Tải bản đầy đủ (.pdf) (48 trang)

Tiểu luận Các mô hình dự báo có hữu cho việc phân tích chính sách

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (550.83 KB, 48 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HCM
VIỆN ĐÀO TẠO SAU ĐẠI HỌC
***************

TIỂU LUẬN KINH TẾ PHÁT TRIỂN


LIỆU RẰNG CÁC MÔ HÌNH DỰ BÁO CÓ HỮU ÍCH CHO
VIỆC PHÂN TÍCH CHÍNH SÁCH
(Are forecasting Models Usable for Policy Analysis?)


Giáo viên hướng dẫn : TS. Nguyễn Hoàng Bảo
Học viên thực hiện : Nhóm 2
Lớp : Cao học ngày 3
Khóa : K21


*****
TP. Hồ Chí Minh, Tháng 8 năm 2012

DANH SÁCH NHÓM 2

STT Họ và tên Ký tên Ghi chú
1 Phạm Việt An
2 Nguyễn Hữu Đức
3 Lê Thị Mỹ Hạnh
4 Phạm Sỹ Khoa Nhóm trưởng
5 Lê Thị Mỹ Ngôn
6 Lê Thanh Thuỳ
7 Vũ Thị Hà Thương















NHẬN XÉT CỦA THẦY HƯỚNG DẪN MÔN HỌC




























MỤC LỤC

LỜI MỞ ĐẦU 1
PHẦN 1: BÀI DỊCH 2
1.1 Liệu các mô hình dự báo có hữu ích cho việc phân tích chính sách? 2
1.2 Các chú thích 32
PHẦN 2: TÓM TẮT BÀI DỊCH VÀ LIÊN HỆ THỰC TẾ 35
2.1 Tóm tắt bài dịch 35
2.2 Liên hệ thực tế: Ứng dụng mô hình VAR để kiểm định và dự báo lạm phát
ở Việt Nam 39
KẾT LUẬN 43











LỜI MỞ ĐẦU
Christopher Albert “Chris” Sims (sinh ngày 21 tháng 10 năm 1942) là một nhà
khoa học kinh tế người Mỹ đã được trao giải Nobel Kinh tế năm 2011 cùng với
Thomas J. Sargent. Hai ông được trao giải thưởng này vì “nghiên cứu thực nghiệm về
nguyên nhân và sự ảnh hưởng trong kinh tế học vĩ mô”. Sims có bằng tiến sĩ kinh tế
vào năm 1968 tại Đại học Harvard. Ông làm giảng viên tại Đại học Harvard, Đại học
Minnesota, Đại học Yale, và từ năm 1999, tại Princeton. Sims là viện sỹ Viện Hàn lâm
Khoa học Quốc gia (từ 1989) và Viện Hàn lâm Khoa học tự nhiên và Khoa học xã hội
Hoa Kỳ (từ 1988). Năm 1995, ông là chủ tịch của Hội Toán kinh tế. Ông sẽ là chủ tịch
đắc cử của Hiệp hội Kinh tế Mỹ trong năm 2011 và sau đó là Chủ tịch của Hiệp hội
Kinh tế Mỹ trong năm 2012. Sims đã xuất bản nhiều tác phẩm quan trọng trong lĩnh
vực nghiên cứu của mình: kinh tế lượng và lý thuyết và chính sách kinh tế vĩ mô. Ông
là người cổ vũ sử dụng mô hình tự hồi quy vector kinh tế vĩ mô thực nghiệm, phát triển
phương pháp sử dụng ước lượng Bayes trong mô hình tự hồi quy vector. Ông cũng đã
góp phần phát triển các lý thuyết tài chính về mức giá và lý thuyết về thiếu chú ý duy
lý.
Trong bài tiểu luận này, nhóm 2 sẽ trình bày về một trong những bài nghiên cứu
của Sims về vấn đề sử dụng các mô hình dự báo để phân tích chính sách có tiêu đề là
“Are forecasting Models Usable for Policy Analysis?” (Liệu rằng các mô hình dự báo
có hữu ích cho việc phân tích chính sách). Bài tiểu luận của nhóm 2 gồm có 2 phần
chính:
- Phần I: Bài dịch trình bày bằng tiếng Việt.
- Phần II: Tóm tắt bài dịch và liên hệ thực tế về việc sử dụng các mô hình dự
báo để phân tích chính sách tại Việt Nam.
Khi thực hiện nghiên cứu và trình bày, Nhóm 2 không thể tránh khỏi những
thiếu sót. Kính mong thầy và các bạn đọc sẽ có những góp ý để bài tiểu luận được hoàn
thiện hơn và góp phần cung cấp một phần kiến thức kinh tế học hữu ích cho chúng ta.



PHẦN 1: BÀI DỊCH

1.1 LIỆU CÁC MÔ HÌNH DỰ BÁO CÓ HỮU ÍCH CHO VIỆC PHÂN
TÍCH CHÍNH SÁCH?*

Trong một bài nghiên cứu gần đây mô tả về việc ứng dụng của mô hình tự hồi
quy (VAR) trong lĩnh vực kinh tế, Thomas Sargent (1979) đã nhấn mạnh rằng tuy
những mô hình này đã đem lại lợi ích cho việc dự báo nhưng lại không thể sử dụng
trong việc phân tích các chính sách. Gần đây thì quan điểm này không chỉ được ông mà
còn những cá nhân khác, tiêu biểu là Edward Learner (1985) khẳng định lại một cách
chắc chắn.
Sở dĩ quan điểm này được khẳng định lại là vì các mô hình VAR đã được ứng
dụng rộng rãi nhưng nhiều người sử dụng chúng vẫn còn rất hạn chế trong một thời
gian dài vì họ chưa bao giờ nghĩ về việc ứng dụng chúng vào phân tích chính sách. Có
nhiều cách hợp lý để hình thành những dự báo có điều kiện từ các mô hình VAR. Một
khi ta đã nhận thấy thật dễ dàng để đạt được một dự báo có điều kiện căn cứ vào các
dạng nhất định của các biến số chính sách, chắc chắn ta sẽ không thể cưỡng lại việc
đưa ra các dự báo như vậy và khó có thể phủ nhận sự ảnh hưởng của chúng trong việc
đưa ra một quyết định lựa chọn chính sách. Robert Litterman, người đi tiên phong
trong việc chứng minh giá trị của các mô hình VAR về tính dự báo, cũng đã phát triển
các phương pháp để sử dụng chúng trong việc thực hiện các dự báo có điều kiện nhằm
hỗ trợ quyết định lựa chọn chính sách, thậm chí có thể ứng dụng để xây dựng các quy
chế chính sách một cách tối ưu. (Tham khảo Litterman 1982, 1984.)
Một nghịch lý tương tự có liên quan đến vai trò của các mô hình toán kinh tế
thương mại có quy mô lớn. Trong một buổi thảo luận bàn tròn gần đây mà tôi tham dự,
một nhà kinh tế học nổi tiếng đã thẳng thắng bày tỏ rằng vì những mô hình mang tính
thương mại này chỉ có thể sử dụng trong dự báo, nên không ai sử dụng chúng một cách
nghiêm túc như các nguyên lý kinh tế. Những bài phê bình các kỳ vọng duy lý của việc
sử dụng các mô hình đó để phân tích chính sách đã tồn tại trên 10 năm và, trong một

phần quan trọng của ngành kinh tế học, có vai trò chính thống đã được xác lập. Tuy
nhiên khi sự lựa chọn chính sách thực sự được thực hiện ở mọi cấp độ trong cả lĩnh
vực công hay tư, thì các dự báo từ những mô hình lớn kể cả có điều kiện hay không,
vẫn còn ảnh hưởng rộng rãi. Trường phái kỳ vọng duy lý (The rational expectations
school) bắt đầu với một chương trình nhằm cung cấp một sự lựa chọn khác về những
mô hình dự báo trong phân tích định lượng chính sách, nhưng chương trình này đã
không mang lại những tác động thực tiễn.
Tại sao lại như vậy? Có phải những người làm chính sách thực sự lại không thể
hiểu được tính hữu ích của các mô hình VAR hay các mô hình toán kinh tế truyền
thống khác trong việc hỗ trợ lựa chọn chính sách? Hay chăng là những tranh luận
mang tính trừu tượng phản đối việc sử dụng các mô hình theo cách này lại thiếu đi một
số điểm quan trọng?

