Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

Cứu trợ xã hội ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (223.51 KB, 27 trang )

MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU 1
I. Khái quát chung về cứu trợ xã hội 2
1. Khái niệm và mục tiêu của cứu trợ xã hội 2
2. Đặc trưng cơ bản của cứu trợ xã hội: 3
3. Vai trò của cứu trợ xã hội 3
II. Hệ thống cứu trợ xã hội ở Việt Nam 4
1. Quan điểm của Đảng và Nhà nước về cứu trợ xã hội 4
2. Quá trình phát triển cứu trợ xã hội ở Việt Nam 4
3. Đối tượng cứu trợ và các hình thức cứu trợ ở việt nam 8
4. Kết quả đạt được và triển khai công tác cứu trợ xã hội trong năm
2009, những giải pháp khắc phục khó khăn thiếu sót 18
III. Nguồn tài chính cứu trợ xã hội ở Việt Nam 22
KẾT LUẬN 25

LỜI MỞ ĐẦU
Hoạt động cứu trợ xã hội có mầm mống từ rất lâu đời dưới nhiều hình
thức và tên gọi khác nhau. Có thể nói, với bất kỳ chế độ xã hội nào, cứu trợ xã
hội cũng là tất yếu khách quan. Ở nước ta, do hoàn cảnh địa lý, khí khậu,lịch
sử, xã hội, cứu trợ xã hội có vai trò không thể thiếu trong chính sách xã hội
quốc gia. Nước ta nằm trong khu vực nhiệt đới gió mùa, thuận tiện cho việc
phát triển sản xuất nông nghiệp. Song điều kiện khí hậu thời tiết cũng rất khắc
nghiệt dẫn đến nhiều thiên tai, hạn hán, lũ lụt, bão lốc… làm không ít người
dân rơi vào hoàn cảnh mất nhà cửa, tài sản, thất thu mùa màng. Lịch sử đất
nước trải qua hàng chục năm chiến tranh để giành độc lập, hậu quả chiến
tranh còn để lại với rất nhiều gia đình liệt sỹ, thương binh, bệnh binh và hàng
triệu người tàn tật. Trong quá kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ
nghĩa… chúng ta đã thu được những thành quả lớn về kinh tế, văn hoá, xã
hội. Tuy nhiên, nước ta là nước nghèo, chịu hậu quả nặng nề của chiến tranh,
thiên tai (bão lụt, hạn hán…) thường xuyên xảy ra gây thiệt hại không nhỏ về
người và tài sản, ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống nhân dân và điều kiện phát


triển kinh tế-văn hoá-xã hội. Mặt trái của kinh tế thị trường: phân hoá giàu
nghèo, chạy theo lối sống thực dụng suy giảm đạo đức, lối sống, thất
nghiệp… đang là những nguyên nhân làm tăng đối tượng xã hội: Người già
cô đơn, người lang thang, người tàn tật, trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó
khăn, tệ nạn xã hội… họ là nhóm đối tượng luôn cần có sự hỗ trợ về vật chất
và tinh thần của Nhà nước và xã hội chính vì vậy em chọn đề tài “Cứu trợ xã
hội ở Việt Nam” để nghiên cứu.
Trong quá trình thực hiện đề tài này em đã được sự chỉ bảo tận tình của
gv:
Em xin chân thành cảm ơn!
1
I. Khái quát chung về cứu trợ xã hội.
1. Khái niệm và mục tiêu của cứu trợ xã hội
Trong mỗi cộng đồng xã hội đều có một vài nhóm người sống trong điều
kiện hoàn cảnh thấp kém hơn những người khác. Điều này xảy ra do nhiều
nguyên nhân trong xã hội … thậm chí có những người, những bộ phận còn
rơi vào hoàn cảnh sống khốn khổ có mức sống dưới mức trung bình chung
của cộng đồng cho nên ngay từ xa xưa hoạt động cưu mang giúp đỡ lẫn nhau
trong cộng đồng đã được phổ biến nhưng lại mang tính tự phát. Dần dần
những hoạt động này đã trở thành hoạt động của các tổ chức.có nhiều khái
niệm về cứu trợ xã hội đươc đưa ra dưới nhiều góc độ quan điểm khác nhau
nhưng hiểu một cách tổng quát thì cứu trợ xã hội được hiểu là “sự giúp đỡ
của xã hội băng nguồn tài chính của nhà nước và của cộng đồng đối với các
thành viên gặp khó khăn, bất hạnh và rủi ro trong cuộc sống như thiên tai,
hỏa hoạn, bị tàn tật, già yếu, dẫn đến mức sống quá thấp, lâm vào cảnh neo
đơn túng quẫn nhằm giúp họ đảm bảo được điều kiện sống tối thiểu, vượt qua
cơn nghèo khốn và vươn lên cuộc sống bình thường”
Cứu trợ xã hội là một loại hình quan trọng trong lĩnh vực an sinh xã
hội, là hoạt động của nhà nước và cộng đồng, bao gồm hai hoạt động : cứu tế
xã hội và trợ giúp xã hội. Cứu tế xã hội là sự giúp đỡ của cộng đồng bằng

hiện vật, có tính tức thời, khẩn cấp và ở mức độ cần thiết cho người được trợ
cấp khi họ rơi vào hoàn cảnh bần cùng khó khăn, không còn khả năng tự lo
liệu cuộc sông như : người già không nơi nương tựa, người không còn khả
năng lao động, không có bất kỳ một nguồn thu nhập nào đảm bảo cuộc sống
hàng ngày…trợ giúp xã hội là sự giúp đỡ thêm của cộng đồng xã hội , bằng
các phương tiện thích hợp để người được trợ giúp có thể phát huy được khả
năng tự lo liệu cho cuộc sông cho bản thân và cho gia đình, sớm hòa nhập trở
lại với cuộc sống cộng đồng.
2
2. Đặc trưng cơ bản của cứu trợ xã hội:
Cứu trợ xã hội có những đặc trưng cơ bản sau:
• Thứ nhất : đối tượng được cứu trợ có phạm vi rộng, toàn dân.
• Thứ hai : người được nhận cứu trợ không phải đóng góp vào quỹ tài
chính. nguồn quĩ dùng để trợ cấp được lấy từ thuế hoặc từ đóng góp
của cộng đồng.
• Thứ ba : mức trợ cấp không đồng đều mà tuỳ thuộc vào hoàn cảnh cụ
thể và được thẩm định bằng việc thẩm tra đánh giá thu nhập, vốn và tái
sản của người được xét trợ cấp.
• Thứ tư : trợ cấp có thể bằng tiền hoặc bằng hiện vật.
3. Vai trò của cứu trợ xã hội
Tùy thuộc vào điều kiện , hoàn cảnh kinh tế xã hội của mỗi nước mà họ
đặt vai trò của cứu trợ xã hội ở vị trí khác nhau…nhưng nhìn chung vai trò
cứu trợ của cứu trợ xã hội được nhận định chung là :
• Đáp ứng các nhu cầu thiết yếu của những cá nhân và nhóm dân cư yếu
thế dễ bị tổn thương trong cuộc cộng đồng . cứu trợ xã hội cung cấp ,hỗ
trợ thu nhập cho các nhóm dễ bị tổn thương đẻ giúp họ đối phó với
những khủn khoảng bất ngờ, vượt qua được khó khăn trong cuộc sống
và tồn tại trong xã hội…
• Góp phần phòng ngừa và giảm thiểu các khả năng dễ bị tổn thương của
những cá nhân và những dân cư yếu thế. Điều này được thể hiện rõ qua

