Tải bản đầy đủ (.docx) (73 trang)

Nghiên cứu đặc điểm sinh thái học và nhân giống vô tính cây hoàng đằng (fibraurea tinctoria lour) bằng phương pháp giâm hom tại huyện võ nhai, tỉnh thái nguyên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (6.83 MB, 73 trang )

1
MỞ ĐẦU
1.

Đặt vấn đề
Cây Hoàng đằng (Fibraurea tinctoria Lour hay Fibraurea recisa

Pierre) thuộc họ tiết Dê (Menispermaceae) là một trong những lồi thực vật
có chứa alkaloid được sử dụng rộng rãi. Theo cuốn “Dược liệu” nhà xuất bản Y
học – 1983 thì dược phẩm từ cây Hồng đằng có cơng dụng chữa đau mắt, mụn
nhọt, sốt nóng, kiết lỵ và ngộ độc thức ăn. Các nghiên cứu từ trước đến nay trên
đối tượng cây Hồng đằng cho thấy các cơng dụng mà nó có được là do hợp chất
alkaloid palmatin – thành phần hoạt chính trong cây tạo ra.

Hiện nay do phong trào khai thác dược liệu để sử dụng hoặc bán trên
thị trường và trồng rừng sản xuất nên số lượng, chất lượng các cây thuốc nam
bị suy giảm nghiêm trọng. Người dân khai thác sản phẩm các cây thuốc khơng
mang tính bền vững thậm chí nhiều lồi khai thác mang tính hủy diệt trong đó
cây Hồng đằng cũng không phải là trường hợp ngoại lệ, người dân chủ yếu
lợi dụng khai thác từ rừng tự nhiên chưa chú ý đến việc gây trồng. Ở một một
số tỉnh miền núi phía Bắc đã xuất hiện các hộ gia đình gây trồng loài cây này
để sử dụng nhưng chủ yếu trồng theo tập quán kinh nghiệm, gây trồng manh
mún nhỏ lẻ, cây giống không được tuyển chọn, thiếu kỹ thuật.
Với những giá trị to lớn đem lại cây Hoàng đằng đã và đang được người
dân quan tâm, chú trọng trong công tác phát triển cây dược liệu, huyện Võ Nhai
được tỉnh Thái Nguyên lựa chọn là một trong những cây mũi nhọn góp phần xóa
đói, giảm nghèo, tiến tới làm giàu cho người dân địa phương nhằm phát triển
kinh tế nông lâm nghiệp bền vững. Tuy nhiên số lượng cây Hoàng đằng cho năng
suất ổn định, chất lượng tốt hiện nay cịn rất ít và tại một số địa phương do khai
thác mà khơng mang tính bền vững do đó đang đứng trước nguy cơ tuyệt chủng.
Mặc dù vậy việc nghiên cứu lựa chọn những cây Hồng đằng có năng suất, chất


lượng tốt để lưu giữ và phát triển nguồn gen chưa được quan tâm đúng mức nhất
là việc lựa chọn phương pháp nhân giống và các tiêu chí để


2
đánh giá cây Hồng đằng chưa được nghiên cứu. Chính vì vậy, việc thực hiện
đề tài: “Nghiên cứu đặc điểm sinh thái học và nhân giống vơ tính
cây Hồng đằng (Fibraurea tinctoria Lour) bằng phương pháp
giâm hom tại huyện Võ Nhai, tỉnh Thái Nguyên” là rất cần thiết nhằm
góp phần phục hồi, bảo tồn và phát triển loài cây thuốc có giá trị cao, đồng
thời phù hợp với chủ trương phát triển cây dược liệu của nhà nước và nguyện
vọng của cộng đồng nhân dân địa phương, góp phần làm tăng hiệu quả công
tác phát triển cây dược liệu của nước ta.
2.
-

Mục tiêu nghiên cứu
Mô tả được đặc điểm sinh thái học loài cây Hoằng đằng ở khu vực

nghiên cứu.
-

Xác định được tuổi hom, nồng độ, loại chất kích thích ra rễ, giá thể

giâm hom, hỗn hợp ruột bầu phù hợp trong nhân giống bằng phương pháp
giâm hom.
3.

Ý nghĩa nghiên cứu


3.1. Ý nghĩa khoa học
Kết quả nghiên cứu của đề tài làm cơ sở khoa học và thực tiễn để nhằm
nhân giống loài cây Hoằng đằng chất lượng cao đáp ứng nhu cầu sản xuất thuốc
hiện nay. Đồng thời là tư liệu tham khảo có giá trị cho các nhà khoa học, nhà
chuyên môn, các học viên, sinh viên khi nghiên cứu về vấn đề này.

3.2. Ý nghĩa thực tiễn
Thành cơng của đề tài có ý nghĩa rất quan trọng trong việc bảo tồn và
phát triển nguồn giống cây Hoàng đằng giúp cho người dân đa dạng hóa cây
dược liệu phục vụ mục tiêu kinh tế, góp phần tăng thu nhập, nâng cao thu
nhập của người dân huyện Võ Nhai nói riêng và tỉnh Thái Nguyên nói chung.


3
Chương 1
TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU
1.1. Cơ sở khoa học của vấn đề nghiên cứu


Về cơ sở sinh học

Công việc nghiên cứu đối với bất kỳ loài cây rừng nào chúng ta cũng
cần phải nắm rõ đặc điểm sinh học của từng lồi. Việc hiểu rõ hơn về đặc tính
sinh học của lồi giúp chúng ta có những biện pháp tác động phù hợp, sử
dụng nguồn tài nguyên thiên nhiên một cách hợp lý và bảo vệ hệ động thực
vật quý hiếm, ngăn ngừa suy thối của các lồi nhất là các lồi động vật, thực
vật q, hiếm, ngăn ngừa ơ nhiễm môi trường,... là cơ sở khoa học xây dựng
mối quan hệ giữa con người và thế giới tự nhiên được tốt hơn.



Về cơ sở bảo tồn

Biến đổi khí hậu, chặt phá rừng làm cho nhiều loài động, thực vật đứng
trước nguy cơ tuyệt chủng chính vì vậy cơng tác bảo tồn loài, bảo tồn đa dạng
sinh học ngày càng được quan tâm và chú trọng .
Để có thể bảo vệ và phát triển tốt các loài động vật thực quý hiếm
Chính phủ đã ban hành Nghị định số 06/2019/NĐ-CP ngày 22/01/2019 quy
định về quản lý thực vật rừng, động vật rừng nguy cấp, quý, hiếm và thực thi
Công ước về bn bán quốc tế các lồi động vật, thực vật hoang dã nguy cấp
loài cây Hoàng đằng nằm trong nhóm IIA.
Nghị định 160/2013/NĐ-CP ngày 12/11/2013 quy định về Tiêu chí xác
định lồi và chế độ quản lý lồi thuộc danh mục loài nguy cấp, quý, hiếm
được ưu tiên bảo vệ. Tiêu chí xác định các lồi cần được ưu tiên ảo vệ gồm có
2 tiêu chí.
+
+

Số lượng cá thể cịn ít hoặc đang bị đe dọa tuyệt chủng

Là lồi đặc hữu hoặc có một trong các giá trị đặc biệt về khoa học, y

tế, kinh tế, sinh thái, cảnh quan, mơi trường và văn hóa-lịch sử.


