Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

CHÍNH SÁCH tài KHÓA, tài KHOẢN VÃNG LAI và tỷ GIÁ hối đoái THỰC tại mỹ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.27 MB, 17 trang )

GVHD: TS. Nguyễn Khắc Quốc Bảo Nhóm 07 – Lớp Ngân hàng Ngày 2 – K21
I. GIỚI THIỆU:
Những vấn đề liên quan đến mối quan hệ giữa chính sách tài khóa, tài khoản vãng lai và tỷ
giá hối đoái thực luôn được quan tâm phân tích và kiểm nghiệm. Về mặt lý thuyết nhiều mô hình
cho thấy rằng chính sách tài khóa mở rộng sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến tài khoản vãng lai và làm tỷ
giá hối đoái thực giảm xuống (đồng nội tệ được định giá cao), tức là ngân sách chính phủ và tài
khoản vãng lai biến động cùng chiều với nhau. Một ví dụ điển hình về mối quan hệ như vậy thường
được tranh luận là “thâm hụt kép” ở Mỹ trong nửa đầu những năm 1980 và những năm 2000. Theo
biểu đồ 1 và 2, một sự suy giảm của cân đối ngân sách (theo % GDP) trong điều kiện thuế thấp và
chi phí quốc phòng cao đã cộng hưởng với một sự gia tăng giá trị đồng nội tệ (hay một sự suy
giảm) trong tỷ giá danh nghĩa cũng như tỷ giá thực, và một sự suy giảm đáng kể của tài khoản vãng
lai (tính theo % GDP).
Biểu đồ 1: Tài khoản vãng lai và các yếu tố của nó, 1973 -2004
Đa phần sự trầm trọng của thâm hụt ngân sách đầu những năm 1980 là hậu quả của cuộc
suy thoái năm 1980-1982. Toàn bộ nguồn tiết kiệm công bắt đầu tăng lại từ năm 1983, trong khi tài
khoản vãng lai thì xấu đi trong giai đoạn 1982-1986, chủ yếu bởi vì tỷ lệ đầu tư đã phục hồi sau
cuộc suy thoái thời kỳ 1980-1982. Thêm vào đó, trong giai đoạn 1989-1991, tài khoản vãng lai đã
tăng trong khi ngân sách có xu hướng suy giảm lần nữa. Quan trọng hơn, khoảng giữa năm 1992 và
2000, ngân sách Mỹ đã tăng một cách ấn tượng từ tỷ lệ tiết kiệm âm 5% GDP đến dương 2,5%
GDP, thế nhưng tài khoản vãng lai đã giảm từ -1% GDP đến -4.5%GDP.
Biểu đồ 2: Tỷ giá và tiết kiệm Chính phủ, 1973 – 2004.
1
GVHD: TS. Nguyễn Khắc Quốc Bảo Nhóm 07 – Lớp Ngân hàng Ngày 2 – K21
Để đánh giá chiều hướng biến động của ngân sách chính phủ và tài khoản vãng lai như thế
nào khi yếu tố ảnh hưởng đến bản thân chúng là yếu tố nội sinh (yếu tố sản lượng đầu vào) và yếu
tố ngoại sinh (lãi suất thực, tỷ giá hối đoái thực…) , bài viết nêu ra một phân tích thực nghiệm về
mối quan hệ giữa cán cân ngân sách, tài khoản vãng lai và tỷ giá hối đoái thực của Mỹ trong thời kỳ
hậu Bretton Woods khi tỷ giá hối đoái linh hoạt. Hầu hết những nghiên cứu trước đây đều kiểm
định các tác động lên tỷ giá hối đoái thực chỉ với tần số dữ liệu thấp. Trái lại, bài viết đã nêu ra
bằng chứng dữ liệu thực nghiệm về tác động của chính sách tài khóa đối với tài khoản vãng lai và
tỷ giá hối đoái thực bằng việc sử dụng các mô hình VAR. Những mô hình này cho phép tương tác


động giữa các biến và sử dụng tối thiểu các giả định có tính hạn chế - không phụ thuộc vào một mô
hình lý thuyết cụ thể nào.
Bài viết đã kiểm nghiệm những ảnh hưởng của biến động thâm hụt ngân sách chính phủ lên
tài khoản vãng lai và tỷ giá hối đoái thực và cũng rút ra được mối liên hệ chung giữa các biến số đó.
Thông qua kiểm soát tác động của chu kỳ kinh doanh để xác định những biến động thâm hụt ngân
sách chính phủ , bài viết sử dụng mô hình tự hồi quy vector VAR. Một kết quả thực nghiệm mới
theo nghiên cứu của bài viết có vẻ đối lập hầu hết với mô hình kinh tế khác, đó là các biến động của
chính sách tài khóa mở rộng hay biến động thâm hụt ngân sách chính phủ thường đi kèm với một
sự cải thiện trong tài khoản vãng lai và sự giảm giá trị đồng nội tệ trong tỷ giá hối đoái thực. Vì lẽ
đó, bài viết cho rằng các biến động thâm hụt ngân sách chính phủ từ yếu tố ngoại sinh có thể có
ảnh hưởng nhất định, làm cải thiện tài khoản vãng lai.
II. TỔNG QUAN CÁC NGHIÊN CỨU TRƯỚC ĐÂY
Vào những năm 1944, khi chiến tranh thế giới lần thứ 2 sắp kết thúc, các nước đứng đầu phe
đồng minh hầu như cạn kiệt do chiến tranh, xét về kinh tế cũng như các lĩnh vực khác. Ở hội nghị
Bretton Woods, họ đã thiết lập nguyên tắc nhằm ổn định các quan hệ tiền tệ quốc tế: (1) để mậu
dịch được thuận lợi, chính phủ các nước chấp nhận người dân tự do chuyển đổi đồng tiền này sang
đồng tiền khác; (2) để có thể dự báo trước tỷ giá hối đoái nhằm đạt được những thuận lợi tạm thời
trong xuất khẩu, chính phủ các nước phải cố định biên độ dao động giá trị đồng tiền, sử dụng đôla
như một đơn vị tiền tệ chuẩn. Vào cuối thập niên 60, chế độ “bản vị đôla” đã gặp khó khăn bởi tình
trạng lạm phát tại Mỹ và năm 1973 hệ thống Bretton Woods sụp đổ và bên cạnh đó, hệ thống tiền tệ
Châu Âu ra đời. Một số nước gắn đồng tiền của họ với đôla, đồng yên Nhật, một số quốc gia khác
thực hiện chính sách thận trọng, nếu có sự bất ổn thì gắn với đồng tiền chung Châu Âu. Cùng lúc
đó, thế giới đã chứng kiến một mức độ ngày càng tăng của bay hơi tài chính. Trên cơ sở đó, theo
Bhagawati (1991) các cụm từ “pass-through” lần đầu tiên được sử dụng trong ngôn ngữ kinh tế bởi
Steve Magee (1873) trong bài báo của mình trong khi giải thích sự tác động của sự giảm giá tiền tệ.
Kể từ đó thuật ngữ này được sử dụng rộng rãi trong ngôn ngữ kinh tế. Khi nhắc đến thuật ngữ này,
2
GVHD: TS. Nguyễn Khắc Quốc Bảo Nhóm 07 – Lớp Ngân hàng Ngày 2 – K21
người ta muốn đề cập đến mức độ tác động đến giá cả liên quan như: giá xuất/ nhập khẩu, giá tiêu
dùng trong nước và mức độ mở cửa nền kinh tế. Hai thập kỷ qua, một lượng lớn tài liệu kinh tế về