Tại sao đưa ra chính sách với một mô hình dự báo được coi là một sai
lầm?
Có hai lời giải thích theo quan điểm cá nhân cho các lập luận phản đối việc sử
dụng các mô hình dự báo để phân tích chính sách. Lời giải thích thứ nhất là các mô
hình đó không có gì hơn là làm công việc mô tả tóm tắt các dữ liệu lịch sử, thường dựa
trên mối tương quan mẫu. Trong khi một mô tả như vậy có thể được ngoại suy vào một
dự báo hữu ích, giả sử rằng nó có thể là cơ sở cho việc dự báo các tác động của việc
lựa chọn chính sách có nghĩa là dùng sự tương quan để chỉ ra mối quan hệ nhân quả,
điều mà tất cả chúng ta đều hiểu là sai lầm.
Các lập luận ở dạng này hướng trực tiếp vào các mô hình VAR, đó là các mô
hình thống kê mô tả đơn giản mà ứng dụng của nó không có gì hơn là tóm tắt các mối
tương quan theo một cách thức thuận tiện. Các lập luận này cũng gián tiếp hướng đến
các mô hình thương mại lớn (large commercial models), bởi vì nhiều nhà kinh tế (trong
đó có bản thân tôi) coi các giải thích kinh tế những mô hình này cho ra những phương
trình gượng ép và không chắc chắn. Bất chấp tính không chắc chắn của các giải thích,
các mô hình này rõ ràng là hữu ích trong việc đưa ra các dự báo. Các nhà kinh tế mà
chấp nhận dạng lý lẽ phản đối các mô hình dự báo như là các công cụ chính sách này

có thể đã sẵn sàng bác bỏ việc sử dụng các mô hình thương mại lớn vào việc phân tích
chính sách bất chấp sự thừa nhận giá trị của chúng trong dự báo.
Sargent (1984) đưa ra lời giải thích thứ 2 cho các lập luận phản đối việc sử dụng
các mô hình dự báo để phân tích chính sách. Ông quan sát thấy rằng mô hình VAR
thường kết hợp các biến chính sách vào mô hình một cách đối xứng với các biến khác
và xem tất cả chúng như các biến ngẫu nhiên. Về nguyên tắc, ông đồng ý rằng việc lựa
chọn chính sách là các biến ngẫu nhiên, với sự không chắc chắn về ảnh hưởng quan
trọng của các biến này trên hành vi thực tế. Tuy nhiên, khi chúng ta lựa chọn một chính
sách, không phải đơn thuần là chúng ta gieo một con xúc xắc mà thay vào đó, chúng ta
thường phải đưa ra một sự lựa chọn duy nhất có tính quyết định. Chúng ta có thể suy
nghĩ không hợp lý về sự lựa chọn như vậy trong phạm vi giới hạn của một mô hình mà
trong đó chính sách được xác định bởi một số cơ chế ngẫu nhiên.
Khi được giải thích một cách thích đáng, cả hai lời giải thích cho các lập luận đó
là chính xác, thậm chí là có sự lặp lại không cần thiết. Thật khó để có thể sử dụng một
mô hình thống kê để phân tích chính sách mà không cần quan tâm đến các mối tương
quan để đưa ra một lời giải thích kinh tế cho chúng. Việc đưa ra một giải thích như vậy
thường được các nhà toán kinh tế gọi là xác định một mô hình. Và người ta không thể
phân tích sự lựa chọn của các biến số chính sách mà không thể không phân tích các
chuỗi phức tạp liền mạch (seamless web) của một mô hình trong đó tất cả các biến
chính sách đều được xác định bên trong mô hình. (Trong thực tế, những lập luận này
thậm chí còn được áp dụng đối với việc sử dụng một mô hình cho việc dự báo).
Nhưng những lập luận đúng đắn này không phải là phản đối việc sử dụng các
mô hình dự báo để hỗ trợ cho sự lựa chọn chính sách. Chúng chỉ chỉ ra rằng khi chúng
ta tìm thấy một cách sử dụng một mô hình như vậy để hướng dẫn việc lựa chọn chính
sách, chúng ta đang bổ sung cho nó một sự giải thích xác định một cách ngầm hiểu hay
rõ ràng. Để phản đối việc sử dụng những mô hình như vậy trong việc lựa chọn chính
sách, chúng ta phải so sánh các giải thích xác định với những sự lựa chọn thay thế
khác. Sự lựa chọn thực tế nằm trong số các phương pháp phân tích chính sách dựa trên
các xác định không cần thiết. Trong đó, những giả định xác định đơn giản, không chặt
chẽ đủ để đưa một mô hình dự báo đến chỗ tạo ra một vấn đề chính sách được áp đặt,

đối nghịch với các lựa chọn thay thế dựa trên các giả định xác định phức tạp, chặt chẽ
mà dẫn đến các mô hình với những đặc tính dự báo kém.

Dạng rút gọn, Mô hình cấu trúc và Sự xác định (Reduced form,
Structure, Identification)
Ba thuật ngữ Dạng rút gọn, Mô hình cấu trúc và Sự xác định không chỉ được sử
dụng trong lĩnh vực kinh tế mà còn được sử dụng trong những lĩnh vực khác theo nhiều
cách khác nhau. Nhưng nhìn chung, một Dạng rút gọn (reduced form) là một mô hình
mô tả làm thế nào một số dữ liệu lịch sử, chúng ta có thể gọi là tập X, được tạo ra bởi
một số cơ chế ngẫu nhiên. Khi chúng ta ước lượng một mô hình dạng rút gọn, chúng ta
xây dựng một vài thống kê mà tóm tắt các dữ liệu đầy đủ của tập X. Mô hình dạng rút
gọn có thể được xem như là một nhân tố căn bản cho một dạng cụ thể của tóm tắt dữ
liệu.
Một cấu trúc, hay còn gọi mô hình cấu trúc, là một mô hình mà chúng ta có thể
sử dụng trong việc ra quyết định. Nó tạo ra các dự đoán về các kết quả Z của những
hình thức tác động khác nhau A mà chúng ta đã thực hiện. Những khái niệm về mô
hình cấu trúc và dạng rút gọn tiềm ẩn trong hầu hết các hình thức sử dụng dữ liệu để hỗ
trợ ra quyết định, nhưng khi một nhà toán học kinh tế sử dụng các khái niệm này, nhìn
chung họ thường trình bày rõ ràng một dạng rút gọn là phân phối xác suất p (X, β) cho
các dữ liệu như một hàm số của các tham số dạng rút gọn β và trình bày một mô hình
cấu trúc như là một phân phối có điều kiện q (Z / A; α) của kết quả hình thành từ những
tác động, tùy thuộc vào các tham số cấu trúc chưa biết α. Xác định một mô hình là khi
khẳng định mối liên kết giữa dạng rút gọn và mô hình cấu trúc, để cho các ước lượng
các tham số dạng rút gọn β có thể được sử dụng để quyết định các tham số cấu trúc α.
(1)