4
1.2. Tình hình nghiên cứu trên thế giới và trong nước
1.2.1. Tình hình nghiên cứu trên thế giới
Hồng đằng (Fibraurea tinctoria Lour và Fibraurea recisa Pierre)
thuộc họ Tiết dê (Menispermaceae), bộ Mao lương (Ranunculales). Thành
phần hóa học: Hoạt chất trong Hồng đằng là Alkaloid mà chất chính là

Palmatin 1-3,5% và một ít jatrorrhizin, columbamin và berberin theo GaoXiong Rao et al (2009).
Theo hệ thống phân loại thực vật APG II (Angiosperm Phulogeny Group

II) năm 2003 Họ Tiết dê (Menispermaceae) có 75 chi, 450 lồi. Trong đó có
chi Hồng đằng (Fibraurea) là chi gồm 5 loài dây leo, chủ yếu phân bố ở vùng
nhiệt đới châu Á. Loài Fibraurea elliptica phân bố tại bán đảo Luzon
Phillipines, loài Fibraurea laxa phân bố tại Indonesia, loài Fibraurea recisa
phân bố tại các tỉnh Nam Bộ của Việt Nam, loài Fibraurea trotteri phân bố tại
Ấn Độ, loài Fibraurea tinctoria Lour phân bố tại Việt Nam, Lào, Campuchia.
Theo Lecomte H (1950) mơ tả cây Hồng Đằng trong tập Quần thể thực
vật Đàng trong (Flora Cochinchinensis). Hoàng Đằng là cây dây leo bằng thân
quấn, dài tới 10m, vỏ ngồi của thân già nứt nẻ và gỗ có màu vàng. Thân non
nhẵn, màu lục, ít phân nhánh. Lá mọc so le, hình trái xoan hoặc thn, dài 918cm, rộng 3-7cm, gốc bằng hoặc hơi trịn, đầu có mũi nhọn, hai mặt nhẵn,
mặt trên màu lục sẫm bóng, mặt dưới nhạt, 3 gân chính rõ; cuống lá dài 514cm, phình ở hai đầu. Hoa đơn tính khác gốc, cụm hoa chum mọc ra ở phần
thân già đã rụng lá. Hoa nhỏ màu vàng chanh, có 6 lá đài, cánh hoa 3 rộng và
mỏng hơn lá đài, hoa đực có 6 nhị, chỉ nhị dài hơn bao phấn, hoa cái nhị lép
hoặc khơng rõ, bầu hình trứng. Quả hạch hình xoan hay trứng thn, khi chín
màu vàng, mùi hơi khó chịu. Hạt 1 hình vng dẹt, Hồng Đằng ra hoa vào
tháng 4-5, quả chín vào tháng 11-12. Cây có khả năng tái sinh bằng hạt và
chồi sau khi khai thác.


5
Tính chất chung của Alkaloid theo Gao-Xiong Rao et al (2009).
-

Mùi vị: Đa số Alkaloid khơng có mùi có vị đắng và có một số ít có vị

cay như capsa, icin, piperidin, Palmatin…
-


Màu sắc: Hầu hết các Alkaloid đều không màu, trừ một số ít Alkaloid

có màu vàng như berberin, Plamatin. Cần lợi dụng tính chất này trong chiết
xuất và phân lập khi nghiên cứu về các thành phần hóa học của cây Hồng
Đằng bằng phương pháp phân tích quang phổ cho thấy các Alkaloid mới từ
cây Hoàng đằng đã được xác định là 1,2-methylenedioxy-8-hydroxy-6a (R)aporphine. Thân của cây Hoàng đằng là một loại thảo dược chống nấm hiệu
quả. Hoàng đằng có tên trong phân những cây thuốc và vị thuốc chữa lỵ, trực
trùng. Trong Hoàng đằng chủ yếu là Palmatin với tỷ lệ 1-3,5%. Ngồi ra cịn
có một ít jatrorrhizin, columbamin
Hoàng đằng (Fibraurea tinctoria Laur và Fibraurea recisa Pierre) thuộc
họ tiết dê (Menispermaceae), bộ Mao lương (Ranunculales). Thành phần hóa
học: Hoạt chất trong Hồng đằng là Alkloid mà chất chính là Palmatin 1 – 3,5%
và một ít jatrorrhizin, columbamin và berberin theo Gao-Xiong Rao ct al (2009)

Nghiên cứu tác dụng chữa bệnh của từng loài cây thuốc và bản chất hoá
học của dược liệu được quan tâm trên quy mô rộng lớn. Nhiều nghiên cứu đã
khẳng định hầu hết các cây cỏ đều có tính kháng sinh là một trong những yếu
tố miễn dịch tự nhiên. Tác dụng kháng khuẩn là do các hợp chất tự nhiên hay
gặp: Sulfua, saponin (Allium odium); becberin (Coptis chinensis Franch.);
tamin (Zizyphusjụuba Miller). Mỗi lồi cây với từng cơng năng, tác dụng, ở
mỗi địa phương lại được sử dụng riêng theo một bản sắc dân tộc.
Ở Trung Quốc, ngoài nền y học cổ truyền chính thống của người hán
(Trung y), các cộng đồng khơng phải người hán, với dân số khoảng 100 triệu
người, cũng có các nền y học riêng của mình, gọi là y học dân tộc cổ truyền
(Traiditional Ethno-medicine) sử dụng khoảng 8000 loài cây cỏ làm thuốc.


6
Trong đó, có 5 nền y học chính là nền y học cổ truyền Tây Tạng (sử dụng

3.294 lồi), Mơng Cổ (1.430 loài), Ugur, Thái (800 loài)
Theo A.S. Islam, (1991), ở Bangladesh có một số cây thuốc quý như
Tylophora indica (dùng làm thuốc chữa hen), trước kia dễ tìm kiếm, nay đã
trở nên hiếm hoi.
Theo O. Akerele, (1991), là loài Ba gạc – Rauvolfia serpentina vốn
mọc tự nhiên khá phổ biến ở Ấn Độ, Srilanca, Bangladesh, Thái Lan,… mỗi
năm khai thác được khoảng 1.000 tấn nguyên liệu xuất sang thị trường Âu –
Mỹ, làm thuốc chữa cao huyết áp (riêng Ấn Độ chiếm 40 – 50%). Song, do bị
khai thác liên tục nhiều năm đã làm cho cây thuốc này mau cạn kiệt.
Theo He Shan An và Cheng Zhong Ming, (1985), ở Trung Quốc vốn có
một số lồi Dioscorea japonica, trữ lượng khá lớn, trong thập kỷ 50, đã từng
khai thác tới 30.000 tấn, hiện đã bị giảm sút nhiều, có lồi thậm chí phải trồng
và duy trì lồi giống. Một vài loài cây thuốc quý như Fritillaria cirrhosa (làm
thuốc ho) phân bố phổ biến ở vùng Tây – Bắc tỉnh Tứ Xun nay chỉ cịn sót
lại ở 1 – 2 điểm, với số lượng cá thể rất ít. Hoặc lồi Iphigenia indica có tác
dụng chữa ung thư, chỉ phân bố rất hẹp ở vùng Lijang và Dali tỉnh Vân Nam,
do bị tìm kiếm khai thác gay gắt, hiện có thể đã bị tuyệt chủng. Một số loại
cây thuốc quý khác như Paris polyphylla, Gastrodia elata, Nervilia fordii,
…cũng là những ví dụ điển hình.
Sara Oldfield, tổng thư ký của Tổ chức bảo tồn các vườn bách thảo quốc
tế, nhận xét “Sự biến mất của các cây thuốc là một thảm họa thực sự”. Phần
lớn dân số thế giới, trong đó có 80% người Châu Phi, hồn tồn phụ thuộc vào
dược thảo để chữa bệnh.Theo một báo cáo của tổ chức bảo tồn quốc tế Plantlife,
trên khắp thế giới có khoảng 50.000 loại cây có thể dùng làm thuốc, nhưng xấp
xỉ 15.000 trong số đó đang đối mặt với nguy cơ tuyệt chủng. Tình trạng thiếu
dược thảo đã xảy ra ở Trung Quốc, Ấn Độ, Kenya, Nepal, Tanzania và Uganda.