ERPT đã được nghiên cứu. Bắt đầu từ những quan điểm khác nhau, nghiên cứu thực nghiệm kiểm
tra vai trò của ERPT ở các nền kinh tế nhỏ và lớn.
Các nghiên cứu đã được tiến hành bao gồm:
1. Sử dụng mô hình Mundell – Fleming – Dornbusch
Theo Bryant và các cộng sự vào năm 1988: Thực nghiệm kinh tế vĩ mô cho nền kinh tế
độc lập (“Empirical Macroeconomics for Independent Economies”)
Theo Taylor, 1993: Chính sách kinh tế vĩ mô trong nền kinh tế thế giới (“Macroeconomic
Policy in a World Economy”)
2. Sử dụng mô hình cân bằng tổng quát động ngẫu nhiên (DSGE – Dynamic Stochastic
General Equilibrium)
Theo Baxter 1995: Thương mại quốc tế và chu kỳ kinh doanh (“International trade and
business cycles”)
Bài viết cho rằng tích lũy vốn và dòng vốn quốc tế là trung tâm của thương mại thế giới và
các chu kì kinh doanh. Đặc biệt biến động trong xuất khẩu ròng và tài khoản vãng lai được hiển thị
bởi thương mại hàng hóa vốn. Bài viết phát triển một mô hình thương mại quốc tế mà trong đó tích
lũy vốn và đầu tư quốc tế đóng vai trò trung tâm. Baxter chỉ ra biến động thuế suất có thể cải thiện
tài khoản vãng lãi.
Kollmann, 1998: Tính năng động của cán cân thương mại Mỹ: vai trò của chính sách tài
khóa, biến động năng suất và tính liên kết trên thị trường tài chính (“US trade balance dynamics:
the role of fiscal policy and productivity shocks and of financial market linkages”)
Bài viết này đã sử dụng mô hình hai quốc gia RBC để định lượng và nghiên cứu các động
thái của cán cân thương mại Mỹ trong những năm 1975 -1991. Sử dụng một loạt dữ liệu theo quý
về tổng sản lượng, tiêu dùng của chính phủ và thuế suất tiêu dùng ở Mỹ (đầu vào lao động cố định),
tổng hợp từ các nước G7 và còn lại là G6, đã được đưa vào mô hình để giải thích dựa trên những
biến động nhất thời. Các mô hình cho thấy biến động năng suất là nguyên nhân chiếm ưu thế của
các chuyển động trong cán cân thương mại của Mỹ. Đặc biệt sự tăng trưởng tương đối nhanh chóng
ở Mỹ và tỷ lệ thuế trung bình giảm trong nửa đầu những năm 1980 giải thích sự sụt giảm mạnh của
xuất khẩu ròng trong thời gain đó.
Betts và Devereux, 2000b: Tính năng động của tỷ giá hối đoái trong mô hình giá cả thị
trường (“Exchange rate dynamics in a model of pricing-to-market”)

Baì viết này cho thấy có sự hiện diện của các công ty độc quyền cạnh tranh, kết hợp giá độc
quyền trong gía bán hàng (đầu tư không được nhắc đến), có ý nghĩa đối với biến động tỷ giá hối
3
GVHD: TS. Nguyễn Khắc Quốc Bảo Nhóm 07 – Lớp Ngân hàng Ngày 2 – K21
đoái, kinh tế vĩ mô và phúc lợi xã hội. Trong một môi trường trong đó giá cả thị trường, chi phí
chuyển đổi ảnh hưởng đến sự thay đổi tỷ giá hối đoái. Từ các kết quả phân tích và thực nghiệm, tác
giả cho rằng phân khúc thị trường hàng hóa và giá đồng nội tệ có thể là yếu tố quan trọng cho biến
động sản lượng đẩu ra và giá cả, chi tiêu thường xuyên của chính phủ tăng có thể góp phần cải thiện
tài khoản vãng lai.
McKibbin và Sachs, 1991: Mối liên kết toàn cầu: sự phụ thuộc lẫn nhau và hợp tác trong
nền kinh tế vĩ mô (“Global Linkages: Macroeconomic Interdependence and Cooperation in the
World Economy”)
Hai tác giả phác họa một kết quả dựa trên nghiên cứu từ các khu vực địa lý trọng điểm như
Mỹ, Đức và Nhật Bản. Họ nghiên cứu các tác động có thể có về sản lượng, giá cả, cán cân thương
mại.
3. Sử dụng phương pháp cân bằng tĩnh dạng đơn bằng cách sử dụng chuỗi dữ liệu theo
chiều ngang với tần suất năm bao gồm nhiều chế độ tỷ giá
Ahmed, 1986: Chi tiêu Chính phủ tạm thời và vĩnh viễn, một số bằng chứng từ Vương quốc
Anh (“Temporary and permanent government spending in an open economy: some evidence for the
United Kingdom”
Bài viết này thu thập những ảnh hưởng của thay đổi chi tiêu chính phủ lên một nền kinh tế
mở nhỏ. Nếu các tác nhân nội sinh ràng buộc ngân sách chính phủ , chi tiêu tạm thời và vĩnh viễn
có ý nghĩa khác nhau cho sự giàu có và ảnh hưởng khác nhau đến sản lượng và cân bằng thương
mại. Phát hiện từ Vương quốc Anh cho thấy chi tiêu chính phủ sẽ lan ra chi tiêu tư nhân, trực tiếp
sản xuất và khi tăng vĩnh viễn sẽ gây ra sự gia tăng lớn trong nỗ lực làm việc.
Ahmed 1987: Chi tiêu Chính phủ, cán cân thương mại và các điề khoản thương mại trong
lịch sử nước Anh (“Government spending, the balance of trade and the terms of trade in British
history”)
Bài viết này khảo sát mối quan hệ giữa chi tiêu chính phủ, cán cân thương mại và các điều
khoản thương mại bằng cách sử dụng dữ liệu của nước Anh, cho thấy một chuyển đổi giữa nợ và

