Tải bản đầy đủ (.doc) (29 trang)

Tình hình triển khai hoạt động sản xuất kinh doanh của các dự án ĐTNN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (216.97 KB, 29 trang )

B- Nội dung
I. Quan niÖm vÒ §TNN
1- Kh¸i niÖm §TNN (FDI)
Đầu t trùc tiÕp níc ngoµi lµ một công cuộc đầu tư ra khỏi biên giới quốc
gia, trong đó người đầu tư trực tiếp đạt được một phần hay toàn bộ quyền sở
hữu lâu dài một doanh nghiệp đầu tư trực tiếp trong một quốc gia khác.
Quyền sở hữu này tối thiểu phải là 10% tổng số cổ phiếu mới được công nhận
là FDI.
2- Ph©n lo¹i FDI:cã 2 c¸ch ph©n lo¹i : theo d¹ng vµ theo môc ®Ých
a.Phân loại theo dạng:
- Đầu tư mới
Nguồn đầu tư trực tiếp nước ngoài được sử dụng để xây dựng các doanh
nghiệp mới hoặc phát triển thêm các doanh nghiệp có sẵn trong nước. Đây là
phương thức các quốc gia nhận FDI thích nhất vì tạo được thêm công ăn việc
làm cho người trong nước, nâng cao sản lượng, chuyển giao kỹ thuật cao cấp,
đồng thời tạo được mối liên hệ trao đổi với thị trường thế giới.
Những mặt yếu của đầu tư mới là có thể “bóp nghẹt” sản xuất trong nước vì
nhờ khả năng cạnh tranh cao hơn về kỹ thuật và hiệu quả kinh tế, đồng thời
làm khô cạn tài nguyên trong nước. Ngoài ra, một phần lợi nhuận quan trọng
sẽ chảy ngược về công ty mẹ.
-Sát nhập và tiếp thu
Xảy ra khi tài sản của một doanh nghiệp trong nước được chuyển giao cho
một doanh nghiệp nước ngoài. Hình thức chuyển giao có thể là một sự sáp
nhập giữa một công ty trong nước và một công ty nước ngoài để tạo thành
một doanh nghiệp với một tư cách pháp nhân mới. Doanh nghiệp mới này bắt
đầu có tính cách đa quốc gia. Trường hợp sáp nhập với công ty nước ngoài,
phần FDI được tính là phần tài trợ mà công ty trong nước được nhận từ bộ
phận công ty nước ngoài rót vào.
Hình thức chuyển giao thứ hai là bán đứt công ty trong nước cho công ty
nước ngoài. Trường hợp này, FDI được tính là những khoản đầu tư từ công
mẹ qua cho công ty “con” trong nước.


Theo nhiều ý kiến, FDI qua hình thức sáp nhập và tiếp thu không có lợi nhiều
cho quốc gia sở tại bằng đầu tư mới. Lý do thứ nhất là thông thường, tiền
doanh nghiệp trong nước hưởng khi bán cơ sở được trả bằng cổ phiếu của
công ty nước ngoài, do đó không có tác dụng xoay vòng thúc đẩy kinh tế
trong nước ngay lập tức. Thứ hai là toàn bộ lợi nhuận sẽ chuyển về công ty
mẹ. Quốc gia sở tại chỉ được hưởng phần tạo công ăn việc làm cho dân, một
ít nghĩa vụ thuế má và tạo việc làm cho các kỹ nghệ ngoại vi .
b.Phân loại theo mục đích:
1
- Tỡm ti nguyờn v lao ng r tin.
õy l dng FDI tiờu biu nht nhm vo cỏc quc gia ang phỏt trin nh
Trung ụng, Phi Chõu, ụng u v cỏc nc ụng Nam m Vit Nam l
mt trong nhng mc tiờu quan trng.
Ti nguyờn thiờn nhiờn v lao ng r tin l nhng mt hng cỏc cụng ty
nc ngoi rt mờ cỏc quc gia ang phỏt trin vi mc sinh hot cũn
thp.
-Tỡm th trng tiờu th.
L nhng u t trc tip nc ngoi nhm vo vic m rng th trng tiờu
th sn phm ca cụng ty ch qun. in hỡnh nht l u t FDI ca cụng ty
Coca-Cola v Pepsi-Cola vo Trung Quc, n hay Vit Nam.
-Tỡm hiu qu kinh doanh.
õy l mt dng FDI thng thy cỏc quc gia ó phỏt trin, chng hn
nh trong cng ng cỏc quc gia u Chõu. Lỳc ny, ngun u t FDI
nhm nõng cao hiu qu kinh t v trao i khoa hc k thut ln nhau.
II- Vai trò của vốn đầu t n ớc ngoài
Trong hơn 10 năm qua, nhờ những chính sách luật đầu t nớc ngoài tại Việt
Nam mà chúng ta đã đạt đợc những thành tựu đáng kể và quan trọng, góp
phần tích cực vào việc thực hiện những mục tiêu kinh tế- xã hội vào thắng lợi
công cuộc đổi mới đa nớc ta thoát khỏi khủng hoảng kinh tế, tăng cờng thế và
lực của Việt Nam trên con đờng hội nhập quốc tế. Vì thế mà đầu t nớc ngoài

đang trở thành một trong những nguồn vốn quan trọng trong phát triển kinh tế,
có tác dụng thúc đẩy sự chuyển dịch cơ cấu theo hớng công nghiệp hoá, hiện
đại hoá, mở ra nhiều nghành nghề, sản phẩm mới, góp phần mở rộng quan hệ
đối ngoại và chủ động hội nhập quốc tế thế giới.
Đầu t nớc ngoài góp phần quan trọng vào việc hoàn chỉnh ngày càng đầy đủ
và tốt hơn hệ thống cơ sở hạ tầng đặc biệt là giao thông vận tải, bu chính viễn
thông, năng lợng.Đồng thời hình thành đựoc 67 khu công nghiệp- khu chế
xuất và khu công nghệ cao trên pham vi ca nớc góp phần vào việc đô thị hoá,
hình thành khu dân c mới tạo việc làm ổn định cho hơn 200 nghìn lao động
địa phơng và hàng chục ngàn lao động dịch vụ khác, ở các thành phố lớn việc
hình thành các khu chế xuất, khu công nghiệp đã tạo điều kiện cho địa phơng
này tách sản xuất ra khỏi khu dân c giảm thiểu ô nhiễmbảo vệ môi trờng đô
thị.
III- Tình hình đầu t n ớc ngoài ở Việt Nam từ 1988- 2007
1- Tình hình thu hút vốn đầu t trực tiếp nớc ngoài đăng kí từ 1988-2007
1.1- Cấp phép đầu t từ 1988-2007
Tớnh n cui nm 2007, c nc cú hn 9.500 d ỏn TNN c cp phộp
u t vi tng vn ng ký khong 98 t USD (k c vn tng thờm). Tr
cỏc d ỏn ó ht thi hn hot ng v gii th trc thi hn, hin cú 8.590
d ỏn cũn hiu lc vi tng vn ng ký 83,1 t USD.
Trong 3 nm 1988-1990, mi thc thi Lut u t trc tip nc ngoi ti
Vit Nam nờn kt qu thu hỳt vn TNN cũn ớt (214 d ỏn vi tng vn ng
ký cp mi 1,6 t USD), TNN cha tỏc ng n tỡnh hỡnh kinh t-xó hi
t nc.
2
Trong thời kỳ 1991-1995, vốn ĐTNN đã tăng lên (1.409 dự án với tổng
vốn đăng ký cấp mới 18,3 tỷ USD) và có tác động tích cực đến tình hình kinh
tế-xã hội đất nước. Thời kỳ 1991-1996 được xem là thời kỳ “bùng nổ” ĐTNN
tại Việt Nam (có thể coi như là “làn sóng ĐTNN” đầu tiên vào Việt Nam) với
1.781 dự án được cấp phép có tổng vốn đăng ký (gồm cả vốn cấp mới và tăng

vốn) 28,3 tỷ USD. Đây là giai đoạn mà môi trường đầu tư-kinh doanh tại Việt
Nam đã bắt đầu hấp dẫn nhà đầu tư do chi phí đầu tư-kinh doanh thấp so với
một số nước trong khu vực; sẵn lực lượng lao động với giá nhân công rẻ, thị
trường mới, vì vậy, ĐTNN tăng trưởng nhanh chóng, có tác động lan tỏa tới
các thành phần kinh tế khác và đóng góp tích cực vào thực hiện các mục tiêu
kinh tế-xã hội của đất nước. Năm 1995 thu hút được 6,6 tỷ USD vốn đăng ký,
tăng gấp 5,5 lần năm 1991 (1,2 tỷ USD). Năm 1996 thu hút được 8,8 tỷ USD
vốn đăng ký, tăng 45% so với năm trước.
Trong 3 năm 1997-1999 có 961 dự án được cấp phép với tổng vốn đăng
ký hơn 13 tỷ USD; nhưng vốn đăng ký của năm sau ít hơn năm trước (năm
1998 chỉ bằng 81,8% năm 1997, năm 1999 chỉ bằng 46,8% năm 1998), chủ
yếu là các dự án có quy mô vốn vừa và nhỏ. Cũng trong thời gian này nhiều
dự án ĐTNN được cấp phép trong những năm trước đã phải tạm dừng triển
khai hoạt động do nhà đầu tư gặp khó khăn về tài chính (đa số từ Hàn Quốc,
Hồng Kông).
Từ năm 2000 đến 2003, dòng vốn ĐTNN vào Việt Nam bắt đầu có dấu
hiệu phục hồi chậm. Vốn đăng ký cấp mới năm 2000 đạt 2,7 triệu USD, tăng
21% so với năm 1999; năm 2001 tăng 18,2% so với năm 2000; năm 2002 vốn
đăng ký giảm, chỉ bằng 91,6% so với năm 2001, năm 2003 (đạt 3,1 tỷ USD),
tăng 6% so với năm 2002. Và có xu hướng tăng nhanh từ năm 2004 (đạt 4,5
tỷ USD) tăng 45,1% so với năm trước; năm 2005 tăng 50,8%; năm 2006 tăng
75,4% và năm 2007 đạt mức kỷ lục trong 20 năm qua 20,3 tỷ USD, tăng 69%
so với năm 2006, và tăng hơn gấp đôi so với năm 1996, năm cao nhất của thời
kỳ trước khủng hoảng.
Trong giai đoạn 2001-2005 thu hút vốn cấp mới (kể cả tăng vốn) đạt
20,8 tỷ USD vượt 73% so với mục tiêu tại Nghị quyết 09/2001/NQ-CP ngày
28/8/2001 của Chính phủ,vốn thực hiện đạt 14,3 tỷ USD tăng 30% so với mục
tiêu. Nhìn chung trong 5 năm 2001-2005, vốn ĐTNN cấp mới đều tăng đạt
mức năm sau cao hơn năm trước (tỷ trọng tăng trung bình 59,5%), nhưng đa
phần là các dự án có quy mô vừa và nhỏ. Đặc biệt trong 2 năm 2006-2007,