Hiểu một cách đơn giản nhất, sự xác định (Identification) là sự giải thích sự biến
động của các dữ liệu quan sát trong lịch sử bằng 1 phương pháp mà cho phép các biến
động có thể được sử dụng để dự đoán kết quả của một hành động chưa thực hiện. Thực
hiện kết nối giữa dữ liệu và kết quả của những quyết định là điều không dễ dàng, và

việc thực hiện kết nối đó càng trở nên khó hơn xa hơn nữa là các hành động mà chúng
ta dự tính thực hiện từ bất kỳ một sự kiện quan sát nào trong lịch sử. Nếu chúng ta may
mắn, có thể có sự biến động ngẫu nhiên về mặt lịch sử trong các hành động mà tương
tự như các hành động chúng ta đang dự kiến. Sau đó chúng ta có thể sử dụng dữ liệu
trực tiếp để quyết định các tác động của các hành động của chúng ta có thể xảy ra.
Nhưng đôi khi chúng ta phải dự tính những hành động hoàn toàn khác nhau từ những
quan sát trong quá khứ, trong đó việc xác định các trường hợp trở nên khó khăn hơn và
dễ gây tranh cãi.
Trong kinh tế học, các mô hình cấu trúc thường được xây dựng để mỗi tham số
trong vector α đều có một sự giải thích kinh tế. Có nghĩa là các yếu tố của α sẽ có dạng
như "độ co giãn của cầu tiền theo lãi suất" hoặc "độ co giãn thay thế giữa yếu tố điện
năng và yếu tố lao động trong ngành sản xuất sữa". Ngược lại, các yếu tố của các
vector β thường khó giải thích hơn vì chúng phản ánh sự ảnh hưởng kết hợp của hành
vi trong nhiều lĩnh vực của nền kinh tế. Tuy nhiên, không có một tiêu chuẩn duy nhất
để một tham số có cách giải thích kinh tế. Các tham số trong mô hình có thể có những
cách giải thích, nhưng nếu mô hình không phải là mô hình cấu trúc, đồng nghĩa với
việc chúng ta không thể sử dụng nó để đưa ra những dự đoán về kết quả của những
hành động mà chúng ta quan tâm. Ngược lại, chúng ta có thể sử dụng một mô hình đưa
ra các dự đoán một cách chính xác ngay cả khi một số hoặc tất cả các tham số của mô
hình đó không có sự giải thích phù hợp.
Toán học chính thống khẳng định sự kết nối giữa một mô hình dạng rút gọn và
một mô hình bất cấu trúc điều mà có sự giải thích thỏa đáng là không có gì khác so với
sự kết nối giữa mô hình dạng rút gọn và mô hình cấu trúc. Nhiều nhà kinh tế đã có suy
nghĩ về các mô hình cấu trúc như là các mô hình với các giải thích thoả đáng cho tất cả
các tham số. Khẳng định không thể tranh cãi rằng việc dự đoán các tác động của chính
sách đòi hỏi phải có sự xác định của một mô hình cấu trúc, do đó trở thành nguồn gốc
của sự hiểu lầm nghiêm trọng về mặt ngữ nghĩa.
(2)



Một số ví dụ về sự xác định trong việc ra quyết định (Examples of
identification in Decision-making)
Để đưa thảo luận trừu tượng này trở nên dễ hiểu, tôi sẽ trình bày một loạt các ví dụ về
việc áp dụng mô hình thống kê để đưa ra quyết định.
 Bảng tính (Spreadsheet)
Có lẽ hình thức đơn giản nhất và được sử dụng rộng rãi nhất của mô hình định
lượng như là một trợ giúp để lựa chọn chính sách là mô hình bảng tính tài chính. Ở đây
việc tính toán các xác định và một số mối quan hệ đơn giản trong số các loại tính toán
mô tả các biểu hiện lịch sử trung bình được sử dụng như một khuôn mẫu cho việc dự
báo các kết quả của các quyết định kinh doanh. Ở kiểu mô hình này, không có mô hình
xác suất tiềm ẩn, mặc dù việc sử dụng biểu hiện trung bình trong quá khứ để dự báo
cho tương lai hàm ý các niềm tin về cấu trúc xác suất của dữ liệu. Dạng rút gọn được
hiểu ngầm trong các danh mục cụ thể được sử dụng để báo cáo và tóm tắt các dữ liệu
kế toán về lợi nhuận gộp, lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu, tỷ lệ năng suất Mô hình cấu
trúc thường được hình thành bằng cách giả định rằng các tỷ lệ trung bình quan sát
trong lịch sử nào đó trong các dữ liệu kế toán thì dường như không thay đổi theo những
thay đổi khác nhau trong chiến lược kinh doanh và do đó có thể được sử dụng để dự
báo các tác động của những thay đổi trong chiến lược. Mọi người đều hiểu rằng những
mô hình này không tránh khỏi các hạn chế; tuy nhiên, bởi vì các mô hình này áp đặt
một số sự thống nhất không thay đổi về các dự đoán của một danh sách dài các con số
có liên quan đến nhau, vì thế các mô hình đó là hữu ích. Các giả định xác định của các
mô hình ít khi tập trung vào các chú ý rõ ràng, mặc dù người sử dụng chúng hiểu rằng
các giả định là các phép tính gần đúng thô thiển và do đó làm giảm giá trị quyết định
của các kết quả của mô hình.

 Các thử nghiệm lâm sàng trong y học (Clinical trials in medicine)
Một ví dụ khác đơn giản hơn, phát sinh trong các thử nghiệm lâm sàng trong y
học. Chúng ta có thể có các kết quả từ một nghiên cứu của 200 bệnh nhân, 100 bệnh
nhân được cho điều trị bằng phương pháp cũ và 100 bệnh nhân được cho điều trị theo
phương pháp mới. Kết quả có thể được trình bày thành bảng phân loại chéo phân thành

16 mục theo chủng tộc, độ tuổi, và giới tính của bệnh nhân. Việc hoàn thành bảng tính
chéo có thể được xem như là một tập hợp dạng rút gọn các tham số ước lượng. Kết quả
cho thấy rằng 80 trong số những người được điều trị bằng phương pháp mới được chữa
khỏi, trong khi đó chỉ có 30 trong số những người được điều trị bằng phương pháp cũ
được chữa khỏi. Người bác sĩ mà sử dụng nghiên cứu này có thể hiểu là phương pháp
điều trị mới tốt hơn và tiến hành chọn phương pháp mới cho tất cả các bệnh nhân của
ông. Ông sẽ xem tỷ lệ tổng thể của bệnh nhân trong nghiên cứu, những người được
hưởng lợi từ mỗi phương pháp điều trị là một chỉ dẫn tốt về khả năng mà một bệnh
nhân của mình sẽ được hưởng lợi từ điều trị. Mô hình cấu trúc của ông hoàn toàn coi
nhẹ mức độ thay đổi chéo giữa các mục độ tuổi, chủng tộc, giới tính như là sự thay đổi
ngẫu nhiên không quan trọng.
Nhưng giả sử bệnh nhân đầu tiên mà bác sĩ định sẽ áp dụng kết quả nghiên cứu
(sử dụng phương pháp điều trị mới) là một đàn ông da đen 24 tuổi. Lúc đó, bác sĩ sẽ
nhớ lại rằng chỉ có 4 người đàn ông da đen khoảng 15 đến 25 tuổi trong nghiên cứu mà
ông đã thực hiện và điều đáng nói là những người mà được điều trị bằng phương pháp
cũ thì lại sống sót còn những người mà được điều trị bằng phương pháp mới thì lại
chết. Với thông tin này, bác sĩ có thể vẫn sẽ lựa chọn cách điều trị mới, nhưng sự lựa
chọn là không thể máy móc như vậy mà sẽ phụ thuộc vào chi tiết của dữ liệu và niềm
tin của bác sĩ về các phương pháp đó sẽ có tác dụng như thế nào - đó là, liệu rằng có
bất cứ một lý do nào để giả định các phương pháp điều trị sẽ có tác dụng khác nhau đối
với những người đàn ông da đen trẻ tuổi nói chung.
Đây là các câu hỏi thực tế được đặt ra với bất kỳ bệnh nhân nào: Bệnh nhân
trong trường hợp cụ thể này có giống với các bệnh nhân được chọn trong mẫu nghiên
cứu mà kết quả nghiên cứu từ mẫu là phù hợp không? Kết quả có thể được ngoại suy
đến tuổi hoặc các nhóm dân tộc không được hoàn toàn không có tính đại diện cho mẫu
không? Một bác sĩ thú y có nên sử dụng kết quả nghiên cứu trên con người này để điều
trị cho ngựa không? Đây chính là vấn đề xác định (Identification problem).