các loại thuế không ảnh hưởng đến dòng chảy thương mại. Một mối quan hệ nghịch biến giữa chi
tiêu chính phủ và các điều khoản thương mại cũng được tìm thấy.
Cả hai bài của Ahmed đã kiểm định mối quan hệ dài hạn giữa chi tiêu chính phủ và tài
khoản vãng lai. Tuy nhiên kết quả có những giới hạn vì mối tương tác động giữa các biến số không
được xem xét và những nghiên cứu này không sử dụng cùng một thời kì gốc với chế độ tỷ giá
không đổi.
4. Sử dụng mô hình VAR
4
GVHD: TS. Nguyễn Khắc Quốc Bảo Nhóm 07 – Lớp Ngân hàng Ngày 2 – K21
Clarida và Prendergast, 1999: Lập trường Tài chính và Tỷ giá hối đoái thực, một số thực
nghiệm ước tính. (“Fiscal Stance and The Real Exchange Some Empirical Estimates”)
Bài viết này sử dụng cấu trúc VAR để ước tính tác động và ảnh hưởng của chính sách tài
khóa đến tỷ giá hối đoái thực và cán cân ngân sách sơ cấp bằng cách sử dụng dữ liệu trong giai
đoạn tỷ giá hối đoái thả nổi trong các nước G3. Họ tính toán sao cho mỗi nước trong nhóm G3 là
một “phản hồi nhạy bén” của một sự biến đổi tài chính, có tính đến ảnh hưởng của chu kì kinh
doanh và họ đã tìm thấy một điểm tương đồng đáng kể của 03 nước. Tuy nhiên quá trình này cuối
cùng bị đảo ngược, tỷ giá hối đoái đã vượt xa thực tế và thực sự mất giá tương đối so với giá trị ban
đầu của nó trước khi có biến động tài chính. Họ đã đưa ra những bằng chứng về sự “phản hồi nhạy
bén” của cán cân ngân sách chính phủ sau những biến động tài chính.
Rogers, 1999: Biến động tiền tệ và tỷ giá thực(“Monetary Shocks and Real Exchange
Rates”)
Các bằng chứng được trình bày trong bài viết chỉ ra một sự trái ngược rằng, biến động tiền
tệ rất quan trọng đối với biến động tỷ giá hối đoái. Sử dụng cấu trúc VAR để phân tích dữ liệu trong
thời gian dài tại Mỹ và Anh, tác giả thấy rằng 50% nguyên nhân dự đoán sai trong tỷ giá hối đoái
ngắn hạn là do biến động tiền tệ. Các mô hình khác cũng cho ra tỷ lệ 20%. Do vậy, những biến
động thực sự là do chính sách tài chính và thương mại hơn là do thay đổi công nghệ
III. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1. Phương pháp nghiên cứu:
Tác giả sử dụng mô hình cấu trúc tự hồi quy vecto (VAR). Trước đây đã có nhiều nghiên
cứu thực nghiệm trước đây về lĩnh vực này. Đầu tiên có những cuộc mô phỏng dùng mô hình cấu

trúc tỷ lệ lớn dựa trên những phiên bản khác nhau của mô hình Mundell-Fleming-Dornbusch (ví dụ
những nghiên cứu của Bryant et al , 1988; và Taylor, 1993) hoặc sử dụng mô hình cân bằng động
ngẫu nhiên điều chỉnh (Baxter, 1995; Kollmann, 1998; Betts và Devereux, 2000b; McKibbin và
Sachs, 1991). Tuy nhiên hầu hết những mô hình này trong các bài nghiên cứu này đều dựa trên số
lượng lớn các giả định có tính hạn chế trong lý thuyết; do đó, bằng chứng thu được không thể trở
thành một bằng chứng dựa trên dữ liệu thực nghiệm. Thứ hai, một vài nghiên cứu như của Ahmed,
1986, 1987 đã kiểm định trong dài hạn mối quan hệ giữa chi tiêu chính phủ và tài khoản vãng lai.
Họ đã sử dụng đẳng thức cân bằng tĩnh bằng cách sử dụng chuỗi dữ liệu theo chiều ngang với tần
suất hằng năm bao gồm nhiều chế độ tỷ giá. Tuy nhiên, kết quả của họ có những giới hạn bởi vì
mối tương tác động giữa các biến số không được xem xét và những nghiên cứu như vậy không sử
dụng một thời kỳ mẫu với một chế độ tỷ giá không đổi. Thứ ba, một vài nghiên cứu mới đây sử
dụng mô hình VAR - trong đó tối thiểu hóa các giả định có tính hạn chế của lý thuyết, và không
phụ thuộc vào mô hình lý thuyết cụ thể nào (Clarida và Prendergast,1999; và Rogers, 1999). Tuy
5
GVHD: TS. Nguyễn Khắc Quốc Bảo Nhóm 07 – Lớp Ngân hàng Ngày 2 – K21
nhiên, những nghiên cứu này đã kiểm định những hiệu ứng tác động lên tỷ giá thực chỉ với dữ liệu
có tần suất thấp. Ngược lại, bài nghiên cứu của tác giả cung cấp những bằng chứng thiên về dữ liệu
thực nghiệm về những tác động của chính sách tài khoá lên tài khoản vãng lai và tỷ giá thực bằng
việc sử dụng mô hình VAR. Những mô hình này cho phép những tương tác động trong các biến số
và sử dụng tối thiểu các giả định có tính hạn chế, cái mà sẽ không phụ thuộc vào một mô hình lý
thuyết cụ thể nào.
Thêm vào đó, mô hình thực nghiệm mà tác giả trình bày được xây dựng nhằm kiểm soát đặc
tính tương tác nội sinh này của ngân sách chính phủ và tài khoản vãng lai, và để nhận ra những
thành phần ngoại sinh của cân đối ngân sách. Do vây, tác giả đã sử dụng mô hình VAR bởi vì mô
hình VAR rất hữu dụng trong việc kiểm soát những yếu tố nội sinh và tách những yếu tố ngoại sinh
của chúng.
Bên cạnh đó, để phục vụ cho các kiểm định chuyên sâu và mở rộng, tác giả đã áp dụng thêm
phương pháp phân tích phương sai sai số dự báo tổng quát.
2. Phạm vi nghiên cứu:
Tác giả nghiên cứu dữ liệu tại nước Mỹ trong thời kỳ chế độ tỷ giá hối đoái thả nổi gần đây

(1973 – 2004).
Tuy nhiên, tỷ giá thực và tài khoản vãng lai của Mỹ đại diện cho một mối quan hệ kinh tế
giữa Mỹ và phần còn lại của thế giới. Song mô hình VAR cơ bản có thể không nắm bắt đúng những
điều kiện kinh tế nước ngoài vì nó không bao gồm những biến nước ngoài. Để kiểm soát những
biến nước ngoài này, tác giả thực hiện kiểm định mở rộng dựa trên dữ liệu của các nước G5 trong
giai đoạn 1974-2004.
3. Phương pháp thu thập và xử lý dữ liệu:
3.1 Các biến được sử dụng trong bài nghiên cứu và cách tính:
Các biến được sử dụng như là thành phần của tài khoản vãng lai và cân đối ngân sách, bao
gồm: Tài khoản vãng lai (Tiết kiệm ròng - Đầu tư ròng + Sai số thống kê), Tiết kiệm (Tiết kiệm
ròng), Đầu tư (Đầu tư ròng), Sai số thống kê, Tiết kiệm cá nhân (Tiết kiệm cá nhân ròng), Thâm hụt
ngân sách sơ cấp (- Tiết kiệm ròng Chính phủ + Thu nhập từ tài sản, tiền lãi và các khoản khác -
Trả lãi vay), Tiền thu lãi ròng của Chính phủ (Thu nhập từ tài sản, tiền lãi và các khoản khác - Trả
lãi vay), Đầu tư tư nhân (Tổng đầu tư tư nhân trong nước - Chi tiêu vốn cố định tư nhân), Đầu tư
Chính phủ (Tổng đầu tư Chính phủ - Chi tiêu vốn cố định của Chính phủ Liên bang - Chi tiêu vốn
cố định của Chính phủ địa phương).
Chuyển nhượng ròng Chính phủ được tính bằng cách trừ đi chi tiêu Chính phủ từ tiết kiệm
ròng của Chính phủ.
6
GVHD: TS. Nguyễn Khắc Quốc Bảo Nhóm 07 – Lớp Ngân hàng Ngày 2 – K21
Khi những biến trên được sử dụng dưới dạng tỷ số trên GDP, các biến được tính theo giá
dollar hiện tại; khi được sử dụng dưới dạng số liệu thực, chúng được tính theo dollar từ năm gốc,
2000.
Chỉ số tỷ giá danh nghĩa có hiệu lực được tính dựa vào phương pháp chi phí lao động trên
một đơn vị sản phẩm (111 NEUZF…), chỉ số tỷ giá thực có hiệu lực được tính dựa vào phương
pháp chi phí lao động trên một đơn vị sản phẩm được chuẩn hóa (111 REUZF…), chỉ số tỷ giá
thực có hiệu lực được tính dựa vào phương pháp chi phí lao động trên một đơn vị sản phẩm
(11165UM.ZF110).
Lãi suất thực trong mô hình cơ bản được tính bằng cách lấy lãi suất 3 tháng của trái phiếu
Kho bạc trừ đi tỷ lệ lạm phát tính theo chỉ số giảm phát GDP theo quý. Chênh lệch kỳ hạn được