7
Tuy nhiên giá trị và lợi nhuận mà cây thuốc đem lại rất lớn. Ở Mỹ mỗi

năm lợi nhuận thu được từ cây thuốc khoảng 1,5 tỷ USD. Ở Trung Quốc, chỉ
riêng việc xuất khẩu cao đơn hoàn tán cũng cho doanh thu khoảng 2 tỷ USD/
năm. Hiện nay, phong trào dùng cây thuốc để phòng và chữa bệnh trên thế
giới đã đặt ra một vấn đề cần lưu ý: 2/3 trong số 50.000 loài cây thuốc được
sử dụng, khai thác từ các cây hoang dại sẵn có nhưng khơng được trồng lại để
bổ sung. Theo một nghiên cứu của nhà thực vật học người Anh là Alan
Hamilton, thành viên của Quỹ Quốc tế Bảo vệ Thiên nhiên (viết tắt là WWF),
có từ 4.000 – 10.000 lồi cây cỏ dùng làm thuốc có nguy cơ bị tiệt chủng.
Ngun nhân khơng phải hoàn toàn do sự phát triển của Y học cổ truyền mà
theo tác giả là do thị trường dược thảo ở Châu Âu và Bắc Mỹ tăng trưởng
10% mỗi năm, trong vịng 10 năm nay. Trên quy mơ tồn cầu, doanh số mua
bán cây thuốc hàng năm ước tính lên tới 16 tỷ Euro.
Nhân giống bằng hom (Cutting propagation): Là một phương pháp nhân
giống sinh dưỡng với hom là một đoạn thân, cành, rễ được đặt trong điều kiện
môi trường thích hợp sẽ phát triển chồi bất định và mọc thành cây độc lập. Đây
là một hình thức nhân giống sinh dưỡng, dựa trên khả năng sinh sản sinh dưỡng
của cây, trên cơ sở phân bào nguyên nhiễm. Tế bào mẹ sinh ra tế bào con có bộ
nhiễm sắc thể giống hệt mình. Do vậy sinh sản sinh dưỡng duy trì được các đặc
tính di truyền của cơ thể mẹ và ổn định qua nhiều thế hệ. Phương pháp này được
áp dụng để duy trì các dịng vơ tính để tăng số lượng các cá thể cây hiếm hay duy
trì các genotyp quan trọng của cây mẹ , nhân giống bằng hom đã được các nhà
làm vườn và trồng cây cảnh ở các nơi khác nhau trên thế giới sử dụng từ lâu đời
và áp dụng trong sản xuất lâm nghiệp cách đây hàng trăm năm, được nghiên cứu
ở các nước trên thế giới như Liên Xô (cũ), Trung Quốc, Thuỵ Điển, Australia,
Pháp, Ấn Độ, Malaysia, Indonesia, Nhật Bản, Công Gô,… đặc biệt từ khi con
người tổng hợp được các chất điều hồ sinh trưởng nhân tạo.

Ở Liên Xơ (cũ) việc nhân giống bằng hom đã được tiến hành trên 50



8
năm trước, đã thí nghiệm nhân giống 260.000 hom của 240 lồi cây thuộc 55
họ. Trong đó, có 47 lồi lá kim, 113 loài lá rộng cho các loài cây rừng, cây
làm cảnh, làm thuốc, cây công nghiệp và cây ăn quả. Tại Thụy Điển, hàng
năm công ty Hylles hog sản xuất khoảng 4.000.000 cây hom Vân sam. Năm
1993 vườn ươm Toolara tại bang Quensland (Australia), sản xuất 700.000 cây
hom Thông lai. Nhật Bản hàng năm sản xuất 49 triệu hom cây Lãnh sam. Ở
Trung Quốc, chỉ riêng với nghiên cứu sản xuất chế phẩm ABT, người ta đã
nghiên cứu thực nghiệm 1.270 loài cây gỗ, cây ăn quả, cây hoa, cây nơng
nghiệp, thực vật có ích …Quảng Đơng (Trung Quốc) có 4 vườn ươm sản xuất
cây hom, trong đó có 3 vườn ươm cấp huyện, đạt cơng suất 1 triệu cây/năm.
Tại Malaysia, 75 loài cây họ Quả hai cánh đã được nhân giống bằng hom. Tại
Thái Lan, 1 ha vườn giống Sao đen 5 tuổi có thể sản xuất 200.000 cây hom đủ
trồng 400-500 ha rừng.
Theo Gao-Xiong Rao et al (2009) với các loài cây thân gỗ và cây bụi sống
nhiều năm trong các hệ sinh thái rừng mưa nhiệt đới, nhu cầu về ánh sáng
thường thay đổi qua các giai đoạn phát triển khác nhau. Đây là yếu tố sinh thái
hết sức quan trọng góp phần quyết định đến sự phân bố, khả năng sinh trưởng,
phát triển và tạo ra năng suất sinh vật học của cây. Cùng với ánh sáng thì các đặc
điểm về tính chất đất đai, đặc biệt là hàm lượng các yếu tố dinh dưỡng trong đất
cũng đóng vai trị chi phối quan trọng đến khả năng cho năng suất của cây. Chính
vì vậy nghiên cứu về ảnh hưởng của yếu tố ánh sáng, đất đai và phân bón tới sinh
trưởng, phát triển của cây là những nội dung không thể thiếu trong nghiên cứu
gây trồng và bảo tồn các loài cây thuốc bản địa.

Khi nghiên cứu và thử nghiệm các kỹ thuật gây trồng đối với các loài
cây thuốc bản địa, các nhà nghiên cứu thường phải quan tâm tìm hiểu rất kỹ
về đặc điểm sinh thái nơi phân bố của loài cây đó trong tự nhiên, nghiên cứu
đặc điểm sinh trưởng và phát triển của nó tương ứng với sự biến động các yếu
tố sinh thái trong điều kiện cụ thể ngoài thực địa. Với nhiều loài thực vật nhiệt



9
đới, các yếu tố sinh thái chi phối quan trọng có thể kể đến như: ánh sáng,
nhiệt độ, ẩm độ khơng khí, tính chất đất đai (hàm lượng các yếu tố dinh
dưỡng, độ dày tầng đất, thành phần cơ giới đất, độ pH, mùn, ẩm độ đất…).
Đây chính là cơ sở khoa học quyết định thành công của các nghiên cứu gây
trồng cây thuốc bản địa.
Tại Ấn Độ, việc gây trồng cây thuốc được giới hạn ở các vườn đơn lẻ trong
các giai đoạn lịch sử trước đây. Việc gây trồng một cách có hệ thống được cơng ty
Đơng Ấn du nhập vào năm 1787. Năm 1930, chính phủ đã thành lập chương trình
trồng cây thuốc và cây có tinh dầu trên cơ sở khoa học, các loài được gây trồng như
Digiralis lanata, Hyoscyamus sp, Atropa belladona… Sau ngày giành được độc
lập, chính phủ Ấn Độ đã thành lập nhiều tổ chức sử dụng và trồng các loài dược liệu
chưa được khám phá trước đây. Hàng loạt tổ chức nhà nước và cá nhân tham gia các
chương trình nghiên cứu bảo tồn và trồng cây thuốc Viện nghiên cứu làm vườn,
Trung tâm nghiên cứu quốc gia, Hội đồng trung ương nghiên cứu các hệ thống y
học Ấn Độ, Bộ nông lâm nghiệp, các trường đại học nơng nghiệp.

1.2.2. Tình hình nghiên cứu ở Việt Nam
Theo Nguyễn Tiến Bân và cộng sự (2003) Trong “Danh lục các loài
thực vật Việt Nam” đã mơ tả, có hai lồi Hồng đằng ở Việt Nam:
1.

Fibrarea recisa Pierre (1885), tên gọi Nam hoàng, Hoàng đằng,

Hoàng liên nam, Vàng giang, Khau khem.
Phân bố: Thừa Thiên Huế (Hốt Mít), Đà Nẵng (Liên Chiểu), Quảng
Nam (Đại Lộc, Trà My), Phú n (Sơng Cầu), Khánh Hịa (Nha Trang), Kom
Tum (Đăk Gle, Sa Thầy), Lâm Đồng (Lạc Dương, Đan Kia, Bảo Lộc, Pnom

Sapoum). Cịn có ở Lào, Campuchia.
Dạng sống và sinh thái: Dây leo, thân to dài tới 20-25m, cây ưa sáng và
ẩm, nhưng cũng chịu được bóng. Thường mọc rải rác trong rừng thứ sinh, ven
nương rẫy, ở độ cao 1000m. Ra hoa tháng 1-3, có quả tháng 4-6.