 Dự báo (Forecasting)
Trong kinh tế, việc sử dụng dự báo ngụ ý rằng một số quyết định đang được

thực hiện có thể bị ảnh hưởng bởi niềm tin về hướng đi tương lai của nền kinh tế. Mô
hình dạng rút gọn mô tả dữ liệu kỳ lịch sử t được rút ra từ 1 phân phối xác suất có điều
kiện thông qua dữ liệu của kỳ t -1, thường có dạng phân phối tương tự như các dữ liệu
của kỳ t. Trong một tình huống dự báo thuần tuý, mô hình cấu trúc cho thấy rằng phân
phối của dữ liệu kỳ kế tiếp không bị tác động bởi bất kỳ hành động nào mà chúng ta
thực hiện, nhưng nó có liên quan đến dữ liệu của kỳ hiện tại trong cùng một cách mà
dữ liệu ở kỳ t có liên quan đến dữ liệu của kỳ t -1 tại tất cả các kỳ lịch sử t. nhưng luôn
luôn có một nghi vấn là liệu rằng kỳ cụ thể này có khác hay không khác nhau từ những
gì chúng ta đã thấy trong lịch sử: Quý này sẽ là một trong những quý mà mô hình dự
báo của chúng ta cuối cùng đã bị phá vỡ hay không? Và cũng là luôn luôn có một nghi
vấn là liệu rằng quyết định mà chúng ta đưa ra có thực sự tác động hay không có tác
động lên dữ liệu của thời kỳ kế tiếp. Nếu quyết định là có nên thế chấp nhà hay không,
thì sau đó có lẽ không có tác động, nhưng nếu quyết định là có nên sa thải 10,000 công
nhân hay không, thì câu trả lời có thể không được rõ ràng như vậy.

 Chính sách kinh tế vĩ mô (Macroeconomic policy)
Khi các mô hình kinh tế vĩ mô được sử dụng để dự báo ảnh hưởng của chính
sách, thủ tục thông thường nhất bắt đầu với một mô hình trong đó các biến chính sách
xuất hiện một cách rõ ràng và trong đó các biến được đưa vào như đã định trước. Đó là,
mô hình ở dạng mà ở đó các biến phi chính sách ở kỳ đã cho được xác định bằng cách
đưa vào các biến chính sách tại kỳ đã cho. Các lựa chọn chính sách khi đó được xác
định bằng chuỗi thời gian của các biến chính sách, và các phương trình của mô hình
được sử dụng để giải quyết cho các hướng của các biến số khác tương ứng với các lựa
chọn chính sách khác nhau.
Trong khi việc tính toán đại số của thủ tục này là không khó, thì giải thích của
nó như là một xác định của một dạng rút gọn là không đơn giản. Giả sử mô hình là
tuyến tính và đầy đủ ở chỗ nó có thể được giải được tất cả các biến mà nó chứa, ngoại
trừ các biến chính sách.
(3)
Gọi các biến chính sách là X và các biến khác là Y, một hệ

phương trình cho tất cả các biến có dạng:
(1) Y(t)A = X(t)B + Z(t -1)C + e(t)
(2) X(t) = Z(t-1)D + u(t)
Trong đó Z(t-1) là vector của tất cả các giá trị trễ của X và Y tham gia vào hệ
phương trình, khối đầu tiên (1) của các phương trình là mô hình, và khối thứ hai (2)
của các phương trình là các phương trình dự báo cho các biến chính sách. Chúng ta tìm
thấy các hướng cho tương lai Y tương ứng với các hướng cho X bằng cách cố định các
hướng X và giải Y sử dụng khối đầu tiên của phương trình. Khi chúng ta làm điều này,
chúng ta để các nhiễu e(t) trong khối đầu tiên của phương trình bằng không trong khi
điều chỉnh các phần dư u(t) trong khối thứ hai để đạt được các hướng giả thuyết cho X
cái mà đại diện cho các lựa chọn chính sách. Sự thay đổi trong chính sách được trình
bày hoàn toàn thông qua sự thay đổi trong u(t), mà không có sự thay đổi trong e(t).
Các phương trình của mô hình đã phù hợp với dữ liệu lịch sử. Để mô hình được
hợp lý để dự báo các ảnh hưởng của chính sách bằng cách thiết lập e bằng không và
thay đổi u, thì đầu tiên phải chấp nhận rằng các dữ liệu lịch sử của u(t) và e(t) không có
liên quan, và thứ hai là giả sử rằng các lỗi dự báo cho các biến chính sách có thể được
xác định bằng sự thay đổi chính sách. Thật sự không cần thiết khi chỉ có duy nhất
nguồn của lỗi tiên đoán trong các thay đổi chính sách là những sự thay đổi chính sách,
nhưng tất cả các nguồn của lỗi tiên đoán cho những sự thay đổi chính sách phải có
cùng kiểu ảnh hưởng lên nền kinh tế như là các thay đổi chính sách. Ví dụ, trong một
khoảng thời gian khi cơ quan quản lý tiền tệ đang duy trì mức lãi suất ổn định, Những
thay đổi của số lượng tiền tệ sẽ trực tiếp phản ánh những thay đổi trong nhu cầu tiền ít
nhất là trong ngắn hạn. Xem xét số lượng tiền như là một biến chính sách theo phương
pháp truyền thống của dự báo chính sách sẽ dẫn đến những sai lầm nghiêm trọng, vì nó
sẽ hàm ý một sự xác định sai lầm của các tác động lịch sử của sự thay đổi cầu tiền với
những ảnh hưởng của chính sách tạo ra những thay đổi trong số lượng tiền.

 Thuế sản xuất sản phẩm (An Excise Tax)
Một mô hình thống kê không cần thiết chứa các biến chính sách để có hữu ích
trong việc dự báo các các tác động của chính sách. Một ví dụ đơn giản nhất trong sách

giáo khoa nói về sự xác định các mô hình toán kinh tế chính là mô hình cung - cầu:
Cầu
(3) p(t) =



q(t) + )()( tuty



Cung
(4) p(t) = )()()( ttwtq








Trong đó p là giá q là sản lượng, y là thu nhập, và w là thời tiết. Mặc dù mô hình này
không chứa một biến thuế sản xuất sản phẩm, nhưng nó vẫn có thể được sử dụng để dự
đoán những ảnh hưởng của thuế sản xuất sản phẩm. Gọi mức thuế suất thuế sản xuất
sản phẩm ở kỳ t là f(t). Khi đó, nếu không có thuế trong quá khứ, chúng ta vẫn có thể
dự đoán tác động của thuế đã nộp của các nhà sản xuất bằng cách đưa f vào phương
trình cung (4), ta được:
(5) [ )()()()()](1 ttwtqtptf











Giải p và q, ta có thể thu được:
(6)
(7) )]}(1[{)]}()([)]()()][(1{[)( tftvtwtutytftq

















mà có thể được sử dụng để dự đoán những tác động của các mức thuế suất f(t) cho giá
trị đã cho của thời tiết và thu nhập, là các biến được xem xét xác định ở bên ngoài thị
trường này.