tính từ sự chênh lệch giữa lãi suất đến hạn (10 năm) và lãi suất 3 tháng của trái phiếu Kho bạc.
Số liệu GDP được tính theo đồng nội tệ hiện tại và cố định, số liệu xuất khẩu và nhập khẩu
hàng hóa, dịch vụ được tính theo đồng nội tệ hiện tại.
Tỷ giá hối đoái thực được tính bằng cách nhân tỷ giá hối đoái danh nghĩa với hệ số giảm
phát theo GDP. Lãi suất thực được tính bằng cách lấy lãi suất 3 tháng của trái phiếu Kho bạc trừ đi
tỷ lệ lạm phát tính theo chỉ số giảm phát GDP. Log của tỷ giá thực có hiệu lực của Mỹ đối với
những nước còn lại trong G5 được tính bằng trung bình gia quyền của log của tỷ giá thực của Mỹ
đối với những nước còn lại trong G5, trọng số là phần ngạch mậu dịch. Phần ngạch mậu dịch được
tính bằng cách lấy trung bình tổng xuất nhập khẩu của Mỹ đối với từng nước chia cho tổng xuất
nhập khẩu của Mỹ với cả 4 nước trong giai đoạn 1974 - 2004.
Trong các thực nghiệm mở rộng:
Tác giả đã tính tài khoản vãng lai với 3 cách khác nhau: chênh lệch giữa log của xuất khẩu
hàng hoá và dịch vụ theo giá trị thực và log của nhập khẩu hàng hoá và dịch vụ theo giá trị thực, tỷ
số giữa giá trị thực của xuất khẩu ròng hàng hoá và dịch vụ với GDP thực tiềm năng từ Văn phòng
Ngân sách Quốc hội, và tỷ số giữa giá trị thực của xuất khẩu ròng hàng hoá và dịch vụ với GDP
thực tính theo đường xu hướng tính theo phương pháp HP.
Theo những cách tính khác nhau của lãi suất thực, tác giả đã sử dụng tỷ lệ lạm phát CPI thay
vì tỷ lệ lạm phát tính theo chỉ số giảm phát GDP (được sử dụng trong mô hình cơ bản). Tác giả đã
sử dụng lãi suất thực ước tính tính theo tỷ lệ lạm phát kỳ vọng. Để xây dựng tỷ lệ lạm phát kỳ vọng
hàng quý, tác giả giả định rằng log của chỉ số giảm phát GDP theo mô hình VAR 5 biến (với 4 biến
trễ), mô hình bao gồm lãi suất trái phiếu Kho bạc 3 tháng, log của M2, log của chỉ số giảm phát
GDP, log của GDP thực và tỷ số thâm hụt ngân sách sơ cấp với GDP.
3.2 Nguồn dữ liệu:
7
GVHD: TS. Nguyễn Khắc Quốc Bảo Nhóm 07 – Lớp Ngân hàng Ngày 2 – K21
Dữ liệu về đầu ra, tài khoản vãng lai, cân đối ngân sách Chính phủ, và những thành phần
của chúng được lấy từ các bảng National Income và Product Accounts (NIPA) tại trang web của
Cục Phân tích Kinh tế của Mỹ ().
Dữ liệu về tỷ giá hối đoái có hiệu lực được thu thập từ hai nguồn, International Financial
Statistic từ IMF và Federal Reserve Statistical Release từ trang web của Cục Dự trữ Liên bang.

Dữ liệu khác như lãi suất, CPI, GDP tiềm năng, và nợ công được thu thập từ FRED. Lãi suất
thực trong mô hình cơ bản được tính bằng cách lấy lãi suất 3 tháng của trái phiếu Kho bạc trừ đi tỷ
lệ lạm phát tính theo chỉ số giảm phát GDP theo quý. Số liệu chi tiêu quốc phòng được lấy từ
CITIBASE.
Cuối cùng, dữ liệu cho mô hình VAR được thu thập từ những nguồn sau: Tỷ số của cân đối
ngân sách sơ cấp với GDP được lấy từ OECD Economic Outlook, chỉ số giảm phát GDP được lấy
từ OECD Quarterly National Account đối với Mỹ, Đức, Anh, và từ International Financial Statistic
đối với Pháp và Nhật, lãi suất trái phiếu Kho bạc 3 tháng và tỷ giá hối đoái được thu thập từ
International Financial Statistic, lãi suất trái phiếu Kho bạc 3 tháng và tỷ giá trao đổi đối với dollar
Mỹ (lấy số trung bình trong kỳ) được lấy từ International Financial Statistic. Ở Nhật, do không có
lãi suất trái phiếu Kho bạc 3 tháng nên lãi suất thị trường được sử dụng để thay thế. Đối với dữ liệu
thu nhập quốc dân của Đức, dữ liệu về nước Đức thống nhất không tìm được trong khoảng thời
gian trước 1991. Đầu tiên, dữ liệu của Tây Đức được sử dụng để tính tỷ lệ tăng trưởng. Sau đó, dữ
liệu của thời kỳ trước 1991 được ước lượng dựa vào tỷ lệ tăng trưởng. Số liệu xuất khẩu, nhập khẩu
của Mỹ đối với từng nước còn lại trong G5 được lấy từ FRED.
GDP trung bình dựa trên PPP (để tính toán trọng số áp dụng cho các nước G5, trừ Mỹ) được
lấy từ World Development Indicators.
IV. NỘI DUNG VÀ KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU:
4.1 Những thống kê và vấn đề sơ bộ:
Theo các khái niệm đã trình bày phần trên, tài khoản vãng lai được tính như sau:
Tài khoản vãng lai = Tiết kiệm – Đầu tư + Sai số thống kê
= Tiết kiệm cá nhân – Thâm hụt ngân sách sơ cấp + Lãi ròng
nhận được - Đầu tư + Sai số thống kê
Bảng 1: Mối tương quan cơ bản
Hệ số tương quan
với CUR
Hệ số tương quan
với RER
Tiết kiệm Chính phủ/GDP - 0.11 - 0.08
Tiết kiệm Chính phủ sơ cấp/GDP - 0.16 0.03

