Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

BÁN PHÁ GIÁ AFTA và NGUY cơ bán PHÁ GIÁ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (177.73 KB, 19 trang )

BÁN PHÁ GIÁ AFTA VÀ NGUY CƠ BÁN PHÁ GIÁ
1. Lý thuyết bán phá giá
1.1 Khái niệm bán phá giá
1.1.1 Bán phá giá
Bán phá giá trong thương mại quốc tế có thể được hiểu là hiện tượng xảy
ra khi một loại hàng hoá xuất khẩu từ nước này sang nước khác với mức giá
thấp hơn giá bán của hàng hoá đó tại thị trường nước xuất khẩu.
Vd: nếu 1 sản phẩm của nước A bán tại thị trường nước A với giá X
nhưng lại được xuất khẩu sang nước B với giá Y ( Y<X ) thì sản phẩm đó
được xem là bán phá giá từ nước A sang nước B.
1.1.2 Thuế chống bán phá giá
Thuế chống bán phá giá là biện pháp chống bán phá giá được sử dụng
phổ biến nhất, được áp dụng đối với sản phẩm bị điều tra và bị kết luận là
bán phá giá vào nước nhập khẩu gây thiệt hại cho ngành sản xuất nước đó.
Về bản chất đây là khoản thuế bổ sung (ngoài khoản thuế nhập khẩu
thông thường) đánh vào sản phẩm nước ngoài nhập khẩu là đối tượng của
quyết định áp dụng biện pháp chống bán phá giá.
1.2 Cách tính
Biên độ phá giá (BĐPG) = giá trị thông thường (GTTT) - giá xuất
khẩu (GXK)
Nếu BĐPG > 0 là có phá giá
BĐPG có thể tính bằng trị giá tuyệt đối hoặc theo phần trăm theo công
thức:
BĐPG = (GTTT-GXK)/GXK
1.2.1 Giá trị thông thường là giá bán sản phẩm tương tự tại thị trường
nước xuất khẩu (hoặc giá bán của sản phẩm tương tự từ nước xuất khẩu
sang nước thứ 3).
* Sản phẩm tương tự (sản phẩm tương tự với sản phẩm bị điều tra) gồm:
1
- Sản phẩm giống hệt (có tất cả các đặc tính giống sản phẩm đang bị điều
tra)


- Sản phẩm gần giống (có nhiều đặc điểm gần giống với sản phẩm đang
bị điều tra) , trong trường hợp không có sản phẩm giống hệt.
* Trường hợp không có giá nội địa của SPTT ở nước xuất khẩu do:
- SPTT không được nước xuất khẩu bán trong điều kiện thương mại
thông thường
- Có bán ở nước xuất khẩu nhưng trong điều kiện đặc biệt.
- Số lượng bán ra không đáng kể (< 5% số lượng SPTT bán ở nước nhập
khẩu)
GTTT = giá xuất khẩu SPTT sang nước thứ ba.
GTTT = giá thành sản xuất + chi phí (hành chính, bán hàng, quản lý
chung,…) + lợi nhuận
* Trường hợp SPTT được xuất khẩu từ một nước có nền kinh tế phi thị
trường (giá bán hàng và giá nguyên liệu đầu vào do chính phủ ấn định) thì
các qui tắc trên không được áp dụng để xác định GTTT.
1.2.2 Giá trị xuất khẩu là giá trên hợp đồng giữa nhà xuất khẩu nước
ngoài với nhà nhập khẩu (hoặc giá bán cho người mua độc lập đầu tiên).
GXK = giá mà nhà sản xuất nước ngoài bán SPTT cho nhà nhập khẩu
đầu tiên.
Trường hợp giá bán SPTT không tin cậy được do:
- Giao dịch xuất khẩu được thực hiện trong nội bộ công ty hoặc
- Theo một thỏa thuận đền bù nào đó thì:
GXK = giá mà sản phẩm nhập khẩu được bán lần đầu tiên cho một người
mua độc lập ở nước nhập khẩu.
* SO SÁNH GXK và SPTT
Hiệp định qui định nguyên tắc so sánh như sau:
- So sánh hai giá này trong cùng điều kiện thương mại (cùng xuất xưởng/
bán buôn/ bán lẻ), thường lấy giá ở khâu xuất xưởng.
- Tại cùng một thời điểm hoặc thời điểm càng gần nhau càng tốt.
1. 3 Mục đích bán phá giá
2

(80% nhằm tối đa hoá lợi nhuận,còn lại là nhằm loại bỏ đối thủ cạnh
tranh,chiếm lĩnh thị trường,thâm nhập thị trường mới)
1.3.1 Tối đa hoá lợi nhuận:
Khi doanh nghiệp bán cao hơn chi phí biến đổi là có lãi, bán thấp hơn giá
trong nước ra nước ngoài để tối đa hoá lợi nhuận.
Ví dụ, một công ty sản xuất một triệu bật lửa một năm bằng một nhà máy
duy nhất với chỉ làm ca ban ngày. Giả sử nó định ra giá bật lửa này trong thị
trường nội địa 1 đồng một chiếc và lãi được 0,1 đồng/chiếc. Các biến phí
(bao gồm nguyên vật liệu, lương công nhân, ) là 0,7 đồng/ chiếc và các
định phí (khấu hao nhà máy, trang thiết bị, ) là 0,2 đồng/chiếc. Nếu nhà
máy bán hết 1 triệu bật lửa mỗi năm, lãi 0,1 đồng/chiếc thì rõ ràng đã bù đắp
xong mọi định phí từ doanh thu bán hàng tại thị trường nội địa. Bây giờ,
công ty nảy ra ý tưởng có thể bán thêm bật lửa sang thị trường nước láng
giềng với bất cứ giá nào cao hơn biến phí 0,7 đồng/chiếc và thấp hơn 1 đồng
1/chiếc để kiếm thêm tiền lời.
Bây giờ nhà máy có thể làm thêm ca đêm và sản xuất 0,5 triệu chiếc bật
lửa nữa. Các định phí, theo giả định, đã được trang trải xong từ việc bán 1
triệu chiếc bật lửa đầu tiên. Nếu bán 0,5 triệu bật lửa này sang thị trường
nước láng giềng với giá 0,9 đồng/chiếc thì cũng làm tăng lợi nhuận của công
ty thêm 100.000 đồng. Dĩ nhiên, việc bán sản phẩm ca đêm không ảnh
hưởng tới giá bán của một triệu bật lửa ban đầu. Điều này ít nhiều dẫn đến
việc phân khúc thị trường, nghĩa là phải tìm kiếm một thị trường khác hẳn
với thị trường ca ngày. Mặt khác, công ty phải đảm bảo rằng người mua ở
thị trường mới không dễ gì chuyển hàng ngược lại thị trường thứ nhất (ví dụ
định giá ở thị trường mới sao cho chênh lệch giá không đủ bù đắp chi phí
vận chuyển theo chiều ngược lại). Nếu không, giá bán của thị trướng thứ
nhất sẽ bị ảnh hướng theo chiều hướng giảm giá.
Như vậy, cùng một mặt hàng nhưng doanh nghiệp lại bán ra ở thị trường
nội địa với giá cao hơn khi bán ra thị trường ngoài nước. Điều này đã gây ra
hiện tượng bán phá giá.

