Tải bản đầy đủ (.docx) (324 trang)

Dịch vụ công tác xã hội với nam giới trong việc giảm thiểu bạo lực gia đình từ thực tiễn tỉnh quảng ninh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.25 MB, 324 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

HỒNG TUYẾT MAI

DỊCH VỤ CƠNG TÁC XÃ HỘI ĐỐI VỚI
NAM GIỚI TRONG VIỆC GIẢM THIỂU BẠO LỰC
GIA ĐÌNH TỪ THỰC TIỄN TỈNH QUẢNG NINH

Ngành: Công tác xã hội
Mã số: 9760101

LUẬN ÁN TIẾN SĨ CÔNG TÁC XÃ HỘI

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học:
1.

GS.TS NGUYỄN HỮU MINH

2.

TS. NGUYỄN HẢI HỮU

Hà Nội, 2021


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Bạo lực gia đình đang là điểm nóng trong nghị sự của mỗi quốc gia, thu hút
được sự quan tâm của toàn xã hội, nó ngày càng được cộng đồng quốc tế thừa nhận


như là một trở ngại cho việc thực hiện các mục tiêu phát triển của thiên niên kỷ mà
Liên Hợp Quốc đã đưa ra. Nghiên cứu quốc gia về bạo lực gia đình (BLGĐ) đối với
phụ nữ tại Việt Nam cơng bố vào năm 2019 đã cho thấy mức độ trầm trọng của vấn
đề. Cứ 3 phụ nữ thì có gần 2 phụ nữ (62,9 ) đã từng bị một hoặc hơn một hình thức
bạo lực (thể xác, tình dục, tinh thần, bạo lực kinh tế) do chồng gây ra trong đời. Đặc
biệt năm 2020 đã chứng kiến trẻ em và phụ nữ là đối tượng chịu ảnh hưởng nhiều
nhất trong bối cảnh đại dịch Covit 19. Tỷ lệ bạo lực gia đình tăng từ 30 đến 300%
ở khắp mọi nơi trên thế giới, trong đó trẻ em và phụ nữ vừa là người chứng kiến
vừa là nạn nhân. Tại Việt Nam, trong thời gian Covid 19 tỉ lệ bạo lực gia đình tăng
ít nhất 30% [94]. Tác động của BLGĐ tại Việt Nam không chỉ giới hạn ở cấp độ cá
nhân và gia đình mà cịn ảnh hưởng tiêu cực tới sự phát triển kinh tế của đất nước.
Như theo ước tính, tổng thu nhập của phụ nữ bị thiệt hại do BLGĐ chiếm khoảng
1,78% GDP cả nước [36].
Cũng như nhiều nước trên thế giới đang đấu tranh cho quyền bình đẳng nam
nữ và loại trừ bạo lực đối với phụ nữ, ở Việt Nam những năm gần đây, vấn đề này
đang được nhìn nhận một cách nghiêm túc ở các cấp khác nhau của hệ thống nhà
nước. Chính phủ và cộng đồng quốc tế tại Việt Nam đang rất nỗ lực để thực hiện
những dịch vụ hỗ trợ phù hợp nhằm phòng chống và giảm thiểu BLGĐ. Trong
những năm qua, các biện pháp giải quyết vụ việc về BLGĐ thường tập trung nhiều
vào việc can thiệp và hỗ trợ nạn nhân. Nói cách khác, các chính sách và chương
trình can thiệp hiện nay ở Việt Nam để giải quyết BLGĐ vẫn chủ yếu tập trung vào
phụ nữ. Tuy nhiên, theo một số nghiên cứu gần đây, phần nhiều các chương trình
chỉ tập trung vào phụ nữ và trẻ em gái đã khơng giải quyết được các vấn đề cịn tồn
tại. Đây là một khoảng trống lớn khiến hiệu quả cơng tác phịng chống bạo lực gia
đình ( PCBLGĐ) thấp, tình trạng bạo lực có sự suy giảm chậm.
Tổ chức Y tế thế giới WHO nhận định rằng, ― Phần lớn bạo lực đối với phụ
nữ xảy ra trong gia đình thì người gây ra bạo lực gần như ln ln là nam giới,
thường là người chồng hoặc người tình, hay những người đàn ông mới quen biết

1



của phụ nữ” [87]. Những nam giới gây bạo lực (GBL) là thủ phạm của các vụ
BLGĐ nên họ cần phải chịu trách nhiệm với pháp luật và với nạn nhân về hành vi
của mình. Họ mới là người cần phải thay đổi chứ không phải là nạn nhân. Họ cần
nhận thức đúng về hành vi bạo lực, cần biết cách kiềm chế cảm xúc và quản lý hành
vi của mình, biết cách hành xử đúng đắn với phụ nữ trên cơ sở tơn trọng và đảm bảo
an tồn. Ứng phó với BLGĐ nếu chỉ can thiệp, hỗ trợ nạn nhân bị BLGĐ tức là
chúng ta chỉ can thiệp ở phần ngọn còn phần gốc chúng ta chưa giải quyết được, vì
vậy bạo lực sẽ lại tiếp tục diễn ra theo đúng chu kỳ của nó. Do đó vịng trịn của bạo
lực gia đình sẽ được phá vỡ nếu chúng ta can thiệp với nam giới GBL cũng như có
các dịch vụ CTXH với nam giới nhằm giảm thiểu BLGĐ. Hoạt động phòng chống
bạo lực lấy nam giới là trung tâm cho các dịch vụ thiết thực trên các mặt của đời
sống xung quanh nam giới sẽ có tác động tích cực đến việc giảm thiểu các hành vi
gây BLGĐ của nam giới.
Trong những năm gần đây việc thu hút nam giới vào cơng tác phịng chống
bạo lực gia đình ( PCBLGĐ) đang ngày được quan tâm nhiều hơn. Nhiều tổ chức
quốc tế, cũng như các tổ chức xã hội và phi chính phủ trong nước đã coi nam giới là
lực lượng quan trọng trong các hoạt động PCBLGĐ và thu hút nam giới vào công
tác PCBLGĐ. Đặc biệt, việc kêu gọi sự tham gia của nam giới trong việc chống lại
bạo lực đối với phụ nữ, tập trung vào vai trò, trách nhiệm của nam giới và nhấn
mạnh tới việc nam giới là một phần của giải pháp để chống lại bạo lực với phụ nữ.
Rất nhiều những hoạt động, chương trình, dịch vụ hỗ trợ đã được tổ chức nhằm mục
đích khuyến khích nam giới tham gia vào cuộc đấu tranh chấm dứt bạo lực và đã
thu được những kết quả tích cực.
Tỉnh Quảng Ninh là một trong những địa phương có mạng lưới cơng tác xã
hội ( CTXH ) chuyên nghiệp nổi bật trong cả nước, đặc biệt ban lãnh đạo tỉnh luôn
xem công tác PCBLGĐ là một trong những mục tiêu xuyên suốt trong tiến trình
phát triển của địa phương bởi tình hình bạo lực gia đình đã và đang diễn biến hết
sức phức tạp. Theo số liệu thống kê trong vòng 10 năm ( từ 2008 đến năm 2018),

trên địa bàn toàn tỉnh đã xảy ra 2.086 vụ BLGĐ [51]. Tỉnh Quảng Ninh cũng đã có
đa dạng các dịch vụ CTXH nhằm đẩy lùi tình trạng bạo lực gia đình.
Đề tài về BLGĐ và nghiên cứu các giải pháp phịng chống và giảm thiểu
BLGĐ ln nhận được sự quan tâm đặc biệt trong nhiều lĩnh vực khoa học khác