10
Công dụng: Gỗ làm thuốc nhuộm vàng, rễ làm thuốc bổ đắng, thanh
nhiệt, giảm độc, lợi tiểu. Cịn cơng dung chữa mụn nhọt, mẩn ngứa, viêm ruột,
viêm dạ dày, kiết lỵ, viêm bang quan, đái đường, viêm ruột cấp tính, viêm kết
mạc. Thân và lá sắc uống chữa đau lung. Cây có chữa Palmatin.
2.

Fibraurea tinctoria Lour (1790), - F.chloroleu Mies (1871) – Cocculus

fibraurea DC (1817), tên gọi Hoàng đằng, Nam hoàng liên, Nam hoàng nhuộm.

Phân bố: Lâm Đồng (Di Linh), Đồng Nai (Biên Hịa). Cịn có ở Trung
Quốc, Malaixia, Inđơnêxia.
Dạng sống và sinh thái: Dây leo, than to. Dài 8-10m. Mọc rải rác trong
rừng thưa, nơi sáng. Ra hoa tháng 3-8. Công dụng: Thân và rễ phơi hay sấy khô,
tán bột, làm thành viên chữa lỵ, viêm ruột ỉa chảy, sốt rét, viêm tai, lở ngứa ngoài
da. Rễ bổ, lợi tiểu. Gỗ làm thuốc nhuộm vàng. Trong cây có chữa Palmatin.
“Alkloid là những hợp chất hữu cơ chứa nitơ, đa số có nhân dị vịng, có phản
ứng kiềm, thường gặp trong thự vật và đôi khi trong động vật, thường có dược
tính mạnh và có những phản ứng hóa học với một số thuốc thử chung của
alkaloid” dựơc điển Việt Nam (2002). Hàm lượng trong cây thường rất thấp, từ
một số trường hợp như cây canhkina hàm lượng Alkaloid đạt 6-10% trong nhựa
thuốc phiện có 20-30%. Bình thường một dược liệu chứa 1-3% Alkaloid được
coi là hàm lượng khá cao. Trong cây, Alkaloid ít khi có trạng thái tự do (Alkaloid

bazơ) mà thường tồn tại ở dạng mưối với axit hữu cơ như malat, oxalate,
acelat…đơi khi có ở dạng mưối a xít vơ cơ, chúng tan trong dịch tế bào. Ở một
số cây Alkaloid kết hợp với tannin với acid hay với đường ở trong cây. Điều
đáng chú ý là hàm lượng Alkaloid trong cây phụ thuộc nhiều vào yếu tố khí hậu,
ánh sang, chất đất, phân bón, giống cây và thời kỳ sinh trưởng. Trong tự nhiên
Alkaloid phân bố ở cả trong thực vật và động vật nhưng chủ yếu là thực vật.
Trong cây một lá mầm đã tìm thấy khoảng 500 Alkaloid, trong khi đó ở cây hai
lá mầm đã tìm thấy hơn 3600 chất. Ở thực vật hạt kín – Angiospermae sự phân
bố Alkaloid có tính nhảy vọt theo Nguyễn Văn Đàn –


11
Nguyễn Viết Trực (1985). Cây Hoàng đằng (Fibraurea tinctoria Lour) thuộc
họ Tiết dê (Menispermaceae) là một trong những loài thực vật có chữa
Alkaloid được sử dụng rộng rãi. Theo cuốn “Dược điển Việt Nam” nhà xuất
bản Y dược (2002) thì dược phẩm từ cây Hồng đằng có cơng dụng chữa đau
mắt, mun nhọt, sốt nóng, kiết lỵ và ngộ độc thức ăn.
Đỗ Tất Lợi (1999), trong sách “Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam”
của GS Đỗ Tất Lợi đã nêu Hoàng đằng dung để thanh nhiệt, giải độc, lợi tiểu
tiện, chữa đinh nhọt, nóng tím, viêm ruột cất tính, đau họng, viêm kết mạc,
đau mắt và bệnh hoàng đảm, chữa lỵ, than và lá sắc uống chữa đau lung, đau
tai. Hồng đằng cịn làm nguồn ngun liệu chiết xuất Palmatin.
Các nghiên cứu về cây Hoàng đằng ở Việt Nam Phạm Hữu Hạnh, Hà Văn
Năm (2014) “ Nghiên cứu nhân giống cây Hoàng đằng tại Quảng Ninh”. Với
mục tiêu bảo tồn và phát triển cây Hoàng đằng (Fibraurea tinctoria) trên đất
Quảng Ninh, bảo tồn nguồn gen, hướng tới công tác cải thiện giống cây Hoàng
đằng và bổ sung loài cây trồng quý hiếm vào cơ cấu cây lâm nghiệp của tỉnh.
Trần Đức Long (2004), đã cho thấy kích thước cây càng lớn thì hàm lượng
Alkaloid trong nguyên liệu càng cao. Ở các bộ phận khác nhau trong cây hàm
lượng Alkaloid là khác nhau. Hàm lượng cao nhất ở rễ già và gốc sau đó giảm

dần về hai phía rễ và thân. Ở phần ngọn và lá không phát hiện thấy Alkaloid. Do
đó khi thu hái ta nên lấy bộ phận già của cây để có chất lượng nguyên liệu tốt.
Nguyễn Thị Lê (2018) “ Nghiên cứu đa dạng sinh học của cây Hoàng đằng tại
miền Bắc”, tác giả đã thu thập mẫu cây Hoàng đằng ở 4 khu vực khác nhau (3
mẫu ở Ba Vì Hà Nội; 3 mẫu tại huyện Đồng Hỷ tỉnh Thái Nguyên; 4 mẫu ở thị
xã Cao Bằng và ng Bí Quảng Ninh). Kết quả thu được sau khi phân tích DNA
và hàm lượng Palmatin: 2 mẫu Hồng đằng ở Thái Ngun tuy có điều kiện sống
khác hẳn nhau (núi đất – mẫu 2 – huyện Phú Lương và núi đá vôi – mẫu 3 –
huyện Đồng Hỷ), đặc điểm hình thái khác nhau, thành phần và hàm lượng các
chất trong dịch chiết có sự khác nhau (mẫu 2 phát hiện 6 thành phần,


12
tỉ lệ Palmatin chiếm 84,05% trong thành phần dịch chiết, hàm lượng Palmatin
đạt 1,11%; mẫu 3 phát hiện 8 thành phần, tỉ lệ Palmatin chiếm 78,05% thành
phần dịch chiết, hàm lượng Palmatin đạt 0,73%) nhưng DNA vẫn giống nhau
ở mức cao nhất so với các mẫu khác (0,92). Như vậy, dù điều kiện sống có
thay đổi nhưng DNA vẫn ít chịu ảnh hưởng. Điều đó góp phần khẳng định
thêm việc sử dụng phương pháp phân loại bằng sinh học phân tử đã và đang
trở thành khoa học mũi nhọn trong phân loại học, bổ sung cho phương pháp
phân loại học truyền thống. Hàm lượng Palmatin trong các mẫu Hoàng đằng:
Mẫu Hồng đằng ở Cao Bằng có hàm lượng cao nhất 3,27%, mẫu Hoàng
đằng ở Thái Nguyên (huyện Đồng Hỷ) và ở Hà Nội (Ba Vì) có hàm lượng
thấp nhất 0,73%. Mẫu ở Quảng Ninh (huyện ng Bí) 2,18%. Mẫu thu ở Thái
Nguyên (huyện Phú Lương) 1,11%.
Theo Võ Văn Chi đất nước Việt Nam có nguồn dược liệu rất phong phú
lên đến trên 4.000 lồi thực vật và nấm lớn có cơng dụng làm thuốc; 52 lồi
tảo biển, 408 lồi động vật và 75 lồi khống vật có cơng dụng làm thuốc,
trong đó có nhiều lồi cây thuốc được sếp vào loài quý và hiếm trên thế giới
như: Sâm ngọc linh, Sâm vũ diệp, Tam thất hoang, Bách hợp, Thông đỏ, Vàng