Nếu việc bán phá giá này không làm giá ở thị trường nước nhập khẩu
thay đổi (do cạnh tranh hoàn hảo) sẽ không làm ảnh hưởng đến lợi ích của
nước nhập khẩu, và vì thế sẽ không cần thiết có biện pháp chống lại.
Tuy nhiên, nếu việc bán phá giá này xảy ra với một lượng lớn và trong
thời gian dài, làm giảm giá ở thị trường nước nhập khẩu, sẽ gây tác động đến
lợi ích của nước nhập khẩu. Người tiêu dùng ở nước nhập khẩu sẽ được
hưởng lợi từ giá thấp, nhưng ngược lại các nhà sản xuất và công nhân trong
3
ngành công nghiệp đó bị thiệt hại vì lợi nhuận và lương bị giảm. Lợi ích
cuối cùng của nước nhập khẩu phụ thuộc vào việc lợi ích của người tiêu
dùng có lớn hơn lợi ích của người sản xuất và công nhân làm việc trong
ngành đó hay không, thì điều này ít được các nhà hoạch định chính sách
nhắc đến bởi vì việc xác định lợi ích của toàn xã hội rất phức tạp và rất tốn
kém. Do đó, các nhà hoạch định chính sách trong thương mại quốc tế chỉ
quan tâm đến có hay không có việc bán phá giá để có biện pháp đối phó mà
thôi.
1.3.2 Chiếm lĩnh thị trường:
Thông thường, chi phí sản xuất được chia làm 2 loại: (chi phí bình quân
và chi phí biên_ marginal cost)
Chi phí bình quân được tính bằng tổng tất cả các chi phí của một doanh
nghiệp phải chịu chia cho lượng sản phẩm sản xuất ra.
Chi phí cận biên là chi phí phải bỏ ra để sản xuất thêm một đơn vị sản
phẩm. Sự phân biệt này có ý nghĩa quan trọng trong ngắn hạn khi nhiều loại
chi phí sản xuất là cố định, không phụ thuộc vào số lượng sản xuất, chỉ có
một phần nhỏ chi phí sản xuất là thay đổi khi lượng sản xuất thay đổi. Chính
chi phí biên là nhân tố quyết định trong việc định giá của một doanh nghiệp
trong thời gian ngắn hạn khi doanh nghiệp đó phải gánh chịu chi phí nhất
định để thâm nhập một thị trường mới.
Khi nhu cầu thị trường bị giảm, kéo theo giá cả của hàng hóa trên thị
trường giảm theo và khi đó, các doanh nghiệp phải giảm giá bán. Nếu giá

bán thấp hơn chi phí bình quân thì doanh nghiệp sẽ bị lỗ. Tuy nhiên, một
phần chi phí là cố định (chi phí cố định) không phụ thuộc vào mức chi phí
biên. Nếu giá bán vẫn cao hơn chi phí biên, thì doanh nghiệp vẫn tiếp tục
bán với hy vọng sau một thời gian ngắn thì thị trường sẽ phục hồi, hoặc chỉ
để giảm thiệt hại trước khi rút lui khỏi thị trường đó. Đây là sự phản ứng rất
bình thường của các doanh nghiệp đối với sự thay đổi của thị trường, kể các
các doanh nghiệp trong nước hay nước ngoài.
Trong trường hợp này, việc áp dụng một biện pháp chống hàng nhập
khẩu là bất hợp lý vì như vậy sẽ đối xử không công bằng giữa doanh nghiệp
trong nước và doanh nghiệp nước ngoài. Tuy nhiên, một nước vẫn có thể áp
dụng các chính sách hỗ trợ các doanh nghiệp trong nước để giúp cho các
doanh nghiệp này giảm nhẹ thiệt hại.
Tuy nhiên, nếu một doanh nghiệp nước ngoài muốn thiết lập vị thế độc
quyền ở thị trường của một nước nào đó, đã thực hiện chính sách bán sản
phẩm của mình với giá thấp hơn chi phí biên cho đến khi đẩy hết các đối thủ
4
cạnh tranh ra khỏi thị trường đối với một mặt hàng nào đó. Sau khi chiếm
được thị trường, doanh nghiệp đó lại nâng giá để khai thác lợi thế độc
quyền. Ngoài tác động làm cho các nhà sản xuất trong nước bị phá sản, hành
động này còn làm giảm lợi ích của toàn xã hội như trong trường hợp độc
quyền khác. Hành động này được xem là bán phá giá và cần phải có những
biện pháp ngăn chặn.
1.3.3 Một số mục đích khác:
- Nhằm mục đích tranh thủ tối đa nguồn ngoại tệ bằng mọi cách hạ giá
bán xuất khẩu
- Mục đích chính trị, loại trừ những đối thủ sản xuất cạnh tranh trong
nước nhập khẩu hay những đối thủ nước ngoài để đi đến chiếm độc quyền
và kiểm soát nền kinh tế và từ đó chi phối nền chính trị của nước khác.
1.4 Ảnh hưởng của bán phá giá
- Năng suất: khi hàng hóa tràn vào, với việc bán phá giá thì sản phẩm của

nước nội địa sẽ rất khó cạnh tranh với những sản phẩm tương tự như vậy
nhưng giá lại rẻ hơn nên năng suất sản xuất sẽ giảm xuống.
- Giá nội địa ở nước nhập khẩu: sẽ phải cạnh tranh với hàng hóa nhập
khẩu. Nếu giảm giá xuống mà không bù đắp được chi phí thì sẽ bị phá sản.
- Suy giảm thực tế và nguy cơ suy giảm doanh số bán hàng
- Số lượng hàng tồn kho
- Sản lượng
- Tình trạng thất nghiệp
- Lương
- Tác động tiêu cực đến luồng tiền
- Huy động năng lực
- Lợi nhuận
- Tỷ lệ thu hồi vốn đầu tư
- Đầu tư
- Khả năng huy động vốn
- Tốc độ tăng trưởng
1.5 Mục đích của thuế chống phá giá
5
- Giảm nhập khẩu bằng cách làm cho chúng trở nên đắt hơn so với các
mặt hàng thay thế có trong nước và điều này làm giảm thâm hụt trong cán
cân thương mại.
- Chống lại các hành vi phá giá bằng cách tăng giá hàng nhập khẩu của
mặt hàng phá giá lên tới mức giá chung của thị trường.
- Trả đũa trước các hành vi dựng hàng rào thuế quan do quốc gia khác
đánh thuế đối với hàng hóa xuất khẩu của mình, nhất là trong các cuộc chiến
tranh thương mại.
- Bảo hộ cho các lĩnh vực sản xuất then chốt, các ngành công nghiệp non
trẻ cho đến khi chúng đủ vững mạnh để có thể cạnh tranh sòng phẳng trên
thị trường quốc tế. Chẳng hạn nông nghiệp giống như các chính sách về thuế
quan của Liên minh châu Âu đã thực hiện trong Chính sách nông nghiệp