dòng vốn ĐTNN vào nước ta đã tăng đáng kể (32,3 tỷ USD) với sự xuất hiện
của nhiều dự án quy mô lớn đầu tư chủ yếu trong lĩnh vực công nghiệp (sản
xuất thép, điện tử, sản phẩm công nghệ cao, ) và dịch vụ (cảng biển, bất
động sản, công nghệ thông tin, du lịch-dịch vụ cao cấp .v.v.). Điều này cho
thấy dấu hiệu của “làn sóng ĐTNN” thứ hai vào Việt Nam.
3
1.2- T×nh h×nh ph¸t triÓn vèn ®Çu t
Cùng với việc thu hút các dự án đầu tư mới, nhiều dự án sau khi hoạt
động có hiệu quả đã mở rộng quy mô sản xuất-kinh doanh, tăng thêm vốn
đầu tư, nhất là từ năm 2001 trở lại đây. Tính đến hết năm 2007 có gần 4.100
lượt dự án tăng vốn đầu tư với tổng vốn tăng thêm hơn 18,9 tỷ USD, bằng
23,8% tổng vốn đầu tư đăng ký cấp mới.
Thời kỳ 1988-1990 việc tăng vốn đầu tư hầu như chưa có do số lượng
doanh nghiệp ĐTNN còn ít. Từ số vốn đầu tư tăng thêm đạt 2,13 tỷ USD
trong 5 năm 1991-1995 thì ở giai đoạn 1996-2000 đã tăng gần gấp đôi so với
5 năm trước (4,17 tỷ USD). Giai đoạn 2001-2005 vốn đầu tư tăng thêm đạt
7,08 tỷ USD (vượt 18% so dự kiến là 6 tỷ USD) tăng 69% so với 5 năm trước.
Trong đó, lượng vốn đầu tư tăng thêm vượt con số 1 tỷ USD bắt đầu từ năm
2002 và từ năm 2004 đến 2007 vốn tăng thêm mỗi năm đạt trên 2 tỷ USD,
mỗi năm trung bình tăng 35%.
Vốn tăng thêm chủ yếu tập trung vào các dự án thuộc lĩnh vực sản xuất
công nghiệp và xây dựng, đạt khoảng 40,6% trong giai đoạn 1991-1995 ;
65,7% trong giai đoạn 1996-2000, khoảng 77,3% trong thời kỳ 2001-2005.
Trong 2 năm 2006 và 2007 tỷ lệ tương ứng là 80,17% và 79,1% tổng vốn
tăng thêm.
Do vốn đầu tư chủ yếu từ các nhà đầu tư châu Á (59%) nên trong số
vốn tăng thêm, vốn mở rộng của các nhà đầu tư châu Á cũng chiếm tỷ trọng
cao nhất 66,8% trong giai đoạn 1991-1995, đạt 67% trong giai đoạn 1996-
2000, đạt 70,3% trong thời kỳ 2001-2005. Trong 2 năm 2006 và 2007 tỷ lệ
tương ứng là 72,1% và 80%.

Việc tăng vốn đầu tư mở rộng sản xuất thực hiện chủ yếu tại các vùng
kinh tế trọng điểm nơi tập trung nhiều dự án có vốn ĐTNN: Vùng trọng điểm
phía Nam chiếm 55,5% trong giai đoạn 1991-1995 ; đạt 68,1% trong thời kỳ
1996-2000 và 71,5% trong giai đoạn 2001-2005. Trong 2 năm 2006 và 2007
tỷ lệ tương ứng là 71% và 65%. Vùng trọng điểm phía Bắc có tỷ lệ tương
ứng là 36,7%; 20,4% ; 21,1% ; 24% và 20%.
Qua khảo sát của Tổ chức Xúc tiến thương mại Nhật Bản -JETRO tại
Việt Nam có trên 70% doanh nghiệp ĐTNN được điều tra có kế hoạch tăng
vốn, mở rộng sản xuất tại Việt Nam. Điều này chứng tỏ sự tin tưởng và an
tâm của nhà ĐTNN vào môi trường đầu tư-kinh doanh tại Việt Nam.
1.3- Qui m« dù ¸n
Qua các thời kỳ, quy mô dự án ĐTNN có sự biến động thể hiện khả
năng tài chính cũng như sự quan tâm của các nhà ĐTNN đối với môi trường
đầu tư Việt Nam. Quy mô vốn đầu tư bình quân của một dự án ĐTNN tăng
dần qua các giai đoạn, tuy có “trầm lắng” trong vài năm sau khủng hoảng tài
chính khu vực 1997. Thời kỳ 1988-1990 quy mô vốn đầu tư đăng ký bình
quân đạt 7,5 triệu USD/dự án/năm. Từ mức quy mô vốn đăng ký bình quân
4
ca mt d ỏn t 11,6 triu USD trong giai on 1991-1995 ó tng lờn 12,3
triu USD/d ỏn trong 5 nm 1996-2000. iu ny th hin s lng cỏc d
ỏn quy mụ ln c cp phộp trong giai on 1996-2000 nhiu hn trong 5
nm trc. Tuy nhiờn, quy mụ vn ng ký trờn gim xung 3,4 triu USD/d
ỏn trong thi k 2001-2005. iu ny cho thy a phn cỏc d ỏn cp mi
trong giai on 2001-2005 thuc d ỏn cú quy mụ va v nh. Trong 2 nm
2006 v 2007, quy mụ vn u t trung bỡnh ca mt d ỏn u mc 14,4
triu USD, cho thy s d ỏn cú quy mụ ln ó tng lờn so vi thi k trc,
th hin qua s quan tõm ca mt s tp on a quc gia u t vo mt s
d ỏn ln (Intel, Panasonic, Honhai, Compal, Piaggio ).
1.4- Cơ cấu vốn đầu t nớc ngoài
1.4.1- ĐTNN phân theo ngành nghề

- Lĩnh vực công nghiệp và xây dựng
T khi ban hnh Lut u t nc ngoi nm 1987, Vit Nam ó chỳ
trng thu hỳt TNN vo lnh vc cụng nghip-xõy dng. Qua mi giai on
cỏc lnh vc u tiờn thu hỳt u t, cỏc sn phm c th c xỏc nh ti
Danh mc cỏc lnh vc khuyn khớch v c bit khuyn khớch u t. Trong
nhng nm 90 thc hin ch trng thu hỳt TNN, Chớnh ph ban hnh
chớnh sỏch u ói, khuyn khớch cỏc d ỏn : (i) sn xut sn phm thay th
hng nhp khu, (ii) sn xut hng xut khu (cú t l xut khu 50% hoc
80% tr lờn), (iii) s dng ngun nguyờn liu trong nc v cú t l ni a
hoỏ cao.
Sau khi gia nhp v thc hin cam kt vi WTO (nm 2006), Vit Nam
ó bói b cỏc quy nh v u ói i vi d ỏn cú t l xut khu cao, khụng
yờu cu bt buc thc hin t l ni a hoỏ v s dng nguyờn liu trong
nc. Qua cỏc thi k, nh hng thu hỳt TNN lnh vc cụng nghip- xõy
dng tuy cú thay i v lnh vc, sn phm c th nhng c bn vn theo nh
hng khuyn khớch sn xut vt liu mi, sn phm cụng ngh cao, cụng
ngh thụng tin, c khớ ch to, thit b c khớ chớnh xỏc, sn xut sn phm v
linh kin in t õy cng chớnh l cỏc d ỏn cú kh nng to giỏ tr gia
tng cao v Vit Nam cú li th so sỏnh khi thu hỳt TNN. Nh vy, cho
n nay cỏc d ỏn TNN thuc cỏc lnh vc nờu trờn (thm dũ v khai thỏc
du khớ, sn xut cỏc sn phm cụng ngh cao, sn phm in v in t, sn
xut st thộp, sn xut hng dt may ) vn gi vai trũ quan trng úng gúp
cho tng trng kinh t, xut khu v to nhiu vic lm v ngun thu nhp
n nh cho hng triu lao ng trc tip. C cu u t cú chuyn bin tớch
cc theo hng gia tng t trng u t vo lnh vc cụng ngh cao, lc du
v cụng ngh thụng tin (IT) vi s cú mt ca cỏc tp on a quc gia ni
ting th gii: Intel, Panasonic, Canon, Robotech.v.v. Hu ht cỏc d ỏn
TNN ny s dng thit b hin i xp x 100% v t ng hoỏ t 100%
5
cho sn lng, nng sut, cht lng cao, do ú cú nh hng ln n cỏc ch

tiờu giỏ tr ca ton ngnh.
Tớnh n ht nm 2007, lnh vc cụng nghip v xõy dng cú t trng ln
nht vi 5.745 d ỏn cũn hiu lc, tng vn ng ký hn 50 t USD, chim
66,8% v s d ỏn, 61% tng vn ng ký v 68,5% vn thc hin.
Stt Chuyên
nghành
Số dự án Vốn đầu t-
(USD)
Vốn thực
hiện(USD)
1 CN dầu khí 38 3.861.511.815 5.148.473.303
2 CN nhẹ 2,542 13.268.720.908 3.639.419.314
3 CN nặng 2,404 23.976.819.332 7.049.365.865
4 CN thực
phẩm
310 3.621.835.550 2.058.406.260
5 Xây dựng 451 5.301.060.927 2.146.923.027
Tổng số 5,745 50.029.948.532 20.042.587.769
- ĐTNN trong lĩnh vực dịch vụ
Nc ta ó cú nhiu ch trng chớnh sỏch, to iu kin thun li cho
hot ng kinh doanh dch v phỏt trin t khi thi hnh Lut u t nc
ngoi (1987). Nh vy, khu vc dch v ó cú s chuyn bin tớch cc ỏp
ng ngy cng tt hn nhu cu sn xut, tiờu dựng v i sng nhõn dõn, gúp
phn y nhanh tng trng kinh t. Mt s ngnh dch v (bu chớnh vin
thụng, ti chớnh, ngõn hng, bo him, vn ti hng khụng, vn ti bin, du
lch, kinh doanh bt ng sn) tng trng nhanh, thu hỳt nhiu lao ng v
thỳc y xut khu. Cựng vi vic thc hin l trỡnh cam kt thng mi dch
v trong WTO, Vit Nam tip tc y mnh thu hỳt TNN, phỏt trin cỏc
ngnh dch v trc tip phc v sn xut v xut khu.
Trong khu vc dch v TNN tp trung ch yu vo kinh doanh bt ng sn,

bao gm: xõy dng cn h, vn phũng, phỏt trin khu ụ th mi, kinh doanh
h tng khu cụng nghip (42% tng vn TNN trong khu vc dch v), du
lch-khỏch sn (24%), giao thụng vn ti-bu in (18%)
TT
Chuyên nghành số dự án Vốn đầu t-
(triệu USD)
đầu t đã thực
hiện(triệu
USD)
1 Giao thụng vn ti-Bu
in ( bao gm c dch
v logicstics)
208 4.287 721
2 Giao thụng vn ti-Bu
in ( bao gm c dch
v logicstics)
223 5.883 2.401
3 Xõy dng vn phũng,
cn h bỏn v cho
153 9.262 1.892
6
thuê
4 Phát triển khu đô thị
mới
9 3.477 283
5 Kinh doanh hạ tầng
KCN-KCX
58 1.406 576
6 Tài chính – ngân hàng 66 897 714
7 Văn hoá - y tế – giáo