hoạt động trợ giúp xã hội, hoạt động này thường tập trung vào nhóm
dân cư bị thua thiệt nhất hoặc dễ bị tổn thương nhất trong cộng đồng, từ
đó giúp họ thoát ra khỏi cảnh nghèo, thoát khỏi hoàn cảnh khó khăn
dai dẳng trong cuộc sống…vd phụ cấp gia đình có thể giúp trẻ em trong
3
các hộ gia đình không bị mất cơ hội đến trường do khó khăn về tai
chính của gia đình.
• Góp phần làm cho sự bảo vệ của hệ thống an sinh xã hội được toàn
diện hơn : chương trình cứu trợ xã hội cùng với bảo hiểm xã hội
II. Hệ thống cứu trợ xã hội ở Việt Nam
1. Quan điểm của Đảng và Nhà nước về cứu trợ xã hội.
Nhà nước và Đảng có những quan điểm chính sau,các quan điểm này
nhìn chung đều phù hợp với thế giới :
 Mọi thành viên trong xã hội đều được cứu trợ xã hội khi cần thiết
 Nhà nước là chủ thể chính thực hiện cứu trợ xã hội
 Xã hội hóa hoạt động cứu trợ xã hội là xu hướng tât yếu hiện nay
 Các đối tượng cứu trợ xã hội phải có trách nhiệm với bản than và cộng
đồng
 Cứu trợ xã hội là cơ sở để phát triển bền vững
2. Quá trình phát triển cứu trợ xã hội ở Việt Nam.
Từ xưa đến nay, dù dưới thời nào, hoạt động cứu trợ ở nước ta luôn được
đặt lên hàng đầu và được xác định là một phương sách quan trọng để duy trì
sự ổn định và phát triển
Trước cách mạng tháng tám cứu trợ xã hội được thể hiện dưới các hình
thức:
 Lập ra quĩ ruộng quĩ thóc công dành cho các phụ nữ góa và trẻ em mồ
côi, dành cho những người nghèo khốn khó (chẳng hạn như những quả
phụ điền, cô nhi điền, trợ sưu điền, nghĩa điền)
4
 Lập ra các phường hội theo quan hệ than tộc, quan hệ láng giềng, hay

quan hệ nghề nghiệp khi các thành viên trong xã hội không may rơi
vào hoàn cảnh khó khăn (chẳng hạn như hội vạn chài, hội gặt lúa, hội
dệt vải, hội hiếu…)
 Tổ chức các hội cứu các hội tương tế để bênh vực cho công nhân các
hội tế bần từ thiện.
Kế thừa và phát huy truyền thống nhân ái cao đẹp của dân tộc, Đảng và
Nhà nước đã xác định cứu trợ xã hội là một trong những cơ chế bảo vệ quan
trọng trong hệ thống ASXH nước ta, được đặt song song với cơ chế BHXH.
Ngày từ đầu những ngày đầu đất nước giành được độc lập, mặc dù vẫn còn
nhiêù khó khăn thiếu thốn, Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm đến hoạt động
cứu trợ.
 Đảng và Nhà nước kêu gọi phá kho thóc của Nhật chia cho người
nghèo.
 Phát động nhường cơm sẻ áo, “lập hũ gạo tiết kiệm” để trợ giúp người
nghèo.
 Giảm tô, giảm tức và chia ruộng cho người nghèo, người neo đơn, tàn
tật.
 Thành lập Nhà cứu tế để đáp ứng cho nhu cầu thực hiện cứu tế xã hội
Bên cạnh đó, Với mục tiêu: “Tăng trưởng kinh tế gắn liền với tiến bộ và
công bằng xã hội” chúng ta đã ưu tiên nguồn lực xã hội đầu tư cho phát triển
dịch vụ phúc lợi xã hội cơ bản: Y tế, giáo dục, nước sạch do vậy đời sống
vật chất, tinh thần của đại bộ phận nhân dân, trong đó có nhóm người yếu thế
đã từng bước được nâng lên. Đi cùng với đầu tư phát triển phúc lợi xã hội một
loạt chính sách hỗ trợ trực tiếp cũng được triển khai thực hiện như: chính sách
5
cứu trợ đột xuất, thường xuyên, chăm sóc trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó
khăn. các hoạt động cứu trợ xã hội cũng dần dần được luật hóa với nhiều văn
bản Pháp luật, Thông tư, Nghị định, và Bộ luật Lao động qui định về cứu trợ
xã hội thường xuyên, đột xuất; qui định về việc trợ giúp dành cho người già,
trẻ em đặc biệt khó khăn . Cụ thể là một hệ thống văn bản pháp quy đã được

xây dựng như: Pháp lệnh người tàn tật được Uỷ ban thường vụ Quốc hội
thông qua ngày 30/7/1998, Pháp lệnh người cao tuổi được Uỷ ban thường vụ
Quốc hội thông qua ngày 28/4/2000, Nghị định số 07/2000/NĐ-CP ngày 09
tháng 03 năm 2000 của Chính phủ về chính sách cứu trợ xã hội; Nghị định số
168/2004/NĐ-CP ngày 20 tháng 09 năm 2004 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung
một số điều của Nghị định số 07/2000/NĐ-CP ngày 09 tháng 03 năm 2000
của Chính phủ về chính sách cứu trợ xã hội; Điều 6 Nghị định số
55/1999/NĐ-CP ngày 10 tháng 07 năm 1999 của Chính phủ quy định chi tiết
thi hành một số điều của Pháp lệnh về người tàn tật; Điều 6, Điều 9 Nghị định
số 30/2002/NĐ-CP ngày 26 tháng 03 năm 2002 của Chính phủ quy định và
hướng dẫn thi hành một số điều của Pháp lệnh Người cao tuổi; Nghị định số
120/2003/NĐ-CP ngày 20 tháng 10 năm 2003 của Chính phủ về việc sửa đổi
Điều 9 của Nghị định số 30/2002/NĐ-CP ngày 26 tháng 03 năm 2002 của
Chính phủ quy định và hướng dẫn thi hành một số điều của Pháp lệnh Người
cao tuổi; Điều 5 Quyết định số 38/2004/QĐ-TTg ngày 17 tháng 03 năm 2004
của Thủ tướng Chính phủ về chính sách trợ giúp kinh phí cho gia đình, cá
nhân nhận nuôi dưỡng trẻ em mồ côi và trẻ em bị bỏ rơi; Quyết định số
16/2004/QĐ-TTg ngày 05 tháng 02 năm 2004 của Thủ tướng Chính phủ về
việc trợ giúp đối với hộ gia đình có từ 02 người trở lên không tự phục vụ
được do bị hậu quả chất độc hoá học của Mỹ sử dụng trong chiến tranh Việt
Nam; các khoản 1, 2, 3 Điều 1 và khoản 1, 2, 3 Điều 2 Quyết định số
313/2005/QĐ-TTg ngày 02 tháng 12 năm 2005 của Thủ tướng Chính phủ về
một số chế độ đối với người nhiễm HIV/AIDS và những người trực tiếp quản
lý, điều trị, chăm sóc người nhiễm HIV/AIDS trong các cơ sở bảo trợ xã hội
6
của Nhà nước…và gần đây nhất là Nghị định số 67/2007/ NĐ-CP ngày
15/04/2007 về chính sách cứu trợ xã hội đã thay thế các nghị định trên…
Trải qua nhiều khó khăn thiếu thốn của đất nước nhưng hoạt động cứu
trợ ở nước ta vẫn ngày càng phát triển và đi vào ổn định. Theo đánh giá
chung, việt nam được coi là nước luôn có các cam kết mạnh mẽ về sự phát