chung của họ.
2 Hội nhập AFTA và nguy cơ bán phá giá:
2.1 Sơ lược về AFTA:
AFTA là tên viết tắt tiếng Anh của Khu vực thương mại tự do ASEAN
(ASEAN Free Trade Area).
Quyết định thành lập Khu vực thương mại tự do này được đưa ra tại Hội
nghị Thượng đỉnh ASEAN lần thứ 4, tổ chức vào tháng 1/1992 tại
Singapore. Theo kế hoạch ban đầu, AFTA được hoàn thành vào năm 2008
với mục đích cơ bản là "tăng cường khả năng cạnh tranh của ASEAN như
một cơ sở quốc tế nhằm cung cấp hàng hóa ra thị trường thế giới". Tuy
nhiên, trước sự phát triển và cạnh tranh mạnh mẽ của các liên kết kinh tế
toàn cầu khác, cũng như do sự tiến bộ của chính các quốc gia ASEAN, năm
1994, khối này quyết định đẩy nhanh thời hạn lên năm 2003.
Sau đó, từ năm 1995 đến 1998, ASEAN kết nạp thêm 4 nước thành viên
mới là Việt Nam, Lào, Campuchia và Myanmar.
2.1.1 CEPT:
Cơ chế chính để thực hiện AFTA là Hiệp định thuế quan ưu đãi có hiệu
lực chung (Common Effective Preferential Tariff - CEPT). Về thực chất,
CEPT là một thỏa thuận giữa các nước thành viên ASEAN về việc giảm
thuế quan trong nội bộ khối xuống còn 0-5% thông qua những kế hoạch
giảm thuế khác nhau. Trong vòng 5 năm sau khi đạt mức thuế ưu đãi cuối
cùng, các nước thành viên sẽ tiến hành xóa bỏ các hạn ngạch nhập khẩu và
những hàng rào phi quan thuế khác.
6
Thời hạn thực hiện CEPT của các nước có khác nhau. Cụ thể là:
Với Brunei, Indonesia, Philippines, Singapore, Thái Lan: từ 1993 đến
2003.
Với Việt Nam: từ 1996 đến 2006
Với Lào, Myanmar và Campuchia: từ 1998 đến 2008.
Để thực hiện dần dần việc cắt giảm thuế quan, mỗi nước sẽ phải phân

loại tất cả hàng hóa của mình vào một trong các danh mục sau:
- Danh mục sản phẩm cắt giảm thuế ngay (IL – Inclusion List): bao gồm
những mặt hàng sẽ được cắt giảm thuế quan để đến khi hoàn thành CEPT sẽ
có thuế suất 0-5%. Các sản phẩm được cắt giảm thuế quan với lịch trình
thống nhất và phân bổ theo hai lộ trình: lộ trình cắt giảm bình thường
(normal track) và lộ trình cắt giảm nhanh (fast track).
+ Lộ trình cắt giảm bình thường được thực hiện như sau: Đối với các sản
phẩm có thuế suất trên 20% sẽ được giảm xuống 20% vào thời điểm 1/1/98
và tiếp tục giảm xuống 0-5% vào thời điểm 1/1/2003. Đối với các sản phẩm
có thuế suất bằng hoặc thấp hơn 20% sẽ được giảm xuống mức 0-5% vào
thời điểm 1/1/2000.
+ Lộ trình cắt giảm nhanh thực hiện như sau: Đối với các sản phẩm có
thuế suất trên 20% sẽ được giảm xuống 0-5% vào thời điểm 1/1/2000. Đối
với các sản phẩm có thuế suất bằng hoặc thấp hơn 20% sẽ được giảm xuống
mức 0-5% vào thời điểm 1/1/1998.
- Danh mục loại trừ tạm thời (TEL) bao gồm những mặt hàng chưa đưa
vào giảm thuế quan ngay, do các nước thành viên ASEAN phải dành thêm
thời gian để điều chỉnh sản xuất trong nước thích nghi với môi trường cạnh
tranh quốc tế gia tăng. Sau ba năm kể từ khi tham gia CEPT, các nước
ASEAN phải bắt đầu chuyển dần các mặt hàng từ TEL sang IL, tức là bắt
đầu giảm thuế quan đối với những mặt hàng này. Quá trình chuyển từ TEL
sang IL được phép kéo dài trong 5 năm, mỗi năm phải chuyển được 20% số
mặt hàng. Điều đó có nghĩa là đến hết năm thứ tám thì IL đã mở rộng bao
trùm toàn bộ TEL, và TEL không còn tồn tại.
Khi đưa mỗi mặt hàng vào IL, các nước đồng thời phải chỉ ra lịch trình
giảm thuế quan của mặt hàng đó cho đến khi hoàn thành CEPT.
- Danh mục loại trừ hoàn toàn (GEL) bao gồm những mặt hàng không có
nghĩa vụ phải giảm thuế quan. Các nước thành viên ASEAN có quyền đưa
ra danh mục các mặt hàng này nhằm bảo vệ an ninh quốc gia, đạo đức xã
hội, bảo vệ sức khỏe con người, động thực vật; bảo tồn các giá trị văn hóa,

7
lịch sử, khảo cổ GEL không phải là Danh mục các mặt hàng Chính phủ
cấm nhập khẩu (NK). Một số mặt hàng có trong GEL vẫn được NK bình
thường, nhưng không hưởng thuế suất ưu đãi như các mặt hàng trong danh
mục giảm thuế.
- Danh mục sản phẩm nông sản chưa chế biến nhạy cảm (Sensitive List)
Các quy định cụ thể về lịch trình cắt giảm thuế quan cho các sản phẩm
nhạy cảm cho đến nay vẫn đang trong quá trình thoả thuận. Tuy nhiên, đối
với các sản phẩm trong danh mục nhạy cảm, thời điểm bắt đầu thực hiện cắt
giảm đã được xác định là 1/1/2001 và kết thúc vào năm 2010 với mức thuế
suất phải đạt 0-5%. Đối với các sản phẩm trong danh mục nhạy cảm cao,
thời hạn kết thúc đã được xác định là năm 2010, tuy nhiên sẽ có một số linh
hoạt nhất định sẽ được áp dụng liên quan đến mức thuế suất kết thúc, các
biện pháp tự vệ phòng ngừa bất trắc….
2.1.2 Cơ chế trao đổi nhượng bộ của kế hoạch CEPT
Một sản phẩm khi xuất khẩu sang các nước trong nội bộ ASEAN, muốn
được hưởng chế độ thuế quan ưu đãi theo chương trình CEPT, thì phải đồng
thời thoả mãn các điều kiện sau:
- Sản phẩm đó phải nằm trong Danh mục cắt giảm thuế của các nước
xuất khẩu và nhập khẩu.
- Sản phẩm đó phải có chương trình giảm thuế được Hội đồng AFTA
thông qua.
- Sản phẩm đó phải là một sản phẩm của khối ASEAN, tức là phải thoả
mãn yêu cầu hàm lượng xuất xứ từ các nước thành viên ASEAN (hàm lượng
nội địa) ít nhất là 40%.
Để xây dựng thành công khu mậu dịch tự do Chương trình CEPT còn đề
cập đến việc loại bỏ hạn chế về số lượng nhập khẩu và các hàng rào phi thuế
quan khác. Về vấn đề này Hiệp định CEPT đã quy định:
- Các nước thành viên sẽ xoá bỏ tất cả các hạn chế về số lượng đối với
các sản phẩm trong CEPT ngay khi sản phẩm đó được hưởng thuế suất ưu