dục
271 1.248 367
8 Dịch vụ khác (giám
định, tư vấn, trợ giúp
pháp lý, nghiên cứu thị
trường )
954 2145 443
Tæng céng 1.912 28.609 7.399
- §TNN trong lÜnh vùc N«ng-L©m-Ng
Dành ưu đãi cho các dự án đầu tư vào lĩnh vực Nông Lâm ngư nghiệp
đã được chú trọng ngày từ khi có luật đầu tư nước ngoài 1987. Tuy nhiên đến
nay do nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân rủi ro đầu tư cao trong
lĩnh vực này, nên kết quả thu hút ĐTNN vào lĩnh vực Nông – Lâm ngư chưa
được như mong muốn.
Đến hết năm 2007, lĩnh vực Nông- Lâm- Ngư nghiệp có 933 dự án còn
hiệu lực, tổng vốn đăng ký hơn 4,4 tỷ USD, đã thực hiện khoảng 2,02 tỷ
USD; chiếm 10,8% về số dự án ; 5,37% tổng vốn đăng ký và 6,9% vốn thực
hiện, (giảm từ 7,4% so với năm 2006). Trong đó, các dự án về chế biến nông
sản, thực phẩm chiếm tỷ trọng lớn nhất 53,71% tổng vốn đăng ký của ngành,
trong đó, các dự án hoạt động có hiệu quả bao gồm chế biến mía đường, gạo,
xay xát bột mì, sắn, rau. Tiếp theo là các dự án trồng rừng và chế biến lâm
sản, chiếm 24,67% tổng vốn đăng ký của ngành. Rồi tới lĩnh vực chăn nuôi và
chế biến thức ăn gia súc chiếm 12,7%. Cuối cùng là lĩnh vực trồng trọt, chỉ
chiếm gần 9% tổng số dự án. Có 130 dự án thuỷ sản với vốn đăng ký là 450
triệu USD,
Cho đến nay, đã có 50 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư trực tiếp vào
ngành nông-lâm-ngư nghiệp nước ta, trong đó, các nước châu Á ( Đài Loan,
Nhật Bản, Trung Quốc, Hồng Kông, ) chiếm 60% tổng vốn đăng ký vào
ngành nông nghiệp (riêng Đài Loan là 28%). Các nước thuộc EU đầu tư vào
Việt Nam đáng kể nhất gồm có Pháp (8%), quần đảo British Virgin Islands

(11%). Một số nước có ngành nông nghiệp phát triển mạnh (Hoa Kỳ,
Canada, Australi)a vẫn chưa thực sự đầu tư vào ngành nông nghiệp nước ta.
Các dự án ĐTNN trong ngành nông-lâm-ngư nghiệp tập trung chủ yếu
ở phía Nam. Vùng Đông Nam Bộ chiếm 54% tổng vốn đăng ký của ngành,
đồng bằng sông Cửu Long 13%, duyên hải Nam Trung Bộ 15%. Miền Bắc
7
và khu vực miền Trung, lượng vốn đầu tư còn rất thấp, ngay như vùng đồng
bằng sông Hồng lượng vốn đăng ký cũng chỉ đạt 5% so với tổng vốn đăng ký
của cả nước.
STT
Nông, lâm
nghiệp
Số dự án
Vốn đăng ký
(USD)
Vốn thực hiện
(USD)
1
Nông-Lâm
nghiệp

803

4,014,833,499

1,856,710,521
2 Thủy sản

130


450,187,779

169,822,132
Tổng số

933

4,465,021,278

2,026,532,653
1.4.2- §TNN ph©n theo vïng l·nh thæ
Qua 20 thu hút, ĐTNN đã trải rộng khắp cả nước, không còn địa
phương “trắng” ĐTNN nhưng tập trung chủ yếu tại các địa bàn trọng điểm, có
lợi thế, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế của địa phương, làm cho các
vùng này thực sự là vùng kinh tế động lực, lôi kéo phát triển kinh tế-xã hội
chung và các vùng phụ cận.
Vùng trọng điểm phía Bắc có 2.220 dự án còn hiệu lực với vốn đầu tư
trên 24 tỷ USD, chiếm 26% về số dự án, 27% tổng vốn đăng ký cả nước và
24% tổng vốn thực hiện của cả nước; trong đó Hà Nội đứng đầu (987 dự án
với tổng vốn đăng ký 12,4 tỷ USD) chiếm 51% vốn đăng ký và 50% vốn thực
hiện cả vùng. Tiếp theo thứ tự là Hải Phòng (268 dự án với tổng vốn đăng ký
2,6 tỷ USD), Vĩnh Phúc (140 dự án với tổng vốn đăng ký 1,8 tỷ USD), Hải
Dương (271 dự án với tổng vốn đăng ký 1,7 tỷ USD), Hà Tây (74 dự án với
tổng vốn đăng ký 1,5 tỷ USD), Bắc Ninh (106 dự án với tổng vốn đăng ký
0,93 tỷ USD) và Quảng Ninh (94 dự án với tổng vốn đăng ký 0,77 tỷ USD).
Vùng trọng điểm phía Nam thu hút 5.293 dự án với tổng vốn đầu tư
44,87 tỷ USD, chiếm 54% tổng vốn đăng ký, trong đó, tp Hồ Chí Minh dẫn
đầu cả nước (2.398 dự án với tổng vốn đăng ký 16,5 tỷ USD) chiếm 36,9%
tổng vốn đăng ký của Vùng. Tiếp theo thứ tự là Đồng Nai (918 dự án với tổng
vốn đăng ký 11,6 tỷ USD) chiếm 25,9% vốn đăng ký của Vùng, Bình Dương

(1.570 dự án với tổng vốn đăng ký 8,4 tỷ USD) chiếm 18,8% vốn đăng ký của
Vùng; Bà Rịa-Vũng Tàu (159 dự án với tổng vốn đăng ký 6,1 tỷ USD) chiếm
13,6% vốn đăng ký của Vùng; Long An (188 dự án với tổng vốn đăng ký 1,8
tỷ USD) chiếm 4,1% vốn đăng ký của Vùng. Điều này, minh chứng cho việc
triển khai thực hiện Nghị quyết 09/2001/NQ-CP ngày 28/8/2001 của Chính
phủ và Chỉ thị 19/2001/CT-TTg ngày 28/8/2001 của Thủ tướng Chính phủ về
tăng cường thu hút và nâng cao hiệu quả ĐTNN thời kỳ 2001-2005
Chính vì vậy, ngoài một số địa phương vốn có ưu thế trong thu hút vốn
ĐTNN (Hà Nội, tp Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Bình Dương, Bà Rịa-Vũng Tàu,
8
Hải Phòng, Quảng Ninh) một số địa phương khác (Vĩnh Phúc, Bắc Ninh, Phú
Yên, Hà Tây ) do yếu tố tích cực của chính quyền địa phương nên việc thu
hút vốn ĐTNN đã chuyển biến mạnh, tác động tới cơ cấu kinh tế trên địa bàn.
Năm 2004 công nghiệp có vốn ĐTNN chiếm 86% giá trị sản xuất công
nghiệp của tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu, 81% của tỉnh Vĩnh Phúc, 70% của tỉnh
Đồng Nai, 65% của tỉnh Bình Dương, 46% của Thành phố Hải Phòng, 35%
của Thành phố Hà Nội và 27% của thành phố Hồ Chí Minh. Đối với Hà Nội
và thành phố Hồ Chí Minh đang chuyển dần sang trở thành trung tâm dịch vụ
cao cấp của cả vùng (bưu chính, viễn thông, tài chính, ngân hàng ) cũng như
hướng thu hút vốn ĐTNN vào các ngành công nghệ cao thông qua một số khu
công nghệ cao (Quang Trung, Hòa Lạc)
Vùng trọng điểm miền Trung thu hút được 491 dự án với tổng vốn đăng
ký 8,6 tỷ USD qua 20 năm thực hiện Luật Đầu tư, chiếm 6% tổng vốn đăng
ký của cả nước, trong đó: Phú Yên (39 dự án với tổng vốn đăng ký 1,9 tỷ
USD) hiện đứng đầu các tỉnh miền Trung với dự án xây dựng nhà máy lọc
dầu Vũng Rô có vốn đăng ký 1,7 tỷ USD. Tiếp theo là Đà Nẵng (113 dự án
với tổng vốn đăng ký 1,8 tỷ USD), Quảng Nam (15 dự án với tổng vốn đăng
ký 1,1 tỷ USD) đã có nhiều tiến bộ trong thu hút vốn ĐTNN, nhất là đầu tư
vào xây dựng các khu du lịch, trung tâm nghỉ dưỡng, vui chơi đạt tiêu chuẩn
quốc tế, bước đầu đã góp phần giảm tình trạng “cháy” buồng, phòng cho

khách du lịch, nhưng nhìn chung vẫn còn dưới mức nhu cầu và tiềm năng của
vùng. Tây Nguyên cũng ở trạng thái thu hút vốn ĐTNN còn khiêm tốn như
vùng Đông Bắc và Tây Bắc, trong đó, tuy Lâm Đồng (93 dự án với tổng vốn
đăng ký 318,4 triệu USD) đứng đầu các tỉnh khu vực Tây Nguyên nhưng chỉ
chiếm tỷ trọng 1% về số dự án. Đồng bằng sông Cửu Long thu hút vốn
ĐTNN còn thấp so với các vùng khác, chiếm 3,6% về số dự án và 4,4% về
vốn đăng ký và 3,2% vốn thực hiện của cả nước.
1.4.3-§TNN ph©n theo h×nh thøc ®Çu t
Tính đến hết năm 2007, chủ yếu các doanh nghiệp ĐTNN thực hiện theo hình
thức 100% vốn nước ngoài, có 6.685 dự án ĐTNN với tổng vốn đăng ký 51,2
tỷ USD, chiếm 77,2% về số dự án và 61,6% tổng vốn đăng ký. Theo hình
thức liên doanh có 1.619 dự án với tổng vốn đăng ký 23,8 tỷ USD, chiếm
18,8% về số dự án và 28,7% tổng vốn đăng ký. Theo hình thức Hợp đồng hợp
tác kinh doanh có 221 dự án với tổng vốn đăng ký 4,5 tỷ USD chiếm 2,5% về
số dự án và 5,5% tổng vốn đăng ký. Số còn lại thuộc các hình thức khác như
BOT, BT, BTO. Có thể so sánh tỷ trọng dự án hoạt động theo hình thức 100%
vốn nước ngoài tính đến hết năm 2004 là 39,9%, theo hình thức liên doanh là
40,6% và theo hình thứuc hợp doanh là 19,5% để thấy được hình thức 100%
vốn nước ngoài được các nhà đầu tư lựa chọn hơn.
1.4.4- §TNN ph©n theo ®èi t¸c ®Çu t
9
Thực hiện phương châm của Đảng và Chính phủ “đa phương hóa, đa
dạng hóa quan hệ hợp tác Việt Nam muốn làm bạn với các nước trong khu
vực và thế giới ” được cụ thể hóa qua hệ thống pháp luật ĐTNN, qua 20 năm
đã có 81 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư tại Việt Nam với tổng vốn đăng ký
trên 83 tỷ đô la Mỹ. Trong đó, các nước Châu Á chiếm 69%, trong đó khối
ASEAN chiếm 19% tổng vốn đăng ký. Các nước châu Âu chiếm 24%, trong
đó EU chiếm 10%. Các nước Châu Mỹ chiếm 5%, riêng Hoa Kỳ chiếm 3,6%.
Tuy nhiên, nếu tính cả số vốn đầu tư từ các chi nhánh tại nước thứ 3 của các
nhà đầu tư Hoa Kỳ thì vốn đầu tư của Hoa Kỳ tại Việt Nam sẽ đạt con số trên