“CUR” biểu thị tài khoản vãng lai (% của GDP) trong khi “RER” biểu thị tỷ giá thực có hiệu lực
8
GVHD: TS. Nguyễn Khắc Quốc Bảo Nhóm 07 – Lớp Ngân hàng Ngày 2 – K21
Đồng nhất thức thứ hai trong công thức trên thường được sử dụng như là cơ sở cho “thuyết
bộ đôi thâm hụt”, nghĩa là trong điều kiện các yếu tố khác không đổi, tiết kiệm chính phủ và tài
khoản vãng lai sẽ đồng biến. Tuy nhiên, Bảng 1 cho thấy hệ số tương quan giữa tài khoản vãng lai
và tiết kiệm chính phủ, cũng như hệ số tương quan giữa tài khoản vãng lai và cân đối ngân sách sơ
cấp là hệ số âm và yếu. Điều này xác nhận rằng ngân sách chính phủ và tài khoản vãng lai không
biến động theo cùng một hướng. Do vậy, “bộ đôi đối nghịch” có vẻ chính xác hơn so với cụm từ
“thâm hụt kép”, và “bộ đôi đối nghịch” là mô hình thường xuyên xuất hiện trong dữ liệu trong suốt
thời kỳ mẫu.
Để nhận ra những tác động của những cú sốc thâm hụt ngân sách lên tài khoản vãng lai,
điều quan trọng là phải kiểm soát được những biến động nội sinh của cân đối ngân sách và tài
khoản vãng lai, đặc biệt là khi có sự hiện diện của những cú sốc đầu ra. Mô hình thực nghiệm cơ
bản mà tác giả trình bày được xây dựng nhằm kiểm soát đặc tính tương tác nội sinh này của ngân
sách chính phủ và tài khoản vãng lai, và để nhận ra những thành phần ngoại sinh của cân đối ngân
sách.
4.2 Mô hình thực nghiệm cơ bản:
Tác giả sử dụng mô hình cấu trúc tự hồi quy vecto (VAR), trong đó có 05 biến được đưa
vào mô hình và sắp xếp theo thứ tự như sau: log của GDP thực RGDP, ngân sách chính phủ tính
theo %/GDP GOV, tài khoản vãng lai tính theo % của GDP CUR, lãi suất thực kỳ hạn ba tháng
(hậu suy) RIR và cuối cùng là log của tỷ giá hối đoái thực RER.
Mô hình nhận dạng cơ bản của tác giả sử dụng là mô hình VAR đệ quy (được đề ra bởi
Sims, 1980). Danh sách của những biến là {RGDP, GOV, CUR, RIR, RER} trong đó những biến
ngoại sinh cùng thời được đặt đầu tiên. Theo mô hình, những cú sốc (ngoại sinh) thâm hụt ngân
sách được tính ra bằng cách điều chỉnh biến RGDP trễ và ở hiện hành, và tất cả các biến trễ khác.
Tác giả điều chỉnh RGDP hiện hành bởi vì ngân sách (thâm hụt) thì có vẻ như bị tác động nội sinh
bởi mức hoạt động kinh tế hiện hành trong một quý. Đặc biệt, những yếu tố thu nhập công như thuế
doanh nghiệp, thuế thu nhập, có vẻ rất phụ thuộc vào mức hoạt động kinh tế hiện hành trong một
quý. Phân tích này được chứng minh bởi Blanchard và Pertti (2002). Họ đã tìm thấy có sự tác động

của đầu ra đối với thuế ròng trong một quý. Thêm vào đó, thâm hụt ngân sách chính phủ cũng có
thể phụ thuộc vào mức độ trễ của những biến số khác. Ví dụ như: một vài yếu tố của thu nhập công
như thuế thu nhập, có thể phụ thuộc vào mức độ trễ của hoạt động kinh tế. Tuy nhiên tác giả không
điều chỉnh những biến hiện hành khác ngoài GDP thực - biến có tính đến độ trễ của những quyết
định quan trọng trong chính sách tài khóa. Nghĩa là, việc điều chỉnh GDP thực hiện hành là cần
thiết để kiểm soát những phản ứng nội sinh hiện hành của thâm hụt ngân sách sơ cấp lên hoạt động
kinh tế hiện hành. Trong khi đó, việc không điều chỉnh những biến hiện hành khác là hợp lý để
9
GVHD: TS. Nguyễn Khắc Quốc Bảo Nhóm 07 – Lớp Ngân hàng Ngày 2 – K21
nhận ra những thay đổi do những yếu tố ngoại sinh hay do chủ quan của Chính phủ trong thâm hụt
ngân sách, vì những thay đổi như vậy ít phụ thuộc vào những biến hiện hành khác bởi độ trễ của
những quyết định trong chính sách tài khóa. Mô hình sử dụng dữ liệu hàng quý và một kỳ hạn cố
định. Mô hình bốn độ trễ được chọn.
Biểu đồ 3: Mô hình nhận dạng cơ bản, 1973-2004:
Toàn bộ biến động của thâm hụt ngân sách chính phủ sơ cấp không phải chỉ có cú sốc thâm
hụt ngân sách chính phủ sơ bộ mà còn do ảnh hưởng lớn hơn nhiều từ kết quả của những cú sốc
khác. Cụ thể là:
Phân tích phương sai sai số dự báo của thâm hụt ngân sách trong bảng 2 (những số trong
dấu ngoặc đơn là dải sai số 68%) cung cấp những bằng chứng rõ hơn cho kết quả này. Sự đóng góp
của những cú sốc thâm hụt ngân sách (ngoại sinh) đến những biến động của chính nó là 42.8%
trong chuỗi 4 quý và ít hơn nhiều trong những chuỗi thời gian dài hơn. Nghĩa là, những yếu tố
ngoại sinh đóng góp ít hơn nhiều ½ của tổng biến động thâm hụt ngân sách. Mặt khác, đóng góp
của những cú sốc sản lượng đầu ra thì nhiều hơn 50% tại mọi chuỗi thời gian được thể hiện trong
bảng 2. Điều này cho thấy rằng mô hình thực tiễn của tác giả cần tính đến những yếu tố nội sinh
quan trọng của thâm hụt ngân sách, đặc biệt là những yếu tố nội sinh đối với những cú sốc đầu ra
của cân đối ngân sách.
10
GVHD: TS. Nguyễn Khắc Quốc Bảo Nhóm 07 – Lớp Ngân hàng Ngày 2 – K21
Bảng 2: Phân tích phương sai sai số dự báo của GOV
Thời gian\Cú sốc RGDP GOV CUR RIR RER