đãi ở mức 0-5%.
- Các hàng rào phi thuế quan khác sẽ được xoá bỏ dần dần trong vòng 5
năm sau khi sản phẩm được hưởng ưu đãi.
- Trong trường hợp khẩn cấp (số lượng hàng nhập khẩu gia tăng đột ngột
hay phương hại đến sản xuất trong nước hoặc đe dọa cán cân thanh toán),
các nước có thể áp dụng các biện pháp phòng ngừa để hạn chế hoặc dừng
việc nhập khẩu.
8
Ngoài cơ chế này, các nước ASEAN còn ký kết hàng loạt các thỏa thuận
về thống nhất và công nhận tiêu chuẩn hàng hóa giữa các nước thành viên,
công nhận việc cấp giấy xác nhận xuất xứ hàng hóa của nhau, tăng cường
hợp tác trong lĩnh vực hải quan, bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, phát triển công
nghiệp và xây dựng Khu vực đầu tư ASEAN (ASEAN Investment Area -
AIA).
2.2 Quá trình tham gia của Việt Nam
Ngày 28/7/1995, Việt Nam chính thức trở thành thành viên thứ 7 của
ASEAN và cam kết tham gia AFTA. Thời hạn hoàn thành AFTA của Việt
Nam năm 2006. Việt Nam bắt đầu thực hiện lộ trình giảm thuế quan tham
gia AFTA từ ngày 1/1/1996, khi đưa 875 mặt hàng đầu tiên vào thực hiện
CEPT. Tất cả những mặt hàng này đều đã nằm ở khung thuế suất 0-5%.
Đầu năm 1998, Việt Nam công bố lịch trình giảm thuế để thực hiện
AFTA vào năm 2006. Trên thực tế thì đến cuối năm 2002, 5.500 mặt hàng
(chiếm khoảng 86% tổng số mặt hàng trong biểu thuế nhập khẩu) đã được
vào chương trình cắt giảm. Toàn bộ các mặt hàng này đã ở thuế suất dưới
20% và có lộ trình cắt giảm trong thời kỳ 2002-2006. Trong số đó, 65% đã ở
mức thuế 0-5%.
Chương trình cắt giảm thuế quan của Việt Nam được xây dựng dựa trên
những nguyên tắc chính sau:
- Không gây ảnh hưởng lớn đến nguồn thu ngân sách.
- Bảo hộ hợp lý cho nền sản xuất trong nước.

- Tạo điều kiện khuyến khích việc chuyển giao kỹ thuật, đổi mới công
nghệ cho nền sản xuất trong nước.
- Hợp tác với các nước ASEAN trên cơ sở các quy định của Hiệp định
CEPT để tranh thủ ưu đãi, mở rộng thị trường cho xuất khẩu và thu hút đầu
tư nước ngoài.
2.2.1 Xây dựng chương trình cắt giảm thuế quan
Dựa theo 4 nguyên tắc nêu trên, tại thời điểm gia nhập, Việt Nam đã đệ
trình 4 danh mục hàng hoá theo quy định của Hiệp định CEPT như sau:
- Danh mục cắt giảm thuế (IL): Danh mục này chủ yếu bao gồm các mặt
hàng hiện đang có thuế suất dưới 20%, tức là các mặt hàng thuộc diện có thể
áp dụng ưu đãi ngay theo Hiệp định CEPT. Ngoài ra trong danh mục này
còn bao gồm một số mặt hàng hiện có thuế suất cao nhưng Việt Nam đang
9
có thế mạnh xuất khẩu, do vậy việc đưa các mặt hàng này vào danh mục
giảm thuế sẽ không gây ảnh hưởng nhiều đến nguồn thu ngân sách, ngược
lại nó sẽ kích thích đẩy mạnh xuất khẩu thông qua việc được hưởng thuế ưu
đãi theo CEPT, khi hàng Việt Nam xuất qua các nước thành viên.
- Danh mục loại trừ tạm thời (TEL): Danh mục này được xây dựng theo
quy định của CEPT và quy hoạch phát triển đến năm 2010 của các ngành
kinh tế trong nước, nhằm bảo hộ một số ngành đang có tiềm năng phát triển,
đồng thời không gây ảnh hưởng lớn đến nguồn thu ngân sách. Danh mục
này chủ yếu gồm các mặt hàng có thuế suất trên 20% và một số mặt hàng có
thuế suất thấp hơn 20% song cần được bảo hộ như: các loại xe máy, ô tô (trừ
loại ô tô dưới 16 chỗ ngồi đã nằm trong danh mục loại trừ hoàn toàn), các
loại sắt thép, sản phẩm cơ khí thông dụng, các loại mỹ phẩm và đồ dùng
không thiết yếu…
- Danh mục loại trừ hoàn toàn (GEL): bao gồm những mặt hàng có ảnh
hưởng đến: an ninh quốc gia, sức khỏe con người, giá trị đạo đức, lịch sử,
nghệ thuật, khảo cổ… theo như quy định của Hội đồng AFTA. Ngoài ra Việt
Nam còn đưa vào danh mục loại trừ hoàn toàn một số mặt hàng mà hiện Việt

Nam đang phải nhập từ các nước ASEAN song lại không có khả năng xuất
khẩu, hoặc một số mặt hàng hiện đang có thuế suất cao trong biểu thuế nhập
khẩu như: ô tô dưới 16 chỗ ngồi, ô tô tay lái nghịch, chất phế thải, các loại
xăng dầu (trừ dầu thô Việt Nam đang xuất khẩu), đồ dùng đã qua sử dụng…
- Danh mục nông sản chưa chế biến nhạy cảm (SL): bao gồm các mặt
hàng nông sản chưa chế biến có yêu cầu bảo hộ cao như: các loại thịt, trứng,
gia cầm, động vật sống, thóc, gạo lức, đường, mía… các mặt hàng này hiện
đang được áp dụng các biện pháp phi thuế quan như quản lý theo hạn ngạch,
quản lý của Bộ chuyên ngành….
2.2.2 Thực hiện giảm thuế
Dựa theo sự phân loại danh mục hàng hoá như trên, tiến trình cắt giảm
thuế của Việt Nam đã được tiến hành như sau: Trong hai năm đầu 1996,
1997 Việt Nam chưa thực hiện việc cắt giảm thuế mà chỉ đưa 875 danh mục
các mặt hàng đã có thuế nhập khẩu từ 0-5% vào danh sách giảm thuế, đáp
ứng một cách tự nhiên yêu cầu giảm thuế nhanh của Hiệp định CEPT, còn
chương trình giảm thuế bình thường chỉ được bắt đầu thực hiện kể từ
1/1/1998. Các bước đi thận trọng này giúp cho Việt Nam có thêm thời gian
cải tiến hệ thống thuế nội địa nhằm đảm bảo nguồn thu ngân sách và góp
phần bảo hộ các nền kinh tế còn non trẻ của chúng ta.
Như vậy, từ năm 1998 Việt Nam mới thực hiện những bước cắt giảm
thuế đầu tiên theo Nghị định 15/1998/NĐ-CP ngày 12/3/1998. Theo Nghị
10
định này trong năm 1998 chúng ta đã đưa thêm 1161 mặt hàng vào danh
mục giảm thuế. Sang năm 1999 theo Nghị định 14/1999/NĐ-CP ngày
23/3/1999 Việt Nam đã nâng danh mục các mặt hàng giảm thuế lên đến
3590 mặt hàng.
Và trong năm 2000, Chính phủ đã ban hành Nghị định 09/2000/NĐ-CP
ngày /4/2000 về danh mục các mặt hàng giảm thuế theo chương trình CEPT.
Theo nghị định này, trong năm 2000, Nhà nước Việt Nam đưa thêm 640
dòng thuế từ danh mục các mặt hàng loại trừ tạm thời sang danh mục giảm