3 tỷ USD, đứng vị trí thứ 5 trong tổng số 80 quốc gia và vùng lãnh thổ có đầu
tư tại Việt Nam, ví dụ Tập đoàn Intel không đầu tư thẳng từ Mỹ vào Việt
Nam mà thông qua chi nhánh tại Hồng Kông. Hai nước châu Úc (New
Zealand và Australia) chỉ chiếm 1% tổng vốn đăng ký.
Hiện đã có 15 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư vốn đăng ký cam kết
trên 1 tỷ USD tại Việt Nam (xem Phụ lục). Đứng đầu là Hàn Quốc vốn đăng
ký 13,5 tỷ USD, thứ 2 là Singapore 10,7 tỷ USD, thứ 3 là Đài loan 10,5 tỷ
USD (đồng thời cũng đứng thứ 3 trong giải ngân vốn đạt 3,07 tỷ USD), thứ 4
là Nhật Bản 9,03 tỷ USD. Nhưng nếu tính về vốn thực hiện thì Nhật Bản
đứng đầu với vốn giải ngân đạt gần 5 tỷ USD, tiếp theo là Singapore đứng thứ
2 đạt 3,8 tỷ USD. Hàn Quốc đứng thứ 4 với vốn giải ngân đạt 2,7 tỷ USD.
Trong nhưng năm đầu 90 thực hiện Luật Đầu tư, chủ yếu là dự án quy mô nhỏ
và từ các quốc gia và vùng lãnh thổ thuộc châu Á, như Hồng Kông, Hàn Quốc
và Đài Loan. Cho tới hết năm 2007, vốn ĐTNN vào Việt Nam vẫn từ các
nước châu Á mặc dù Đảng và Chính phủ đã có Nghị quyết 09 đã đề ra ba định
hướng thu hút ĐTNN.
2- T×nh h×nh triÓn khai ho¹t ®éng s¶n xuÊt kinh doanh cña c¸c dù ¸n §TNN
2.1- Vèn gi¶i ng©n §TNN tõ 1988 ®Õn 2007
Trong số 8.590 dự án còn hiệu lực với tổng vốn đăng ký hơn 83 tỷ đô la
Mỹ, đã có khoảng 50% dự án triển khai góp vốn thực hiện đạt hơn 43 tỷ USD
(bao gồm cả vốn thực hiện của các dự án hết thời hạn hoạt động và giải thể
trước thời hạn), chiếm 52,3% tổng vốn đăng ký, trong đó, vốn của bên nước
ngoài đưa vào (gồm vốn góp và vốn vay) khoảng 37,9 tỷ USD, chiếm 89,5%
tổng vốn thực hiện, các dự án ĐTNN đã bổ sung nguồn vốn quan trọng cho
đầu tư phát triển kinh tế-xã hội đất nước qua từng thời kỳ theo mục tiêu kế
hoạch đề ra.
Vốn thực hiện có xu hướng tăng qua các năm nhưng với tốc độ chậm
trong khi vốn đăng ký và số lượng dự án cấp mới biến động tăng mạnh. Nếu
như cả giai đoạn 1991-1995 vốn thực hiện mới đạt 7,1 tỷ USD, chiếm 44%
tổng vốn đăng ký mới ( bao gồm phần vốn góp của Bên Việt Nam trên 1 tỷ

USD - chủ yếu là giá trị quyền sử dụng đất và vốn nước ngoài đưa vào
khoảng 6,1 tỷ USD) thì trong thời kỳ 1996-2000, mặc dù có ảnh hưởng tiêu
10
cực của khủng hoảng kinh tế khu vực, vốn thực hiện đã đạt 13,5 tỷ USD, tăng
89% so với 5 năm trước, chiếm 64,8% tổng vốn đăng ký mới (trong đó, vốn
góp của Bên Việt Nam là 1,4 tỷ USD và vốn từ nước ngoài đạt 12 tỷ USD) và
tăng 90% so với 5 năm trước. Trong 5 năm 2001-2005 vốn thực hiện đạt 14,3
tỷ USD, chiếm 64,8% tổng vốn đăng ký mới, tăng 6% so với 5 năm trước và
vượt 30% dự báo ban đầu (11 tỷ USD) nêu tại Nghị quyết 09/2001/NQ-CP,
trong đó, vốn góp của Bên Việt Nam đạt trên 1,1 tỷ USD và vốn từ nước
ngoài đạt 12,6 tỷ USD. Riêng hai năm 2006 và 2007 tổng vốn thực hiện đạt
8,7 tỷ USD (trong đó, vốn góp của Bên Việt Nam đạt gần 1 tỷ USD và vốn từ
nước ngoài đạt 7,7 tỷ USD), tuy chỉ bằng 27% tổng vốn đăng ký mới, nhưng
vốn thực hiện năm 2007 tăng 12% so với năm 2006, và sẽ là tiền đề cho việc
giải ngân của 2 năm tới 2008 và 2009 tăng cao vì trong các dự án cấp mới
trong 2 năm 2006 và 2007 có nhiều dự án quy mô vốn đăng ký lớn.
2.2- TriÓn khai ho¹t ®éng s¶n xuÊt kinh doanh cua d ¸n §TNN
Trong 20 năm qua, khu vực kinh tế có vốn ĐTNN đã góp phần đáng kể
trong quá trình phát triển kinh tế-xã hội đất nước bằng việc tạo ra tổng giá trị
doanh thu đáng kể, trong đó có giá trị xuất khẩu, cũng như đóng góp tích cực
vào ngân sách và tạo việc làm và thu nhập ổn định cho người lao động. Đồng
thời, tiếp tục khẳng định vai trò trong sự nghiệp phát triển kinh tế, đóng góp
ngày càng lớn vào tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của đất nước và thực sự trở
thành bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế. Từ mức đóng góp trung
bình 6,3% của GDP trong giai đoạn 1991-1995, khu vực doanh nghiệp ĐTNN
đã tăng lên 10,3% GDP của 5 năm 1996-2000. Trong thời kỳ 2001-2005, tỷ
trọng trên đạt trung bình là 14,6%. Riêng năm 2005, khu vực ĐTNN đóng
góp khoảng 15,5% GDP, cao hơn mục tiêu đề ra tại Nghị quyết 09 (15%).
Trong hai năm 2006 và 2007 khu vực kinh tế có vốn ĐTNN đóng góp trên
17% GDP.

Nếu trong giai đoạn 1991-1995 tổng giá trị doanh thu mới đạt 4,1 tỷ
USD (trong đó giá trị xuất khẩu không tính dầu thô đạt 1,2 tỷ USD, chiếm
30% tổng doanh thu) thì trong thời kỳ 1996-2000 tổng giá trị doanh thu đã đạt
27,09 tỷ USD (trong đó giá trị xuất khẩu không tính dầu thô đạt 10,59 tỷ
USD, chiếm 39% tổng doanh thu), tăng gấp 6,5 lần so với 5 năm trước. Trong
giai đoạn 2001-2005 tổng giá trị doanh thu đạt 77,4 tỷ USD (trong đó giá trị
xuất khẩu không tính dầu thô đạt 34,6 tỷ USD, chiếm 44,7% tổng doanh thu),
tăng gấp 2,8 lần so với 5 năm 1996-2000. Trong hai năm 2006, 2007 tổng giá
trị doanh thu đạt 69 tỷ USD, trong đó giá trị xuất khẩu (trừ dầu thô) đạt 28,6
tỷ USD, chiếm 41% tổng doanh thu.
Không kể dầu thô, giá trị xuất khẩu của khu vực có vốn ĐTNN cũng
gia tăng nhanh chóng. Cả thời kỳ 1991-1995 tổng giá trị xuất khẩu mới đạt
1,2 tỷ USD, nhưng đã tăng lên 10,5 tỷ USD trong giai đoạn 1996-2000, gấp
hơn 8 lần so với 5 năm trước. Trong 5 năm 2001-2005, giá trị trên đạt hơn
11
34,6 tỷ USD, cao gấp 3 lần so với thời kỳ 5 năm trước, trong đó năm sau tăng
hơn năm trước, năm 2002 tăng 25%, năm 2003 tăng 38%, năm 2004 tăng
39%, năm 2005 đạt 11,2 tỷ USD, tăng 26%, đóng góp 35% tổng giá trị kim
ngạch xuất khẩu của cả nước; tính cả dầu thô tỷ lệ này là 56%. Năm 2006 giá
trị xuất khẩu của khu vực có vốn ĐTNN đạt (nếu tính cả dầu thô) đạt 12,6 tỷ
USD, chiếm trên 57% tổng giá trị xuất khẩu của cả nước. Năm 2007, giá trị
xuất khẩu của khu vực có vốn ĐTNN đạt 19,7 triệu USD, nếu tính cả dầu thô
thì giá trị xuất khẩu là 27,3 tỷ USD, chiếm 56,8% tổng giá trị xuất khẩu của
cả nước.
Tuy những năm đầu thi hành Luật Đầu tư nước ngoài, khu vực kinh tế
có vốn ĐTNN được hưởng chính sách ưu đãi của Nhà nước, nhưng cũng đã
tích cực đóng góp vào ngân sách nhà nước, thể hiện qua việc thu nộp ngân
sách tăng dần qua các năm và bắt đầu vượt ngưỡng 1 tỷ USD từ năm 2005
(đạt 1,29 tỷ USD, tăng 39,5% so với năm trước và chiếm 12% tổng thu ngân
sách nhà nước, vượt mục tiêu đề ra tại Nghị quyết 09 (10%). Giai đoạn 1991-

1995 do chính sách ưu đãi, khuyến khích ĐTNN của Nhà nước ta nên các
doanh nghiệp ĐTNN đóng góp ngân sách còn hạn chế 115 triệu USD, nhưng
con số này đã tăng hơn 10 lần trong thời kỳ 1996-2000 (đạt 1,49 tỷ USD). Lý
do một số doanh nghiệp ĐTNN đã qua thời gian hưởng chính sách ưu đãi
thuế của nhà nước. Giai đoạn 2001-2005 khu vực doanh nghiệp ĐTNN đã
nộp ngân sách hơn 3,6 tỷ USD, tăng gấp hơn 2 lần 5 năm trước. Năm 2006
con số trên đạt 1,4 tỷ USD, bằng cả 5 năm 1996-2000. Năm 2007, dự kiến thu
ngân sách đạt 1,576 tỷ USD, tăng 7% so với năm trước.
Đồng thời, khu vực kinh tế có vốn ĐTNN cũng tạo việc làm và thu
nhập ổn định cho một bộ phận dân cư, tính từ 1988 đến cuối 2007 có trên
1,26 triệu lao động trực tiếp, chưa kể số lao động gián tiếp khác làm việc
trong khu vực dịch vụ mà theo kết quả điều tra của Ngân hàng Thế giới, cứ 1
lao động trực tiếp sẽ tạo việc làm cho khoảng từ 2-3 lao động gián tiếp khác.
Số lao động làm việc trong các doanh nghiệp ĐTNN cũng tăng lên qua từng
giai đoạn, từ 21 vạn người vào cuối năm 1995 đã tăng lên 37,9 vạn người vào
cuối năm 2000, tăng 80% so với 5 năm trước. Đến cuối năm 2005 đã tăng
gấp 2,5 lần so với 5 năm trước thể hiện số lượng các doanh nghiệp đi vào
triển khai dự án tăng lên. Trong 2 năm 2006 và 2007 do lượng dự án vào
nhiều và triển khai nhanh nên số lượng lao động trong khu vực ĐTNN tính
đến cuối 2 năm này đã tăng 9,9% và 12% so với cuối năm 2005.
2.3- T×nh h×nh §TNN quý ®Çu cña n¨m 2008
Trong quý I năm 2008, các doanh nghiệp ĐTNN đã góp vốn đầu tư thực hiện
trên 1,68 tỷ USD, tăng 24% so với vốn thực hiện của cùng kỳ năm
trước.Doanh thu của các doanh nghiệp ĐTNN trong qúy I năm 2008 ước tính
12
đạt 7.600 triệu USD, tăng 27% so với cùng kỳ năm trước; trong đó giá trị xuất
khẩu ước đạt 5.398 triệu USD, tăng 20% so với cùng kỳ; nhập khẩu đạt 6100
triệu USD, tăng 39% so với cùng kỳ năm trước, nộp ngân sách 355 triệu
USD, tăng 19% so với cùng kỳ.Trong tháng 3 năm 2008, khối doanh nghiệp
ĐTNN đã thu hút thêm được 12.000 lao động, đưa tổng số lao động trong khu