đắng, Hồng liên ơ rơ, Hồng liên gai, Thanh thiên quỳ, Ba gạch Vĩnh Phúc…
Võ Văn Chi (2012) từ điển cây thuốc Việt Nam (Bộ mới), tập I, trang 1107,
Nxb Y học, Hà Nội. “Hồng đằng có vị đắng, tính lạnh, có tác dụng thanh
nhiệt, tiêu viêm, sát trùng. Palmatin có tác dụng ức chế đối với các vi khuẩn
trong đường ruột. Công dụng: Thường dùng chữa các loại sưng viêm, chữa
chảy máu mắt, sốt rét, kiết lỵ, viêm ruột, ỉa chảy, viêm tai, lở ngứa ngoài da và
cũng làm thuốc bổ đắng.
Ngoài ra, loài Hoàng đằng cũng được một số tác giả khác như Võ Văn Chi
(1997), đã nghiên cứu về kỹ thuật gây trồng, nhân giống, tuy nhiên chưa có kết
quả cụ thể, nhưng phần lớn các tác giả cho rằng Hồng đằng có thể trồng được
bằng hạt hoặc bằng giâm cành, song hiện tại cây thuốc này chưa có hướng


13
dẫn kỹ thuật chính thức. Trong phạm vi thực nghiệm, người ta đã thành công
trong việc nhân giống bằng các đoạn thân và cành (có sử dụng chất kích thích
ra rễ)
Theo Đỗ Huy Bích và cs (2004), cây thuốc và động vật làm thuốc ở
Việt Nam, tập I, trang 942, Nxb Khoa học và kĩ thuật, Hà Nội. “Hồng đằng
có vị đắng, tính hàn, vào 2 kinh tâm và can, có tác dụng thanh nhiệt, giải độc,
sát trùng, lợi thấp, thơng tiện. Cơng dụng: Hồng đằng được dùng làm thuốc
bổ đắng chữa các chứng viêm tấy, kiết lỵ, tiêu chảy, sốt rét, bệnh về gan, nóng
trong, lở ngứa ngồi da, mắt đỏ có màng, viêm tai chảy mủ.
Thái Văn Trừng (1978), thống kê hệ thực vật Việt Nam có 7004 lồi
thực vật bậc cao có lồi thuộc 1850 chi, 289 họ.
Nguyễn Nghĩa Thìn (1997), đã thống kê thành phần lồi của VQG có
khoảng 2.000 lồi thực vật, trong đó có 904 cây có ích thuộc 478 chi, 213 họ
thuộc ngành: Dương xỉ, Hạt trần, Hạt kín, các lồi này được xếp thành 8
nhóm có giá tri khác nhau.
Ðỗ Tất Lợi (1991), đã mơ tả 2 lồi Hồng đằng thuộc họ Tiết dê

(Menispermaceae), trong đó lồi Fibraurea tinctoria Lour, khác với loài
Fibraurea recisa Pierre ở chỗ lá nhọn, chỉ phân nhánh 2 lần.
Lê Ngọc Công (2004), đã nghiên cứu ảnh hưởng của một số quần xã
thực vật và độ che phủ ảnh hưởng theo tính chất hóa học của đất tới lượng vi
sinh vật thành phần giun đất, hệ thực vật tỉnh Thái Nguyên đã thống kê các
loài thực vật bậc cao có mạch của tỉnh Thái Nguyên là 160 họ, 468 chi, 654
loài chủ yếu là cây lá rộng thường xanh, trong đó có nhiều cây q như:
Móng bị (Bauhinnia pyrrhoclaza), Ràng ràng xanh (Ormonsia fordiana),
Vang (Caesalpina sappan), Sịi tía (Sapium discolor), Bùm bụp (M,
barbatus), Me rừng (Phyllanthus emblica), Bồ cu vẽ (Breynia
fruticosa),Thầu táu (Aporosa microcalyx), Hoàng đằng (Fibraurea
tinctoria), Dây đau xương (Tinospora sinensis).


14
Trần Công Khánh, (2012), Giám đốc Viện Nghiên cứu và Phát triển cây
thuốc cổ truyền dân tộc (CREDEP): “Chính vì khơng hiểu gì về cơng dụng
của cây thuốc, lại được các chủ đầu tư thu mua tận nơi nên đại đa số bà con
sống ở những nơi có cây thuốc sinh trưởng và phát triển đều khai thác theo
kiểu chặt tận gốc, nhổ cả rễ. Và thế là những thầy lang giàu kinh nghiệm chữa
bệnh giờ cũng chẳng dễ dàng gì kiếm được cây thuốc cho những bài thuốc gia
truyền của mình, để rồi một ngày nào đó nó sẽ trở thành các “bài thuốc chết”
vì khơng kiếm đâu ra cây thuốc nguyên liệu”.
Báo cáo của Tổng Công ty Dược Việt Nam cho thấy Viện dược liệu
(2004), cây thuốc và động vật làm thuốc ở Việt Nam, đã nhập khẩu 182 loại
Dược liệu với tổng khối lượng 18.300 tấn, với 81 loại nhập trên 100 tấn/loại.
Trong đó, có 13 loại thuốc đi từ động vật và khoáng vật; 169 loại từ cây
thuốc, trong đó nhiều loại là thuốc bắc đầu vị, một số khơng có ở Việt Nam.
Nhằm bảo tồn nguồn tài nguyên cây thuốc, từ năm 2013, VQG Tam Đảo
đã triển khai Đề tài Nghiên cứu, xác định mối đe dọa, xây dựng mơ hình thực

nghiệm và đề xuất giải pháp bảo tồn, phát triển bền vững các loài cây thuốc quý,
hiếm tại VQG. Mục tiêu của Đề tài nhằm xây dựng mơ hình trồng bảo tồn và
phát triển một số lồi cây thuốc q hiếm, góp phần bảo tồn tri thức bản địa,
phục vụ nhu cầu khám chữa bệnh tại địa phương; xây dựng quy trình kỹ thuật
nhân giống, mơ hình trồng các lồi cây thuốc q hiếm, góp phần phát triển kinh
tế hộ gia đình tại huyện Tam Đảo. Kết quả thực hiện sau 2 năm nghiên cứu,
Vườn đã nghiên cứu và trồng sưu tập thành công 3 ha cây thuốc quý với tổng số
10 loài, bao gồm: ba kích, sâm cau, hồng tinh hoa trắng, na rừng, hoàng đằng,
khổ sâm, gối hạc, hoài sơn, thiên niên kiện, râu hùm hoa tía.

Theo Trần Đức Long (2004), khi nghiên cứu khả năng nhân giống loài
Hoàng đằng tại vườn quốc gia Bến En - Thanh Hoá, kết quả cho thấy Hồng
đằng có thể nhân giống vơ tính bằng phương pháp giâm hom với thuốc kích
thích ra rễ là IAA 1500ppm trong thời gian 5 giây, độ che bóng thích hợp là