triển xã hội. So với nhiều nước trong khu vực việt nam là nước có chương
trình cứu trợ khá toàn diện. Với sự quan tâm và trách nhiệm của Đảng và Nhà
nước, của xã hội, cơ chế cứu trợ xã hội ở nước ta luôn được củng cố và tăng
cường, góp phần tạo điều kiện giúp những người nghèo, yếu thế có thể vượt
qua những khó khăn trong cuộc sống, hạn chế những mặc cảm và tự vươn lên
hòa nhập với trong cộng đồng. Với sự quan tâm và trách nhiệm của Đảng với
Nhà nước, của xã hội cơ chế cứu trợ xã hội của nước ta luôn được củng cố và
tăng cường, góp phần tạo điều kiện giúp những người nghèo yếu thế có thể
vượt qua khó khăn trong cuộc sống, hạn chế những mặc cảm và tự vươn lên
hòa nhập với cộng đồng. Theo số liệu của Bộ Lao động Thương binh và Xã
hội, số tiền ngân sách chi ra cho những hoạt động này (chỉ tính riêng năm
2000) là 648,8 tỷ đồng và những năm sau đó vẫn tiếp tục tăng. Riêng hai năm
2000 - 2001 đã đào tạo và đào tạo lại tay nghề cho gần 800 nghìn người lao
động, khoảng 16% số người mắc phải tệ nạn xã hội được tập trung cải tạo và
dạy nghề giúp họ trở lại con đường làm ăn lương thiện.
Người chết do thiên tai được hỗ trợ tiền thuốc chữa bệnh, hộ gia đình
mất nhà, mất tài sản, phương tiện sản xuất, thiếu đói… đều có chính sách trợ
giúp của Nhà nước. Đối với người già cô đơn không nơi nương tựa, trẻ em
mồ côi, người tàn tật nặng không có nguồn nuôi dưỡng được hưởng trợ cấp
cứu trợ xã hội thường xuyên của xã, phường hoặc được đưa vào nuôi dưỡng
tập trung trong các cơ sở Bảo trợ xã hội. Ngoài ra, họ được hỗ trợ khám chữa
bệnh miễn phí, giáo dục, chỉnh hình phục hồi chức năng, dạy nghề, tạo việc
làm… và đặc biệt thường xuyên nhận được sự chăm sóc của cộng đồng xã
7
hội. Hệ thống chính sách ngày càng hoàn thiện đã thể hiện sự bình đẳng, công
bằng xã hội.
3. Đối tượng cứu trợ và các hình thức cứu trợ ở việt nam.
Hoạt động cứu trợ ở Việt Nam bao gồm cứu trợ thường xuyên và cứu trợ
đột xuất; thưc hiện cứu trợ bằng tiền, cứu trợ bằng hiện vật, cứu trợ hỗn hợp.
3.1 Cứu trợ xã hội thường xuyên.

Cứu trợ xã hội thường xuyên là sự giúp của Nhà nước và xã hội dành
cho các thành viên trong cộng đồng về điều kiện sinh sống trong thời gian dài
hoặc trong suốt cuộc đời của họ. Ở nước ta hiện nay, các đối tượng được
hưởng cứu trợ xã hội thường xuyên được qui định theo điều 4 trong Nghị định
67/2007/NĐ-CP của Chính phủ ngày 15/04/2007 như sau :
Đối tượng bảo trợ xã hội thuộc diện trợ cấp hàng tháng do xã, phường,
thị trấn quản lý gồm:
• Trẻ em mồ côi cả cha và mẹ, trẻ em bị bỏ rơi, mất nguồn nuôi
dưỡng; trẻ em mồ côi cha hoặc mẹ nhưng người còn lại là mẹ
hoặc cha mất tích theo quy định tại Điều 78 của Bộ luật Dân sự
hoặc không đủ năng lực, khả năng để nuôi dưỡng theo quy định
của pháp luật; trẻ em có cha và mẹ, hoặc cha hoặc mẹ đang
trong thời gian chấp hành hình phạt tù tại trại giam, không còn
người nuôi dưỡng; trẻ em nhiễm HIV/AIDS thuộc hộ gia đình
nghèo.Người chưa thành niên từ đủ 16 đến dưới 18 tuổi nhưng
đang đi học văn hóa, học nghề, có hoàn cảnh như trẻ em nêu
trên.
• Người cao tuổi cô đơn, thuộc hộ gia đình nghèo; người cao
tuổi còn vợ hoặc chồng nhưng già yếu, không có con, cháu,
người thân thích để nương tựa, thuộc hộ gia đình nghèo (theo
chuẩn nghèo được Chính phủ quy định cho từng thời kỳ).
• Người từ 85 tuổi trở lên không có lương hưu hoặc trợ cấp bảo
hiểm xã hội.
• Người tàn tật nặng không có khả năng lao động hoặc không có
khả năng tự phục vụ, thuộc hộ gia đình nghèo.
• Người mắc bệnh tâm thần thuộc các loại tâm thần phân liệt, rối
loạn tâm thần đã được cơ quan y tế chuyên khoa tâm thần chữa
trị nhiều lần nhưng chưa thuyên giảm và có kết luận bệnh mãn
8
tính, sống độc thân không nơi nương tựa hoặc gia đình thuộc

diện hộ nghèo.
• Người nhiễm HIV/AIDS không còn khả năng lao động, thuộc
hộ gia đình nghèo.
• Gia đình, cá nhân nhận nuôi dưỡng trẻ em mồ côi, trẻ em bị bỏ
rơi.
• Hộ gia đình có từ 02 người trở lên tàn tật nặng, không có khả
năng tự phục vụ.
• Người đơn thân thuộc diện hộ nghèo, đang nuôi con nhỏ dưới
16 tuổi; trường hợp con đang đi học văn hoá, học nghề được áp
dụng đến dưới 18 tuổi.
Các đối tượng trên được qui định mức độ trợ cấp của chế độ trợ cấp
thường xuyên trong Nghị định 67/2007/NĐ-CP với các điều khoản sau
Điều 7:1. Quy định mức chuẩn để xác định mức trợ cấp xã hội hàng
tháng là 120.000 đồng (hệ số 1); khi mức sống tối thiểu của dân cư thay đổi
thì mức chuẩn trợ cấp xã hội cũng được điều chỉnh theo cho phù hợp.
2. Các mức trợ cấp xã hội hàng tháng thấp nhất đối với từng nhóm đối
tượng bảo trợ xã hội quy định tại Nghị định này như sau:
Bảng 1.
Mức trợ cấp xã hội hàng tháng thấp nhất cho các đối tượng bảo trợ xã hội
sống tại cộng đồng do xã, phường quản lý
(Đơn vị tính: nghìn đồng)
TT Đối tượng
Hệ
số
Trợ
cấp
1
- Đối tượng quy định tại khoản 1 Điều 4 từ 18 tháng tuổi trở
lên.
- Đối tượng quy định tại khoản 2, khoản 3 Điều 4 và đối