vực có vốn ĐTNN tính đến thời điểm này lên 1.172 nghìn lao động, tăng 13%
so với cùng kỳ năm trước.
Trong tháng 3/2008, cả nước có 75 dự án được cấp Giấy chứng nhận đầu tư
với tổng vốn đầu tư đăng ký là 2.627 triệu USD, đưa tổng số dự án cấp mới
trong quý I năm 2008 lên 147 dự án với tổng vốn đầu tư đăng ký là 5.156
triệu USD, bằng 36% số dự án và tăng 43% về vốn đăng ký so với cùng kỳ
năm trước.
Vốn đăng ký cấp mới trong quý I năm 2008 tăng khá cao so với cùng kỳ năm
2007 do có nhiều dự án lớn được cấp GCNĐT, trong đó có: dự án Công ty
TNHH Good Choice USA - Việt Nam của tập đoàn Good Choice – Hoa Kỳ
đầu tư xây dựng khách sạn 5 sao, khu vui chơi giải trí, ẩm thực tại Bà Rịa
Vũng Tàu với tổng vốn đầu tư là 1,299 tỷ USD; dự án Công ty TNHH trung
tâm tài chính Việt Nam do tập đoàn Berjaya Leisure, Malaysia đầu tư, mục
tiêu là kinh doanh bất động sản với tổng vốn đầu tư 930 triệu USD; dự án
Công ty cổ phần phát triển nguồn nhân lực Việt – Nhật do 3 Công ty của Nhật
Bản làm chủ đầu tư, mục tiêu dự án là đầu tư xây dựng cao ốc văn phòng cho
thuê, sản xuất phần mềm, cung ứng nguồn nhân lực với tổng vốn đầu tư là
610,3 triệu USD; dự án Công ty TNHH Đầu tư và phát triển Lập An của
Singapore, đầu tư xây dựng khu khách sạn, du lịch 5 sao, bán và cho thuê biệt
thự, nhà ở tại Thừa Thiên Huế với tổng vốn đầu tư là 298,4 triệu USD.
Về đối tác đầu tư, Hoa Kỳ là nhà đầu tư có số vốn đầu tư đăng ký lớn nhất
trong quý I năm 2008 với 8 dự án, tổng vốn đầu tư là 1,31 tỷ USD (chiếm
25,5% tổng vốn đầu tư đăng ký), do có dự án Công ty TNHH Good Choice
USA - Việt Nam nói trên. Tiếp theo là Malaysia với 4 dự án, tổng vốn đầu tư
là 1,26 tỷ USD, chiếm 24,6% tổng vốn đầu tư
Về lĩnh vực đầu tư, trong quý I năm 2008, vốn đầu tư đăng ký tập trung nhiều
nhất trong lĩnh vực dịch vụ với hơn 4,6 tỷ USD vốn đầu tư, chiếm 89,9% tổng
vốn đầu tư, trong đó chiếm tỷ lệ cao nhất là các dự án kinh doanh bất động
sản, khách sạn. Lĩnh vực công nghiệp chiếm 10% tổng vốn đầu tư đăng ký.
Số còn lại thuộc lĩnh vực nông-lâm-ngư.

13
Về cơ cấu vùng, thành phố Hồ Chí Minh dẫn đầu cả nước với 4 dự án, tổng
vốn đầu tư là 2,08 tỷ USD, chiếm 40,3% vốn đầu tư; tiếp theo là Bà Rịa –
Vũng Tàu với 1 dự án, vốn đầu tư là 1,29 tỷ USD, chiếm 25,2% tổng vốn đầu
tư đăng ký; TP Hồ Chí Minh đứng thứ 2, chiếm 24,1% và Thừa Thiên Huế
đứng thứ 3, chiếm 11,8%, trong 23 địa phương của cả nước có dự án ĐTNN.
Trong qúy I năm 2008 có 49 lượt dự án tăng vốn đầu tư với tổng vốn đầu tư
đăng ký tăng thêm là 280,3 triệu USD, bằng 47% về số lượt dự án tăng vốn và
52% tổng vốn tăng thêm so với cùng kỳ năm trước.
Tính chung cả vốn cấp mới và tăng thêm trong quý I năm 2008, cả nước đã
thu hút thêm 5.436 triệu USD vốn đầu tư đăng ký, tăng 31% so với cùng kỳ
năm 2007.
IV-KÕt qu¶ ®¹t ® îc tõ §TNN taÞ ViÖt Nam
1-VÒ kinh tÕ
- ĐTNN là nguồn vốn bổ sung quan trọng cho vốn đầu tư đáp ứng nhu
cầu đầu tư phát triển xã hội và tăng trưởng kinh tế:
Đóng góp của ĐTNN trong tổng vốn đầu tư xã hội có biến động lớn, từ
tỷ trọng chiếm 13,1% vào năm 1990 đã tăng lên mức 32,3% trong năm 1995.
Tỷ lệ này đã giảm dần trong giai đoạn 1996-2000, do ảnh hưởng của khủng
hoảng tài chính khu vực (năm 2000 chiếm 18,6%) và trong 5 năm 2001-2005
chiếm khoảng 16% tổng vốn đầu tư xã hội; hai năm 2006-2007 chiếm
khoảng 16% (Theo Niên giám Thống kê cơ cấu vốn đầu tư thực hiện của khu
vực ĐTNN năm 2003 là 16%, năm 2004 là 14,2%, năm 2005 là 14,9% và
năm 2006 là 15,9%, ước năm 2007 đạt trên 16%).

Vốn ĐTNN đã góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế đất nước. Từ năm
1991-2000, GDP tăng liên tục qua các năm với tốc động tăng bình quân mỗi
năm 7,56%, trong đó: 5 năm 1991-1995: tăng 8,18% (nông lâm ngư tăng
2,4%; công nghiệp xây dựng tăng 11,3%, dịch vụ tăng 7,2%); 5 năm 1996-
2000: tăng 6,94% (nông lâm ngư tăng 4,3%; công nghiệp xây dựng tăng

10,6%, dịch vụ tăng 5,75%). Nhờ vậy, đến năm 2000 tổng sản phẩm trong
nước tăng gấp hơn 2 lần năm 1990: 5 năm 2001-2005: tốc độ tăng GDP đạt
7,5% (nông lâm ngư tăng 3,8%; công nghiệp xây dựng tăng 10,2%, dịch vụ
tăng 7%; Năm 2006 đạt 8,17% (nông lâm ngư tăng 3,4%; công nghiệp xây
dựng tăng 10,37%, dịch vụ tăng 8,29% và Năm 2007 đạt 8,48% (nông lâm
ngư tăng 3,4%; công nghiệp xây dựng tăng 10,6%, dịch vụ tăng 8,6%).

- ĐTNN góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động, nâng
cao năng lực sản xuất công nghiệp:
14
Trong 20 năm qua ĐTNN đóng một vai trò quan trọng cho sự tăng
trưởng của nền kinh tế nói chung và cho ngành công nghiệp nói riêng, trong
đó từng bước trở thành nguồn đầu tư quan trọng của Quốc gia, góp phần phát
triển các ngành công nghiệp và tạo công ăn việc làm cho người lao động.
Nhiều công trình lớn đã hoàn thành đưa vào sản xuất, phát huy hiệu quả đầu
tư, nhiều công trình trọng điểm làm cơ sở cho tăng trưởng giai đoạn sau đó
được khởi công và đẩy nhanh tiến độ, nhất là các công trình điện, dầu khí,
công nghiệp nặng, công nghiệp phục vụ xuất khẩu
Tốc độ tăng trưởng công nghiệp của khu vực kinh tế có vốn ĐTNN cao
hơn mức tăng trưởng công nghiệp chung của cả nước, góp phần thúc đẩy
chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH,
HĐH), tăng tỷ trọng của khu vực kinh tế có vốn ĐTNN trong ngành công
nghiệp qua các năm (từ 23,79% vào năm 1991 lên 40% năm 2004, 41% năm
2005 và năm 2006).
Giá trị sản xuất công nghiệp của khu vực kinh tế có vốn ĐTNN
trong 5 năm qua chiếm trung bình 42,5% giá trị sản xuất công nghiệp của cả
nước. Cụ thể tỷ trọng trên tăng từ 41,3% vào năm 2000 lên 43,7% vào 2 năm
2004 và 2005. Đặc biệt, một số địa phương (Bình Dương, Đồng Nai, Vĩnh
Phúc ) tỷ lệ này đạt đến 65-70% giá trị sản xuất công nghiệp của địa bàn.
ĐTNN đã tạo ra nhiều ngành công nghiệp mới và tăng cường năng lực

của nhiều ngành công nghiệp như dầu khí, công nghệ thông tin, hóa chất, ô tô,
xe máy, thép, điện tử và điện tử gia dụng, công nghiệp chế biến nông sản thực
phẩm, da giày, dệt may… Hiện ĐTNN đóng góp 100% sản lượng của một số
sản phẩm công nghiệp (dầu khí, thiết bị máy tính, máy giặt, điều hòa), 60%
cán thép, 33% hàng điện tử, 76% dụng cụ y tế chính xác, 49% sản phẩm da
giày, 55% sản lượng sợi, 25% hàng may mặc.
ĐTNN đã góp phần hình thành và phát triển trong cả nước hệ thống các
khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao tương đối đồng bộ và hiện
đại, đem lại hiệu quả sử dụng đất cao hơn ở một số địa phương đất đai kém
màu mỡ.

- ĐTNN thúc đẩy chuyển giao công nghệ:
ĐTNN góp phần thúc đẩy chuyển giao công nghệ tiên tiến vào Việt
Nam, phát triển một số ngành kinh tế quan trọng của đất nước như viễn thông,
thăm dò và khai thác dầu khí, hoá chất, cơ khí chế tạo điện tử, tin học, ô tô, xe
máy Nhất là sau khi Tập đoàn Intel đầu tư 1 tỷ đô la Mỹ vào Việt Nam
trong dự án sản xuất linh kiện điện tử cao cấp, đã gia tăng số lượng các dự án
đầu tư vào lĩnh vực công nghệ cao của các tập đoàn đa quốc gia (Canon,
Panasonic, Ritech.v.v)
15
Nhìn chung, trình độ công nghệ của khu vực ĐTNN cao hơn hoặc bằng
các thiết bị tiên tiến đã có trong nước và tương đương các nước trong khu
vực. Hầu hết các doanh nghiệp có vốn ĐTTNN áp dụng phương thức quản lý
tiên tiến, được kết nối và chịu ảnh hưởng của hệ thống quản lý hiện đại của
công ty mẹ.
Trong nông-lâm-ngư nghiệp, ĐTNN đã tạo ra một số sản phẩm mới có
hàm lượng kỹ thuật cao và các cây, con giống mới.

