thì khơng xem xét, đánh giá khi
chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn.
Tuy nhiên, để chứng minh được lỗi của bên đối phương thì chủ thể bên kia
phải cung cấp được chứng cứ chứng minh cho Tịa án về những lỗi vi phạm
quyền, nghĩa vụ đó. Những hành vi vi phạm sẽ là một trong những căn cứ
được Tòa án xem xét khi phân chia tài sản. Căn cứ vào mức độ lỗi vi phạm
quyền, nghĩa vụ Tòa án xem xét chia tài sản theo hướng người nào có lỗi, lỗi
nhiều hơn thì sẽ nhận được tài sản ít hơn.
Các yếu tố được nêu trên là những quy định mang tính định tính, do vậy nó
khơng những đòi hỏi Thẩm phán phải nắm vững các quy định của pháp luật
mà còn phải thu thập, kiểm tra kĩ mọi vấn đề liên quan tới tài sản: hoàn cảnh
các bên, cơng sức đóng góp… Cũng như phải có sự hiểu biết đúng đắn, chính
xác và đầy đủ về các tiêu chí này nhằm phân chia tài sản được chính xác,
tránh những sai sót, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp cho các bên.
- Nguyên tắc tài sản chung của vợ chồng được chi bằng hiện vật hoặc
chia theo giá trị được hưởng
Thực tiễn cho thấy phân chia tài sản cho vợ chồng khi ly hôn bao giờ cũng
phức tạp, nguyên tắc này sẽ giúp cho Toà án chủ động hơn trong khi phân
chia nhằm mục đích: chia tài sản không làm mất giá trị sử dụng của tài sản đó.
Để thực hiện tốt ngun tắc này, Tồ án phải chú trọng trong việc ưu tiên chia
bằng hiện vật tương ứng, chỉ khi nào không thể chia bằng hiện vật thì mới tiến
hành chia cho một bên nhận hiện vật và bên này có nghĩa vụ trích chia tương
ứng giá trị bên kia được nhận.
- Nguyên tắc bảo đảm quyền sở hữu tài sản riêng của vợ, chồng

Khoản 4 Điều 59 LHN&GĐ năm 2014 quy định tài sản riêng của vợ,
chồng thuộc quyền sở hữu của người đó, trừ trường hợp tài sản riêng đã nhập
vào tài sản chung. Tuy nhiên, trên thực tế, việc xác định tài sản riêng không
dễ dàng xuất phát từ lời khai của hai bên vợ, chồng không giống nhau.
- Nguyên tắc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của vợ, con chưa thành
niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc khơng có khả năng
lao động và khơng có tài sản để tự ni mình

[13]

Điểm d khoản 4 Điều 7 Thông tư 01/2016/TTLT - TANDTC – VKSNDTC - BTP

17


×