Trong ví dụ này những phản ứng lịch sử của giá cả và sản lượng đối với các
biến đổi trong thời tiết và thu nhập đang được sử dụng để dự đoán các phản ứng của
chúng đối thuế sản xuất sản phẩm chưa được thử nghiệm trước đây. Đây là một thủ
thuật trí tuệ rất hay, vì có rất nhiều nhà kinh tế đôi khi quên rằng nó thực sự sẽ là tốt
hơn để có một vài dữ liệu lịch sử từ thời kỳ mà trong đó thực sự có thuế sản xuất sản
phẩm. Trong trường hợp đó hệ phương trình (6) - (7) có thể được ước lượng trực tiếp
từ (3) - (4). Khi chúng ta phải rút hệ (6) – (7) từ (3) – (4), chúng ta dựa trên một số giả
định chắc chắn. Trong số những giả định này là giả định rằng các động lực mà đã có sự
phù hợp về mặt lịch sử đối với mô hình các giao động giá cả thị trường cũng sẽ đủ để
mô hình phản ứng lại với một sự thay đổi liên tục hơn trong giá cả do thuế gây ra. Một
giả định khác là giả định rằng biểu hiện cung sản xuất là hoàn toàn cạnh tranh.
(4)


 Phân tích chính sách các kỳ vọng duy lý
Các thủ tục đánh giá chính sách lý tưởng của trường phái kỳ vọng duy lý -
những gì mà Sargent (1984) đã quan tâm đến như là một sự lựa chọn thay thế cho các
phương pháp gắn chặt với các mô hình VAR - bắt đầu với một mô hình xác suất động
cho nền kinh tế. Chúng ta có thể gọi toàn bộ mô hình này là Y. Ngoài ra còn có một
quy luật phân phối xác suất cho các biến chính sách, mà chúng ta có thể gọi là X. Mặc
)]}(1[{
)]}()([
)]()([{)(
tf
ttw
tutytp











dù các biến chính sách đã thay đổi về phương diện lịch sử, nhưng trường phái kỳ vọng
duy lý lại phân biệt rõ ràng giữa những sự thay đổi trong các biến chính sách và những
thay đổi trong quy luật phân phối xác suất chi phối các biến chính sách. Chỉ có sự thay
đổi quy luật xác suất chi phối các biến chính sách được xem là những thay đổi "thực
sự" trong chính sách. Trong khuôn khổ lý tưởng, X không thay đổi ở tất cả các kỳ lịch
sử. Giả sử chúng ta thực hiện một sự sự thay đổi cố định đơn giản ở X. Xem xét các dữ
liệu trong lịch sử mà trong đó X không thay đổi để cho chúng ta biết những gì sẽ xảy ra
với Y khi chúng ta thực sự không thể thay đổi X. Điều này tương tự về mặt định tính
đối với vấn đề dự báo ảnh hưởng của thuế sản xuất sản phẩm chưa từng được áp đặt
trước đây, như chúng ta thảo luận ở phần trước, mặc dù vấn đề xác định các kỳ vọng
duy lý là thậm chí còn thú vị và thách thức về trí tuệ hơn.
Như Hansen và Sargent (1980) đã vạch ra, điều quy định các kỳ vọng duy lý là
các tham số của “các hàm mục tiêu của các tác nhân" được ước lượng. Các tham số
này, thường được mô tả là "thị hiếu và công nghệ", được xem là không thay đổi với
quy luật quyết định sự chi phối X và cũng là đủ để xác định phản ứng của nền kinh tế
trước những thay đổi một lần duy nhất trong quy luật quyết định. Cả sự đòi hỏi để có
thể ước tính tất cả các khía cạnh liên quan của thị hiếu và công nghệ lẫn sự đòi hỏi để
có thể sử dụng chúng để dự đoán phản ứng với những thay đổi trong X, chúng ta sẽ
phải làm cho các giả định ở nhóm có tầm ảnh hưởng lớn trở nên phức tạp và nhiều nghi
vấn hơn những các giả định đó trong ví dụ thuế sản xuất sản phẩm.
Ngay trong ví dụ thuế sản xuất sản phẩm, chúng ta thực sự tốt hơn nếu sự thay
đổi trong quy luật xác suất cho các biến chính sách mà chúng ta dự định bổ sung có các
tiền lệ. Trong trường hợp đó cả Y và X cần các đối số thời gian (time arguments), và
chúng ta phải xem xét làm thế nào để xây dựng một mô hình động liên kết X(t) với

Y(t). Trong mô hình này, các giá trị của các biến số chính sách sẽ được xác định ở hai
bước - đầu tiên X(t) được xác định, sau đó các giá trị của các biến số chính sách được
tạo ra bởi X(t). X(t) chính nó khi đó không phải là quy luật xác suất tạo ra các biến
chính sách, nhưng là một phần hay một giai đoạn của luật xác suất đó. Tuy nhiên, nếu
X(t) là những gì chúng ta đang trong quá trình lựa chọn, thì những gì chúng ta cần là sự
phân bố hướng đi tương lai của Y(t) cho sự lựa chọn có chủ ý của chúng ta một hướng
đi cho X(t). Thực tế là Y(t) và X(t) đại diện cho những quy luật xác suất, không phải là
giá trị của các biến thực sự, không thay đổi bản chất cơ bản của vấn đề xác định (the
identification problem).
Bằng cách xem xét các thủ tục đánh giá chính sách tiêu chuẩn đã áp dụng trong
một tình huống nơi mà những thay đổi chính sách thực sự thay đổi cấu trúc tuyến tính
của nền kinh tế bằng cách thay đổi các quy tắc hình thành kỳ vọng, bài phê bình những
kỳ vọng duy lý chỉ ra một chiều hướng (dimension) quan trọng mà những thủ tục như
vậy có thể thất bại. Nếu chính sách thay đổi luân phiên ở những khoảng thời gian ngẫu
nhiên khoảng chừng 10 năm, chẳng hạn như giữa chính sách mở rộng lạm phát của nhu
cầu và chính sách thắt chặt, thì khi đó sự hình thành kỳ vọng bởi công chúng sẽ khác
nhau giữa hai kiểu thể chế (regime). Điều đó có vẻ như là nền kinh tế sẽ được đưa vào
mô hình phi tuyến tính tốt nhất, có thể thay đổi một cách hệ thống giữa hai cấu trúc
tuyến tính giới hạn khác nhau như là bằng chứng của một sự thay đổi chế độ chính
sách tích lũy. Mô hình lý tưởng sẽ bao gồm một mô tả đầy đủ và chính xác rằng bằng
cách nào mà cách thức hình thành kỳ vọng thay đổi cùng với những thay đổi chính
sách. Một mô hình như vậy có thể sẽ chỉ ra các phản ứng phi tuyến tính nhằm thay đổi
các hướng đi của các biến số chính sách. Một mô hình mà bỏ qua tính chất phi tuyến
tính này sẽ không chính xác, mặc dù có thể chính xác cho dự báo ngắn hạn trong các
thể chế. Tuy nhiên, một mô hình có thể xem xét một cách đúng đắn về tính chất phi
tuyến tính mà không cần sự hình thành kỳ vọng mô hình một cách rõ ràng. Một mô
hình như vậy thậm chí có thể đưa ra sự chỉ dẫn chính xác cho các nhà hoạch định chính
sách về những ảnh hưởng của một sự thay đổi trong thể chế. Trong ý nghĩa mà chúng
ta đang đưa ra thuật ngữ, mô hình là cấu trúc, không phải là một dạng rút gọn, mặc dù
một số các tham số của nó sẽ làm mất đi những ảnh hưởng của cầu đối với cung hoặc