- Tác động lan tỏa của ĐTNN đến các thành phần kinh tế khác trong
nền kinh tế:

Hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp ĐTNN được nâng cao qua số
lượng các doanh nghiệp tăng vốn đầu tư, mở rộng quy mô sản xuất. Đồng
thời, có tác động lan tỏa đến các thành phần khác của nền kinh tế thông qua
sự liên kết giữa doanh nghiệp có vốn ĐTNN với các doanh nghiệp trong
nước, công nghệ và năng lực kinh doanh được chuyển giao từ doanh nghiệp
có vốn ĐTNN. Sự lan tỏa này có thể theo hàng dọc giữa các doanh nghiệp
trong ngành dọc hoặc theo hàng ngang giữa các doanh nghiệp hoạt động cùng
ngành. Mặt khác, các doanh nghiệp ĐTNN cũng tạo động lực cạnh tranh của
các doanh nghiệp trong nước nhằm thích ứng trong bối cảnh toàn cầu hóa.

- ĐTNN đóng góp đáng kể vào NSNN và các cân đối vĩ mô:
Cùng với sự phát triển các doanh nghiệp có vốn ĐTNN tại Việt
Nam, mức đóng góp của khu vực kinh tế có vốn ĐTNN vào ngân sách ngày
càng tăng. Thời kỳ 1996-2000, không kể thu từ dầu thô, các doanh nghiệp
ĐTNN đã nộp ngân sách đạt 1,49 tỷ USD, gấp 4,5 lần 5 năm trước. Trong 5
năm 2001-2005, thu ngân sách trong khối doanh nghiệp ĐTNN đạt hơn 3,6 tỷ
USD, tăng bình quân 24%/năm. Riêng 2 năm 2006 và 2007 khu vực kinh tế
có vốn ĐTNN đã nộp ngân sách đạt trên 3 tỷ USD, gấp đôi thời kỳ 1996-2000
và bằng 83% thời kỳ 2001-2005.
ĐTNN tác động tích cực đến các cân đối lớn của nền kinh tế
như cân đối ngân sách, cải thiện cán cân vãng lai, cán cân thanh toán quốc tế
thông qua việc chuyển vốn vào Việt Nam và mở rộng nguồn thu ngoại tệ gián
tiếp qua khách quốc tế, tiền thuê đất, tiền mua máy móc và nguyên, vật liệu

- ĐTNN góp phần giúp Việt Nam hội nhập sâu rộng vào đời
sống kinh tế quốc tế:
Tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu của khu vực ĐTNN tăng
nhanh, cao hơn mức bình quân chung của cả nước, đóng góp quan trọng vào
việc gia tăng kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Thời kỳ 1996-2000, xuất
khẩu của khu vực ĐTNN đạt 10,6 tỷ USD (không kể dầu thô), tăng hơn 8 lần

16
so với 5 năm trước, chiếm 23% kim ngạch xuất khẩu cả nước; năm 2000
chiếm 25%, năm 2003 chiếm 31%; tính cả dầu thô thì tỷ trọng này đạt khoảng
54% năm 2004 và chiếm trên 55% trong các năm 2005, 2006 và 2007.
ĐTNN chiếm một tỷ trọng cao trong xuất khẩu một số sản phẩm: 100%
dầu khí, 84% hàng điện tử, máy tính và linh kiện, 42% sản phẩm da giày,
35% hàng may mặc… Thông qua mạng lưới tiêu thụ của các tập đoàn xuyên
quốc gia, nhiều sản phẩm sản xuất tại Việt Nam đã tiếp cận được với các thị
trường trên thế giới.
Trong lĩnh vực khách sạn và du lịch, ĐTNN đã tạo ra nhiều
khách sạn cao cấp đạt tiêu chuẩn quốc tế 4, 5 sao cũng như các khu du lịch,
nghỉ dưỡng đáp ứng nhu cầu khách du lịch quốc tế, góp phần gia tăng nhanh
chóng xuất khẩu tại chỗ.
Bên cạnh đó, ĐTNN còn góp phần đưa nền kinh tế nước ta từng
bước hội nhập với kinh tế thế giới, đặc biệt trong lĩnh vực tài chính, ngân
hàng.
2- Về mặt xã hội:
- ĐTNN góp phần quan trọng trong việc tạo việc làm, tăng năng suất
lao động, cải thiện nguồn nhân lực:
Đến nay, khu vực có vốn ĐTNN đã tạo ra việc làm cho trên 1,2
triệu lao động trực tiếp và hàng triệu lao động gián tiếp khác theo kết quả điều
tra của WB cứ 1 lao động trực tiếp sẽ tạo việc làm cho từ 2-3 lao động gián
tiếp phục vụ trong khu vực dịch vụ và xây dựng, góp phần nâng cao phúc lợi
xã hội, cải thiện đời sống một bộ phận trong cộng đồng dân cư, đưa mức GDP
đầu người tăng lên hàng năm. Thông qua sự tham gia trực tiếp vào hoạt động
của các doanh nghiệp có vốn ĐTNN, Việt Nam đã từng bước hình thành đội
ngũ cán bộ quản lý, công nhân kỹ thuật có trình độ cao, có tay nghề, từng
bước tiếp cận được với khoa học, kỹ thuật, công nghệ cao và có tác phong
công nghiệp hiên đại, có kỷ luật lao động tốt, học hỏi được các phương thức,
kinh nghiệm quản lý tiên tiến.

Hoạt động của các doanh nghiệp có vốn ĐTNN tại Việt Nam cũng đã
thúc đẩy các doanh nghiệp trong nước không ngừng đổi mới công nghệ,
phương thức quản lý để nâng cao hơn chất lượng, sức cạnh tranh của sản
phẩm và dịch vụ trên thị trường trong nước và quốc tế. Đặc biệt, một số
chuyên gia Việt Nam làm việc tại các doanh nghiệp có vốn ĐTNN đã dần
thay thế các chuyên gia nước ngoài trong đảm nhiệm các vị trí quản lý doanh
nghiệp cũng như điều khiển các quy trình công nghệ hiện đại.

- ĐTNN góp phần mở rộng quan hệ đối ngoại, chủ động hội nhập kinh
tế với khu vực và thế giới:
17
TNN ó gúp phn quan trng trong vic xúa b cm vn ca
Hoa K i vi Vit Nam, to iu kin m rng quan h kinh t quc t theo
hng a phng húa v a dng húa, thỳc y Vit Nam ch ng hi nhp
kinh t khu vc v th gii, y nhanh tin trỡnh t do hoỏ thng mi v u
t. n nay, Vit Nam l thnh viờn chớnh thc ca ASEAN, APEC, ASEM
v WTO. Nc ta cng ó ký kt 51 Hip nh khuyn khớch v bo h u
t, trong ú cú Hip nh thng mi Vit Nam-Hoa K (BTA), Hip nh t
do hoỏ, khuyn khớch v bo h u t vi Nht Bn. Thụng qua ting núi v
s ng h ca cỏc nh u t nc ngoi, hỡnh nh v v th ca Vit Nam
khụng ngng c ci thin.

3- V mt mụi trng:
Theo kt qu iu tra nm 2002 (ca Vin Qun lý kinh t trung
ng), a s cỏc doanh nghip cú vn TNN tuõn th cỏc tiờu chun mụi
trng Vit Nam v cú kt qu mụi trng tt hn so vi s ụng cỏc doanh
nghip trong nc (cú 77% doanh nghip cú kt qu v cỏc thụng s gõy ụ
nhim mụi trng thp hn tiờu chun cho phộp ca Vit Nam). ỏng chỳ ý
l 60% doanh nghip TNN trong lnh vc ch bin thc phm ó lp t
thit b x lý nc thi ỳng tiờu chun (so sỏnh vi t l 10% ca cỏc doanh

nghip trong nc). Khụng cú doanh nghip TNN no c iu tra vi
phm tiờu chun mụi trng Vit Nam.
V-Những hạn chế từ ĐTNN
1-Khai thác và sử dụng quá mức nguồn tài nguyên thiên nhiên
2- Làm lệch lạc cơ cấu kinh tế
Mc ớch cao nht ca cỏc nh u t l li nhun. Do ú nhng lnh
vc, ngnh, d ỏn cú t sut li nhun cao u c cỏc nh u t quan tõm,
cũn nhng d ỏn, lnh vc mc dự rt cn thit cho dõn sinh, nhng khụng
a li li nhun tha ỏng thỡ khụng thu hỳt c u t nc ngoi.
Cỏc nh TNN trong khi la chn a im trin khai d ỏn u t
thng tp trung vo nhng ni cú kt cu h tng kinh t - xó hi thun li,
do ú cỏc thnh ph ln, nhng a phng cú cng bin, cng hng khụng,
cỏc tnh ng bng l ni tp trung nhiu d ỏn TNN nht. Trong khi ú,
cỏc tnh mim nỳi, vựng sõu, vựng xa, nhng a phng cn c y nhanh
tc phỏt trin kinh t, mc dự chớnh ph v chớnh quyn a phng cú
nhng u ói cao hn nhng khụng c cỏc nh u t quan tõm.
Tỡnh trng ú ó dn n mt nghch lý, nhng a phng cú trỡnh
phỏt trin cao thỡ thu hỳt c TNN nhiu, do ú tc tng trng kinh t
vt quỏ tc tng trng trung bỡnh ca c nc. Trong khi ú, nhng
vựng cú trỡnh kộm phỏt trin thỡ cú ớt d ỏn TNN, tc tng trng kinh
t vn thp.
18
Đối với các ngành nghề cũng xảy ra tình trạng tương tự, các nhà ĐTNN
chỉ đầu tư vào các ngành có khả năng sinh lợi cao, rủi ro thấp, còn các ngành,
lĩnh vực có khả năng sinh lời thấp, rủi ro cao không được sự quan tâm của các
nhà ĐTNN.
3- ChuyÓn giao c«ng nghÖ l¹c hËu vµ lµm « nhiÔm m«i trêng
Nhìn chung công nghệ được sử dụng trong các doanh nghiệp ĐTNN
thường cao hơn mặt bằng công nghệ cùng ngành và cùng loại sản phẩm tại
nước ta.