4 quý 53.1(42.4,60.6) 42.8(33.0,49.7) 0.8(0.6,3.1) 0.5(0.4,2.3) 2.7(0.8,6.6)
8 quý 62.9(48.1,69.3) 28.2(19.3,36.7) 0.6(0.6,4.1) 1.8(0.7,5.7) 6.5(1.7,14.6)
12 quý 61.2(44.0,68.3) 24.2(15.2,32.3) 0.6(0.8,5.1) 2.5(0.9,8.3) 11.6(3.2,22.7)
16 quý 57.9(39.0,66.0) 22.6(13.5,30.2) 0.7(1.0,6.2) 3.1(1.2,11.0) 15.7(5.1,28.2)
Những tác động của cú sốc đầu ra (RGDP) rất đáng để quan tâm. Khi đầu ra tăng, thâm hụt
ngân sách giảm (hay ngân sách chính phủ được cải thiện) trong vài năm. Khi đầu ra tăng, tài khoản
vãng lai xấu đi, đồng nội tệ tăng giá trị (hay tỷ giá thực giảm) và lãi suất thực tăng. Những tác động
này gây ra những biến động không theo chu kỳ trong tài khoản vãng lai theo Mendoza (1991) và
Backus et al. (1992). Một sự tăng lên trong lãi suất thực cũng có vẻ là một phản hồi của việc tăng
năng suất liên tục (tham khảo nghiên cứu của King và Rabelo,1999). Sự tăng giá trị đồng nội tệ
cũng phù hợp với kết quả của một số nghiên cứu (ví dụ như Corsetty et al, 2006).
Tóm lại, xung động các phản ứng đều cho thấy sự tương đồng với quan điểm cho rằng các
cú sốc sản lượng đầu ra luôn luôn tạo ra sự cùng biến động âm/ phân kỳ giữa tài khoản vãng lai và
tiết kiệm chính phủ. Hơn nữa, những kết quả này cho thấy rằng mô hình của tác giả phân tích sâu
hơn những biến động nội tại của tài khoản vãng lai và thâm hụt ngân sách (đặc biệt là những biến
động gây ra bởi cú sốc đầu ra). Nhìn chung, những kết quả này đã hỗ trợ mô hình thực nghiệm của
tác giả trong việc kiểm định mối quan hệ nhân quả giữa thâm hụt ngân sách ngoại sinh và tài khoản
vãng lai.
Phần quan trọng của bài nghiên cứu này là trình bày các tác động của cú sốc thâm hụt ngân
sách chính phủ sơ cấp. Khi thâm hụt ngân sách tăng, sản lượng đầu ra tăng liên tục và lãi suất thực
tăng, tài khoản vãng lai được cải thiện trong 1 năm ( xác suất: 95%), giá trị đồng nội tệ giảm liên
tục ở hầu hết chuỗi thời gian dự báo (xác suất lớn hơn 68%)
Tác giả đã cố gắng suy luận tính bền của những cú sốc thâm hụt ngân sách chính phủ sơ cấp
trên từ những xung động các phản ứng của thâm hụt ngân sách theo những dự báo của mô hình lý
thuyết thì đôi lúc khác nhau phụ thuộc vào tính bền vững thực tế của những cú sốc tài khoá.
Khoảng 50% phần tăng lên ban đầu trong thâm hụt ngân sách được nền kinh tế hấp thụ trong
khoảng 4 quý (nghĩa là, nửa chu kỳ kéo dài khoảng 4 quý). Khoảng 75% được hấp thụ trong 6 hay
7 quý. Điều này gần như là tính bền của một mô hình AR-1 với hệ số tương quan 0.8. Vì vậy,
những cú sốc tài khóa có vẻ như hơi bền vững mặc dù trong kiểm định nghiệm đơn vị, rõ ràng là nó
ít bền vững hơn.

Một cú sốc lãi suất thực tăng sẽ làm tăng tỷ giá hối đoái thực và tác động này tuân theo điều
kiện cân bằng lãi suất thực không đảm bảo. Lãi suất thực bị tác động là do chính sách thắt chặt tiền
11
GVHD: TS. Nguyễn Khắc Quốc Bảo Nhóm 07 – Lớp Ngân hàng Ngày 2 – K21
tệ, sản lượng đầu ra bị giảm, tăng thâm hụt ngân sách chính phủ sơ cấp và làm tăng tỷ giá hối đoái
thực.
4.3 Những tác động đối với các thành phần của tài khoản vãng lai và tỷ giá thực
Tác giả tìm hiểu thêm vì sao và như thế nào có sự gia tăng trong thâm hụt ngân sách chính
phủ sẽ giúp cải thiện tài khoản vãng lai và làm giảm giá trị đồng nội tệ trong tỷ giá thực. Bằng cách
sử dụng mô hình cơ bản, nhưng có thêm 01 biến mới (CURA) { RGDP, GOV, CUR, CURA, RIR,
RER}.
Tài khoản vãng lai = Tiết kiệm cá nhân - Thâm hụt ngân sách sơ cấp
+ Thu lãi ròng của Chính phủ - Đầu tư tư nhân
- Đầu tư Chính phủ + Sai số thống kê
Biểu đồ 4. Tác động của cú sốc thâm hụt ngân sách chính phủ sơ bộ.
Kết quả cho thấy, khi có sự xuất hiện sự gia tăng thâm hụt ngân sách sơ cấp (tiết kiệm
Chính phủ giảm), tiết kiệm cá nhân tăng vọt để bù đắp cho mức giảm tiết kiệm Chính phủ. Tuy
nhiên sự gia tăng của tiết kiệm cá nhân không đủ bù đắp sự gia tăng thâm hụt ngân sách. Tóm lại
khi tiết kiệm tư nhân tăng lên và đầu tư tư nhân giảm xuống lớn hơn thâm hụt ngân sách trong ngắn
hạn. Do đó, tài khoản vãng lai được cải thiện trong ngắn hạn. Những thành phần khác như chi trả
lãi vay ròng của Chính phủ, sai số thống kê thay đổi không đáng kể.
Kết quả cũng cho thấy, tỷ giá hối đoái danh nghĩa cũng tăng không đáng kể. Vì vậy, tác giả
cho rằng tỷ giá hối đoái thực tăng sau khi các cú sốc thâm hụt ngân sách chính phủ sơ cấp tăng là
do tỷ giá hối đoái danh nghĩa tăng.
4.4 Tác động của các thành phần ngân sách Chính phủ đến tài khoản vãng lai
Đầu tiên, tác giả xem xét tác động của chi tiêu Chính phủ hay sự mua hàng hóa của Chính
phủ. Tác giả đãcấu trúc mô hình trở thành {GOV, RGDP, CUR, RIR, RER}, trong đó log của chi
tiêu Chính phủ thực được xem là GOV.
12
GVHD: TS. Nguyễn Khắc Quốc Bảo Nhóm 07 – Lớp Ngân hàng Ngày 2 – K21