những ảnh hưởng của sự hình thành kỳ vọng đối với những chi phí điều chỉnh.
Thậm chí một mô hình mà không bỏ qua tính chất phi tuyến tính sẽ là chính xác
chỉ khi quy luật xác suất chi phối quá trình của sự thay đổi thể chế vẫn không thay đổi
về phương diện lịch sử. Nhưng thật là không đúng khi nói rằng không có sự thay đổi
"thực sự" trong chính sách mà không có một sự thay đổi trong quy luật xác suất. Thực
tế là công chúng đã có quan niệm về một số các phân phối xác suất đối với các hành
động có thể thực hiện bởi nhà hoạch định chính sách không có nghĩa là anh ta phải đối
mặt với việc không có sự lựa chọn thực sự. Trong thực tế, công chúng duy lý sẽ luôn
luôn có một phân phối như vậy đối với tất cả các lựa chọn chính sách mà thực sự có thể
xảy ra. Mặc dù không có một khái niệm được định nghĩa rõ ràng về một phân phối xác
suất có điều kiện cho con đường tương lai của nền kinh tế mà đã cho những tác động
chính sách. Sự phân phối có điều kiện này là những gì mà một nhà hoạch định chính
sách cần phải đưa ra sự lựa chọn của mình, và sự tồn tại của nó không xung đột cũng
lúc với quan niệm của công chúng về một phân phối xác suất đối với những sự lựa
chọn mà nhà hoạch định chính sách có thể thực hiện. Điều đó cũng thật sự không đúng
khi nói rằng sự tồn tại của một quy luật xác suất chi phối chính sách hàm ý rằng là có
thể không có sự tiến bộ khoa học trong việc lập chính sách. Một công chúng duy lý có
thể mong đợi những sự cải tiến không thường xuyên trong việc ra chính sách, mặc dù
thời gian của những cải tiến có khả năng vẫn không đoán trước được. Nếu điều này là
đúng, thì cấu trúc năng động của nền kinh tế sẽ trôi qua theo thời gian khi việc ra chính
sách được cải thiện. Một mô hình mà bỏ qua nguồn phi tuyến này sẽ là không chính
xác, nhưng một lần nữa một mô hình có thể cho phép tính chất phi tuyến này mà không
cần đưa vào các giải thích chi tiết cho tất cả các tham số của nó.
Các ví dụ nổi bật nhất về những tình huống mà trong đó các nhà kinh tế bị lôi
cuốn mạnh mẽ đối với sự tiếp cận những kỳ vọng duy lý để phân tích chính sách là
những thay đổi đột ngột trong các thể chế chính sách - những thay đổi từ tỷ giá hối
đoái cố định thành tỷ giá hối đoái linh hoạt (hoặc ngược lại) hoặc những cải cách tài
chính và tiền tệ nhằm chấm dứt lạm phát ở mức cao. Về mặt nguyên tắc, người ta có
thể nỗ lực để dự báo các ảnh hưởng của những thay đổi chính sách bằng cách sử dụng
dữ liệu từ những thời kỳ trong đó những cú sốc đối với nền kinh tế là ít đáng kể và có

bản chất hoàn toàn khác nhau. Người ta có thể sử dụng dữ liệu từ một thời kỳ mà trong
đó lạm phát có sự biến động nhẹ, chính sách tiền tệ ổn định, và những biến động kinh
tế phát sinh chủ yếu từ tác động của thời tiết lên sản lượng nông nghiệp cho đến ước
lượng độ hữu dụng và chức năng sản xuất cho nền kinh tế. Nếu ước lượng này thành
công, dưới các giả định phụ thông thường của các kỳ vọng duy lý, thì nó có thể được
sử dụng để dự đoán tác động của sự thay đổi từ tỷ giá hối đoái cố định thành tỷ giá hối
đoái linh hoạt hoặc của sự cải cách tài chính để đẩy lùi lạm phát. Tuy nhiên, hầu hết
các nhà kinh tế sẽ không tin tưởng lắm trong một vận dụng như vậy. Thậm chí trong số
đó có những người tin rằng điều đó là hữu ích để nghĩ thị hiếu và công nghệ như là các
nhân tố xác định phản ứng của nền kinh tế đối với chính sách - ngay cả khi họ hiểu
rằng những ước tính kinh tế về độ hữu dụng và các chức năng sản xuất ít nhiều là
những phép tính xấp xỉ thô thiển. Và họ hiểu rằng giá trị của những phép tính xấp xỉ ắt
hẳn là sẽ giảm đi khi mô hình được ngoại suy cho tình huống xa hơn bên ngoài phạm
vi của sự biến động quan sát trong dữ liệu.
Sargent (1982) đã thực hiện một số phân tích thực nghiệm về những thay đổi
chính sách như vậy, vẫn giữ quan điểm kỳ vọng duy lý nhưng sử dụng một phương
pháp luận làm giảm đi sự phản đối quan điểm này. Ông nghiên cứu một số ví dụ trong
lịch sử về những thay đổi chính sách kinh tế mà đã đẩy lùi được lạm phát ở mức cao và
cho thấy rằng chúng chứa đựng những bài học về chính sách chống lạm phát nói
chung. Cách tiếp cận này tránh được sự cần thiết phải dự báo những ảnh hưởng của sự
thay đổi chính sách lớn như vậy từ các dữ liệu lịch sử đơn thuần mà trong đó những
thay đổi như vậy đã không kết hợp với một cấu trúc chặt chẽ của các giả định. Tuy
nhiên, cũng như trong bất kỳ nghiên cứu nào mà sử dụng dữ liệu có liên quan đến lựa
chọn chính sách, thì có những giả định xác định có thể gây tranh cãi: liệu rằng thành
công của những cải cách này do một nhà hoạch định chính sách đã có quyết định bằng
hàng loạt các hành động thích hợp? Hay nó là một phần của sự biến động của lạm phát
ở mức cao tại một giai đoạn nhất định mà những tác động như vậy cuối cùng cũng có
thể xảy ra? Chúng ta có thể suy diễn ảnh hưởng của các tác động chính sách vừa phải
lên lạm phát thấp bằng cách thu hẹp ảnh hưởng của các tác động chính sách quyết liệt
về lạm phát cao không? Hay là mọi thứ phải phi tuyến tính hơn thế?

Không có sự khác biệt về nguyên tắc giữa các câu hỏi về những phân tích lịch
sử của Sargent với các câu hỏi tương ứng về các sử dụng 1 mô hình VAR để dự báo
những ảnh hưởng của chính sách tiền tệ chặt chẽ hơn trong năm kế tiếp khi chúng ta
xác định chính sách tiền tệ thắt chặt với các phần dư dương (+) trong phương trình mức
lãi suất của mô hình. Tất nhiên, trong trường hợp cụ thể có thể có sự khác biệt. Một số
nguời có thể cảm thấy những câu hỏi về các giả định xác định của Sargent trong việc
áp dụng các nghiên cứu lạm phát ở mức cao ít nhiều cũng bàn về việc xác định các lỗi
dự đoán trong mức lãi suất với chính sách. Vấn đề là trong bất kỳ nghiên cứu thực
nghiệm nào cũng sẽ có những câu hỏi gây tranh cãi về việc xác định, những câu hỏi đó
ít nhiều sẽ để lại cho chúng ta những bất tiện khi áp dụng các kết luận. Khuôn khổ các
kỳ vọng duy lý nêu ra các vấn đề từ một góc độ khác, nhưng nó vẫn không thể tránh
được điều đó.

Những mô hình kỳ vọng duy lý chống lại sự phân tích chính sách với
những mô hình dự báo
Rõ ràng, về nguyên tắc, 1 mô hình cân bằng kỳ vọng duy lý có thể là 1 mô hình
dự báo tốt như mô hình VAR. Nhưng thực tế, trong 1 thế giới nơi mà con người thì duy
lý và thị trường thì cạnh tranh, người ta có thể mong đợi rằng những mô hình dự báo
tốt nhất sẽ là những mô hình cân bằng kỳ vọng duy lý.
Có thể không thực sự rõ ràng, không có sự mâu thuẫn hợp lý giữa 1 thế giới của
thị trường cạnh tranh và con người duy lý với 1 thế giới mà những mô hình dự báo tốt
nhất là những mô hình VAR và chính sách tối ưu có thể được lập ra bằng cách sử dụng
mô hình VAR dưới những giả định xác định đơn giản nhất. Quan điểm sau cùng yêu
cầu một vài lý luận toán học mở rộng và được phát triển đầy đủ trong 1 bài nghiên cứu
gần đây mà tôi viết (Sim 1985).
Vì vậy, xét về mặt lý thuyết, 1 mô hình có thể bao gồm những mô hình VAR
tuyến tính và những mô hình cân bằng kỳ vọng duy lý phi tuyến tính như những trường
hợp đặc biệt của 1 khuôn khổ đầy đủ hơn. Nhưng trong các vấn đề thực sự của việc lựa
chọn chính sách và dự báo, có những sự cân bằng giữa các yếu tố khác nhau để đạt
được sự kết hợp tốt nhất. Những mô hình kỳ vọng duy lý hiện vẫn chưa được sử dụng