2


nhau như tâm lý học, xã hội học, luật học, giáo dục…Tuy nhiên qua rà soát các
nghiên cứu về BLGĐ ở Việt Nam thời gian qua, tác giả nhận thấy chưa có nghiên
cứu nào đánh giá về các dịch vụ CTXH đối với nam giới trong việc giảm thiểu
BLGĐ. Đây là một khoảng trống quan trọng trong công tác đẩy lùi BLGĐ tại Việt
Nam hiện nay. Xuất phát từ những lý do trên việc lựa chọn đề tài ― Dịch vụ công
tác xã hội với nam giới trong việc giảm thiểu bạo lực gia đình từ thực tiễn tỉnh
Quảng Ninh‖ là việc làm cần thiết và có ý nghĩa cả về lí luận, thực tiễn và là cách
tiếp cận mới hiện nay. Đề tài có ý nghĩa thực tiễn cao trong q trình phịng chống
và giảm thiểu tình trạng BLGĐ tại tỉnh Quảng Ninh và mở rộng hơn trên cả nước.
Từ đó sẽ là tài liệu tham khảo tốt cho các nhà nghiên cứu, các nhà hoạch định và
thực thi chính sách liên quan đến vấn đề dịch vụ CTXH đối với nam giới.
2.

Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

2.1. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu những vấn đề lý luận về dịch vụ công tác xã hội với nam giới
GBL nhằm giảm thiểu BLGĐ và đánh giá thực trạng dịch vụ CTXH với nam giới
GBL cùng các yếu tố ảnh hưởng. Từ đó đề xuất giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả
của các dịch vụ CTXH đối với nam giới góp phần giảm thiểu tình trạng BLGĐ.
2.2 Nhiệm vụ nghiên cứu
(1) Tổng quan các kết quả nghiên cứu về thực trạng, ngun nhân của

BLGĐ và các mơ hình dịch vụ trong phịng chống BLGĐ nói chung, dịch vụ
CTXH với nam giới nói riêng. Hệ thống hố những vấn đề lý luận, công cụ và
phương pháp nghiên cứu về dịch vụ công tác xã hội với nam giới trong việc giảm
thiểu BLGĐ.
(2)

Khảo sát tại địa bàn nghiên cứu để nhận diện thực trạng BLGĐ do nam

giới gây ra; Đánh giá hiểu biết, nhu cầu và khả năng tiếp cận của nam giới GBL
với các dịch vụ CTXH nhằm giảm thiểu BLGĐ; Thực trạng các dịch vụ CTXH với
nam giới GBL nhằm giảm thiểu BLGĐ; Các yếu tố ảnh hưởng đến dịch vụ công
tác xã hội với nam giới GBL trong việc giảm thiểu BLGĐ.
(3)

Thực nghiệm mơ hình CLB nhóm nam giới tiên phong nhằm cung cấp

dịch vụ tuyên truyền giáo dục nâng cao nhận thức, thái độ và giảm thiểu hành vi
bạo lực cho nam giới GBL tại cộng đồng thông qua phương pháp CTXH nhóm.
(4) Đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của dịch vụ công tác

hội với nam giới trong việc giảm thiểu bạo lực gia đình.

3


3.

Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu và khách thể nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu:


Dịch vụ công tác xã hội với nam giới gây bạo lực nhằm giảm thiểu bạo lực
gia đình.
3.2 Phạm vi nghiên cứu
3.2.1 Phạm vi nội dung:
Luận án tập trung vào các dịch vụ công tác xã hội đối với nam giới trong
giảm thiểu bạo lực gia đình hướng tới 5 dịch vụ cơng tác xã hội sau: Truyền thông
vận động giáo dục nâng cao nhận thức; Hỗ trợ việc làm; Tư vấn pháp lý; Tham vấn
tâm lý cá nhân; Câu lạc bộ nam giới GBL.
3.2.2 Phạm vi khơng gian:
Tỉnh Quảng Ninh là địa phương có cả khu vực đất liền, miền núi và hải đảo.
Do đó tác giả lựa chọn ra 3 địa bàn nghiên cứu đại diện cho 3 vùng sinh thái này để
có sự đánh giá về tình hình BLGĐ cũng như dịch vụ CTXH đối với nam giới đó là:
Thành phố Hạ Long; Huyện Hoành Bồ; Huyện Vân Đồn. Đồng thời 3 địa bàn này
cũng có những đặc điểm khác nhau về các dịch vụ CTXH đối với nam giới gây bạo
lực gia đình, vì vậy việc lựa chọn sẽ giúp có một cái nhìn so sánh tốt hơn.
3.2.3 Phạm vi thời gian :
Thời gian tổng hợp nghiên cứu tài liệu từ năm 2016
Thời gian thu thập thơng tin định tính và định lượng từ tháng 2/2019 đến tháng
12/2020.
Việc thực nghiệm mơ hình câu lạc bộ nam giới thực hiện từ 8/2019 đến
10/2020.
3.3 Khách thể nghiên cứu:
Luận án nghiên cứu trên 4 nhóm khách thể trong đó khách thể chính là nam
giới gây ra bạo lực với vợ. Tiếp theo là nữ giới - nạn nhân chính của bạo lực gia
đình; nhân viên CTXH; cán bộ các tổ chức chính trị - xã hội ở địa bàn khảo sát bao
gồm ( Hội Phụ nữ, Đồn Thanh niên, Hội Cựu chiến binh, Hội Nơng dân); cán bộ
và lãnh đạo quản lý ngành văn hoá & LĐTBXH cấp xã đến cấp Tỉnh.
Câu hỏi và giả thuyết nghiên cứu
Câu hỏi nghiên cứu
1)


Thực trạng tiếp cận của nam giới GBL với các dịch vụ CTXH nhằm giảm

thiểu BLGĐ tại tỉnh Quảng Ninh?