Tiếp theo, tác giả kiểm định tác động của cú sốc chuyển nhượng ròng (hay số âm của thuế
ròng). Trong mô hình cơ bản, tác giả giả định rằng chuyển nhượng ròng đồng thời bị tác động bởi
RGDP, cụ thể là {RGDP, GOV, CUR, RIR, RER}. Tác giả dùng tỷ số của chuyển nhượng ròng đối
với GDP.
Biểu đồ 5. Tác động của cú sốc chi tiêu chính phủ và chuyển nhượng ròng.
Tác động của chuyển nhượng ròng được thể hiện trong 2 cột đầu tiên của bảng 5. Tác động
của cú sốc chuyển nhượng ròng cũng tương tự, chỉ yếu hơn không đáng kể, so với tác động của cú
sốc thâm hụt ngân sách chính phủ sơ cấp. Một sự tăng chuyển nhượng ròng sẽ cải thiện tạm thời tài
khoản vãng lai và làm tăng tỷ giá hối đoái thực. Tác giả cũng xem xét thêm những thành phần của
tài khoản vãng lai để tìm hiểu tại sao tài khoản vãng lai được cải thiện. Kết quả lại một lần nữa
tương tự với mô hình cơ bản. Chi tiêu tăng nhẹ, nhưng chỉ tạm thời. Tiết kiệm cá nhân tăng để bù
đắp hầu hết thâm hụt ngân sách khi đầu tư sụt giảm.
Tác động của cú sốc mua hàng của chính phủ đến tỷ giá hối đoái thực và tài khoản vãng lai
cũng tương tự như tác động của thâm hụt ngân sách, nhưng tác động này mạnh mẽ hơn, đặc biệt là
trong dài hạn (2 cột cuối của biểu đồ). Một sự tăng chi tiêu Chính phủ sẽ cải thiện tài khoản vãng
lai và tăng đáng kể tỷ giá hối đoái thực về lâu dài . Tác giả cũng đã xem xét các thành phần của tài
khoản vãng lai để tìm hiểu vì sao khi chi tiêu Chính phủ tăng thì tài khoản vãng lai được cải thiện.
13
GVHD: TS. Nguyễn Khắc Quốc Bảo Nhóm 07 – Lớp Ngân hàng Ngày 2 – K21
4.5 Đặc điểm cùng biến động của ngân sách chính phủ, tài khoản vãng lai và tỷ giá
thực:
Tác giả áp dụng thêm phương pháp phân tích phương sai sai số dự báo tổng quát, theo
nghiên cứu của Kim (2006), để tìm ra vai trò chính xác của từng cú sốc cấu trúc trong việc giải
thích đặc tính cùng biến động.
Bảng 3: Phân tích sự cùng biến động
Thời gian Tương quan không điều kiện Cú sốc Tương quan có điều kiện Phân tích tương quan Phân tích hiệp phương sai
(1) CUR và GOV
4 quý 0.42(0.31,0.51) RGDP 0.97(0.90,0.98) 0.33(0.23,0.39) 78.0(60.2,95.1)
GOV 0.70(0.27,0.83) 0.10(0.16,0.03) 22.7(7.4,36.1)
CUR 0.25(− 0.14,0.58) 0.02(− 0.01, 0.06) 4.4(− 3.4, 15.8)

RIR 0.52(− 0.46,0.89) 0.01(− 0.01, 0.03) 1.6(− 1.5, 6.2)
RER − 0.98 (− 0.47,− 0.97) − 0.03 (− 0.04,− 0.01) − 6.8 (− 13.0,− 1.2)
8 quý 0.34(0.48,0.18) RGDP 0.98(0.92,0.98) 0.40(0.27,0.45) 117.5(83.6,167.0)
GOV 0.63(0.01,0.79) 0.06(0.00,0.10) 16.4(0.4,34.2)
CUR 0.05(− 0.24,0.55) 0.00(− 0.02, 0.04) 0.7(− 8.9, 16.0)
RIR 0.30(− 0.39,0.72) 0.01(− 0.01, 0.03) 1.8(−2.9, 9.9)
RER − 0.97 (− 0.97,− 0.73) − 0.12 (−0.17,−0.05) − 36.4 (− 76.5,− 10.0)
(2) RER và GOV
4 quý 0.09(− 0.05,0.22) RGDP 0.99 (0.79,0.99) 0.14 (0.04,0.21) 153.5(− 75.4,195.6)
GOV 0.93 (0.20,0.94) 0.14 (0.09,0.25) 97.5(− 31.4,139.9)
CUR 0.11 (− 0.69,0.69) 0.00 (− 0.01, 0.01) 1.1(− 10.1,12.7)
RIR − 0.36 (− 0.81,0.62) − 0.01 (− 0.03, 0.01) − 9.6 (− 32.3,27.8)
RER − 0.85 (− 0.87,− 0.72) − 0.13 (− 0.18,− 0.05) − 142.6 (− 202,185)
Bảng 3(1) cho thấy hệ số tương quan không điều kiện của sai số dự báo đối với tài khoản
vãng lai và thâm hụt ngân sách trong 4 và 8 quý cho thấy trong ngắn và trung hạn, thâm hụt ngân
sách Chính phủ và tài khoản vãng lai có xu hướng biến đổi cùng chiều. Những cú sốc về CUR và
RIR cũng cho ra những mối tương quan xác định trong khi cú sốc về RER lại cho thấy mối tương
quan phủ định. Sự cùng biến động cùng chiều (hay cùng biến động không điều kiện) chủ yếu là kết
quả của những cú sốc đầu ra. Vì vậy, tác giả đã kết luận rằng cú sốc đầu ra là nguyên nhân quan
trọng nhất dẫn đến hiện tượng bộ đôi đối nghịch mà chúng ta quan sát thấy thông qua dữ liệu.
Nhưng trong một chừng mực nhất định, cú sốc thâm hụt ngân sách cũng góp phần tạo nên bộ đôi
đối nghịch.
Bảng 3 (2) cho thấy kết quả phân tích cùng biến động của tỷ giá thực và thâm hụt ngân sách
Chính phủ. Cú sốc RGDP và GOV sinh ra một mối tương quan xác định cao và nó được bù đắp
bằng một mối tương quan phủ định cao được sinh ra bới những cú sốc RIR và RER. Trong 4 quý,
cú sốc GOV và RGDP có vai trò ngang nhau trong việc giải thích sự biến đổi cùng chiều của RER
và GOV; còn trong 8 quý, mức đóng góp của cú sốc RGDP lớn hơn đóng góp của cú sốc GOV.
4.6 Kiểm định thực nghiệm mở rộng và kiểm định tính chắc chắn của mô hình:
14
GVHD: TS. Nguyễn Khắc Quốc Bảo Nhóm 07 – Lớp Ngân hàng Ngày 2 – K21

Tác giả kiểm định độ chắc chắn của những kết quả chính trong những khía cạnh khác nhau.
Đầu tiên, tác giả kiểm định rằng những kết quả có chắc chắn hay không dưới những định nghĩa
khác nhau của thâm hụt/cân đối ngân sách chính phủ và những thành phần ngân sách chính phủ.
Thứ hai, tác giả thử với những định nghĩa thay thế của tỷ giá thực có hiệu lực. Thứ ba, tác giả xem
xét thay thế các giả thuyết xác định bằng cách thay đổi cách sắp xếp những biến trong mô hình.
Thứ tư, tác giả xem xét các phương pháp khác để tính lãi suất thực. Thứ năm, tác giả thử nghiệm
các cách đo lường khác của tài khoản vãng lai. Trong mọi trường hợp, tài khoản vãng lai được cải
thiện, đồng nội tệ giảm giá trị, các tác động trong ngắn hạn thì có ý nghĩa ở mức xác suất 68%.
Trong nhiều trường hợp, sự giảm giá trị đồng nội tệ trong tỷ giá thực có ý nghĩa tại mức xác suất
68%, thậm chí là trong dài hạn.
Bên cạnh đó, tác giả xem xét một số mô hình mở rộng. Đầu tiên là mô hình gồm 06 biến
(thêm một biến vào mô hình cơ bản, như nợ công và chênh lệch kỳ hạn). Tác giả xem xét hai loại
mô hình nhận dạng: một là trong đó một biến bổ sung được cho là biến ngoại sinh cùng thời đối với
thâm hụt ngân sách sơ cấp (mô hình 1) và cái còn lại là thâm hụt ngân sách chính phủ được cho là
biến ngoại sinh cùng thời đối với biến bổ sung (mô hình 2). Thứ hai, tác giả xem xét một mô hình
bao gồm một sự đo lường thâm hụt ngân sách sơ cấp do cấu trúc ("Structural"), trong đó loại trừ
những thành phần có tính chu kỳ của thâm hụt ngân sách sơ cấp. Thâm hụt ngân sách được hồi quy
theo biến đầu ra mang tính chu kỳ và phần dư được sử dụng như thâm hụt ngân sách sơ cấp do cấu
trúc.
Cuối cùng, để khắc phục nhược điểm của mô hình VAR cơ bản (có thể không nắm bắt đúng
những điều kiện kinh tế nước ngoài), tác giả xây dựng 02 mô hình mở rộng. Đầu tiên, tác giả xây
dựng một mô hình mà bao gồm trong đó mỗi biến là độ lệch của nó so với con số tổng của các nước
G5 trừ Mỹ ("Deviations"). Mô hình bao gồm những biến sau đây, {RGDP- RGDP*, GOV-GOV*,
TB5, RIR- RIR*, RER5}, với RGDP* là log của GDP thực của các nước G5 trừ Mỹ . GOV* là tỷ
lệ của thâm hụt ngân sách trên GDP của các nước G5 trừ Mỹ. TB5 là tỷ số cán cân thương mại của
Mỹ đối với các nước G5 trừ Mỹ trên GDP của Mỹ (ở đây cán cân thương mại được sử dụng thay
cho tài khoản vãng lai ); RER5 là tỷ giá thực có hiệu lực của Mỹ đối với các nước G5 trừ Mỹ; và
những biến ngoại sinh cùng thời được đặt lên đầu. Tiếp theo, tác giả xây dựng một mô hình khác đã
tách rời thâm hụt ngân sách của Mỹ và thâm hụt ngân sách của các nước khác ("7VAR"). Những
biến trong mô hình này là {RGDP, RGDP*, GOV*, GOV, TB5, RIR–RIR*, RER5}, trong đó