tượng không có khả năng lao động quy định tại khoản 4
Điều 4 .
- Đối tượng quy định tại khoản 9 Điều 4 đang nuôi con từ
18 tháng tuổi trở lên.
1,0 120
9
2
- Đối tượng quy định tại khoản 1 Điều 4 dưới 18 tháng tuổi;
từ 18 tháng tuổi trở lên bị tàn tật; bị nhiễm HIV/AIDS.
- Đối tượng quy định tại khoản 2 Điều 4 tàn tật nặng.
- Đối tượng quy định tại khoản 5, khoản 6 Điều 4.
- Đối tượng quy định tại khoản 9 Điều 4 đang nuôi con dưới
18 tháng tuổi; từ 18 tháng tuổi trở lên bị tàn tật hoặc bị
nhiễm HIV/AIDS.
1,5 180
3
- Đối tượng quy định tại khoản 1 Điều 4 dưới 18 tháng tuổi
bị tàn tật nặng; bị nhiễm HIV/AIDS.
- Đối tượng không có khả năng tự phục vụ quy định tại
khoản 4 Điều 4.
- Đối tượng quy định tại khoản 7 Điều 4 nhận nuôi dưỡng
trẻ từ 18 tháng tuổi trở lên.
- Đối tượng quy định tại khoản 8 Điều 4 có 2 người tàn tật
nặng.
- Đối tượng quy định tại khoản 9 Điều 4 đang nuôi con dưới
18 tháng tuổi hoặc bị tàn tật hoặc bị nhiễm HIV/AIDS.
2,0 240
4
Đối tượng quy định tại khoản 7 Điều 4 nhận nuôi trẻ em
dưới 18 tháng tuổi; trên 18 tháng tuổi bị tàn tật hoặc bị

nhiễm HIV/AIDS.
2,5 300
5
- Đối tượng quy định tại khoản 7 Điều 4 nhận nuôi trẻ em
dưới 18 tháng tuổi bị tàn tật hoặc bị nhiễm HIV/AIDS.
- Đối tượng quy định tại khoản 8 Điều 4 có 3 người tàn tật
nặng.
3,0 360
6 Đối tượng quy định tại khoản 8 Điều 4 có 4 người tàn tật nặng. 4,0 480
Bảng 2
Mức trợ cấp xã hội hàng tháng thấp nhất cho các đối tượng bảo trợ xã hội
sống trong các nhà xã hội tại cộng đồng do xã, phường quản lý
(Đơn vị tính: nghìn đồng)
TT Đối tượng Hệ Trợ
10
số cấp
Đối tượng quy định tại khoản 1, khoản 2, khoản 6 Điều 4 2,0 240
Bảng 3
Mức trợ cấp nuôi dưỡng hàng tháng thấp
nhất cho các đối tượng bảo trợ xã hội sống tại các cơ sở bảo trợ xã hội:
(Đơn vị tính: nghìn đồng)
TT Đối tượng
Hệ
số
Trợ
cấp
1
- Đối tượng quy định tại khoản 1 Điều 4 từ 18 tháng tuổi trở
lên.
- Đối tượng quy định tại khoản 2, khoản 4 Điều 4.

2,0 240
2
- Đối tượng quy định tại khoản 1 Điều 4 dưới 18 tháng tuổi.
- Đối tượng quy định tại khoản 1 Điều 4 từ 18 tháng tuổi trở
lên tàn tật; bị nhiễm HIV/AIDS.
- Đối tượng quy định tại khoản 5, khoản 6 Điều 4.
2,5 300
Điều 8. Các đối tượng nêu tại các khoản 1, 2, 3, 4, 5, 6; trẻ em mồ côi,
trẻ em bị bỏ rơi được gia đình, cá nhân nêu tại khoản 7 nuôi dưỡng; người tàn
tật trong hộ gia đình nêu tại khoản 8; trẻ em là con của người đơn thân nêu tại
khoản 9 Điều 4 Nghị định này được cấp thẻ bảo hiểm y tế theo quy định tại
Nghị định số 63/2005/NĐ-CP ngày 16 tháng 05 năm 2005 của Chính phủ ban
hành Điều lệ Bảo hiểm y tế hoặc được khám, chữa bệnh không phải trả tiền
tại các cơ sở y tế công lập theo quy định tại Điều 18 Nghị định số
36/2005/NĐ-CP ngày 17 tháng 03 năm 2005 của Chính phủ quy định chi tiết
thi hành một số điều của Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em.
Điều 9.
1. Trẻ em từ 13 tuổi trở lên sống tại các cơ sở bảo trợ xã hội, nhà xã hội
tại cộng đồng, không còn học văn hoá thì được giới thiệu đến các cơ sở dạy
nghề để học nghề theo quy định hiện hành của Nhà nước.
11
2. Trẻ em mồ côi đã đến tuổi trưởng thành nhưng không tiếp tục học văn
hoá, học nghề; người tàn tật đã phục hồi chức năng; người tâm thần đã ổn
định đang ở cơ sở bảo trợ xã hội được đưa trở về địa phương (nơi đối tượng
sinh sống trước khi vào cơ sở bảo trợ xã hội). Ủy ban nhân dân cấp xã và gia
đình có trách nhiệm tiếp nhận và tạo điều kiện cho họ có việc làm, ổn định
cuộc sống.
3. Trẻ em bị bỏ rơi sống tại cơ sở bảo trợ xã hội đã đến tuổi trưởng thành
nhưng không tiếp tục học văn hoá, học nghề thì cơ sở bảo trợ xã hội và địa
phương nơi cơ sở bảo trợ xã hội đặt trụ sở có trách nhiệm hỗ trợ tạo việc làm,

nơi ở và tiếp tục cho hưởng trợ cấp cho đến khi tự lập được cuộc sống, nhưng
không quá 24 tháng.
Điều 10. Ngoài được hưởng khoản trợ cấp hàng tháng theo quy định tại
Điều 7 Nghị định này, các đối tượng nêu tại các khoản 1, 2, 3, 4, 5, 6; trẻ em
mồ côi, trẻ em bị bỏ rơi được gia đình, cá nhân nêu tại khoản 7 nuôi dưỡng,
người tàn tật không có khả năng tự phục vụ trong hộ gia đình nêu tại khoản 8;
trẻ em là con của người đơn thân nêu tại khoản 9 Điều 4 Nghị định này còn
được hưởng thêm các khoản trợ giúp sau:
1. Các đối tượng đang học văn hoá, học nghề được miễn, giảm học phí,
được cấp sách, vở, đồ dùng học tập theo quy định của pháp luật.
2. Khi chết được hỗ trợ kinh phí mai táng mức 2.000.000 đồng/người.
3. Các đối tượng ở cơ sở bảo trợ xã hội thuộc Nhà nước quản lý ngoài
các khoản trợ giúp quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này còn được:
a) Trợ cấp để mua sắm tư trang, vật dụng phục vụ cho sinh hoạt đời sống
thường ngày;
b) Trợ cấp để mua thuốc chữa bệnh thông thường; riêng người nhiễm
HIV/AIDS được hỗ trợ điều trị nhiễm trùng cơ hội mức 150.000
đồng/người/năm;
12
c) Trợ cấp vệ sinh cá nhân hàng tháng đối với đối tượng nữ trong độ tuổi
sinh đẻ.
Điều 11. Căn cứ điều kiện cụ thể của địa phương, đơn vị, Chủ tịch Ủy
ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; Bộ trưởng các Bộ, Thủ
trưởng các ngành, đoàn thể ở Trung ương (có cơ sở bảo trợ xã hội) quyết định
mức trợ cấp, trợ giúp cho các đối tượng bảo trợ xã hội thuộc quyền quản lý
cho phù hợp, nhưng không thấp hơn các mức quy định trên.
3.2. Cứu trợ xã hội đột xuất (cứu tế).
Cứu trợ xã hội đột xuất là sự giúp đỡ của Nhà nước và xã hội về điều
kiện sinh sống cho các thành viên trong cộng đồng khi gặp các rủi ro khó
khăn bất ngờ khiến cho cuộc sống của họ tam thời bị đe dọa, nhằm giúp họ