15
25% và dùng công thức phân vi sinh 5% trộn với đất tầng mặt để làm hỗn hợp
ruột bầu thì cây giống sinh trưởng tốt và tỷ lệ sống cao nhất. Tuy nhiên, tác
giả chưa đi sâu nghiên cứu kỹ thuật nhân giống hữu tính và đặc điểm sinh thái
của cây con trong giai đoạn vườn ươm. Đồng thời khi nghiên cứu kỹ thuật
nhân giống vơ tính bằng phương pháp giâm hom Hoàng đằng, tác giả mới chỉ
đưa ra được tỷ lệ hom sống, hom chết mà chưa chỉ ra được tỷ lệ hom ra rễ và
chiều cao của cây đủ tiêu chuẩn để cấy vào bầu là như thế nào.
Trong một cơng trình nghiên cứu khác, Nguyễn Thị Lê (2012), cho thấy
giá trị thương mại và khả năng gây trồng của các loài thuốc ở Việt Nam và ở
VQG Tam Đảo. Trong đó, tác giả ghi nhận lồi Hồng đằng (Fibraurea
tinctoria) có khả năng trồng bằng cành ở Ba Vì. Ngồi ra, lồi Hồng đằng
cũng đã được một số tác giả khác như Võ Văn Chi (1999) đã nghiên cứu về
kỹ thuật gây trồng, nhân giống, tuy nhiên chưa có kết quả cụ thể, nhưng phần

lớn các tác giả cho rằng Hồng đằng có thể trồng được bằng hạt hoặc bằng
giâm cành, song hiện tại cây thuốc này chưa có hướng dẫn kỹ thuật chính
thức. Trong phạm vi thực nghiệm, người ta đã thành công trong việc nhân
giống bằng các đoạn thân và cành (có sử dụng chất kích thích ra rễ).
Theo Phạm Hữu Hạnh (2014), nhân giống vơ tính bằng phương pháp
giâm hom, sử dụng thuốc kích thích ra rễ IAA với nồng độ 1000ppm đã cho tỷ
lệ ra rễ, số rễ một hom và chiều dài rễ đạt cao nhất. Tỷ lệ ra rễ đạt 58,9%, số
rễ một hom đạt 6,1, chiều dài rễ 3,8cm. Sau 50-60 ngày khi cây hom có từ 3-4
lá có thể đem cấy chuyển vào bầu.
Theo Nguyễn Thị Hải và cs (2017), nghiên cứu nhân giống loài Hoàng
đằng ở khu Bảo tồn thiên nhiên Na Hang, tỉnh Tuyên Quang. Nhân giống
bằng hạt gieo ngay trong cát ẩm có tỷ lệ nảy mầm cao nhất 98,9% chỉ sau 51
ngày. Hạt ngâm trong nước ấm khoảng 400C trong 10giờ, sau 55 ngày hạt bắt
đầu nảy mầm và hạt có tỷ lệ nảy mầm 84,4 và hạt ngâm trong nước lã 10 giờ
có tỷ lệ nảy mầm thấp hơn 82,2% và thời gian bắt đầu nảy mầm là 58 ngày.


16
Theo Vũ Văn Thông và cs (2017), đã nghiên cứu kỹ thuật nhân giống vơ
tính cây Hồng đằng, chất kích thích được sử dụng là IAA, IBA và NAA với 5
công thức nồng độ là: I: 500ppm, II: 1.000ppm, III: 1.500ppm, IV: 2.000ppm và
công thức V: Đối chứng (không sử dụng chất kích thích sinh trưởng) kết quả cho
thấy: Trong 3 chất kích thích sinh trưởng đã thử nghiệm, chất IAA cho tỉ lệ ra rễ
cao nhất và ở nồng độ là 1.500 ppm, điều này chứng tỏ IAA có tác dụng kích
thích ra rễ của hom Hồng đằng tốt hơn so với IBA và NAA. Tuổi hom có ảnh
hưởng đến tỉ lệ ra rễ của hom cây Hoàng đằng, trong điều kiện cùng loại thuốc
kích thích sinh trưởng, cùng nồng độ, cùng thời gian xử lí. Hom bánh tẻ đạt tỉ lệ
ra rễ cao nhất và bằng 66,66%. Thành phần hỗn hợp ruột bầu 80% đất, 15% phân
chuồng, 5% phân NPK cho tỉ lệ sống cao nhất và cây sinh trưởng tốt nhất. Ở tuần
thứ 20 tỉ lệ cây sống đạt 94,67%, tỉ lệ cây chết là 5,33%.


Theo Trần Ngọc Hải (2008), cây Hồng đằng có thể nhân giống bằng
hạt và giâm hom. Đối với nhân giống bằng hạt vào tháng 8-9 khi quả bắt đầu
chín có màu vàng nhạt đến vàng đậm thì tiến hành thu hái quả. Sau khi thu
hái khơng cần bỏ vỏ có thể phơi trong bóng râm từ 1-2 ngày cho quả chín
đều. Sau đó đem gieo quả lên luống đất hoặc cát đến khi hạt nảy mầm thì đưa
vào trong bầu đất để tiện cho việc mang đitrồng sau này. Nhân giống bằng
phương pháp giâm, hom sau khi cắt các đoạn thân dài 25-40cm rồi giâm
trong luống cát hoặc đất ẩm, cũng có thể giâm trực tiếp trong bầu đất sâu từ
15-20cm. Nếu giâm trực tiếp trong bầu đất thì phải chọn loại túi bầu tương
đối lớn (10x14cm hoặc 12x16cm). Có thể sử dụng thuốc kích thích ra rễ như
IAA, IBA, ABT hoặc NAA. Tuy nhiên, tác giả chưa chỉ ra được loại thuốc và
nồng độ thuốc kích thích ra rễ thích hợp nhất.
Nguyễn Thị Hải và cs (2017), nghiên cứu nhân giống cây Hoàng đằng ở
khu bảo tồn thiên nhiên Nà Hang, tỉnh Tun Quang bằng hom có sử dụng chất
kích thích ra rễ nồng độ 2.000ppm sau 20 ngày có tỷ lệ hom ra rễ nhiều nhất
(chiếm 51,11%). Sau 40 ngày có tỷ lệ hom ra rễ cao nhất khi sử dụng chất kích


17
thích IBA nồng độ 2.000ppm đạt 78,89%. Sau 60 ngày, khi hom đã đủ tiêu
chuẩn cấy vào bầu, sử dụng IBA nồng độ 1.500ppm có tỷ lệ hom ra rễ cao nhất
96,67%. Tiếp đến là sử dụng IAA nồng độ 1.500ppm và sử dụng IBA 2.000ppm
có tỷ lệ hom ra rễ cùng đạt 94,44%. Hom giâm ở các vị trí cắt hom khác nhau
cho thấy, các hom bánh tẻ sau 20 ngày, 40 ngày và 60 ngày đều cho kết quả cao
nhất với các giá trị tương ứng về tỷ lệ hom sống (100%, 97,8% và 97,8%) và tỷ
lệ hom ra chồi (20%, 52,2% và 97,8%). Nhân giống bằng hạt gieo ngay trong
cát ấm có tỷ lệ nảy mầm cao nhất (98,9%) chỉ sau 51 ngày. Hạt ngâm trong nước
ấm khoảng 400C trong 10 giờ, sau 55 ngày hạt bắt đầu nảy mầm thấp hơn
(82,2%) và thời gian bắt đầu nảy mầm sau 58 ngày.

Cây Hoàng đằng vốn mọc tự nhiên trong rừng và có sức sống mạnh, biên
độ sinh thái rộng. Qua nghiên cứu cho thấy có thể trồng được ở nhiều nơi. Tuy
nhiên, phù hợp nhất vẫn là trồng dưới tán rừng thứ sinh, rừng phục hồi ẩm, đất
tơi xốp. Xử lý thực bì bằng phương pháp thủ công, chủ yếu lá phát dây leo,

2

cây bụi xung quanh phần hố trồng khoảng 1m . Cuốc hố theo hàng so le nhau
cự ly 2mx2m, kích thước hố 30x30x30cm, bón lót từ 3-5kg phân chuồng hoai.
Thời vụ trồng ở các tỉnh phía Nam tháng 6-7, tháng 3-4 ở các tỉnh phía Bắc. Sau
khi trồng chú ý giữa ẩm cho cây, đến cuối mùa khô cần làm cỏ, xới đất một lần.
Từ năm thứ 2 trở đi mỗi năm tiến hành làm cỏ 1 lần, cắm cọc để cây leo lên, có
thể mở tán để cây có nhiều ánh sáng hơn. Tuy nhiên, tác giả chưa nói rõ là mở
tán với độ tàn che là bao nhiêu % thì phù hợp.