Tuy vậy, một số trường hợp các nhà ĐTNN đã lợi dụng sơ hở của pháp
luật Việt Nam, cũng như sự yếu kém trong kiểm tra giám sát tại các cửa khẩu
nên đã nhập vào Việt Nam một số máy móc thiết bị có công nghệ lạc hậu
thậm chí là những phế thải của các nước khác. Tính phổ biến của việc nhập
máy móc thiết bị là giá cả đươc ghi trong hóa đơn thường cao hơn giá trung
bình của thị trường thế giới. Nhờ vậy một số nhà ĐTNN có thể lợi dụng để
khai tăng tỷ lệ góp vốn trong các liên doanh với Việt Nam.
Việc chuyển giao công nghệ từ nước ngoài vào Việt Nam được thực
hiện thông qua các hợp đồng và được cơ quan quản lý nhà nước về khoa học
công nghệ chuẩn y. Tuy vậy, đây là một hoạt đông cực kỳ khó khăn đối với
các nước tiếp nhận đầu tư nói chung, kể cả Việt Nam, bởi khó có thể đánh giá
chính xác giá trị thực của từng loại công nghệ trong những ngành khác nhau,
đặc biệt trong những ngành công nghệ cao. Do vậy, thường phải thông qua
thương lượng theo hình thức mặc cả đến khi hai bên có thể chấp nhận được,
thì ký kết hợp đồng chuyển giao công nghệ.
4- G©y ra nh÷ng xung ®ét vÒ x· héi
VI- Nh÷ng h¹n chÕ cña ViÖt Nam trong thu hót §TNN
Tuy đạt được những kết quả quan trọng nêu trên, nhưng hoạt động
ĐTNN tại Việt Nam còn những mặt hạn chế như sau:
- Sự mất cân đối về ngành nghề, vùng lãnh thổ:
Mục đích cao nhất của các nhà đầu tư là lợi nhuận. Do đó những lĩnh
vực, ngành, dự án có tỷ suất lợi nhuận cao đều được các nhà đầu tư quan tâm,
còn những dự án, lĩnh vực mặc dù rất cần thiết cho dân sinh, nhưng không
đưa lại lợi nhuận thỏa đáng thì không thu hút được đầu tư nước ngoài.
Các nhà ĐTNN trong khi lựa chọn địa điểm để triển khai dự án đầu tư
thường tập trung vào những nơi có kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội thuận lợi,
do đó các thành phố lớn, những địa phương có cảng biển, cảng hàng không,
các tỉnh đồng bằng là nơi tập trung nhiều dự án ĐTNN nhất. Trong khi đó,
các tỉnh miềm núi, vùng sâu, vùng xa, những địa phương cần được đẩy nhanh
tốc độ phát triển kinh tế, mặc dù chính phủ và chính quyền địa phương có

những ưu đãi cao hơn nhưng không được các nhà đầu tư quan tâm.
Tình trạng đó đã dẫn đến một nghịch lý, những địa phương có trình độ
phát triển cao thì thu hút được ĐTNN nhiều, do đó tốc độ tăng trưởng kinh tế
19
vượt quá tốc độ tăng trưởng trung bình của cả nước. Trong khi đó, những
vùng có trình độ kém phát triển thì có ít dự án ĐTNN, tốc độ tăng trưởng kinh
tế vẫn thấp.
Đối với các ngành nghề cũng xảy ra tình trạng tương tự, các nhà ĐTNN
chỉ đầu tư vào các ngành có khả năng sinh lợi cao, rủi ro thấp, còn các ngành,
lĩnh vực có khả năng sinh lời thấp, rủi ro cao không được sự quan tâm của các
nhà ĐTNN.
- Tranh chấp lao động trong khu vực có vốn đầu tư nước ngoài chưa
được giải quyết kịp thời.
Các tranh chấp lao động là khó tránh, đặc biệt trong những thời điểm
doanh nghiệp mới bắt đầu hoạt động, hoặc khi doanh nghiệp gặp khó khăn về
sản xuất kinh doanh. Nhìn chung người chủ thường trả công cho người lao
động thấp hơn cái mà họ đáng được hưởng, không thỏa đánh với nhu cầu của
người lao động. Điều đó dẫn đến mâu thuẫn giữa chủ sử dụng lao động và
người lao động, dẫn đến tình trạng đình công bãi công làm thiệt hại cho doanh
nghiệp.
ĐTNN ở nước ta đã thu hút được hàng nghìn doanh nghiệp của các
nước và vũng lãnh thổ khắp thế giới. Điều đó cho thấy tính hấp dẫn của môi
trường đầu tư ở Việt Nam, đồng thời cũng thể hiện tính đa dạng của các nền
văn hóa trong quan hệ giữa người sử dụng lao động và người lao động trong
các doanh nghiệp ĐTNN.
- Sự yếu kém trong chuyển giao công nghệ
Nhìn chung công nghệ được sử dụng trong các doanh nghiệp ĐTNN
thường cao hơn mặt bằng công nghệ cùng ngành và cùng loại sản phẩm tại
nước ta.
Tuy vậy, một số trường hợp các nhà ĐTNN đã lợi dụng sơ hở của pháp

luật Việt Nam, cũng như sự yếu kém trong kiểm tra giám sát tại các cửa khẩu
nên đã nhập vào Việt Nam một số máy móc thiết bị có công nghệ lạc hậu
thậm chí là những phế thải của các nước khác. Tính phổ biến của việc nhập
máy móc thiết bị là giá cả đươc ghi trong hóa đơn thường cao hơn giá trung
bình của thị trường thế giới. Nhờ vậy một số nhà ĐTNN có thể lợi dụng để
khai tăng tỷ lệ góp vốn trong các liên doanh với Việt Nam.
Việc chuyển giao công nghệ từ nước ngoài vào Việt Nam được thực
hiện thông qua các hợp đồng và được cơ quan quản lý nhà nước về khoa học
công nghệ chuẩn y. Tuy vậy, đây là một hoạt đông cực kỳ khó khăn đối với
các nước tiếp nhận đầu tư nói chung, kể cả Việt Nam, bởi khó có thể đánh giá
chính xác giá trị thực của từng loại công nghệ trong những ngành khác nhau,
đặc biệt trong những ngành công nghệ cao. Do vậy, thường phải thông qua
thương lượng theo hình thức mặc cả đến khi hai bên có thể chấp nhận được,
thì ký kết hợp đồng chuyển giao công nghệ.
20
VII. Nguyên nhân của những thành tựu và hạn chế của khu vực ĐTNN.
1- Nguyên nhân của những thành tựu:
- Trước hết đó là đường lối đổi mới đúng đắn của Đảng cùng những cố
gắng và tiến bộ trong công tác quản lý của Nhà nước đã phát huy được nhân
tố có ý nghĩa quyết định là ý chí kiên cường, tính năng động, sáng tạo và sự
nỗ lực phấn đấu của các cấp, các ngành.
- Nước ta duy trì được ổn định chính trị xã hội, an ninh được đảm bảo,
được đánh giá là địa bàn đầu tư an toàn, đồng thời kiên trì thực hiện đường lối
đổi mới, đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ kinh tế đối ngoại, chủ động hội
nhập kinh tế quốc tế, tạo hình ảnh tích cực đối với các nhà đầu tư. Nền kinh tế
tăng trưởng cao, thu hút sự quan tâm của các nhà đầu tư quốc tế, nhất là về
khả năng mở rộng dung lượng thị trường trong nước của trên 80 triệu dân.
- Công tác chỉ đạo điều hành của Chính phủ, của các Bộ, ngành và
chính quyền địa phương đã tích cực, chủ động hơn (đẩy nhanh lộ trình áp
dụng cơ chế một giá, hỗ trợ nhà đầu tư giảm chi phí sản xuất, tiếp tục thực

hiện việc cải cách hành chính, quan tâm hơn tới việc tháo gỡ khó khăn cho
việc triển khai dự án).
- Công tác vận động xúc tiến đầu tư ngày càng được cải tiến, tiến hành
ở nhiều ngành, nhiều cấp, ở trong nước và nước ngoài dưới hình thức đa
dạng, kết hợp với các chuyến thăm, làm việc cấp cao của lãnh đạo Đảng, Nhà
nước, gắn với việc quảng bá rộng rãi hình ảnh Việt Nam và vận động đầu tư -
xúc tiến thương mại và du lịch. Chính vì vậy, mà hiệu quả đã được nâng dần
với kết quả minh chứng là nhiều nhà đầu tư nước ngoài đã vào tìm kiếm cơ
hội đầu tư và ký kết số lượng lớn dự án quy mô lớn, mở đầu cho làn sóng đầu
tư mới lần 2 vào Việt Nam, kể từ năm 1987 đến nay.

2- Về nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế.
- Tư duy kinh tế chậm đổi mới. Chưa tạo lập đồng bộ các loại thị
trường theo nguyên tắc thị trường. Nhận thức về chung về ĐTNN đều thống
nhất như các chủ trương, pháp luật của Đảng và Nhà nước là coi ĐTNN là
một bộ phận cấu thành hữu cơ của nền kinh tế, được khuyến khích phát triển
lâu dài, bình đẳng với các thành phần kinh tế khác. Tuy nhiên, thực tế xử lý
các vấn đề cụ thể ở nhiều Bộ, ngành và địa phương vẫn còn phân biệt rất khác
nhau giữa đầu tư trong nước và ĐTNN, chưa thực sự coi ĐTNN là thành phần
kinh tế của Việt Nam. Điều đó thể hiện ngay từ khâu quy hoạch sản phẩm,
phân bổ các nguồn lực phát triển kinh tế (lao động, đất đai, vốn…) cũng chưa
thực sự cho phép ĐTNN tham gia. Việc xử lý tranh chấp kinh tế giữa các bên
cũng thiên về bảo vệ quyền lợi cho phía Việt Nam. Trong những thời điểm
khó khăn, ta tranh thủ vốn ĐTNN nhưng khi điều kiện thuận lợi lại có xu
21
hướng không khuyến khích ĐTNN mà để trong nước tự làm; những biểu hiện
này có tác động làm nản lòng nhà ĐTNN.
- Hệ thống luật pháp, chính sách về đầu tư tuy đã được sửa đổi, bổ sung
nhưng vẫn chưa đồng bộ, thiếu nhất quán. Một số Bộ, ngành chậm ban hành
các thông tư hướng dẫn các nghị định của Chính phủ.

- Môi trường đầu tư-kinh doanh nước ta tuy được cải thiện nhưng tiến
bộ đạt được còn chậm hơn so với các nước trong khu vực, trong khi cạnh
tranh thu hút vốn ĐTNN tiếp tục diễn ra ngày càng gay gắt.
- Định hướng chiến lược thu hút vốn ĐTNN hướng chủ yếu vào lĩnh
vực công nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu nhưng sự liên kết, phối hợp giữa
các doanh nghiệp ĐTNN với doanh nghiệp trong nước còn yếu nên giá trị gia
tăng trong một số sản phẩm xuất khẩu (hàng điện tử dân dụng, dệt may) còn
thấp. Nhiều tập đoàn công nghiệp định hướng xuất khẩu đầu tư tại Việt Nam
buộc phải nhập khẩu phần lớn nguyên liệu đầu vào vì thiếu nguồn cung cấp
ngay tại Việt Nam.
- Công tác quy hoạch còn có những bất hợp lý, nhất là quy hoạch ngành
còn nặng về xu hướng bảo hộ sả n xuất trong nước, chưa kịp thời điều chỉnh
để phù hợp với các cam kết quốc tế.
-Nước ta có xuất phát điểm của nền kinh tế thấp, quy mô nền kinh tế
nhỏ bé; kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội yếu kém; các ngành công nghiệp bổ trợ
chưa phát triển; trình độ công nghệ và năng suất lao động thấp, chi phí sản
xuất cao. Chính sách, biện pháp để khuyến khích huy động tốt nguồn lực
trong nước và ngoài nước vào phát triển kinh tế, xã hội còn nhiều hạn chế.
- Sự phối hợp trong quản lý hoạt động ĐTNN giữa các Bộ, ngành, địa
phương chưa chặt chẽ. Đánh giá tình hình ĐTNN vẫn nặng về số lượng, chưa
coi trọng về chất lượng, còn bệnh thành tích trong cơ quan quản lý các cấp.
- Tổ chức bộ máy, công tác cán bộ và cải cách hành chính chưa đáp ứng
yêu cầu phát triển trong tình hình mới. Năng lực của một bộ phận cán bộ,
công chức làm công tác kinh tế đối ngoại còn hạn chế về chuyên môn, ngoại
ngữ, không loại trừ một số yếu kém về phẩm chất, đạo đức, gây phiền hà cho
doanh nghiệp, làm ảnh hưởng xấu đến môI trường đầu tư-kinh doanh.
VIII- Nh÷ng gi¶i ph¸p chñ yÕu
1- Gi¶i pháp về quy hoạch:
Đẩy nhanh tiến độ xây dựng và phê duyệt các quy hoạch còn thiếu; rà
soát để định kỳ bổ sung, điều chỉnh các quy hoạch đã lạc hậu nhằm tạo điều