những biến ngoại sinh cùng thời được đặt đầu tiên. Chú ý rằng GOV* được đặt trước GOV để xác
định những cú sốc thâm hụt ngân sách của Mỹ mà không tương quan với sự thay đổi trong thâm hụt
ngân sách của những nước khác. Thêm vào đó, RGDP và RGDP* cũng được tính riêng để xây
dựng cú sốc thâm hụt ngân sách Mỹ bằng cách điều chỉnh một cách phù hợp cú sốc RGDP.
15
GVHD: TS. Nguyễn Khắc Quốc Bảo Nhóm 07 – Lớp Ngân hàng Ngày 2 – K21
Biểu đồ 6. Kiểm định mở rộng.
Biểu đồ 6 báo cáo các kết quả cho những mô hình mở rộng này. Các đồ thị trong 02 cột đầu
tiên cho thấy phản ứng của tài khoản vãng lai trong khi các đồ thị trong 02 cột cuối thể hiện phản
ứng của tỷ giá thực. Trong hầu hết trường hợp, tài khoản vãng lai được cải thiện và tỷ giá thực giảm
(đồng nội tệ tăng giá trị). Trong ngắn hạn những hiệu ứng này có ý nghĩa ở mức xác suất 68% trong
hầu hết các trường hợp.
4.7 Thực nghiệm mở rộng đối với các thành phần ngân sách chính phủ:
Trong phần này, tác giả sử dụng mô hình phi đệ quy để kiểm định sâu hơn tác động của hai
thành phần của ngân sách chính phủ: chi tiêu và thuế ròng. Các biến trong mô hình gồm {GOV1,
GOV2, RGDP, CUR, RIR, RER}, trong đó chi tiêu thực của chính phủ được sử dụng như GOV1 và
tỉ số chuyển nhượng ròng trên GDP được sử dụng như GOV2.
Đồng thời, tác giả sử dụng mô hình Edelberg, Eichenbaum, và của Fisher ("EEF") để kiểm
định tác động của cú sốc chi tiêu mua sắm chính phủ lên tài khoản vãng lai. Các biến trong mô hình
này gồm {CUR, G Spend, GDP, G Mill Spend, TBR, PPIF} lần lượt là tài khoản vãng lai, chi tiêu
thực của chính phủ, GDP thực, chi tiêu quốc phòng thực của chính phủ, lãi suất trái phiếu kho bạc
ba tháng và chỉ số giá cả sản xuất của nhiên liệu thô.
16
GVHD: TS. Nguyễn Khắc Quốc Bảo Nhóm 07 – Lớp Ngân hàng Ngày 2 – K21
Biểu đồ 7. Kiểm định mở rộng.
Các đồ thị trong cột đầu tiên là các kết quả từ mô hình phi đệ quy, cho thấy sự cải thiện tài
khoản vãng lai và sự mất giá đồng nội tệ trong tỷ giá thực. Cột thứ hai cho thấy những tác động của
những biến giả tài khóa từ mô hình mở rộng EEF, cho thấy tài khoản vãng lai xấu đi trong giai đoạn
đầu tiên do sự giảm xuống ban đầu trong chi tiêu mua sắm chính phủ. Từ giai đoạn kế tiếp trở đi,
chi tiêu mua sắm chính phủ bắt đầu tăng và tài khoản vãng lai cũng bắt đầu cải thiện. Kết quả này

phù hợp với kết quả trước đó, tức là việc tăng chi tiêu mua sắm chính phủ sẽ cải thiện tài khoản
vãng lai một cách mạnh mẽ và liên tục.
V. KẾT LUẬN
Những kết quả thực nghiệm trong bài nghiên cứu này đã chỉ ra rằng thâm hụt ngân sách làm
tăng tài khoản vãng lai và làm giảm giá trị đồng nội tệ trong tỷ giá thực trong ngắn hạn.
Sự cải thiện tài khoản vãng lai là kết quả từ hành vi tăng tiết kiệm cá nhân cục bộ theo hiệu
ứng Ricardo (nghĩa là, tiết kiệm cá nhân tăng), và sự suy giảm trong đầu tư (hiệu ứng rút vốn hàng
loạt do lãi suất thực tăng), trong khi đó sự giảm giá trị đồng nội tệ trong tỷ giá thực chủ yếu là kết
quả của sự giảm giá trị đồng nội tệ trong tỷ giá danh nghĩa.
Những kết quả trình bày trong bài còn chỉ ra rằng “bộ đôi phân kỳ” phổ biến hơn so với
“thâm hụt kép” để minh họa mối quan hệ giữa cán cân tài khoản vãng lai và ngân sách chính phủ, vì
“bộ đôi phân kỳ” xuất hiện nhiều hơn trong dữ liệu quá khứ.
Tuy nhiên, mặc dù một vài mô hình phân tích chỉ ra rằng thâm hụt ngân sách sẽ dẫn đến một
sự cải thiện tài khoản vãng lai và làm giảm giá trị đồng nội tệ trong tỷ giá thực, nhưng chúng không
hoàn toàn phù hợp với những chi tiết trong bằng chứng được trình bày trong bài nghiên cứu này. Sự
mâu thuẫn về kết quả giữa các mô hình phân tích, đã làm nảy sinh những nghiên cứu lý thuyết trong
tương lai, mà trong đó các nhà nghiên cứu nỗ lực kết nối các phân tích đã có với các phát hiện thực
nghiệm trong bài nghiên cứu này với kỳ vọng sẽ cho ra nhiều kết quả, đồng thời thông qua các
nghiên cứu thực nghiệm tương lai người ta cũng nỗ lực làm sáng tỏ hơn nữa nguyên nhân dẫn đến
kết quả đó.
17

×