Trong một cơng trình nghiên cứu khác, Trần Văn Ơn (2004), cho thấy
giá trị thương mại và khả năng gây trồng của các loài thuốc ở Việt Nam và ở
VQG Tam Đảo. Trong đó, tác giả ghi nhận lồi Hồng đằng (Fibraurea
tinctoria) có khả năng trồng bằng cành ở Ba Vì.
Theo Diệp Anh Tuấn (2015) cẩm nang thực tập chuyên ngành Sinh thái và
tài nguyên gồm các mục từ mục đích - ý nghĩa, phương pháp thu mẫu, đo đạc
các chỉ tiêu tại thực địa, dụng cụ cần thiết, cách thức xử lý mẫu cho tới các


18
lưu ý những vấn đề có thể dẫn tới sai lệch kết quả, theo trật tự liên quan tới
công tác điều tra môi trường vật lý tới môi trường sinh học.
*

Nhận xét: Điểm qua các cơng trình nghiên cứu trong và ngoài nước


liên quan đến lĩnh vực nghiên cứu cho thấy đến nay các nghiên cứu về cây
Hoàng đằng khá nhiều, tập chung chủ yếu về đặc điểm phân loại, sinh thái
học, tác dụng và kỹ thuật gây trồng... Những nghiên cứu này đã góp phần
quan trọng cho bảo tồn và phát triển các loài cây dược liệu quý, cải thiện đời
sống của người dân vùng núi Việt Nam. Mặc dù là những cây dược liệu thuộc
loại quí hiếm và đang có nguy cơ tuyệt chủng ngồi tự nhiên nhưng những
nghiên cứu về loài cây thuốc này một cách toàn diện lại chưa được thực hiện.
Đến nay nghiên cứu đặc điểm sinh thái học và kỹ thuật nhân giống loài cây
Hoàng đằng bằng phương pháp giâm hom đã được các nhà khoa học trong
nước ta nghiên cứu khá nhiều, việc lựa chọn nghiên cứu vấn đề này để làm cơ
sở cho việc phát triển bền vững loài dược liệu quý Hồng đằng cũng như để
bảo tồn, thương mại hố sản phẩm và phát triển kinh tế vùng nông thôn, miền
núi nói chung và tại miền núi nói riêng.
1.3 Tổng quan về khu vực nghiên cứu
1.3.1. Đặc điểm tự nhiên của khu vực nghiên cứu
1.3.1.1. Vị trí địa lý
Huyện Võ Nhai nằm ở phía Đơng Bắc của tỉnh Thái Ngun có vị trí
địa lý 105o45 phút – 106o27 phút kinh độ đơng; 21o36 phút – 21o56 phút vĩ độ
bắc. Phía bắc giáp huyện Chợ Mới và Na Rì tỉnh Bắc Kạn, Phía nam giáp
huyện Yên Thế tỉnh Bắc Giang, Phía tây giáp huyện Đồng Hỷ và huyện Phú
Lương, Phía đơng giáp huyện Bình Gia, Bắc Sơn, Hữu Lũng tỉnh Lạng Sơn.


19

Hình 1.1 Bản đồ huyện Võ Nhai, tỉnh Thái Nguyên
1.3.1.2. Đặc điểm địa hình
Địa hình Võ Nhai khá phức tạp, chủ yếu là đồi núi, hình thành 3 vùng
rõ rệt: Vùng núi cao nằm ở phía Bắc, gồm 6 xã: Nghinh Tường, Sảng Mộc,

Thượng Nung, Cúc Đường, Thần Sa, Vũ Chấn, có đất rừng đa dạng với tập
đồn cây, con phong phú, tạo nên cảnh đẹp tự nhiên. Tuy nhiên, do đặc điểm
là núi cao, dốc, phần lớn là núi đá vôi nên đất lâm nghiệp chiếm ưu thế, đồng
thời diện tích đất được phân tán.
1.3.1.3. Đặc điểm khí hậu
Huyện Võ Nhai có điều kiện địa hình phức tạp và được phân chia thành
3
vùng khác nhau nhưng điều kiện khí hậu miền núi bắc bộ nhưng có phần
khắc

nghiệt hơn. Nhiệt độ bình quân hàng năm là 22,9oC, nhiệt độ cao tuyệt đối
khoảng 39,5oC vào tháng 6, nhiệt độ thấp tuyệt đối là 3oC vào tháng 1.


20
Chịu ảnh hưởng chế độ mưa của vùng núi Bắc Bộ, mùa mưa ở Võ Nhai
thường diễn ra từ tháng 4 đến tháng 10, mùa khô từ tháng 11 đến tháng 3 năm
sau. Lượng mưa trung bình hàng năm 1.941,5mm và phân bố không đều tập
trung vào các tháng mùa mưa khoảng 1.765mm (chiếm 91% tổng lượng mưa
cả năm), lượng mưa lớn nhất thường diễn ra vào tháng 8 trung bình 372,2mm.
1.3.1.4. Tài nguyên nước
Nguồn nước trên địa bàn huyện Võ Nhai khá phong phú, nhưng phân
bố khơng đều. Ngồi nguồn nước mặt từ sơng, suối, cịn có các mạch nước
ngầm từ các hang động trong núi đá vôi. Huyện Võ Nhai có hai con sơng
nhánh thuộc hệ thống sơng Cầu và sơng Thương, được phân bố ở phía bắc và
phía nam huyện. Bên cạnh đó, huyện cịn có sơng Nghinh Tường có chiều dài
46km, bắt nguồn từ những dãy núi của vòng cung Bắc Sơn (Lạng Sơn), chảy
qua các xã Nghinh Tường, Sảng Mộc, Thượng Nung, Thần Sa, rồi đổ ra sơng
Cầu. Khoảng 40% chiều dài dịng chảy là vùng đá vôi, thung lũng thường hẹp
và sâu, vách đá dựng đứng.

Ngồi ra, Huyện Võ Nhai có 11 hồ chứa nước, 50 đập kiên cố, 12 trạm
bơm, hệ thống kênh mương do nhà nước hỗ trợ và nhân dân đóng góp xây
dựng cũng góp phần đẩy mạnh cơng tác trồng trọt tại địa phương trong giai
đoạn qua. 1.3.1.5. Tài nguyên đất
Hiện nay, tổng diện tích đất của huyện Võ Nhai là 84.480,41 ha, trong
đó được chia ra thành nhiều nhóm đất theo bảng 1.1 như sau:
Bảng 1.1: Hiện trạng đất Võ Nhai phân theo loại đất năm 2017
STT
1
2
3
4
5

Lo

Đất phù sa
Đất đen
Đất xám bạc
Đất nâu đỏ
Đất nâu vàng


21
6
7

Đất vàng nhạ
Các loại đất k
Tổng diện t


(Nguồn: Niên giám thống kê huyện Võ Nhai năm 2017)
Qua bảng trên ta có nhận xét:
Thứ nhất, đất phù sa ngịi suối hiện nay của huyện đạt 1.816 ha, chiếm
2,15% so với toàn diện tích đất huyện. Đất này có thành phần cơ giới nhẹ, cấp
hạn lớn, tỷ lệ mùn trung bình, hàm lượng lân dễ tiêu khá. Tuy nhiên, đất này
có nhược điểm là chua và tỷ lệ các nguyên tố vi lượng khá nghèo.
Thứ hai, đất đen với diện tích là 1.869,5 ha, chiếm 2,21% đất tự nhiên
của huyện. Loại đất này hình thành chủ yếu trên đá mẹ hoặc mẫu chất giàu
base, phân bố trong vành đai nhiệt đới ẩm, đã có những biểu hiện khá rõ của
q trình rửa trơi, tích tụ sét, hình thành một tầng B thỏa mãn các yêu cầu của
tầng Argic. Đất đen này giàu mùn, đạm, lân nhưng nghèo kali. Do đó, loại đất
này có thể trồng nhiều loại cây trên cạn như: thuốc lá, các loại đậu đỗ, bông
vải, bắp,… và các cây dài ngày như chuối, cây ăn quả, cây lúa nước,….
Thứ ba, đất xám bạc màu chiếm nhiều nhất đạt 59.977,2 ha, chiếm
70,97% diện tích. Đây là đất Ferelit được phát triển trên đá biến chất được
phân bố đều ở các xã trong huyện, thành phần cơ giới trung bình và tầng đất
có kết cấu tơi xốp nên dễ bị sụt lở, có độ chua.
Thứ tư, đất nâu đỏ là 5.740,8 ha, chiếm 6,79% diện tích. Đây là đất
Ferelit được phát triển trên đá vơi. Loại đất này có tầng mỏng nhưng cấu tạo
của đất tốt, hàm lượng các nguyên tố vi lượng trong đất như Ca, Mg rất lớn.
Thứ năm, đất nâu vàng là 709,5 ha, chiếm 0,83% diện tích được phát
triển trên phù sa cổ. Loại đất này có tầng dày trên 1m và năm trên sườn đồi có
độ dốc nhỏ hơn 120. Chất lượng đất ở đây chua, nghèo nàn, đồng thời có
lượng nhơm di động cao.