thuế, như vậy sẽ có 4230/6200 dòng thuế trong biểu thuế nhập khẩu được
đưa vào danh mục cắt giảm thuế. Trong tổng 4230 dòng thuế thực hiện theo
chương trình CEPT của năm 2000 này, có khoảng 2960 dòng thuế có mức
thuế suất từ 0-5% (trong đó có khoảng 1690 dòng thuế có thuế suất 0%), còn
lại 1270 dòng thuế có mức thuế suất 5-50%. Như vậy, đa số các mặt hàng
trong danh mục giảm thuế năm 2000 là các mặt hàng có thuế suất dưới 20%,
chỉ có một số ít là có thuế suất trên 20%. Những mặt hàng có thuế suất dưới
20% là những mặt hàng hoặc không có nhiều trong quan hệ ngoại thương
của Việt Nam hoặc là các mặt hàng mà Việt Nam đang có thế mạnh xuất
khẩu. Các mặt hàng cần bảo hộ như sắt thép, phân bón, giấy, kính xây dựng,
ô tô, xe gắn máy, đường… vẫn còn được để trong danh mục TEL, GEL.
Tính đến tháng 5-2-2002, Việt Nam đã đưa vào diện cắt giảm 5.500 mặt
hàng, nghĩa là gần 90% tổng số các mặt hàng mà Việt Nam cam kết cắt giảm
thuế nhập khẩu đã được cắt giảm, với mức thuế suất từ 0 đến 20%, trong đó
có khoảng 2/3 có mức thuế suất từ 0 đến 5%. Đến năm 2003, Việt Nam sẽ
đưa gần 80 mặt hàng còn lại (chủ yếu là những mặt hàng thuộc nhóm có
mức bảo hộ cao) vào diện cắt giảm, với mức thuế suất chỉ bằng hoặc thấp
hơn 20%.
Theo đúng lộ trình thì việc cắt giảm thuế tham gia AFTA đã được áp
dụng chính thức tại Việt Nam từ ngày 1/1/2003. Tuy nhiên, ngày 10/1/2003,
Bộ Tài chính đã thông báo việc cắt giảm đó sẽ được thực hiện lùi lại 7 tháng,
vào ngày 1/7.
Đến ngày 1/7/2003, 1.416 mặt hàng thuộc TEL được chuyển sang IL. Đa
số đó là những mặt hàng hiện đang được bảo hộ với mức thuế suất rất cao
(30-100%), hoặc đang được quản lý bằng hạn ngạch như xi măng, giấy,
hàng điện tử, điện gia dụng, cơ khí, vật liệu xây dựng
Vào giữa năm 2004, Việt Nam đã đưa hơn 10.000 dòng thuế (chiếm
khoảng 95% tổng số các dòng thuế) vào danh mục các mặt hàng sẽ được cắt
giảm thuế (IL), trong đó gần 7.500 dòng thuế đã được cắt giảm xuống dưới
5%.

11
Năm 1997 1998 1999 2000 2002 2003 2004 2006
Số dòng thuế
cắt giảm
875 2036 3590 4230 5500 6914 >10000 10150
12/6/2008, BTC công bố biểu thuế quan ưu đãi CEPT giai đoạn 2008-
2013. Trong đó, thuế suất chủ yếu là 0-5%. Một số mặt hàng có thuế suất
cao: thịt và các sản phẩm từ thịt gia súc, gia cầm, lúa gạo, mía đường, ô tô,

2.2.3 Áp dụng các biện pháp phi thuế quan
Bên cạnh việc cắt giảm hàng rào thuế quan Việt Nam cũng đã chuẩn bị
tiến tới việc cắt giảm hàng rào phi thuế quan theo quy định của CEPT, vì
rằng việc mở cửa thị trường sẽ không có ý nghĩa nếu như hàng rào thuế quan
được cắt giảm song hệ thống phi thuế quan vẫn được duy trì. Cụ thể một mặt
hàng dù được cam kết giảm thuế từ 100% xuống 0% vẫn không thể kinh
doanh được nếu như nó bị áp đặt cấm nhập khẩu.
Hiện Việt Nam đang áp dụng các biện pháp phi thuế như: hạn ngạch,
giấy phép, phụ thu nhằm bảo hộ thị trường nội địa. Các biện pháp này
không đạt hiệu quả cao như một số các biện pháp khác mà các nước thường
sử dụng như: sử dụng các quy định về tiêu chuẩn vệ sinh, bao bì, về mức độ
gây ô nhiễn môi trường cho phép… Do vậy, việc dỡ bỏ hàng rào phi thuế
quan là rất phức tạp và chỉ có thể thực hiện thông qua việc hài hoà hoá hoặc
áp dụng các tiêu chuẩn quốc tế chung hay công nhận các tiêu chuẩn của
nhau. Hiện Việt Nam đang cùng các nước thành viên ASEAN khác tiến
hành hài hoà hóa các biện pháp phi thuế quan nhất là các biện pháp mang
tính kỹ thuật và quản lý chất lượng.
Tóm lại, từ khi gia nhập ASEAN, Việt Nam đã thực hiện được những
bước đi quan trọng vừa đảm bảo tính thận trọng, tránh được sự xáo trộn lớn
trong hoạt động và điều hành nền kinh tế, vừa nhanh chóng kịp thời thực
hiện lịch trình tham gia AFTA theo Hiệp định CEPT nhằm đảm bảo tham