nhanh chóng vượt qua sự hụt hẫng, ổn định cuộc sống và sớm trở lại hòa nhập
với cộng đồng. Theo Nghị định số 67/2007/ NĐ-CP qui định đối tượng được
cứu trợ như sau :
1. Đối tượng được trợ giúp đột xuất (một lần) là những người, hộ gia
đình gặp khó khăn do hậu quả thiên tai hoặc những lý do bất khả kháng khác
gây ra, bao gồm:
a) Hộ gia đình có người chết, mất tích;
b) Hộ gia đình có người bị thương nặng;
c) Hộ gia đình có nhà bị đổ, sập, trôi, cháy, hỏng nặng;
d) Hộ gia đình bị mất phương tiện sản xuất, lâm vào cảnh thiếu đói;
đ) Hộ gia đình phải di dời khẩn cấp do nguy cơ sạt lở đất, lũ quét;
e) Người bị đói do thiếu lương thực;
g) Người gặp rủi ro ngoài vùng cư trú dẫn đến bị thương nặng, gia đình
không biết để chăm sóc;
h) Người lang thang xin ăn trong thời gian tập trung chờ đưa về nơi cư trú.
13
Ủy ban nhân dân cấp xã, bệnh viện, cơ quan, đơn vị đứng ra tổ chức mai
táng cho người gặp rủi ro ngoài vùng cư trú bị chết, gia đình không biết để
mai tang.
Chế độ trợ cấp cho các đối tượng thuộc diện cứu trợ thường xuyên được
qui định trọng Nghị định số 67/2007/ NĐ-CP như sau : theo điều 12 mức độ
cứu trợ cấp cứu trợ đột xuất thấp nhất đối với các đối tượng quy định tại Điều
6 của Nghị định này như sau:
1. Đối với hộ gia đình:
a) Có người chết, mất tích: 3.000.000 đồng/người;
b) Có người bị thương nặng: 1.000.000 đồng/người;
c) Có nhà bị đổ, sập, trôi, cháy, hỏng nặng: 5.000.000 đồng/hộ;
d) Hộ gia đình phải di dời khẩn cấp do nguy cơ sạt lở đất, lũ quét:
5.000.000 đồng/hộ.
2. Cá nhân:

a) Trợ giúp cứu đói: 15 kg gạo/người/tháng; trong thời gian từ 1 đến 3
tháng;
b) Người gặp rủi ro ngoài vùng cư trú bị thương nặng, gia đình không
biết để chăm sóc: 1.000.000 đồng/người;
c) Người lang thang xin ăn trong thời gian tập trung chờ đưa về nơi cư
trú: 10.000 đồng/người/ngày nhưng không quá 30 ngày. Trường hợp đặc biệt
cần phải kéo dài thì thời gian được hưởng trợ cấp tối đa không quá 3 tháng và
mức trợ cấp bằng mức trợ cấp nuôi dưỡng hàng tháng tại cơ sở bảo trợ xã hội.
3. Đối với người gặp rủi ro ngoài vùng cư trú bị chết, gia đình không biết
để mai táng được Ủy ban nhân dân cấp xã, bệnh viện, cơ quan, đơn vị tổ chức
mai táng thì các cơ quan, đơn vị đứng ra mai táng được hỗ trợ kinh phí mai
táng thấp nhất là 2.000.000 đồng.
Điều 13. Hộ gia đình có người là lao động chính bị chết, mất tích; hộ gia
đình bị mất phương tiện sản xuất; hộ gia đình có nhà bị đổ, sập, trôi, cháy,
14
hỏng nặng, lâm vào cảnh bị đói do thiếu lương thực, ngoài khoản trợ cấp nêu
tại Điều 12 Nghị định này, được xem xét trợ giúp thêm các khoản sau cho đến
khi hộ thoát khỏi diện nghèo:
1. Miễn, giảm học phí cho người đang học văn hoá, học nghề.
2. Được cấp thẻ bảo hiểm y tế hoặc khám chữa bệnh miễn phí tại các cơ
sở chữa bệnh của Nhà nước.
3. Được vay vốn ưu đãi để phát triển sản xuất.
Điều 14. Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung
ương quyết định mức trợ giúp cụ thể đối với trường hợp nêu tại mục d khoản
1 Điều 6 cho phù hợp với tình hình thực tế và khả năng huy động nguồn lực
của địa phương.
Nhà nước khuyến khích các địa phương nâng mức trợ cấp, trợ giúp cao
hơn mức thấp nhất quy định tại Điều 12 Nghị định này.
4. Quá trình thực hiện cứu trợ xã hội ở Việt nam.
Trong quá trình thực hiện cứu trợ xã hội Việt Nam luôn tranh thủ sự ủng

hộ và giúp đỡ của các tổ chức cứu trợ, các tổ chức nhân đạo trong khu vực
cũng như trên thế giới. Nhà nước và Đảng luôn triển khai các công tác cứu
trợ kịp thời, đúng lúc cho các đối tượng gặp khó khăn. Cứu trợ xã hội được
coi như là "lưới đỡ cuối cùng" trong hệ thống các lưới đỡ an sinh xã hội. Vì
vậy nó được coi là chế độ đảm bảo cộng đồng mang tính nhân đạo, nhân văn
rất cao, thể hiện tình người rõ rệt.
Tuy nhiên, hoạt động cứu trợ xã hội không chỉ là của cá nhân, tổ chức
bất kỳ trong xã hội mà trách nhiệm chính là của nhà nước. Nhà nước có trách
nhiệm cao nhất trong việc tổ chức các hoạt động cứu trợ xã hội, với tư cách là
đại diện của xã hội. Các chính sách, pháp luật về cứu trợ xã hội do nhà nước
ban hành, xây dựng là cơ sở quan trọng để các tổ chức, cơ quan, cá nhân tiến
hành các hoạt động cứu trợ xã hội, đồng thời là tiêu chuẩn đảm bảo sự công
bằng, minh bạch, đúng đắn và tính hợp pháp của cứu trợ xã hội.
15
Việc chăm sóc giúp đỡ đối tượng cứu trợ xã hội được thực hiện theo hai
hướng :
 Hỗ trợ tại cộng đồng, tức là các đối tượng nhận sự giúp đỡ về vật chất
và tinh thần từ người thân và cộng đồng. Đây là hướng cứu trợ luôn
được khuyến khích và cũng phù hợp với đặc điểm văn hóa và truyền
thống dân tộc.
 Nuôi dưỡng tập trung với các đối tượng đặc biệt khó khăn.
Trong thời gian vừa qua Nhà nước và Đảng phối hợp cùng các cơ quan,
đoàn thể, các tổ chức cá nhân đã tham gia các chương trình cứu trợ thường
xuyên và đột xuất, trợ giúp cho những đối tượng gặp khó khăn : chương trình
vì người nghèo được tổ chức hàng năm nhằm quyên góp sự ủng hộ lòng hảo
tâm của mọi người để giúp đỡ những gia đình, cá nhân…nghèo đói, giúp họ
cải thiện được phần nào cuộc sống của mình là một chương trình điển hình
trong công tác cứu trợ thường xuyên. Chương trình này được tổ chức hàng
năm và qui định ngày 17/10 hàng năm là ngày vì người nghèo, và tháng 10 là
tháng vì người nghèo. Quĩ vì người nghèo được thành lập và hàng năm theo