thành công cho dự báo vĩ mô có quy mô rộng lớn. Mặc dù những phương thức tính
toán đơn giản không ngẫu nhiên của chúng dùng để xây dựng mô hình được sử dụng
phổ biến hơn các mô hình toán kinh tế, các mô hình VAR, hoặc các mô hình kỳ vọng
duy lý truyền thống. Bởi vì máy tính và tri thức con người đều có giới hạn, do đó 1 mô
hình phức tạp cũng phải được giới hạn.
Mặt khác, nếu người ta tin rằng các cơ chế động của các kỳ vọng duy lý là quan
trọng và chúng ta hiểu đầy đủ về bản chất của chúng để tập hợp chúng từ dữ liệu, khi
đó nó có thể hữu ích để chấp nhận gánh nặng của những giả định giản đơn không
tưởng thường thấy trong 1 mô hình kỳ vọng duy lý hữu dụng. Người ta chấp nhận rằng
mô hình kết quả sẽ không phải là 1 mô hình dự báo tốt bởi một niềm tin rằng có những
cơ chế kỳ vọng duy lý 1 cách rõ ràng trong mô hình có thể làm nó chính xác hơn trong
1 vài trường hợp phân tích chính sách. Khi mô hình đó không có gì hơn là 1 mô hình
dự báo, thì rõ ràng rằng tính chính xác bị giảm sút trong 1 vài trường hợp phân tích
chính sách đang được từ bỏ để đổi lấy 1 hi vọng cho việc tăng sự chính xác trong 1 vài
trường hợp phân tích chính sách khác.
Ngoài ra, người ta có thể tin rằng chúng ta biết quá ít về bản chất của hành vi
kinh tế năng động để giúp cho việc xây dựng mô hình của những động lực kỳ vọng duy
lý trở nên hữu ích. Trong trường hợp đó, sử dụng một mô hình mà hướng tới việc tìm
kiếm phân phối xác suất có điều kiện cho sản lượng đầu ra của nền kinh tế được đưa ra
bởi các tác động chính sách có thể sẽ tốt hơn, mà không cần chi tiết hoá tất cả sự tối ưu
hoá năng động nằm dưới phân phối có điều kiện đó.
Các phương pháp VAR có một lợi thế hơn về mặt lý thuyết so với sự bổ sung
của những mô hình cân bằng kỳ vọng duy lý đó là: chúng tạo ra một sự liên kết giữa
mô hình với một mô hình dự báo dạng rút gọn hoàn toàn rõ ràng. Điều đó nghĩa là
người ta có thể xác nhận tính hợp lệ của những giả định xác suất ở dạng rút gọn bằng
cách cho nó trượt theo dữ liệu lịch sử, và cho nó thực hiện các dự báo với dữ liệu thích
hợp tại mỗi kỳ trong quá khứ. Sự phân phối xác suất của mô hình cho các lỗi dự báo có
thể được so sánh với phân phối mẫu quan sát của các lỗi dự báo. Trong khi đó, những
mô hình toán kinh tế chuẩn tắc và hơn thế nữa, những mô hình cân bằng kỳ vọng duy
lý không thể thực hiện điều này. Một phần lớn của sự không chắc chắn về dự báo từ cả

2 loại mô hình là sự không chắc chắn về những giả định xác định không chặt chẽ được
xây dựng giữa chúng. Mặc dù những mô hình đó là xác suất, nhưng những phân phối
mà chúng tạo ra cho các lỗi dự báo được sử dụng hạn chế trong thực tiễn, bởi vì chúng
bỏ qua lỗi phát sinh từ sự không chắc chắn trong những mô tả chi tiết của chính nó.
Những nhà kinh tế thường có xu hướng đưa ra các kết luận và các dự báo như thể họ là
người biết chắc về chúng hơn là chúng phải như vậy, dựa trên bất kỳ bằng chứng khách
quan nào. Xu hướng này được khẳng định bằng việc sử dụng một cách hiển nhiên
những mô hình toán học mà không quan tâm đến một nguồn quan trọng nhất của sự
không chắc chắn về những quyết định của họ. Nhưng các phương pháp VAR, hoặc bất
cứ phương pháp nào khác mà làm thu hẹp khoảng cách giữa mô tả chi tiết ngẫu nhiên
mô hình (model stochastic specification) với phân phối các lỗi dự báo quan sát, sẽ hứa
hẹn việc thảo luận chính sách nền móng vững chắc hơn dựa trên các sự thật khách
quan.
Trong dự báo các tác động của những hoạt động chính sách, những giả định xác
định sẽ được đòi hỏi để sử dụng các mô hình VAR. Những giả định này sẽ không có
giá trị chắc chắn. Vấn đề đánh giá chính sách dựa vào mô hình VAR là để biểu thị một
cách rõ ràng sự áp đặt của những giả thiết xác định lên một mô hình dự báo dạng rút
gọn có cơ sở vững chắc. Điều này làm cho nó trở nên dễ dàng hơn để phân chia sự
phân tích của tình trạng không chắc chắn về sự xác định từ sự phân tích của tình trạng
không chắc chắn về cấu trúc xác suất của dữ liệu.
Tóm lại có 2 hướng tiếp cận hiện đại rất khác nhau để phân tích chính sách vĩ
mô: một hướng tiếp cận nghiêng nặng về tính thực nghiệm, trong đó có sự liên hệ chặt
chẽ giữa sự phân tích với những mô hình dự báo; hướng tiếp cập thứ hai mang phong
cách các kỳ vọng duy lý, một hướng tiếp cận phức tạp hơn, ít liên hệ với dữ liệu, nhận
được sự quan tâm của hầu hết các nhà kinh tế học vĩ mô, và ít được sử dụng hơn. Từ
những những gì đã trình bày cho đến thời điểm này, có lẽ người đọc sẽ đồng ý rằng vấn
đề đặt ra là liệu, trong một áp dụng cụ thể, hướng tiếp cận này hay hướng tiếp cận khác
cũng đều đòi hỏi những giả định xác định không tưởng. Ở đây không có sự tranh luận
chung chung rằng hướng tiếp cận này tránh được những trở ngại mà ở những hướng
tiếp cận khác không thể tránh khỏi.


Xác định các mô hình VAR
Phần này của bài nghiên cứu mô tả tập hợp các giới hạn thuận tiện trên các mô
hình VAR. Lợi ích từ nó yêu cầu một vài biểu hiện trước đó đối với lý thuyết toán kinh
tế. (Những độc giả thiếu kiến thức chuyên môn có thể vẫn thu được một số hiểu biết từ
ví dụ được trình bày ở phần tiếp theo mà không cần đọc phần này).
Phương pháp đơn giản nhất để đạt được một sự giải thích xác định của một mô
hình VAR cho việc lựa chọn chính sách là giả định rằng sự biến động chính sách có thể
được xác định bằng phần dư trong 1 (hoặc nhiều) phương trình của mô hình. Trong
trường hợp đó, các dự báo chính sách có thể được thực hiện bằng cách thức thông
thường - Bằng cách tách các phương trình chính sách ra khỏi mô hình và xem xét
những phương trình khác. Phương pháp đạt được sự xác định này, như chúng ta đã chỉ
ra, chính là phương pháp làm nền tảng cho việc sử dụng thông thường các mô hình
toán kinh tế để dự báo tác động của chính sách, cho dù các mô hình đó có rõ ràng là
mô hình VAR hay không. Nó cũng chính là các giả định xác định làm nền tảng cho các
mô hình kỳ vọng duy lý của các nhà ủng hộ phương pháp kiểm tra sự lưu thông tiền tệ
để ổn định nền kinh tế (rational expectations monetarist models), trong đó những sự
thay đổi không thể dự đoán trong khối lượng tiền tệ được mặc nhiên công nhận là hoàn
toàn được tạo ra bởi các lựa chọn chính sách không nhất quán
(5)
. Tuy nhiên, nó là một
hướng tiếp cận hạn chế để giải thích một mô hình.
Gần đây một số nhà kinh tế học đã khám phá ra những phương pháp có tính đơn
giản và thuận tiện trong việc xác định chính sách để giải thích các mô hình VAR với
các lỗi được tiên đoán trước trong các biến chính sách, mà không bị quá nhiều hạn chế
(6)
. Các bước của nó như sau. Chúng ta giả định rằng có các nguồn đặc trưng về hành vi
(behaviorally distinct sources) của sự biến thiên tập hợp trong vector e(t) và những
nguồn này kiểm soát sự biến động trong nền kinh tế. Một số phần tử của e(t) là những
thay đổi bất thường ngẫu nhiên trong chính sách. Một mô hình liên kết vector có thể