22
Thứ sáu, đất vàng nhạt là 3.297 ha, chiếm 3,9% diện tích. Đây là tầng
đất trung bình, có thành phần cơ giới nhẹ với hàm lượng mùn và chất hữu cơ

nghèo. Đất này có hạn chế là có độ chua rất cao, dễ bị xói mịn và bị bạc màu.
Thứ bảy, các loại đất khác là 11.070,41 ha, chiếm tỷ lệ 13,09%. Đây là
những loại đất biến đổi, thường xuyên bị ngập nước nên có độ chua cao, hàm
lượng dinh dưỡng ở mức trung bình, tầng đất dày khoảng 50cm và có kết cấu
kém, dễ bị rửa trơi.
1.3.2. Điều kiện kinh tế - xã hội
1.3.2.1. Đặc điểm kinh tế huyện Võ Nhai
Hiện nay, so với các huyện khác của tỉnh Thái Nguyên, huyện Võ Nhai
vẫn là huyện vùng cao nhiều khó khăn, mức sống đồng bào cịn thấp, kinh tế
xã hội cịn chưa phát triển. Chính vì vậy, cấp ủy chính quyền các cấp trong
huyện Võ Nhai ln xác định phát huy tối đa nội lực lồng ghép với những
chính sách quan tâm của Nhà nước nhằm phát triển kinh tế xã hội, nâng cao
đời sống cho nhân dân các dân tộc trong huyện.
Bảng 1.2 Cơ cấu kinh tế huyện Võ Nhai giai đoạn 2015 - 2017
Đơn vị tính: %
Chỉ tiêu
Nông lâm nghiệp, thủy sản
Công nghiệp - xây dựng cơ bản
Thương mại - dịch vụ
Tổng
(Nguồn: Niên giám thống kê huyện Võ Nhai giai đoạn 2015-2017)
Giao thông: Trên địa bàn huyện Võ Nhai có tuyến quốc lộ 1B dài 27
km chạy qua nối với các huyện của tỉnh Lạng Sơn, tuyến đường liên tỉnh là
đường nhựa, đường liên xã bao gồm cả đường nhựa và đường cấp phối còn lại
là đường liên thơn, xóm chủ yếu là đường đất.


23
Thủy lợi: Hệ thống thủy lợi với 73 cơng trình lớn nhỏ đảm bảo tưới tiêu
cho diện tích đất nơng nghiệp. Tuy nhiên chất lượng các cơng trình đang bị

xuống cấp cần được đầu tư nâng cấp, sửa chữa đồng thời kiên cố hóa lại các
hệ thống kênh mương cịn lại, xây dựng thêm hồ chứa nước, các hệ thống tiêu
lũ để đảm bảo tưới tiêu cho diện tích đất nơng nghiệp và phục vụ cơng tác
phịng chống chữa cháy rừng.
Điện, nước sinh hoạt : Tất cả các xã trong vùng dự án đều đã có điện
lưới quốc gia đã cung cấp cho 88% dân số trong toàn xã, nhưng do bán kính
phục vụ của các trạm biến áp quá lớn nên xảy ra quá tải vào giờ cao điểm.
Thông tin liên lạc: Hiện nay tất cả các xã trong vùng dự án đều có
thơng tin liên lạc đến trung tâm xã. Tuy nhiên có nhiều thơn bản do nằm cách
xa trung tâm nên thơng tin liên lạc cịn nhiều hạn chế.
1.3.2.2. Đặc điểm xã hội huyện Võ Nhai
Theo niên giám thống kê năm 2015 của huyện Võ Nhai thì vùng dự án
bao gồm 14 xã và 01 thị trấn có có 39.128 lao động, chiếm 65 % dân số trong
vùng dự án, lao động ở nông thôn là 27.500 người chiếm 80% tổng nguồn lao
động. Nguồn lao động dồi dào song trình độ lao động cịn thấp. Vì vậy trong
tương lai cần chú trọng tập trung đào tạo nghề, nâng cao trình độ chun mơn
nghiệp vụ và giới thiệu việc làm cho người lao động, đảm bảo việc tiếp nhận
và chuyển giao kỹ thuật công nghệ tiên tiến hiện đại áp dụng vào sản xuất
nhằm nâng cao chất lượng cũng như sản lượng các sản phẩm làm ra, nâng cao
thu nhập, cải thiện và ổn định cuộc sống cho người dân từng bước đi lên trong
q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa huyện Võ Nhai nói riêng và tỉnh Thái
Nguyên nói chung. Cơ cấu lao động theo cơ cấu kinh tế của huyện Võ Nhai
giai đoạn 2015-2017 cụ thể như sau:
Bảng 1. 3 Cơ cấu lao động theo ngành kinh tế của huyện Võ Nhai
giai đoạn 2015-2017
Ngành kinh tế

Năm 2015

Năm 2016


Năm 2017

So sánh

So sánh


24

Nông, lâm, ngư
nghiệp
Công nghiệp,
xây dựng
Thương mại,
dịch vụ
Tổng cộng

(Nguồn: Niên giám thống kê huyện Võ Nhai giai đoạn 2015-2017)
Tỷ trọng lao động làm trong các ngành nơng, lâm, ngư nghiệp có xu
hướng giảm trong giai đoạn 2015-2017. Cụ thể: năm 2015 là 52,09%, năm
2016 là 47,9%, giảm 4,19% so với năm 2015. Đến năm 2017, con số này chỉ
còn là 44,4%, giảm 3,5% so với năm 2016. Mặc dù thu nhập của lao động
bình qn có sự tăng nhẹ nhưng tỷ trọng lao động trong ngành này vẫn giảm
so với các ngành khác. Điều này xuất phát từ việc thu nhập thực tế của người
dân làm trong lĩnh vực này tăng nhưng không cao so với các ngành công
nghiệp và dịch vụ.
*

Nhận xét: Huyện Võ Nhai có địa hình phức tạp, đồi núi là chủ yếu, đất


ruộng ít, phần lớn diện tích là đồi núi thấp và núi đá vơi, những vùng đất bằng
phẳng phục vụ cho sản xuất nông nghiệp nhỏ, chủ yếu theo các khe suối, triền
sông và thung lũng. Do đó, huyện Võ Nhai gặp khó khăn hơn so với các huyện
khác trong tỉnh. Bởi đây là huyện có địa bàn nằm ở vùng sâu, vùng xa các trung
tâm kinh tế lớn của tỉnh, lại khơng có cửa khẩu biên giới nên việc giao lưu, buôn
bán bị hạn chế, thu hút đầu tư từ bên ngoài gặp nhiều khó khăn. Tuy nhiên địa
hình đồi núi cộng với điều kiện khí hậu thuân lợi, nguồn nước khá phong phú ,


có nhiều loại đất canh tác phù hợp với nhiều loại cây trồng, nhất là cây công
nghiệp, cây ăn quả và trồng rừng, đất ở đây chủ yếu là đồi núi thích hợp


×