kiện thuận lợi cho nhà đầu tư trong việc xác định và xây dựng dự án.
Quán triệt và thực hiện thống nhất các quy định mới của Luật Đầu tư
trong công tác quy hoạch, đảm bảo việc xây dựng các quy hoạch ngành, lĩnh
vực, sản phẩm phù hợp với các cam kết quốc tế.
22
Hoàn chỉnh quy hoạch sử dụng đất, công bố rộng rãi quy hoạch, tạo
điều kiện để đẩy nhanh tiến độ giải phóng mặt bằng cho các dự án đầu tư.
2- Giải pháp về luật pháp, chính sách:
Tiếp tục rà soát pháp luật, chính sách để sửa đổi hoặc loại bỏ các điều
kiện áp dụng ưu đãi đầu tư không phù hợp với cam kết của Việt Nam với
WTO và có giải pháp đảm bảo quyền lợi của nhà đầu tư liên quan.
Xây dựng văn bản hướng dẫn các địa phương và doanh nghiệp về lộ
trình cam kết mở cửa đầu tư nước ngoài làm cơ sở xem xét cấp giấy chứng
nhận đầu tư.
Theo dõi, giám sát việc thi hành pháp luật về đầu tư và doanh nghiệp để
kịp thời phát hiện và xử lý các vướng mắc phát sinh. Khẩn trương ban hành
các văn bản hướng dẫn các luật mới, nhất là các luật mới được Quốc hội
thông qua trong năm 2006 có liên quan đến đầu tư, kinh doanh.
Ban hành các ưu đãi khuyến khích đầu tư đối với các dự án xây dựng
các công trình phúc lợi (nhà ở, bệnh viện, trường học, văn hoá, thể thao) cho
người lao động làm việc trong các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công
nghệ cao, khu kinh tế, đảm bảo sự tương thích với các luật pháp hiện hành.
Nghiên cứu, đề xuất chính sách vận động, thu hút đầu tư đối với các tập
đoàn đa quốc gia cũng như có chính sách riêng đối với từng tập đoàn và mỗi
nước thành viên EU, Hoa Kỳ.
Chấn chỉnh tình trạng ban hành và áp dụng các ưu đãi, hỗ trợ đầu tư trái
với quy định của pháp luật. Tăng cường tập huấn, phổ biến nội dung và lộ
trình thực hiện các cam kết quốc tế của Việt Nam.
3- Giải pháp về xúc tiến đầu tư:
- Các Bộ, ngành và Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh tiếp tục rà soát, cập nhật

bổ sung danh mục kêu gọi đầu tư phù hợp với nhu cầu đầu tư phát triển và
quy hoạch phát triển ngành, địa phương.
- Triển khai nhanh việc thành lập bộ phận XTĐT tại một số địa bàn
trọng điểm. Xây dựng quy chế phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan xúc tiến
đầu tư, xúc tiến thương mại và xúc tiến du lịch các cấp, bao gồm cả trong
nước lẫn đại diện ở nước ngoài nhằm tạo sự đồng bộ và phối hợp nâng cao
hiệu quả giữa các hoạt động này. Đồng thời, thực hiện tốt Chương trình xúc
tiến đầu tư quốc gia giai đoạn 2007-2010 để đảm bảo kinh phí cho vận động
thu hút vốn ĐTNN nhằm đẩy mạnh tuyên truyền, quảng bá hình ảnh Việt
Nam, kết hợp chặt chẽ các chuyến công tác của lãnh đạo cấp cao Đảng và Nhà
nước với các hoạt động xúc tiến đầu tư-thương mại-du lịch.
- Tổ chức hiệu quả các cuộc hội thảo ở trong nước và nước ngoài. Nâng
cấp trang thông tin điện tử về ĐTNN cập nhật và chất lượng tài liệu xúc tiến
đầu tư bằng một số ngôn ngữ đáp ứng nhu cầu của số đông nhà đầu tư (tiếng
Anh, tiếng Nhật, tiếng Trung, tiếng Hàn, tiếng Nga)
23
- Tăng cường các đoàn vận động đầu tư theo phương thức làm việc trực
tiếp với các tập đoàn lớn, tại các địa bàn trọng điểm (Nhật Bản, Mỹ và EU) để
kêu gọi đầu tư vào các dự án lớn, quan trọng. Chủ động tiếp cận và hỗ trợ các
nhà đầu tư tiềm năng có nhu cầu đầu tư vào Việt Nam.
4- Giải pháp về cải thiện cơ sở hạ tầng:
- Tiến hành tổng rà soát, điểu chỉnh, phê duyệt và công bố các quy
hoạch về kết cấu hạ tầng đến năm 2020 làm cơ sở thu hút đầu tư phát triển kết
cấu hạ tầng. Tăng cường công tác quy hoạch, thực thi các quy hoạch cũng
như thu hút đầu tư vào các công trình giao thông, năng lượng.
- Tranh thủ tối đa các nguồn lực để đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng,
đặc biệt là nguồn vốn ngoài ngân sách nhà nước; ưu tiên các lĩnh vực cấp,
thoát nước, vệ sinh môi trường (xử lý chất thải rắn, nước thải.v.v.); hệ thống
đường bộ cao tốc, trước hết là tuyến Bắc-Nam, hai hành lang kinh tế Việt
Nam-Trung Quốc; nâng cao chất lượng dịch vụ đường sắt, trước hết là đường

sắt cao tốc Bắc-Nam, đường sắt hai hành lang kinh tế Việt Nam-Trung Quốc,
đường sắt nối các cụm cảng biển lớn, các mỏ khoáng sản lớn với hệ thống
đường sắt quốc gia, đường sắt nội đô thành phố Hà Nội, thành phố Hồ Chí
Minh.v.v.
Trước mắt tập trung chỉ đạo, giải quyết tốt việc cung cấp điện, trong
mọi trường hợp không để xảy ra tình trạng thiếu điện đối với các cơ sở sản
xuất. Tăng cường nghiên cứu xây dựng chính sách và giải pháp khuyến khích
sản xuất và sử dụng điện từ và các loại năng lượng mới như sức gió, thủy
triều, nhiệt năng từ mặt trời.
- Khẩn trương xây dựng và ban hành cơ chế khuyến khích các thành
phần kinh tế ngoài nhà nước tham gia phát triển các công trình kết cấu hạ tầng
trong đó có các công trình giao thông, cảng biển, các nhà máy điện độc lập.
- Mở rộng hình thức cho thuê cảng biển, mở rộng đối tượng cho phép
đầu tư dịch vụ cảng biển, đặc biệt dịch vụ hậu cần (logistic) để tăng cường
năng lực cạnh tranh của hệ thống cảng biển Việt Nam; kêu gọi vốn đầu tư các
cảng lớn của các khu vực kinh tế như hệ thống cảng Hiệp Phước-Thị Vải,
Lạch Huyện.v.v.
- Tập trung thu hút vốn đầu tư vào một số dự án thuộc lĩnh vực bưu
chính-viễn thông và công nghệ thông tin để phát triển các dịch vụ mới và phát
triển hạ tầng mạng.
- Đẩy mạnh đầu tư vào các lĩnh vực (văn hóa-y tế-giáo dục, bưu chính-
viễn thông, hàng hải, hàng không) đã cam kết khi gia nhập WTO. Xem xét
việc ban hành một số giải pháp mở cửa sớm hơn mức độ cam kết đối với một
số lĩnh vực dịch vụ mà nước ta có nhu cầu,
5- Giải pháp về lao động, tiền lương:
24
- y nhanh vic trin khai k hoch tng th v o to nhm nõng t
l lao ng qua o to lờn 40% vo nm 2010. Theo ú, ngoi vic nõng cp
u t h thng cỏc trng o to ngh hin cú lờn ngang tm khu vc v th
gii, s phỏt trin thờm cỏc trng o to ngh v trung tõm o to t cỏc

ngun vn khỏc nhau.
- Nghiờn cu iu chnh chuyn dch c cu lao ng theo tc
chuyn dch c cu kinh t.
- Thc hin cỏc gii phỏp nhm a Lut sa i, b sung mt s iu
ca B lut Lao ng vo thc t cuc sng ngn nga tỡnh trng ỡnh
cụng bt hp phỏp, lnh mnh húa quan h lao ng theo tinh thn ca B
lut Lao ng, bao gm:
- Tip tc hon thin lut phỏp, chớnh sỏch v lao ng, tin lng phự
hp trong tỡnh hỡnh mi; tng cng cụng tỏc kim tra, giỏm sỏt vic chp
hnh phỏp lut v lao ng i vi ngi s dng lao ng nhm m bo
iu kin lm vic v i sng cho ngi lao ng.
- Nõng cao hiu bit phỏp lut v lao ng thụng qua ph bin, tuyờn
truyn v giỏo dc phỏp lut cho ngi lao ng, ngi s dng lao ng
trong cỏc doanh nghip cú vn u t nc ngoi m bo chớnh sỏch,pháp
luật về lao động và tiền lơng đợc thực hiện đầy đủ, nghiêm túc.
6- Giải pháp về cải cách hành chính:
- Thc hin tt vic phõn cp qun lý nh nc i vi TNN,
c bit trong vic phờ duyt, cp Giy chng nhn u t, qun lý tt cỏc d
ỏn TNN, gn vi vic tng cng hp tỏc, h tr, phi hp hiu qu cụng
tỏc kim tra, giỏm sỏt vic thi hnh phỏp lut v u t.
- Nõng cao trỡnh ca i ng cỏn b, cụng chc nhm m bo thc
hin nhim v theo quy nh ti Lut u t v quy nh mi v phõn cp
qun lý u t nc ngoi.
- n gin húa v cụng khai quy trỡnh, th tc hnh chớnh i vi u
t nc ngoi, thc hin c ch "mt ca" trong vic gii quyt th tc u
t. m bo s thng nht, cỏc quy trỡnh, th tc ti cỏc a phng, ng
thi, phự hp vi iu kin c th.
- X lý dt im, kp thi cỏc vn vng mc trong quỏ trỡnh cp
phộp, iu chnh Giy chng nhn u t .
7- Một số giải pháp khác

- Trong cỏc gii phỏp nờu trờn cn phi tớnh n yu t vựng,
min cho cỏc nh hng u tiờn, c thự phự hp thc t dn thu hp
khong cỏch gia cỏc vựng, min trong thu hỳt TNN phc v phỏt trin kinh
t-xó hi trờn a bn núi riờng v c nc núi chung.
- Tip tc nõng cao hiu qu vic chng tham nhng, tiờu cc v tỡnh
trng nhng nhiu i vi nh u t. cao tinh thn trỏch nhim cỏ nhõn
25

×