4


2)

Thực trạng các dịch vụ CTXH với nam giới GBL trong việc giảm thiểu

BLGĐ tại tỉnh Quảng Ninh?
3)

Yếu tố nào ảnh hưởng nhiều đến chất lượng các dịch vụ CTXH với nam

giới GBL trong việc giảm thiểuBLGĐ?
4)

Ứng dụng CTXH nhóm trong mơ hình câu lạc bộ nam giới GBL tại địa

bàn nghiên cứu có tác động đến việc thay đổi nhận thức và hành vi của nam giới về
BLGĐ như thế nào?
Giả thuyết nghiên cứu
1)

Nam giới tiếp cận với các dịch vụ CTXH nhằm giảm thiểu BLGĐ còn hạn

chế với số lượng nam giới tham gia sử dụng dịch vụ ít.

2) Các dịch vụ CTXH với nam giới nhằm giảm thiểu BLGĐ tại tỉnh
Quảng
Ninh chưa đáp ứng được nhu cầu của nam giới sử dụng dịch vụ.
3)

Yếu tố thuộc về bản thân nam giới sử dụng dịch vụ có ảnh hưởng mạnh

nhất đến chất lượng các dịch vụ CTXH với nam giới nhằm giảm thiểu BLGĐ.
4)

Thực hiện mơ hình CLB nam giới tiên phong nhằm cung cấp dịch vụ

tuyên truyền giáo dục nâng cao nhận thức, thái độ và giảm thiểu hành vi bạo lực với
vợ cho nam giới GBL tại cộng đồng thơng qua phương pháp CTXH nhóm có tác
động tích cực trong việc thay đổi nhận thức và hành vi của nam giới GBL về
BLGĐ.
4. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên
cứu 4.1 Phương pháp luận
Để giải quyết những vấn đề đặt ra, luận án dựa trên phương pháp luận nghiên
cứu khoa học duy vật lịch sử của Chủ nghĩa Mác-Lê Nin, Tư tưởng Hồ Chí Minh và
của Đảng gắn với vấn đề dịch vụ CTXH với nam giới nhằm giảm thiểu BLGĐ. Luận án
lấy cơ sở là chủ nghĩa duy vật lịch sử để lý giải những kết quả nghiên cứu cũng như ứng
dụng các phương pháp hỗ trợ CTXH đối với nam giới gây bạo lực nhằm giảm thiểu

BLGĐ trong sự vận động và phát triển xã hội.
Các lý thuyết hệ thống, nhu cầu và thân chủ trọng tâm đã được vận dụng để
giải thích rõ hơn mối quan hệ giữa các yếu tố văn hóa - xã hội đối với hành vi bạo
lực gia đình cũng như ảnh hưởng của các điều kiện dịch vụ công tác xã hội đối với
việc thay đổi nhận thức và hành vi của nam giới GBL .


5


4.2 Phương pháp nghiên cứu
4.2.1 Phương pháp nghiên cứu văn bản, tài liệu
4.2.1.1 Mục đích
Nhằm xây dựng khái niệm cơng cụ nghiên cứu của đề tài và làm rõ một số
khái niệm liên quan đến nghiên cứu cũng như những nội dung hoạt động của 5 dịch
vụ CTXH với nam giới gây bạo lực.
4.2.1.2 Cách thức tiến hành
Phân tích thơng tin, số liệu từ các báo cáo, ấn phẩm, tài liệu liên quan đến
lĩnh vực bạo lực gia đình và các biện pháp phịng ngừa giảm thiểu BLGĐ dưới góc
độ dịch vụ CTXH. Ưu tiên các tài liệu sách chuyên khảo, các đề tài khoa học, các
bài báo khoa học, các luận án, luận văn đã được công bố, các báo cáo của địa
phương và những thông tin trên các trang web. Ngoài ra, để tăng thêm tài liệu,
nghiên cứu đã lựa chọn tìm kiếm nâng cao trên Google scholar, không giới hạn về
thời gian xuất bản và tác giả. Sau q trình tổng hợp có gần 100 tài liệu, nghiên cứu
được sàng lọc và đáp ứng tiêu chí.
4.2.2 Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi
4.2.2.1 Mục đích
Đánh giá thực trạng hành vi bạo lực của nam giới với vợ theo 4 nhóm hình
thức bạo lực; Hiểu biết về các loại hình dịch vụ CTXH với nam giới nhằm giảm
thiểu BLGĐ; Nhu cầu sử dụng các dịch vụ CTXH hỗ trợ cho nam giới nhằm giảm
thiểu BLGĐ; Vai trò của các dịch vụ CTXH với nam giới nhằm giảm thiểu BLGĐ
tại tỉnh Quảng Ninh; Các yếu tố ảnh hưởng đến khả năng tiếp cận của nam giới với
các dịch vụ CTXH nhằm giảm thiểu BLGĐ.
4.2.2.2 Cách thức tiến hành
Chọn mẫu nghiên cứu
NCS sử dụng phương thức chọn mẫu ngẫu nhiên, dựa vào công thức chọn
mẫu Slovin. Theo số liệu cung cấp trong Báo cáo Hội nghị tổng kết 10 năm ( 2008 –

2018) thi hành luật phòng, chống bạo lực gia đình của UBND tỉnh Quảng Ninh,
tổng số nam giới gây bạo lực là 1200 người ( số liệu thống kê từ năm 2012 – 2018).
Tác giả sử dụng công thức Slovin để tiến hành xác định số mẫu tối thiểu cho nghiên
cứu như sau :

6


n=
Trong đó : N = tổng số nam giới gây bạo lực tại tỉnh Quảng Ninh
n = tổng số mẫu cần tiến hành khảo sát tại tỉnh Quảng Ninh
e = mức sai số cho phép, nghiên cứu này sử dụng mức sai số là 5%.

Như vậy, số mẫu tối thiểu cần để tiến hành khảo sát ở tỉnh Quảng Ninh là:
n=

=

= 300

Với số mẫu tối thiểu cần 300 nam giới GBL tham gia khảo sát, tác giả đã lựa
chọn 3 khu vực khác nhau thể hiện đặc trưng cho 3 đặc điểm địa hình của Tỉnh
Quảng Ninh và phát 300 phiếu phỏng vấn.
Cách phát phiếu:
Để thực hiện phát phiếu điều tra khảo sát này NCS đã làm việc với Phịng
Bình đẳng giới thuộc Sở LĐTBXH tỉnh Quảng Ninh nắm được lịch sinh hoạt một
số buổi hoạt động truyền thông nâng cao nhận thức cho các nhóm nam giới gây bạo
lực tại 3 địa bàn bao gồm thành phố Hạ Long, huyện Hải Hà, huyện Vân Đồn thuộc
tỉnh Quảng Ninh. Sau quá trình đề đạt nguyện vọng NCS đã được tiến hành phát
phiếu hỏi cho nam giới gây bạo lực lồng ghép trong các buổi truyền thơng của