quan sát được của dữ liệu, Y(t), với các giá trị hiện tại và quá khứ của các nhiễu như
sau:
(8)







0 0
).()()()(
s s
stesBstYsA
Mô hình VAR cho Y sẽ có dạng
(9)




1
)()()()(
s
tustYsCtY
Trong đó u(t) là bước đầu tiên đoán trước lỗi trong Y.
Phương trình (9) có thể được giải để cho ra các ma trận phản ứng xung lực (impulse
response) cho Y, G(s), thoả mãn:
(10)




m
s
mtYmHstusGtY
0
)()()()()(
Trong đó, H phụ thuộc vào m, nhưng chuỗi G thì không phụ thuộc vào m. Hàng thứ i,
cột thứ j của G(s), G
ij
(s) cho thấy phản ứng của Y
i
(t+s) đối với một đơn vị nhiễu trong
u
i
(t). Một phần quan trọng đáng chú ý của các mô hình VAR với tính cách là các công
cụ mô tả đó chính là vectơ u, hoặc ít nhất là một vài nhân tố của nó. Trong trường hợp
đó, phần của ma trận G có thể được giải thích một cách trực tiếp như thể là các phản
ứng đối với các tác động chính sách.
Tuy nhiên, tình huống phổ biến là các nhiễu hành vi (behavioral disturbances)
của phương trình (8) thì không giống như của u. Nếu các nhiễu hành vi của Y là danh
mục dữ liệu đầy đủ để mà chúng ta có thể, nếu chúng ta biết ma trận A và B, thu được
e(t) từ mỗi t từ những gì đã biết về các giá trị hiện tại và quá khứ của Y(t), và nếu quy
trình e là một chuỗi độc lập, khi đó (8) hàm ý:
(7)

(11) A(0)u(t) = B(0)e(t)
Khi đó u(t) = A(0)
-1
B(0)e(t), và chúng ta có thể thay vào phương trình (10) để thu được
phản ứng của Y đối với e bằng cách thay thế G(s) với G(s)A(0)

-1
B(0), cho tất cả s.
Các chuỗi hệ số C và G trong các phương trình (9) và (10) có thể luôn luôn
được thu lại từ dữ liệu bằng các thủ tục ước lượng tương đối đơn giản. A và B trong
phương trình (8) không thể được thu lại từ dữ liệu mà không cần có những những giả
định xác định giới hạn dạng thức của chúng. Nếu các giả định xác định giới hạn chỉ với
A(0), B(0), và Ω = var(e(t)), khi đó chúng có thể hàm ý một sự giới hạn trên ∑ = var
(u(t)), nhưng chúng sẽ không hàm ý bất cứ giới hạn nào trên C hay G. Bởi vì sự ước
lượng có hiệu quả trên C thì không bị tác động bởi các giới hạn trên ∑, trong trường
hợp này chúng ta có thể đi từng bước như sau: Bước thứ nhất, ước lượng C bằng các
phương pháp VAR đơn giản thông thường và hình thành một ước lượng không giới
hạn của ∑ từ ước lượng các phần dư của VAR; Bước thứ 2, sử dụng các giới hạn để rút
ra các ước lượng của A(0), B(0), và Ω từ ma trận không giới hạn ∑. Những phản ứng
của hệ thống nhất với các nhiễu chính sách khi đó là có thể thu được từ công thức
G(s)A(0)
-1
B(0), trong đó chúng ta có thể sử dụng G từ ước lượng VAR không giới hạn
ở bước đầu cùng với A(0) và B(0) ước lượng từ bước thứ 2 của quá trình ước lượng.
Một ví dụ dễ hiểu về các giới hạn xác định trên A(0), B(0), và Ω là chuỗi nhân
quả Wold. Theo quan điểm này, Ω là ma trận chéo, B(0) = I (ma trận đơn vị), và A(0)
là ma trận tam giác và được chuẩn hoá để có được các phần tử nằm dưới đường chéo
chính khi các biến được sắp xếp theo thứ tự ưu tiên của chuỗi nhân quả. Sử dụng lập
luận B(0) = I, ∑ = A(0)ΩA(0)’, tính chất tam giác của ma trận A(0) hàm ý rằng, một
khi chúng ta đã đặt các biến vào thứ tự hợp lý, chúng ta có thể thu được A(0) và Ω từ ∑
và các phần đơn nhất tách ra của ∑. Điều đó có nghĩa là, chúng ta đã biết rằng có một
cách duy nhất để biểu diễn một ma trận ∑ hoàn toàn dương ở dạng của LDL, trong đó
L là ma trận tam giác dưới với các phần tử nằm dưới đường chéo chính của nó, và D là
ma trận chéo. Áp dụng thuật toán chuẩn LDL đối với ∑ cho chúng ta A(0) như L và Ω
như D. Sự trực giao hoá ma trận tam giác đã trở thành một cách thực hiện thông
thường như là một phần của sự giải thích các mô hình toán kinh tế VAR.

Chúng ta chỉ có thể áp dụng lý thuyết chuỗi nhân quả Wold chỉ với 2 khối biến
trong một hệ, cái mà yêu cầu A(0) có khối tam giác và Ω theo đúng khối chéo. Khuôn
khổ chuỗi khối Wold này làm nền tảng cho tất cả các lý thuyết toán kinh tế chuẩn tắc
của các mô hình hệ phương trình đồng thời (simultanious equations models), điều đó
tương đương với việc chia Y thành 2 thành phần, một phần nội sinh và một phần tiên
định khác. Nếu A(0) là ma trận khối tam giác dưới, khi đó phần trên của vectơ Y đáp
ứng tiêu chuẩn thông thường cho các biến định trước. Cụ thể là các giá trị hiện tại và
quá khứ thì không tương quan với các giá trị hiện tại và quá khứ của nhiễu trong các
phương trình tương ứng với khối dưới. Cấu trúc chuỗi khối Wold thì không tự thân đạt
được sự xác định – có 3 hệ số còn lại trong A(0) và Ω hơn là trong ma trận ∑. Ở hướng
tiếp cận thông thường với hệ phương trình đồng thời (simultanious equations), các giới
hạn xác định thêm vào được áp đặt lên chuỗi A. [chuỗi B được xem xét với B(0) = I,
B(s) = 0, s ≠ 0]. Nếu các giới hạn thêm vào bao hàm cả A(0) để cho s dương, khi đó
chúng sẽ hàm ý một cách tổng quát các giới hạn trên C và làm mất giá trị khuôn khổ 2
bước xác định đơn giản. Nhưng khuôn khổ chuẩn tắc chỉ thực sự được áp dụng trong
trường hợp khi mà các giới hạn được áp đặt duy nhất trên A(0). Hạng thông thường và

×