gia hội nhập một cách có hiệu quả.
2.3 Một số biểu hiện của bán phá giá và phản ứng của VN:
Thực hiện lộ trình tham gia Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA)
Việt Nam đã cắt giảm thuế cho 21 nhóm mặt hàng từ mức 40-60% xuống
còn 0-5%. Lợi dụng chính sách này nhiều DN đã biến nguồn gốc xuất xứ
của những mặt hàng có giá trị cao từ những nước nằm ngoài ASEAN thành
12
sản phẩm của Thái Lan hoặc Lào, Campuchia (các nước thành viên
ASEAN) nhằm trốn thuế.
* Một số container điện thoại di động có xuất xứ từ Trung Quốc lưu lại
biên giới khu kinh tế mở Mộc Bài, Tây Ninh để chờ cơ hội đưa hàng lậu vào
VN. Còn tại các cửa khẩu Hà Tĩnh, nhiều hàng hóa gắn mác Lào để hưởng
ưu đãi miễn giảm thuế nhập khẩu cũng gia tăng.
Gian lận thương mại tăng là do chính sách ưu đãi hải quan AFTA/CEPT:
những quy định mới về hoạt động khu kinh tế mở, siêu thị miễn thuế ở biên
giới đang bị lợi dụng.
Tại siêu thị miễn thuế Mộc Bài (Tây Ninh) phần lớn rượu ngoại được bày
bán là hàng có nguồn gốc từ Campuchia, có giá rẻ hơn giá thị trường vì được
ưu đãi và miễn thuế. Do vậy, thời gian qua đã có hiện tượng tiểu thương tại
TP.HCM kéo xuống đây mua hàng với số lượng lớn để kinh doanh lại. Chỉ
trong vòng 4 tháng siêu thị Mộc Bài đã bán được hơn 110 ngàn chai rượu trị
giá khoảng 22 tỷ đồng.
Hàng hóa qua các cửa khẩu tỉnh này chủ yếu là gỗ và hàng điện tử, gia
dụng từ Lào. Do quy chế riêng, 1 số sản phẩm có xuất xứ từ Lào ngoài việc
được áp dụng miễn thuế nhập khẩu 5% theo quy chế AFTA còn được hưởng
ưu đãi theo một nửa mức thuế suất AFTA nữa. Như vậy, hàng hóa Lào được
giảm thuế nhập khẩu còn 2.5%. Do đó, nhiều hàng hóa từ các nước khác,
nhất là những ngoài ASEAN, đi đường vòng sang Lào và từ đây mang danh
liên doanh sản phẩm với Lào để đi vào VN bằng mức thuế rẻ. Trước đây,
cũng đã từng có các trường hợp hàng Trung Quốc đi bằng con đường này và

bị phát hiện. Đã phát hiện nhiều trường hợp điện thoại di động Trung Quốc
gắn mác Campuchia được khách du lịch xách tay qua cửa khẩu biên giới.
Tại các tỉnh miền Trung, người tiêu dùng rất dễ mua các sản phẩm điện
tử, hàng gia dụng của Trung Quốc dán nhãn Lào với giá rẻ chỉ bằng 1/3-1/4
hàng chính hãng.
Để ngăn chặn việc mua gom hàng miễn thuế, tuồn hàng vào sâu trong nội
địa, hải quan tỉnh sẽ sử dụng thẻ từ cho khách đi vào cổng cả ở khu chợ
đường biên và siêu thị miễn thuế. Khách chỉ có thể mua tối đa 500.000 ngàn
đồng hàng miễn thuế trong ngày bất kể là mua ở chợ đường biên hay trong
siêu thị. Nếu hải quan phát hiện những trường hợp người mua hàng miễn
thuế đến 2 lần tại chợ đường biên rồi lại vào siêu thị gom hàng tiếp tục thì
những trường hợp này sẽ bị truy thu thuế và nếu tái phạm sẽ bị phạt.
* Gian lận trong sử dụng C/O Form D là một hình thức gian lận thương
mại khác tại VN. Bộ Thương mại VN đã tổ chức đoàn kiểm tra liên ngành
13
đến kiểm tra tại cửa khẩu Cầu Treo (Hà Tĩnh) và phát hiện đã có 23 lô hàng
nhập khẩu tại cửa khẩu Cầu Treo sử dụng C/O Form D (Giấy chứng nhận
xuất xứ Mẫu D) với chứng nhận 100% giá trị sản phẩm Thái Lan, được
hưởng mức thuế nhập khẩu ưu đãi theo AFTA. Hàng hóa gồm nhiều chủng
loại như tivi, tủ lạnh, nồi cơm điện, lò vi sóng…
Tuy là hàng “made in Thái Lan” 100% nhưng các lô hàng này đều mang
các nhãn hiệu Nhật như Sony, Panasonic, Hitachi, Sharp chỉ tính riêng
phần tivi đã lên đến gần 730 ngàn USD, tương đương 11,9 tỷ đồng. Trong
đó tivi nhãn hiệu Sony chiếm khoảng 557 ngàn USD (khoảng 8,9 tỷ đồng).
Theo Công ty điện tử Sony VN, các sản phẩm điện tử của Sony sản xuất
tại Thái Lan không thể đạt được mức nội địa hóa 100% nên công ty đã kiểm
chứng lại với Công ty Sony Technology Thailand và kết luận: Sản phẩm của
Sony sản xuất tại Thái Lan không đạt được mức 100% giá trị sản phẩm Thái
Lan. Nếu hàng nhập khẩu có C/O Form D chứng nhận điều này thì đó là C/O
Form D giả hoặc nơi cấp đã làm sai nghiêm trọng.

Theo kết luận của Bộ Thương mại, các C/O Form D được sử dụng để
nhập tivi Sony và tủ lạnh Mitsubishi vào VN là do cơ quan có thẩm quyền
của Thái Lan cấp, việc cấp C/O này không đúng với pháp luật của Thái Lan.
Như vậy, ở mức thẩm quyền của VN, Hải quan VN chỉ có thể truy thu
thuế các mặt hàng đã nhập khẩu trên (không được hưởng ưu đãi thuế quan
theo quy định của AFTA (phải nộp thuế nhập khẩu 50%).
* Chính quyền TPHCM kết hợp với các DN đang xem xét kiện bán phá
giá một số mặt hàng nhập khẩu vào Việt Nam để bảo vệ những doanh
nghiệp trong nước. Cụ thể là mặt hàng may mặc của Trung Quốc đang được
bán ở thị trường Việt Nam với giá rất thấp, ví dụ như 25.000 – 30.000 đồng
một chiếc áo sơ mi. Hay Hiệp hội thép VN cho biết từ cuối tháng 8/2006,
các nhà sản xuất trong nước gặp nhiều khó khăn bởi thép Trung Quốc nhập
khẩu vào VN có giá bằng với phôi.
Thứ nhất, chúng ta không có bằng chứng cho thấy hàng may mặc của
Trung Quốc bán trên trị trường Trung Quốc với giá thấp hơn giá xuất sang
Việt Nam.
Bằng chứng thứ hai của hành động bán phá giá là căn cứ vào giá bán cao
nhất của sản phẩm sang một nước thứ ba, hay chi phí sản xuất của DN tại
nước xuất khẩu cộng thêm chi phí bán hàng và lợi nhuận nhất định. Đây là
trường hợp mà Mỹ đã áp dụng trong vụ kiện cá basa của VN bán phá giá vào
thị trường Mỹ. Tuy nhiên, để tìm được chi phí sản xuất hợp lý của DN
14
Trung Quốc cũng hoàn toàn không đơn giản. Nhất là, các mặt hàng vào Việt
Nam thường theo con đường tiểu ngạch hay thậm chí buôn lậu.
Một bằng chứng khác để kiện bán phá giá là việc chính phủ trợ cấp cho
DN sản xuất hàng xuất khẩu. Phía Mỹ cùng một số nước khác đã cố gắng
tìm bằng chứng này trong các vụ kiện bán phá giá đối với VN nhưng đều
thất bại. Trên thực tế rất khó tìm được bằng chứng này, và dù việc trợ giá là
có thật thì ngày nay người ta cũng đủ khéo léo để giấu dưới những hình thức
mà bên nguyên không thể buộc lỗi.