phịng Bình đẳng giới đó. Trong mỗi buổi truyền thơng trên số lượng nam giới GBL
được huy động để có mặt đều trên 70 người tại mỗi địa bàn, số lượng còn thiếu do
người tham gia không đi đủ NCS trực tiếp đi phát phiếu tại cộng đồng dựa trên danh
sách ban tổ chức cung cấp. Do đó số lượng phiếu hỏi NCS phát ra và thu về đã đảm
bảo đủ 300 phiếu.
Như vậy, các kết quả phân tích ở những phần tiếp theo gắn với thông tin từ
300 nam giới gây BLGĐ, điều đó có thể tạo nên những khác biệt về tỷ lệ các hành
vi bạo lực cũng như hiểu biết, nhu cầu của họ về các dịch vụ công tác xã hội đối với
việc giảm thiểu hành vi BLGĐ so với nhóm nam giới nói chung cũng như với tồn
bộ số nam giới đã gây bạo lực. Tuy nhiên, để thuận tiện cho việc trình bày, trong các
phần cịn lại của luận án sẽ sử dụng thuật ngữ nam giới thay cho nam giới gây bạo
lực trong một số trường hợp.
Nội dung phiếu hỏi :
Phiếu dành cho nam giới gây bạo lực bao gồm 15 câu hỏi ( trình bày ở phụ
lục 1) với các mức độ đánh giá khác nhau để đánh giá thực trạng về tình hình bạo

7


lực gia đình, hiểu biết, nhu cầu và khả năng tiếp cận của nam giới với các dịch vụ
CTXH nhằm giảm thiểu BLGĐ:
1)
2)

Về thông tin cá nhân

Thực trạng hành vi bạo lực của nam giới với vợ được nhóm thành 4 hình

thức bạo lực ( Thể chất, tinh thần, tình dục và kinh tế ) ( Câu 1 )
3) Hiểu biết về các loại hình dịch vụ CTXH với nam giới nhằm giảm

thiểu
BLGĐ ( Câu 2).
4) Nhu cầu sử dụng các dịch vụ CTXH hỗ trợ cho nam giới nhằm giảm
thiểu
BLGĐ ( Câu 3).
Đánh giá về nhu cầu của nam giới tham gia CLB nam giới nhằm giảm thiểu
BLGĐ ( Câu 13)
5)

Thực trạng dịch vụ CTXH với nam giới nhằm giảm thiểu BLGĐ tại Tỉnh

Quảng Ninh ( Câu 4,6,8,9,10,11,12) bao gồm :
Đánh giá về mức độ đáp ứng của các dịch vụ CTXH với nam giới nhằm
giảm thiểu BLGĐ ( câu 4).
Đánh giá chung về các dịch vụ CTXH với nam giới nhằm giảm thiểu BLGĐ
(câu 6).
Đánh giá thực trạng của từng dịch vụ cụ thể : (truyền thông vận động giáo
dục nâng cao nhận thức; Hỗ trợ việc làm; Tư vấn pháp lý; Hỗ trợ tâm lý cá nhân;
Câu lạc bộ nam giới gây bạo lực) ( Câu 8,9,10,11,12)
6)

Nguyên nhân & thực trạng các yếu tố ảnh hưởng đến khả năng tiếp cận

của nam giới với các dịch vụ CTXH nhằm giảm thiểu BLGĐ ( Câu 7,14,15)
Nguyên nhân các dịch vụ CTXH nhằm giảm thiểu BLGĐ chưa đáp ứng được
các nhu cầu của nam giới gây bạo lực ( câu 7 ).
Thực trạng các yếu tố ảnh hưởng đến khả năng tiếp cận của nam giới với các
dịch vụ CTXH nhằm giảm thiểu BLGĐ ( Câu 14,15)
4.2.3 Phương pháp phỏng vấn
sâu 4.2.3.1 Mục đích

Nhằm thu thập, tìm hiểu những thơng tin mang tính chun sâu phục vụ cho
việc lý giải nguyên nhân, thực trạng của tình hình BLGĐ hiện nay ở địa phương;
Đánh giá cụ thể, đầy đủ về việc triển khai và hoạt động của các dịch vụ CTXH với
nam giới nhằm giảm thiểu BLGĐ của địa phương; Tìm hiểu mong muốn nhu cầu và

8


khả năng tiếp cận của nam giới với các dịch vụ CTXH; Tìm hiểu các giải pháp nâng
cao hiệu quả hoạt động của các dịch vụ CTXH với nam giới nhằm giảm thiểu
BLGĐ.
Nhằm lượng giá kết quả của tiến trình sinh hoạt mơ hình thực nghiệm CLB
nhóm nam giới GBL nhằm giảm thiểu BLGĐ sau khi kết thúc.
4.2.3.2 Cách thức tiến hành
Đối tượng tham gia phỏng vấn phục vụ cho việc khảo sát bao gồm 23 người
tương ứng với các phiếu số :
+

Phụ lục 2 : 9 người là nam giới (người đã từng có hành vi BLGĐ) chia đều

cho 3 địa bàn khảo sát
+

Phụ lục 3 : 6 người là nữ giới (nạn nhân của các vụ BLGĐ) chia đều cho 3

địa bàn khảo sát
+

Phụ lục 4 : 3 cán bộ Hội Phụ nữ; 3 nhân viên CTXH; 3 lãnh đạo phụ trách


Phịng văn hố hoặc Phịng LĐTBXH của địa bàn khảo sát; 1 lãnh đạo Sở
LĐTBXH Tỉnh; 1 lãnh đạo Trung tâm CTXH tỉnh.
+

Phụ lục 5: 3 thành viên tham gia CLB nam giới

+

Phụ lục 6: 3 vợ thành viên tham gia CLB nam giới

Nghiên cứu thiết kế 05 mẫu phỏng vấn.
- Nội dung phỏng vấn :
1)

Tìm hiểu các nguyên nhân chính nam giới bạo lực với vợ

2)
Đánh giá thực trạng tình hình bạo lực gia đình hiện nay tại địa
phương
3)
lực

Cơng tác hỗ trợ của chính quyền và các cơ quan liên quan khi có bạo

xảy ra
4)

Đánh giá hiệu quả hoạt động của các dịch vụ CTXH với nam giới nhằm

giảm thiểu BLGĐ

5)

Những thuận lợi khó khăn của nam giới khi tiếp cận với các dịch vụ

CTXH nhằm giảm thiểu BLGĐ
6)

Những thuận lợi khó khăn của cơ quan quản lý và cán bộ phụ trách liên

quan khi triển khai các dịch vụ CTXH với nam giới nhằm giảm thiểu BLGĐ
7)

Giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của các dịch vụ CTXH với

nam giới nhằm giảm thiểu BLGĐ

9


8)