từng đợt sẽ được chuyển đến với những người nghèo khổ. Một số chương
trình cứu trợ trong năm vừa qua là :
Trong năm 2008, đồng bào Khmer Sóc Trăng đã nhận được sự hỗ trợ,
giúp đỡ từ Trung ương và các cấp ngành trong tỉnh để phát triển kinh tế, xoá
nghèo với số tiền trên 200 tỷ đồng. Thực hiện Chương trình 135 của Chính
phủ, Sóc Trăng được phân bổ 79 tỷ đồng. Tỉnh đã đầu tư trên các lĩnh
vực cơ sở hạ tầng 42,7 tỷ đồng cho 36 xã đặc biệt khó khăn (mỗi xã
800 triệu đồng) và 150 triệu đồng/ấpđặc biệt khó khăn khu vực 2.
Cũng từ nguồn vốn của Chương trình 135, tỉnh đã triển khai 79 công trình
đường, cầu giao thông, thuỷ lợi, trường học, điện, nước cùng nhiều dự án hỗ
trợ phát triển sản xuất, đào tạo, đem lại lưọi ích thiết thực cho hàng ngàn hộ
dân người Khmer.
16
Ngoài nguồn vốn của chương trình 135, trong năm 2008, đồng bào
Khmer Sóc Trăng cũng được hỗ trợ lớn từ Chương trình 134 của Chính phủ
với tổng số tiền trên 122,3 tỷ đồng. Tỉnh đã phân bổ hỗ trợ về nhà ở được gần
50 tỷ đồng để xây dựng 6.880 căn nhà cho hộ Khmer nghèo thuộc 5 huyện
(Vĩnh Châu, Mỹ Xuyên, Kế Sách, Long Phú, Mỹ Tú), bình quân mỗi căn nhà
7,2 triệu đồng.
Tỉnh cũng đầu tư gần 33,5 tỷ đồng để mở mạng 38 trạm cấp nước, xây
dựng mới 4 trạm và 1 hệ cấp nước tập trung; lắp đặt 6.057 đồng hồ nước cho
hộ Khmer nghèo, đầu tư 6 bể chứa nước cho các chùa Khmer, cấp 7.710 lu
chứa nước, đầu tư 1.229 giếng khoan tay. Bên cạnh đó, với chính sách trợ
giá, trợ cước, năm 2008, bà con Khmer Sóc Trăng cũng được phân bổ 4,8 tỷ
đồng để hỗ trợ giống cây trồng, vật nuôi các loại cho hơn 2.000 hộ được thụ
hưởng. Nhiều hộ từ được nhà nước hỗ trợ bò giống, lúa giống, cá giống đã
có thu nhập khá cao, thoát được nghèo.
Hỗ trợ 310 tỷ đồng khắc phục hậu quả mưa lũ. Ngày 17/11, Thủ tướng
Chính phủ đã quyết định trích 310 tỷ đồng từ nguồn dự phòng ngân sách
Trung ương năm 2008 cho 18 địa phương khắc phục hậu quả đợt mưa lũ vừa

qua. Nguồn kinh phí trên được dùng để hỗ trợ dân sinh, mua giống khôi phục
sản xuất, tu bổ cơ sở hạ tầng thiết yếu như trường học, trạm y tế, thủy lợi,
giao thông nông thôn, vệ sinh môi trường và phòng, chống dịch bệnh.
Nguồn vốn được phân bổ cụ thể như sau: Ninh Bình 35 tỷ đồng; Hà Nội
40 tỷ đồng; Nghệ An 25 tỷ đồng; Hòa Bình 10 tỷ; Hưng Yên, Hà Nam, Thái
Bình, Bắc Giang mỗi tỉnh 20 tỷ đồng; Vĩnh Phúc, Phú Thọ, Thanh Hóa, Hải
Dương, Hà Tĩnh, Bắc Ninh, Nam Định mỗi tỉnh 15 tỷ đồng; Lạng Sơn, Bắc
Kạn và Thái Nguyên mỗi tỉnh 5 tỷ đồng.
Thủ tướng Chính phủ quyết định xuất cấp (không thu tiền) 5.400 tấn gạo
từ nguồn Dự trữ quốc gia hỗ trợ các địa phương để cứu đói kịp thời cho dân
bị thiệt hại do mưa lũ. Cụ thể: Ninh Bình, Bắc Giang, Nghệ An, mỗi tỉnh
17
1.000 tấn gạo; Thanh Hóa 900 tấn và Hà Tĩnh 1.500 tấn, 45 tấn hạt giống
rau từ nguồn Dự trữ quốc gia được xuất cấp (không thu tiền) để hỗ trợ cho
13 địa phương phục hồi sản xuất. Theo đó, tỉnh Ninh Bình được hỗ trợ 3 tấn;
Hà Nội 10 tấn; Vĩnh Phúc 7 tấn; Nghệ An 5 tấn; Hưng Yên 3 tấn; Thanh Hóa
3 tấn; Hà Nam, Phú Thọ, Hải Dương, Bắc Giang, Hà Tĩnh, Hòa Bình, Bắc
Ninh mỗi tỉnh 2 tấn./.
Dự án giáo dục tiểu học cho trẻ em khó khăn (PEDC) cho biết: Ðể tăng
cơ hội đến trường cho trẻ em ở 40 tỉnh khó khăn nhất cả cả nước, từ đầu năm
học 2008 - 2009 đến nay, PEDC đã chi 250 tỷ đồng, hỗ trợ trực tiếp cho 2,15
triệu học sinh, mỗi em 32.000 đồng để mua các học phẩm tối thiểu: vở, bút,
với tổng số tiền là 68 tỷ đồng.…vv và nhiều chương trình khác.
4. Kết quả đạt được và triển khai công tác cứu trợ xã hội trong năm 2009,
những giải pháp khắc phục khó khăn thiếu sót.
Theo báo cáo gần đây nhất vào chiều 16/01/2009, Cục Bảo trợ Xã hội đã
tổ chức Hội nghị Tổng kết công tác năm 2008 và triển khai chương trình công
tác năm 2009. Tham dự có các đồng chí Thứ trưởng Bộ Lao động- Thương
binh và Xã hội Bùi Hồng Lĩnh, Phùng Ngọc Hùng cùng đại diện lãnh đạo các
đơn vị có liên quan thuộc Bộ. Thay mặt lãnh đạo cục, Cục trưởng Nguyễn