3. Giải pháp
3.1 Sự cần thiết phải có biện pháp chống bán phá giá tại Việt Nam
Sau khi khai thông quan hệ với các tổ chức tài chính tiền tệ quốc tế như
IMF, WB năm 1992, ngày 25/7/1995, Việt Nam đã trở thành thành viên
chính thức của Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) và ký Nghị
định thư tham gia Hiệp định CEPT/AFTA, từ 1/1/1996 đã bắt đầu thi hành
nghĩa vụ thành viên AFTA. Việt Nam cũng là một trong số 25 thành viên
sáng lập Diễn đàn Hợp tác Á - Âu (ASEM) vào tháng 3/1996, và tham gia
Diễn đàn Hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình dương (APEC) từ tháng
11/1998. Việt Nam chính thức là thành viên thứ 150 của WTO trong năm
2006.
Việt Nam đã cắt giảm hàng ngàn dòng thuế nhập khẩu. Việc cắt giảm
thuế nhập khẩu theo các cam kết góp phần làm giảm chi phí nguyên liệu đầu
vào của nhiều ngành sản xuất. Từ đó, giúp hạ giá thành sản phẩm trong nước
và nâng cao sức cạnh tranh. Tuy nhiên, việc cắt giảm thuế cũng tạo cơ sở
cho việc bán phá giá hàng hóa vào thị trường trong nước.
Đánh giá sơ bộ của Bộ Tài chính về tác động của các cam kết WTO đối
với các ngành hành sản xuất trong nước cho thấy, hầu hết các ngành hàng
được khảo sát đều phải giảm bảo hộ bằng cách giảm thuế; có rất ít các ngành
hàng được giữ nguyên mức bảo hộ về thuế. Tính trung bình, mức bảo hộ
bằng thuế hiện nay là 30,4% sẽ phải giảm xuống còn 15,3%. Một mức cắt
giảm khá mạnh. Như vậy nguy cơ bị bán phá giá hàng hóa vào trong nước là
một nguy cơ hiện hữu trước mắt.
3.2 Pháp lệnh thuế chống bán phá giá:
Từ 1998, trong Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thuế xuất
khẩu, thuế nhập khẩu số 04/1998/QH10 ngày 20/5/1998 điều 9 cho phép áp
dụng thuế bổ sung đối với hàng nhập khẩu bị bán phá giá vào Việt Nam.
15
Quyết định số 46/2001/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 4/4/2001

cũng qui định việc xây dựng nguyên tắc áp dụng thuế chống bán phá giá
trong năm 2001.
Năm 2002, Quốc hội ban hành Pháp lệnh về tự vệ trong nhập khẩu hàng
hóa nước ngoài vào Việt Nam. Tháng 4/2004 là Pháp lệnh chống bán phá
giá hàng nhập khẩu vào Việt Nam, và Pháp lệnh về chống trợ cấp hàng hóa
nhập khẩu vào Việt Nam tháng 8/2004.
3.2.1 Các quy định chung:
- Thuế chống bán phá giá là thuế nhập khẩu bổ sung được áp dụng trong
trường hợp hàng hóa bị bán phá giá nhập khẩu vào Việt Nam gây ra hoặc đe
dọa gây ra thiệt hại đáng kể cho ngành sản xuất trong nước.
- Xác định hàng hóa bị bán phá giá nhập khẩu vào Việt Nam
+ Biên độ bán phá giá ( khoảng chênh lệch giữa giá thông thường của
hàng hóa đó so với giá xuất khẩu vào Việt Nam) vượt quá 2% giá xuất khẩu
hàng hóa vào Việt Nam.
+ Khối lượng, số lượng hoặc trị giá hàng hóa bán phá giá nhập khẩu vào
Việt Nam vượt quá giới hạn cho 1 nước là 3%, và cho nhóm nước là 7% tổng
khối lượng, số lượng hoặc trị giá hàng hóa tương tự nhập khẩu vào Việt
Nam
3.2.2 Điều tra áp dụng biện pháp chống bán phá giá:
- Việc điều tra được tiến hành ngay sau khi nhận được hồ sơ yêu cầu áp
dụng biện pháp chống bán phá giá của tổ chức cá nhân thỏa mãn:
+ Khối lượng, số lượng hoặc trị giá hàng hóa do họ đại diện cho ít nhất
25% thị phần hàng hóa đó trong nước.
+ Khối lượng, số lượng hoặc trị giá của hàng hóa của các nhà sản xuất
trong nước ủng hộ việc nộp hồ sơ yêu cầu áp dụng biện pháp chống bán phá
giá phải lớn hơn khối lượng, số lượng hoặc trị giá hàng hóa tương tự của các
nhà sản xuất trong nước phản đối yêu cầu áp dụng biện pháp chống bán phá
giá.
- Việc điều tra cũng có thể diễn ra không cần đơn bằng văn bản của
ngành sản xuất trong nước hoặc đại diện cho ngành sản xuất trong nước

nhưng cơ quan điều tra có đầy đủ bằng chứng về việc bán phá giá, thiệt hại
và mối liên hệ giữa hai yếu tố này.
- Sau khi thẩm định hồ sơ đầy đủ, trước khi cơ quan điều tra phải thông
báo cho cơ quan có thẩm quyền của nước hoặc vùng lãnh thổ xuất khẩu hàng
16
hóa bị yêu cầu áp dụng biện pháp chống bán phá giá về các quy định chống
bán phá giá của Việt Nam.
- Trong thời hạn sáu mươi ngày, kể từ ngày nhận được hồ sơ đầy đủ, Bộ
trưởng Bộ Thương mại ra quyết định điều tra; trường hợp đặc biệt, thời gian
ra quyết định điều tra có thể được gia hạn nhưng không quá ba mươi ngày.
- Thời hạn điều tra tối đa không quá 12 tháng từ ngày có quyết định điều
tra. Sau 60 ngày có thể đưa ra biện pháp chống bán phá giá tạm thời. Sau
muộn nhất 90 ngày cơ quan điều tra phải đưa ra kết quả sơ bộ, và kết thúc
điều tra phải đưa ra kết luận cuối cùng và biện pháp xử lý.
3.2.3 Áp dụng biện pháp chống bán phá giá:
- Biện pháp áp thuế chống bán phá giá tạm thời. Sau sáu mươi ngày kể từ
ngày có quyết định điều tra, căn cứ vào kết luận sơ bộ, Bộ trưởng Bộ
Thương mại có thể ra quyết định áp dụng thuế chống bán phá giá tạm thời.
+ Thuế suất không vượt quá biên độ phá giá trong kết luận sơ bộ
+ Thuế chống bán phá giá tạm thời có thể được đảm bảo bằng tiền mặt
đặt cọc
+ Thời hạn áp dụng không quá 120 ngày, có thể gia hạn thêm nhưng
không quá 60 ngày
- Biện pháp cam kết: Sau khi có kết luận sơ bộ và trước khi kết thúc giai
đoạn điều tra, tổ chức, cá nhân sản xuất hoặc xuất khẩu hàng hóa thuộc đối
tượng điều tra có thể đưa ra cam kết với Bộ Thương mại, với các nhà sản
xuất trong nước về một hoặc các nội dung sau đây:
+ Điều chỉnh giá bán
+ Tự nguyện điều chỉnh lại khối lượng hàng bán phá giá vào Việt Nam
Bộ trưởng bộ Thương mại có thể chấp thuận hoặc không chấp thuận nội