Đánh giá sự thay đổi về nhận thức, thái độ và hành vi của thành viên tham

gia CLB nam giới sau khi kết thúc quá trình sinh hoạt.
9)

Đánh giá những thuận lợi và khó khăn của thành viên tham gia CLB nam

giới trong quá trình sinh hoạt và sau khi kết thúc quá trình sinh hoạt.
10)


Giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động mơ hình sinh hoạt CLB

nam giới này.
4.2.4 Phương pháp xử lý số liệu bằng thống kê tốn học
4.2.4.1 Mục đích
Nhằm quản lý, nhập liệu thơng tin thu thập được trong phiếu khảo sát. Sau
đó để xử lý, phân tích, đánh giá định lượng và định tính các kết quả nghiên cứu.
4.2.4.2 Cách thức tiến hành
Nghiên cứu viên sử dụng phần mềm thống kê sinh học Epidata 3.1 để quản
lý, nhập liệu thông tin định lượng thu thập được (sau khi triển khai hoạt động khảo
sát). Ngoài ra, để xử lý, phân tích, đánh giá định lượng các kết quả nghiên cứu, đảm
bảo độ tin cậy và tính khách quan trong sai số cho phép, phần mềm được dùng là
SPSS 22.0. Các thơng số và phép tốn thống kê được sử dụng trong nghiên cứu này
chủ yếu là phân tích thống kê mơ tả. Các chỉ số được dùng trong phân tích thống kê
mơ tả gồm:
-

Điểm trung bình cộng được dùng để tính điểm đạt được của câu hỏi/

phương án trả lời.
-

Tần suất và chỉ số phần trăm phương án trả lời câu hỏi đóng.

4.2.5 Phương pháp thảo luận nhóm
4.2.5.1 Mục đích
Nhằm tạo được khơng gian thảo luận giữa các nhóm đối tượng mà ở đó người
phỏng vấn đưa ra vấn đề và thu thập những ý kiến khác nhau thông qua sự tương tác
của những người trong nhóm. Từ đó tìm hiểu sâu được về ngun nhân hậu quả của

BLGĐ hiện nay; Đánh giá khả năng tiếp cận, nhu cầu của nam giới khi sử dụng các
dịch vụ CTXH với nam giới gây ra bạo lực nhằm giảm thiểu BLGĐ; Đánh giá được
hiệu quả hoạt động các dịch vụ CTXH với nam giới trong thời gian qua; Đề xuất
các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng hiệu quả hoạt động của các dịch vụ CTXH
với nam giới trong việc giảm thiểu BLGĐ.

10


4.2.5.2 Cách thức tiến hành
Đối tượng thảo luận nhóm gồm 2 nhóm được NCS sắp xếp bố trí khơng gian,
địa điểm, thời gian, các điều kiện ghi âm ghi hình đầy đủ :
Nhóm nam giới gây bạo lực gồm 3 người tham gia thảo luận tổ chức tại 3 địa
bàn thành phố Hạ Long, huyện Vân Đồn, huyện Hải Hà với tổng cộng 9 người.
Nhóm cán bộ văn hố xã hội, hội phụ nữ, hội nông dân, công an cấp xã
( phường) gồm 3 người tham gia thảo luận tổ chức tại 3 địa bàn thành phố Hạ Long,
huyện Vân Đồn, huyện Hải Hà với tổng cộng 9 người.
4.2.6 Phương pháp quan sát
4.2.6.1 Mục đích
Đánh giá được thái độ của nam giới tham gia khảo sát phiếu hỏi và phỏng vấn
sâu từ đó có sự so sánh đối chiếu với các kết quả thu được; Đánh giá được kỹ năng
của nhóm viên và đặc điểm tương tác nhóm, bầu khơng khí nhóm từ đó có những
biện pháp hỗ trợ thích hợp và cung cấp dữ liệu để xây dựng kế hoạch sinh hoạt
nhóm phù hợp hơn. Đây cũng là phương pháp giúp nhà nghiên cứu lượng giá lại
mục tiêu hoạt động đã đề ra, cũng như sự tiến bộ của các nhóm viên.
4.2.6.2 Cách thức tiến hành
Phương pháp này được sử dụng trong suốt q trình nghiên cứu, thơng qua
việc quan sát những hành động, hành vi ứng xử và thái độ của nam giới khi trả lời
phiếu hỏi, trả lời phỏng vấn sâu và trong buổi thảo luận nhóm. Khi tham gia sinh
hoạt CLB của thành viên, phương pháp này giúp người tổ chức có thể đánh giá

được kỹ năng của nhóm viên và đặc điểm tương tác nhóm, bầu khơng khí nhóm từ
đó có những biện pháp hỗ trợ thích hợp, cung cấp dữ liệu để xây dựng kế hoạch
sinh hoạt nhóm phù hợp hơn. Đây cũng là phương pháp giúp nhà nghiên cứu lượng
giá lại mục tiêu hoạt động đã đề ra, cũng như sự tiến bộ của các nhóm viên.
4.2.7 Phương pháp CTXH nhóm ứng dụng trong hoạt động CLB
4.2.7.1 Mục đích
Nhằm xây dựng một CLB nam giới gây bạo lực nhằm giảm thiểu BLGĐ hoạt
động chuyên nghiệp và bài bản mang màu sắc của CTXH. Qua đó đánh giá kết quả
của q trình hoạt động của CLB thông qua các buổi sinh hoạt, bao gồm đánh giá sự
giảm thiểu các hành vi GBL của thành viên, sự thay đổi tích cực về nhận thức, thái
độ và hành vi với vấn đề BLGĐ của các thành viên là nam giới GBL. Sau

11


thời gian thực nghiệm, tiến hành so sánh kết quả trước và sau thực nghiệm để thấy
rõ việc kết quả đạt được.
4.2.7.2 Cách thức thực hiện
Dưới hình thức của mơ hình sinh hoạt CLB, tác giả ứng dụng phương pháp
CTXH nhóm bao gồm tiến trình hoạt động lần lượt 4 giai đoạn đảm bảo đầy đủ nội
dung và nguyên tắc hoạt động của nhóm. Thực nghiệm phương pháp CTXH Nhóm
được tiến hành trên nhóm với 15 thành viên là nam giới GBL được tuyển chọn tại
xã Quảng Thành huyện Hải Hà trong thời gian 14 buổi sinh hoạt từ tháng 8/2019
đến tháng 10/2020. Sau thời gian thực nghiệm so sánh kết quả trước và sau thực
nghiệm để thấy rõ kết quả đạt được.
5. Đóng góp mới về khoa học của luận án
Trong bối cảnh đánh giá về dịch vụ CTXH với nam giới trong việc giảm thiểu
BLGĐ là vấn đề nghiên cứu còn nhiều mới mẻ ở Việt Nam, luận án đã thực hiện
tổng quan các cơng trình nghiên cứu trong và ngồi nước về tình hình nghiên cứu,
phân tích, hệ thống những đóng góp của các nghiên cứu đã có và chỉ ra khoảng