Trọng Đàm đã trình bày Báo cáo tình hình thực hiện chỉ tiêu, nhiệm vụ năm
2008 và Chương trình công tác năm 2009 của Cục Bảo trợ Xã hội với một số
kết quả, nội dung chủ yếu sau đây:
Về xây dựng văn bản, năm qua Cục đã tham mưu, xây dựng và trình
ban hành 9 văn bản trong đó có 5 văn bản cấp Chính phủ, 4 văn bản cấp bộ.
Các văn bản hiện đang còn xây dựng là: Đề án nghiên cứu luật về người
khuyết tật, Đề án phát triển nghề công tác xã hội; Thông tư hướng dẫn một số
điều của Nghị định số 68 ; góp ý 22 Nghị quyết, quyết định của Thủ tướng
Chính phủ và Thông tư của các Bộ, ngành liên quan
18
Kết quả giảm nghèo, tính đến cuối năm 2008, tỷ lệ nghèo cả nước còn
khoảng 13,08%, giảm 1,66% so với năm 2007, không đạt mục tiêu đề ra là
giảm xuống còn khoảng 12% do tác động của nhiều yếu tố kinh tế- xã hội,
thiên tai, bão lũ
Về trợ giúp đột xuất, căn cứ đề nghị của địa phương và qua kiểm tra
thực tế, Bộ Lao động- Thương binh và Xã hội đã trao đổi thống nhất với các
bộ, ngành liên quan, xem xét đề nghị Chính phủ hỗ trợ lương thực cho các
tỉnh nêu trên 40.000 tấn gạo và 825 tỷ đồng nhằm cứu đói và khắc phục hậu
quả thiên tai. Đồng thời cũng đã hướng dẫn các địa phương rà soát và thực
hiện cứu trợ kịp thời cho gần 1,4 triệu người dân
Về chính sách xã hội, Chỉ đạo, hướng dẫn các địa phương thực hiện
Nghị định số 67/2007/NĐ- CP về chính sách trợ giúp các đối tượng xã hội,
đến nay 63/63 tỉnh, thành hoàn thành việc rà soát, lên danh sách với tổng đối
tượng là khoảng 1,13 triệu người. Trong năm, nhờ việc xây dựng và đưa vào
ứng dụng phần mềm quản lý đối tượng bảo trợ xã hội theo Nghị định 67 nên
công tác quản lý đối tượng bước đầu đã được chuẩn hoá. Ước tính đến nay có
khoảng 90% và đến năm 2009 sẽ có 100% đối tượng thuộc diện trợ cấp theo
nghị định này được hưởng trợ cấp
Đối với lĩnh vực người khuyết tật, đến nay đã có 30 tỉnh, thành phố
xây có kế hoạch và đề án trợ giúp người khuyết tật ( Đề án 329) cấp tỉnh; 24

tỉnh, thành phố tiến hành khảo sát thống kê người tàn tật, trợ cấp xã hội cho
các đối tượng quy định tại Nghị định 67/2007/NĐ-CP, hướng dẫn thành lập tổ
tự lực của người tàn tật, cấp thẻ bảo hiểm y tế, hỗ trợ giáo dục, đào tạo, dậy
nghề tạo việc làm, vay vốn phát triển sản xuất, cải tạo các công trình công
cộng, giao thông để đảm bảo cho người tàn tật tiếp cận
Về thực hiện Pháp lệnh người cao tuổi và Chương trình hành động
quốc gia về người cao tuổi (Chương trình 301), đã có gần 3,1 triệu người
(40% người cao tuổi) được hưởng lương hưu và trợ cấp bảo hiểm xã hội hoặc
19
chính sách đối với người có công và trợ cấp xã hội; trên 57% hộ gia đình có
người cao tuổi có mức sống bằng hoặc cao hơn mức sống trung bình của cộng
đồng: 93,88% người cao tuổi được khám, chữa bệnh và được hưởng chăm sóc
của gia đình, trong đó khoảng 32,6% do nhà nước và các tổ chức hỗ trợ; số
còn lại do tích luỹ của hộ, hoặc giúp đỡ của cộng đồng dân cư
Về công tác xã hội, theo chỉ đạo của Chính phủ, Bộ LĐ- TBXH đang
tiếp tục phối hợp cùng các Bộ, ngành hữu quan và các đối tác quốc tế xây
dựng Đề án Phát triển nghề công tác xã hội; Nghiên cứu đổi mới hoạt động
của các Trung tâm Bảo trợ xã hội; Trình và chuẩn bị triển khai thực hiện dự
án “Chăm sóc trẻ em và người chưa thành niên có hoàn cảnh đặc biệt” do
UNICEF tài trợ; Đôn đốc và hướng dẫn các địa phương triển khai thực hiện
các mô hình “Nhà xã hội” và “Ngôi nhà nhỏ trong các Trung tâm Bảo trợ xã
hội” chăm sóc trẻ em tại một số địa phương. Trong năm 2008 đã triển khai
được các mô hình nhà xã hội tại Hà Nội, Hà Tây, Đắc Lắc, TP.HCM, Bình
Dương, Bà Rịa-Vũng Tàu, mô hình Ngôi nhà nhỏ trong trung tâm BTXH tại
Phú Thọ, Sơn La, Hải Dương, Bắc Ninh, Thanh Hóa, Khánh Hòa
Báo cáo cũng đưa ra kế hoạch thực hiện nhiệm vụ năm2009. Theo đó, về
giảm nghèo, dự kiến đến cuối năm 2009, tỷ lệ hộ nghèo nước ta giảm còn
khoảng 12%; về trợ giúp các đối tượng bảo trợ xã hội: đảm bảo 100% đối
tượng có đủ điều kiện và hồ sơ đều được hưởng trợ cấp theo Nghị định
67/2007/NĐ-CP; về đời sống nhân dân: đảm bảo ổn định đời sống, đặc biệt là

vùng dân tộc, vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới, người dân vùng bị thiên tai,
đảm bảo không có người dân nào bị thiếu đói do thiếu lương thực.
Phát biểu kết luận hội nghị, cùng với những nhiệm vụ đã được nêu trong báo
cáo trên, Thứ trưởng Bùi Hồng Lĩnh chỉ đạo, trong năm tới ngoài việc tập
trung tổ chức thực hiện tốt Nghị quyết của Chính phủ về giảm nghèo nhanh
và bền vững ở các huyện nghèo, công tác bảo trợ xã hội cần đặc biệt quan tâm
hơn đến an sinh xã hội, đặc biệt tập trung vào những vấn đề bức xúc và những
đối tượng yếu thế như người nghèo, trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt, người tàn
20
tật Cùng với đó, người làm công tác bảo trợ xã hội cũng cần chú trọng nhiều
hơn đến công tác tuyên truyền, phổ biến thực hiện chính sách, biết phát huy
cái tâm, tình cảm và trách nhiệm của mình đối với đất nước và toàn xã hội,
trong công việc cũng cần nâng cao tinh thần đoàn kết, nhân ái, biết phối hợp,
chia sẻ để cùng thành công
Tuy nhiên quá trình thực hiện cứu trợ vẫn còn gặp nhiều khó khăn và
thiếu xót, các qui định về cứu trợ xã hội cũng còn có những hạn chế nhất định
như: Số đối tượng được hưởng chính sách cứu trợ còn quá ít, cá biệt vẫn còn
có tỉnh chưa thực hiện trợ cấp cứu trợ xã hội xã, phường hoặc chưa nâng mức
trợ cấp theo qui định tại Nghị định số 07/2000/NĐ-CP. Công tác xây dựng và
bảo vệ kế hoạch ngân sách địa phương cho công tác cứu trợ xã hội còn yếu,
nhiều Sở Lao động - Thương binh và Xã hội không quan tâm đến mục chi
ngân sách này. Trình độ chuyên môn, kỹ năng quản lý của cán bộ còn hạn
chế, nhất là đối với số cán bộ cơ sở (cấp huyện, xã). Công tác quản lý, điều tra
thống kê đối tượng đã được quan tâm chỉ đạo, nhưng do thiếu cán bộ, phương
tiện và kinh phí nên làm chưa thường xuyên và đầy đủ. Hệ thống văn bản
hướng dẫn đôi khi còn chậm, nội dung còn có điểm chồng chéo. Công tác
thanh tra, kiểm tra đã được tiến hành nhưng chưa triệt để.
Một số giải pháp khắc phục :
* Cần phải mở rộng hình thức giúp đỡ đối tượng hưởng trợ cấp cứu trợ
thường xuyên như có chính sách khuyến khích động viên các cá nhân, tổ chức