dung cam kết
- Biện pháp áp dụng thuế chống bán phá giá: Trường hợp không đạt được
cam kết, căn cứ vào kết luận cuối cùng và kiến nghị của Hội đồng xử lý vụ
việc chống bán phá giá, Bộ trưởng Bộ Thương mại ra quyết định áp dụng
hay không áp dụng thuế chống bán phá giá.
+ Thuế suất không được vượt quá biên độ bán phá giá trong kết luận cuối
cùng.
+ Thời hạn áp dụng thuế chống bán phá giá không quá năm năm, kể từ
ngày có quyết định áp dụng biện pháp chống bán phá giá và có thể gia hạn
thêm.
17
3.2.4 Rà soát việc áp dụng thuế chống bán phá giá và giải quyết
khiếu nại:
-Rà soát: Sau 1 năm áp dụng biện pháp chống bán phá giá, việc rà soát có
thể tiến hành được khi có đề nghị của một hay nhiều bên liên quan. Hoặc
trước khi ngày hết hiệu lực của biện pháp chống bán phá giá, Bộ trưởng Bộ
thương mại ra quyết định rà soát
Việc rà soát tiến hành trong không quá 12 tháng. Khi kết thúc, Bộ trưởng
Bộ thương mại có thể ra các một trong các quyết định sau:
+ Tiếp tục áp dụng hoặc gia hạn áp dụng biện pháp chống bán phá giá;
+ Điều chỉnh mức thuế chống bán phá giá tương ứng với kết quả rà soát;
+ Chấm dứt việc áp dụng biện pháp chống bán phá giá.
- Khiếu nại: Sau 60 ngày từ khi có quyết định áp dụng thuế chống bán
phá giá, các bên liên quan có quyền khiếu nại. Bộ trưởng Bộ thương mại có
trách nhiệm giải quyết trong thời hạn 60 ngày từ ngày nhận được khiếu nại.
Nếu không đồng tình, thì cá nhân tổ chức khiếu nại có quyền khởi kiện tài
Tòa án theo luật định.
3.3 Một số giải pháp về thuế chống bán phá giá ở Việt nam:
Khi áp dụng thuế chống bán phá giá thì lợi ích chung về mặt kinh tế của
toàn xã hội có thể bị giảm. Do đó, vấn đề đầu tiên đặt ra là có nên áp dụng

thuế này không ngay cả khi các điều kiện cần thiết để áp dụng thuế này đã
được tuân thủ. Nói cách khác, ngay cả khi đã có đủ các điều kiện để áp dụng
thuế chống bán phá giá theo các qui định của Hiệp định về thuế chống bán
phá giá của WTO, cơ quan chức năng vẫn cần cân nhắc mọi yếu tố liên quan
để quyết định có nên áp dụng thuế này không. Vì việc áp dụng thuế này có
tác động lớn tới đời sống xã hội, chính trị, ngoại giao,.v.v…Nên tùy trường
hợp, cơ quan chức năng cần đưa ra những quyết sách cụ thể, để đem lại lợi
ích lớn nhất cho quốc gia.
Ví dụ, thịt cừu của New Zealand bị bán phá giá vào Việt nam và gây thiệt
hại cho một số nông dân nuôi cừu. Nhưng một mặt chính phủ thấy rằng hiệu
quả của việc nuôi cừu ở Việt nam rất thấp nên cần khuyến khích những nông
dân đó nuôi dê, mặt khác chính phủ đang khuyến khích phát triển du lịch,
trong đó việc cung cấp thịt cừu chất lượng cao với giá thấp là một yếu tố
thúc đẩy du khách vào Việt nam. Trong trường hợp đó không nhất thiết phải
áp dụng thuế chống bán phá giá với thịt cừu nhập khẩu từ New Zealand.
Thứ hai, hiện nay văn bản pháp lý cao nhất của Việt nam về bán phá giá
mới chỉ là pháp lệnh, và chỉ có tính pháp lý, chưa được áp dụng lần nào.
18
Trong bối cảnh nhiều ngành sản xuất hàng hoá đang phát triển khá nhanh,
việc áp dụng thuế chống bán phá giá có thể là cần thiết để bảo hộ một số nhà
sản xuất nhất định. Do đó, Việt nam cần nhanh chóng xây dựng và ban hành
văn bản pháp lý về thuế chống bán phá giá dựa trên Hiệp định tương ứng
của WTO. Để có thể triển khai được công cụ này trên thực tế, văn bản pháp
lý cần phải có những qui định rất cụ thể về các cơ quan thực thi, đặc biệt là
các cơ quan điều tra phá giá và cơ quan đánh giá thiệt hại.
Thứ ba, song song với việc ban hành văn bản pháp lý về thuế chống bán
phá giá, Việt nam cần nhanh chóng đào tạo nguồn nhân lực ở nhiều lĩnh vực
khác nhau liên quan tới áp dụng thuế này. Chẳng hạn, cần có kế hoạch đào
tạo sớm các luật sư chuyên về thương mại quốc tế để họ có thể tham gia giải
quyết tranh chấp liên quan tới việc áp dụng thuế này. Thật vậy, việc áp dụng

thuế chống bán phá giá phải tuân thủ nghiêm ngặt các qui định của WTO.
Do đó có nhiều tình huống Việt nam phải đương đầu với cơ chế giải quyết
tranh chấp của tổ chức này. Nếu không có sự đào tạo các luật sư có đủ năng
lực thì Việt nam sẽ gặp rất nhiều khó khăn trong việc giải quyết các tranh
chấp liên quan tới áp dụng thuế chống bán phá giá.
Thứ tư, Việt nam cũng cần củng cố và khuyến khích các nhà sản xuất
thành lập các hiệp hội. Thông qua hiệp hội các nhà sản xuất sẽ dễ dàng hơn
trong việc nộp đơn yêu cầu cơ quan chức năng khởi đầu điều tra phá giá.
Ngoài ra, chính các hiệp hội mới có nhiều điều kiện để cung cấp và thẩm
định nhiều thông tin liên quan tới việc nhà xuất khẩu bán phá giá, giá bán
trong nước, chi phí sản xuất tại nước xuất khẩu, v.v Nhà nước cần có kế
hoạch phổ biến cho các hiệp hội về các vấn đề liên quan tới thuế chống bán
phá giá.
Đồng thời Việt nam cũng cần nghiên cứu về xu hướng áp dụng thuế này
trên thế giới để có thể có những quyết định thích hợp với các đối tác thương
mại, vừa cân bằng được lợi ích của nhà sản xuất cũng như người tiêu dùng
trong nước, vừa không gây căng thẳng trong quan hệ thương mại, ngoại giao
với các nước trong khu vực và trên thế giới.
19

×