trống cần khắc phục, từ đó khái quát một số vấn đề lý luận liên quan về dịch vụ
CTXHđối với nam giới trong việc giảm thiểu BLGĐ. Nghiên cứu phần nào phản
ánh thực trạng và hiệu quả của các dịch vụ CTXH với nam giới trong việc giảm
thiểu BLGĐ hiện nay. Khả năng tiếp cận cũng như đánh giá của nam giới GBL với
các dịch vụ CTXH nhằm giảm thiểu BLGĐ còn rất hạn chế. Điều này đặt ra yêu cầu
về việc cần thay đổi nội dung và cách thức hoạt động để nâng cao hiệu quả của các
dịch vụ CTXH với nam giới nhằm giảm thiểu BLGĐ. Tuy nhiên với những nam
giới đã từng sử dụng các loại hình dịch vụ đều có đánh giá tốt về hiệu quả của dịch
vụ mang lại cho họ. Do đó thấy được nếu triển khai được nhiều đối tượng nam giới
GBL tham gia và sử dụng các dịch vụ này thì tình trạng BLGĐ sẽ giảm.
Dựa vào kết qủa thăm dò nhu cầu tham gia của nam giới với dịch vụ công tác
xã hội tại tỉnh Quảng Ninh và kết quả tích cực của các mơ hình câu lạc bộ nam giới
gây bạo lực đã và đang áp dụng trên thế giới nói chung và một số địa phương ở Việt
Nam nói riêng, tác giả đã ứng dụng CTXH nhóm trong mơ hình CLB nam giới GBL
nhằm giảm thiểu BLGĐ. Ứng dụng thực nghiệm CLB nam giới tiên phong tại xã
Quảng Thành - huyện Hải Hà thu được những kết quả tích cực và có hiệu quả. Luận
án cung cấp tài liệu tham khảo về CTXH trong bối cảnh đây là một ngành,

12


nghề cịn non trẻ ở Việt Nam, đồng thời đó cũng là sự chung tay hướng đến xây
dựng cộng đồng an tồn, nam giới nói khơng với bạo lực phụ nữ.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
6.1 Ý nghĩa lý luận
Hệ thống hoá các khái niệm về nam giới gây bạo lực gia đình, đặc điểm tâm
lý của nam giới gây BLGĐ cũng như những khó khăn và nhu cầu của nam giới gây
BLGĐ.
Hệ thống hoá những vấn đề lý luận về dịch vụ công tác xã hội đối với nam
giới trong việc giảm thiểu BLGĐ trong đó tiếp cận các khái niệm về CTXH với

BLGĐ, dịch vụ CTXH với nam giới gây BLGĐ và các dịch vụ CTXH với nam giới
trong việc giảm thiểu BLGĐ hiện nay.
Khái qt hố về lý luận, phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến khả năng tiếp
cận của nam giới GBL và chất lượng của các dịch vụ CTXH với nam giới nhằm
giảm thiểu BLGĐ.
Việc áp dụng các kỹ thuật thống kê phân tích tương quan đã giúp chỉ ra được
mối liên quan giữa các đặc điểm của nam giới với việc hình thành những hành vi
bạo lực của họ với vợ cũng như mức độ hiểu biết của nam giới GBL với các dịch vụ
CTXH nhằm giảm thiểu BLGĐ. Ngồi ra cịn chỉ ra được mối tương quan về chất
lượng đáp ứng các dịch vụ CTXH với nam giới ở từng khu vực sinh sống với tỷ lệ
BLGĐ của nam giới.
Thực nghiệm mơ hình CLB nhóm nam giới tiên phong thơng qua phương
pháp nhóm nhằm cung cấp dịch vụ giáo dục nâng cao nhận thức, thái độ và giảm
thiểu hành vi bạo lực với vợ cho nam giới GBL tại cộng đồng một cách đồng bộ, hệ
thống, khoa học và phù hợp với nhu cầu của nam giới GBL.
6.2 Ý nghĩa thực tiễn
Nghiên cứu đã phản ánh thực trạng nam giới gây BLGĐ tại tỉnh Quảng Ninh
là tài liệu tham khảo tốt cho ban lãnh đạo chỉ đạo công tác PCBLGĐ tại địa phương.
Luận án đã đánh giá thực trạng các dịch vụ CTXH với nam giới trong việc giảm
thiểu BLGĐ và các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng dịch vụ CTXH đối với nam giới
trong việc giảm thiểu BLGĐ tại địa bàn nghiên cứu. Từ đó rút ra được những mặt tích
cực, hạn chế cũng như những việc đã làm được và chưa làm được của từng dịch vụ
CTXH với nam giới trong việc giảm thiểu BLGĐ hiện nay. Trên cơ sở đó luận án đã

13


đề xuất được các giải pháp nhằm nâng cao khả năng tiếp cận của nam giới GBL với
các dịch vụ CTXH cũng như chất lượng của các dịch vụ CTXH với nam giới trong
việc giảm thiểu BLGĐ.

Luận án cũng đã ứng dụng phương pháp CTXH nhóm trong việc xây dựng
thành cơng mơ hình CLB nam giới tiên phong tại cộng đồng nhằm cung cấp dịch vụ
giáo dục nâng cao nhận thức, thái độ và giảm thiểu hành vi bạo lực với vợ cho nam giới
GBL tại cộng đồng. Đây là cơ sở để nhân rộng mơ hình CLB nam giới tiên phong

ở các địa bàn khác thuộc tỉnh Quảng Ninh nói riêng và cả nước nói chung nhằm
giảm thiểu BLGĐ.
Luận án là tài liệu tham khảo tốt cho các nhà nghiên cứu, các nhà hoạch định
và thực thi chính sách liên quan đến vấn đề dịch vụ CTXH đối với nam giới trong
việc giảm thiểu BLGĐ.
7. Kết cấu luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, cấu trúc
luận án được gồm 4 chương sau:
Chương 1 : Tổng quan tình hình nghiên cứu
Chương 2 : Những vấn đề lý luận về dịch vụ công tác xã hội với nam
giới gây bạo lực trong việc giảm thiểu bạo lực gia đình
Chương 3 : Thực trạng dịch vụ công tác xã hội với nam giới gây bạo lực
trong việc giảm thiểu bạo lực gia đình tại Tỉnh Quảng Ninh
Chương 4: Thực nghiệm mơ hình câu lạc bộ nam giới tiên và giải pháp nâng
cao chất lượng dịch vụ công tác xã hội với nam giới gây bạo lực

14


Chƣơng 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
Để góp phần tổng quan các nghiên cứu liên quan đến dịch vụ công tác xã hội
với nam giới gây bạo lực trong việc giảm thiểu bạo lực gia đình một cách hệ thống và
tồn diện, luận án đã tiến hành phân tích và tổng hợp kết quả của các nghiên cứu đã có,
đồng thời tiếp tục làm rõ những nhiệm vụ đặt ra về lý luận và thực tiễn trong nghiên

cứu liên quan đến dịch vụ CTXH với nam giới GBL. Tổng quan tài liệu cung cấp một
cái nhìn phổ quát vấn đề nghiên cứu, từ mức độ phổ biến và nguyên nhân gây ra BLGĐ
cho đến các dịch vụ CTXH đối với nạn nhân của BLGĐ và đặc biệt là các dịch vụ
CTXH với nam giới – người gây ra bạo lực chính nhằm giảm thiểu BLGĐ.