tham gia thực hiện xã hội hoá công tác cứu trợ xã hội.
* Mức cứu trợ hàng tháng cho các đối tượng còn thấp trong khi trượt giá
năm sau cao hơn năm trước, do vậy cần phải có cách tính để ổn định cuộc
sống cho họ.
* Tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra.
* Cần phải rà soát, giảm bớt những thủ tục hành chính đối với đối tượng
khi được nhận trợ cấp xã hội.
21
* Cần phải đẩy mạnh công tác quản lý nắm chắc đối tượng tại cơ sở: lập
sổ quản lý đối tượng tại xã, phường, định kỳ 6 tháng, 1 năm, rà soát danh sách
và tổng hợp báo cáo.
III. Nguồn tài chính cứu trợ xã hội ở Việt Nam
Nguồn lực tài chính để thực hiện cứu trợ xã hội hiện nay ở nước ta được
lấy từ Ngân sách Nhà nước ( trung ương và địa phương ) , từ trong nhân dân
và trong các tổ chức đoàn thể và từ sự trợ giúp quốc tế. Nhà nước phân cấp
kinh phí đẻ thực hiện cứu trợ thường xuyên cho các đối tượng được nuôi
dưỡng tại các cơ sở bảo trợ xã hội và hỗ trợ chăm sóc nuôi dưỡng ai gia đình
và công cộng. Nguồn ngân sách còn được trích lập cho quĩ dự phòng quốc gia
và quĩ dự phòng của các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương để thực hiện
cứu trợ khẩn cấp cho các nạn nhân phải chịu thiên tai và trợ cấp cứu đói. Nhà
nước các khoản kinh phí xât dựng cơ sở hạ tầng, trang bị kĩ thuật, lương cho
cán bộ công nhân viên, kinh phí quản lý hành chính của các cơ sở tổ chức cứu
trợ xã hội. Ngoài các cơ sở bảo trợ xã hội của Nhà nước thì ở nước ta còn có
các cơ sở bảo trợ của các tổ chức đoàn thể các hội các tổ chức tôn giáo…
nguồn tài chính cho các cơ sở do chính các tổ chức đứng ra thành lập tự huy
động hoặc được tài trợ. Hiên nay ở nước ta nhà nước khuyến khích thành lập
các Hội bảo trợ người tàn tật,Hội người mù, Hội người cao tuổi, các làng trẻ
SOS, trung tâm nuôi dưỡng người già cô đơn, các doanh nghiệp dành riêng
cho người tàn tật, các trường học dàng riêng cho trẻ em câm điếc…theo thong
kê trong số các cơ sở bảo trợ của nước ta hiện na, có đén 75% là do Nhà nước

cấp kinh phí, còn lai là do các tổ chức cá nhân tự trang trải. Đối với trường
hợp có thiên tai gây thiệt hại nghiêm trọng trên diện rộng thì các tỉnh thành ,
các cơ quan tổ chức quyên góp ủng hộ. Việc quyên góp này có thể diễn ra trên
địa bàn từng xã, phường, thị trấn…và cũng có thể diễn ra trên phạm vi toàn
quốc. Việc ủng hộ này có thể bằng tiền hoặc hiện vật như gạo, thuốc men,
quần áo, thực phẩm, vật liệu xây dựng nhà ở…sự giúp đỡ của cộng đồng quốc
22
tế cho hoạt động cứu trợ xã hội ở nước ta được thực hiện thong qua các dự án
nhân đạo từ thiện của lien hợp quốc và các tổ chức phi chính phủ, các tổ chức
quốc tế.
Nguồn ngân sách để thực hiện cứu trợ xã hội của việt nam được qui định
trong các điều khoản ở chương năm của Nghị định số 67/2007/ NĐ-CP :
Điều 15. Nguồn kinh phí trợ giúp thường xuyên tại cộng đồng; kinh phí
nuôi dưỡng, kinh phí hoạt động bộ máy, kinh phí đầu tư xây dựng cơ bản của
các cơ sở bảo trợ xã hội, nhà xã hội tại cộng đồng thuộc cấp nào thì do ngân
sách cấp đó đảm bảo theo phân cấp hiện hành của Luật Ngân sách nhà nước
và các văn bản hướng dẫn Luật Ngân sách nhà nước.
Điều 16. Cơ sở bảo trợ xã hội, nhà xã hội tại cộng đồng được tiếp nhận,
sử dụng và quản lý các nguồn kinh phí và hiện vật (nếu có) do các tổ chức, cá
nhân đóng góp và giúp đỡ từ thiện; bảo đảm sử dụng đúng mục đích, đúng đối
tượng và thanh quyết toán theo chế độ tài chính hiện hành.
Điều 17. Nguồn kinh phí để thực hiện cứu trợ đột xuất bao gồm:
1. Ngân sách địa phương tự cân đối.
2. Trợ giúp của các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước hỗ trợ trực tiếp
cho địa phương hoặc thông qua Chính phủ, các đoàn thể xã hội.
3. Trường hợp các nguồn kinh phí trên không đủ để thực hiện cứu trợ đột
xuất thì Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương báo
cáo Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội và Bộ Tài chính để tổng hợp đề
xuất trình Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định hỗ trợ từ nguồn ngân
sách trung ương.

Điều 18. Việc lập dự toán, phân bổ, chấp hành và quyết toán kinh phí
thực hiện chính sách bảo trợ xã hội theo quy định của Luật Ngân sách nhà
nước và các văn bản hướng dẫn Luật Ngân sách nhà nước.
Với bản chất nhân đạo sâu sắc hoạt động cứu trợ xã hội được Nhà nước
thực hiện cùng với sự tham gia của đông đảo tầng lớp nhân dân và các tổ chức
23
chính trị xã hội khác nhau như Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam, Hội chữ thập đỏ
Việt Nam, các tổ chức NGO…trách nhiệm chính về quản lý nhà nước đối với
hoạt động cứu trợ xã hội ở nước ta hiện nay là Bộ lao động - Thương Binh và
Xã hội. Các cơ quan khác như Bộ Tài Chính ,Bộ Nông Nghiệp và Phát triển
Nông thôn tỉnh, Bộ Y Tế, Bộ Giáo dục Đào tạo, Ủy ban nhân dân các tỉnh,
huyện có trách nhiệm phối hợp phù hợp với lĩnh vực quản lý của từng cơ
quan.
24

×