Dữ liệu được tìm kiếm trên các nguồn báo cáo, ấn phẩm, tài liệu liên quan
đến lĩnh vực bạo lực gia đình và các biện pháp phịng ngừa giảm thiểu bạo lực gia
đình dưới góc độ dịch vụ CTXH. Ưu tiên các tài liệu sách chuyên khảo, các đề tài
khoa học, các bài báo khoa học, các luận án, luận văn đã được công bố, các báo cáo
của địa phương mô tả đầy đủ các chỉ số của công cụ nghiên cứu như độ tin cậy, độ
hiệu lực, số lượng mẫu đủ đại diện và những thông tin trên các trang wed được cập
nhật liên tục. Từ khóa tìm kiếm bao gồm “bạo lực gia đình‖, ―cơng tác xã hội với
bạo lực gia đình”, “ dịch vụ công tác xã hội với nam giới gây bạo lực‖. Ngoài ra, để
tăng thêm tài liệu, nghiên cứu đã lựa chọn tìm kiếm nâng cao trên Google scholar
cũng khơng giới hạn về thời gian xuất bản và tác giả. Sau quá tổng hợp có gần 100
tài liệu, nghiên cứu được sàng lọc và đáp ứng tiêu chí. Các kết quả chính đạt được:
1.1 Tổng quan nghiên cứu ở nƣớc ngoài
1.1.1 Thực trạng và các nguyên nhân gây ra bạo lực gia đình
1.1.1.1 Thực trạng bạo lực gia đình
Bạo lực gia đình đối với phụ nữ trong gia đình khơng phải là vấn đề mới mẻ
mà là hiện tượng có tính lịch sử tương đối phổ biến trên thế giới. Điều đó đã và
đang xảy ra ở mọi dân tộc, quốc gia và trong các gia đình thuộc mọi tầng lớp xã hội
khác nhau. Trong quá khứ và thậm chí hiện đang ở một số quốc gia trên thế giới,
hành vi đánh đập, mắng chửi và trừng phạt hà khắc về tinh thần hay thể xác đối với
người phụ nữ trong gia đình như một cách thể hiện uy quyền của người đàn ơng
trong gia đình. BLGĐ với phụ nữ đều gây thiệt hại cho quốc gia về mọi mặt như gia

15



tăng các chi phí về mặt kinh tế, chăm sóc sức khoẻ và xã hội, từ đó làm giảm năng
suất lao động và hiệu quả kinh tế: BLGĐ tại Canada gây thiệt hại ước tính khoảng
1.6 tỷ đơ la hàng năm trong khi tại Mỹ, con số này lên tới 67 tỷ đô la; tại New
Zealand, thiệt hại gây ra do BLGĐ vào năm 1993 ước tính khoảng 1.2 tỷ đô la cao
hơn cả lợi nhuận từ việc xuất khẩu lông cừu của nước này ( UNESCO
Bangkok,2004 ) [72].
Ngay ở những nước được coi là phát triển văn minh ở Châu Âu, Châu Mỹ
vẫn có khơng ít người phải chịu đựng vấn nạn này. Có nhiều số liệu đáng ngạc
nhiên liên quan đến bạo lực gia đình, chẳng hạn, khảo sát bởi nhóm tác giả
Wodarski & Thyer (1998) cho thấy có khoảng 95% nạn nhân của bạo lực gia đình là
phụ nữ, có từ 3 đến 4 triệu phụ nữ Mỹ bị bạo lực mỗi năm bởi chồng và bạn tình, và
khoảng 4/10 phụ nữ có khả năng bị một đối tác lạm dụng trong đời [70]. Những con
số này chuyển đổi thành chi phí tài chính cho các doanh nghiệp Mỹ ở mức 3 tỷ đến
4 tỷ đô la một năm do mất thời gian, chi phí y tế tăng, doanh thu cao hơn và năng
suất thấp (Glazer, 1993; Ủy ban Tư pháp Thượng viện Hoa Kỳ, 1992) [68]. Trong
Khảo sát Bạo hành Gia đình Quốc gia (Gelles & Straus, 1988; Straus & Gelles,
1986), một số loại bạo lực vợ chồng đã được tìm thấy ở 16% số gia đình trong năm
trước cuộc khảo sát và 28% các cặp vợ chồng đã báo cáo hôn nhân bạo lực tại một
số điểm trong cuộc hôn nhân của họ [64]. Gelles và Straus (1990) ước tính tỷ lệ
hàng năm của vụ tấn công thể chất trên vợ / chồng là 161 nạn nhân trên 1.000 cặp
vợ chồng trong nghiên cứu của họ là 5.349 cặp vợ chồng. Tỷ lệ vợ bị đánh đập,
được định nghĩa là một hoặc nhiều hành vi bạo lực gây nguy cơ nghiêm trọng dẫn
tới chấn thương là 34 nạn nhân trên 1.000 cặp vợ chồng hoặc một ước tính khoảng
1,8 triệu người vợ bị thiệt hại nghiêm trọng mỗi năm ở Hoa Kỳ [65].
Dựa trên tổng kết tư liệu của các nước trên thế giới cho thấy trong suốt cả
cuộc đời, người phụ nữ ln có nguy cơ bị các dạng bạo lực khác nhau ( như bạo
lực gia đình, hiếp dâm, bị quấy rối tình dục, ép buộc vào con đường mại dâm…)
trong đó nhiều nhất và phổ biến nhất là bị BLGĐ do chồng/ bạn tình gây ra [56].
Điều tra của 48 nước trên thế giới, đã có khoảng 10 đến 69% phụ nữ trong mẫu điều
tra báo cáo họ đã từng bị bạo lực về thân thể do chồng/bạn tình gây ra [69].

Nghiên cứu đa quốc gia về sức khoẻ phụ nữ và BLGĐ đối với phụ nữ do Tổ
chức Y tế thế giới tiến hành tại 10 nước trên mẫu 24.000 phụ nữ từ 15 tuổi trở lên

16


cho thấy có khoảng từ 15 đến 71 phụ nữ cho biết đã từng bị ít nhất một trong các
dạng bạo lực về thể chất hoặc tình dục do chồng gây ra. Cùng với đó nghiên cứu đã
phát hiện được rằng mức độ phổ biến của các trường hợp phụ nữ từng bị bạo lực
thân thể ở một thời điểm nào đó trong cuộc đời của họ chiếm từ 13 ở Nhật (số liệu
thống kê của các thành phố) đến 61 ở Pêru (số liệu thống kê của các tỉnh). Cũng
khảo sát trên cho thấy tại Thái Lan, 23 số phụ nữ từng có bạn tình ở Bangkok (số
liệu thống kê của thành phố) đã báo cáo về việc họ có lúc đã bị bạn tình bạo hành về
thân thể, còn ở Nakhonsavan, tỷ lệ này là 34 (số liệu thống kê của tỉnh). Tại
Campuchia, cho thấy có 22 số phụ nữ từng kết hôn đã bị chồng họ hành hạ về thân
thể, về tinh thần và/hoặc về tình dục. Mẫu đại diện toàn quốc về phụ nữ và nam giới
ở Trung Quốc trong độ tuổi từ 20 đến 64, có vợ hoặc chồng hay có bạn tình thường
xun, cũng cho thấy có 34 phụ nữ trong số này đã từng bị chồng hoặc bạn tình
đánh đập [87].
Năm 2020 chứng kiến trẻ em và phụ nữ là đối tượng bị chịu ảnh hưởng nhiều
nhất trong bối cảnh đại dịch Covit 19. Nhiều người phải đối mặt với bạo lực và mơi
trường sống khơng an tồn. Tỷ lệ bạo lực gia đình tăng từ 30 đến 300 ở khắp mọi
nơi trên thế giới, trong đó trẻ em và phụ nữ vừa là người chứng kiến vừa là nạn
nhân. Giống như nhiều quốc gia khác, bạo lực gia đình tại Nhật Bản gia tăng trong
giai đoạn phong tỏa, cách ly tại nhà. Tại Trung Quốc, số vụ bạo lực gia đình được
trình báo ở một đồn cảnh sát tại thành phố Kinh Châu, tỉnh Hồ Bắc tăng gấp 3 lần
vào tháng 2/2020 so cùng kỳ năm trước. Uỷ ban phụ nữ quốc gia Ấn Độ cho biết
trong tuần đầu tiên hạn chế đi lại, nước này đã ghi nhận số vụ bạo lực gia đình tăng
gấp đơi. Pháp cũng ghi nhận trường hợp gần tương tự với tỷ lệ tăng 30 tuần đầu
phong toả. Ở Sydney (Úc), số vụ bạo lực tăng hơn 30 trong những tháng vừa qua so

với cùng kỳ năm 2019 và số lượng tìm kiếm trên mạng internet liên quan đến nội
dung hỗ trợ nạn nhân bạo lực gia đình tăng đến 75 . Bạo lực gia đình gia tăng ở
Singapore trong thời gian giãn cách xã hội. Số liệu tại các nước châu Âu bị ảnh
hưởng do đại dịch cũng tương tự như vậy [94].
Tóm lại, những nghiên cứu đánh giá thực trạng về mức độ phổ biến của
BLGD đối với phụ nữ được thực hiện ở hầu khắp các quốc gia trên thế giới cho thấy
tính phức tạp, đa dạng của các hình thức BLGĐ. Sự ảnh hưởng nghiêm trọng của nó
khơng chỉ đối với riêng nạn nhân của BLGĐ mà cịn là gia đình, cộng đồng và toàn

17


xã hội đến sự phát triển kinh tế chung của đất nước. Từ đó đã chỉ ra sự cần thiết
phải đấu tranh nhằm ngăn chặn và giảm thiểu tình trạng BLGĐ.
1.1.1.2 Nguyên nhân gây ra bạo lực gia đình
Pryke và Thomas (1998) đã phân tích các nguyên nhân gây ra bạo lực gia
đình của nam giới: Những người đàn ơng bạo lực cho rằng người phụ nữ là tài sản
của họ và mối quan hệ gia đình là một vấn đề riêng tư, điều này nhấn mạnh sự hợp
lý hóa rằng đàn ơng có thể làm những gì họ sẽ làm. Đưa ra lỗi cho người phụ nữ
cũng là một cách mà người đàn ơng thường làm. Việc khơng có bữa ăn đã sẵn sàng,
khơng có khả năng giữ trẻ n lặng, khơng đảm bảo đáp ứng tình dục thường xuyên
là nguyên nhân chính đáng để trừng phạt họ. Điều này cho thấy những mong đợi
của người đàn ông về vai trị của người phụ nữ trong gia đình. Ngồi ra, khó khăn
trong cơng việc, thất nghiệp, nợ nần hoặc một số thất vọng cá nhân cũng là những lý
do phổ biến cho việc bạo lực. Lạm dụng rượu được đề cập bởi nhiều người đàn ông
như là một lời giải thích, tồn bộ hoặc một phần, cho một hành động quá mức hoặc
bất thường của họ [71].
Những nghiên cứu của các nhà nữ quyền Bhanot và Senn ( 2007) ; Dobash
và Dobash ( 1979) ; Zosky (1999) cho rằng BLGĐ bắt nguồn từ sự phân bổ không
công bằng về quyền lực giữa hai giới trong xã hội tồn tại hệ tư tưởng nam trị. Nam

giới được coi có nhiều quyền tiếp cận với các nguồn lực và có quyền ra quyết định
nhiều hơn nữ trong khi phụ nữ bị coi là công dân tầng lớp thứ hai và sống phụ thuộc
vào nam giới. Nam giới sử dụng bạo lực gia đình như một cơ chế để duy trì quyền
lực, sự kiểm soát và đặc quyền trong xã hội [58], [60], [88].
Lý thuyết về Bánh xe quyền lực và sự kiểm soát ( the power and control
wheel) được phát triển từ mơ hình can thiệp chống BLGĐ ở Duluth, Minnesota,Mỹ
cũng nhấn mạnh đến việc nam giới là những người chồng dùng quyền lực như là
một phương tiện để kiểm soát phụ nữ. Bánh xe quyền lực và sự kiểm soát mô tả mối
quan hệ giữa bạo lực thể xác và bạo lực tình dục với các hành vi như đe doạ, ép
buộc, dụ dỗ của người chồng đối với vợ. Các hành vi bạo lực chính là phương tiện
để người chồng thực hiện và duy trì quyền lực và sự kiểm sốt đối với người vợ,
trong khi đó những yếu tố như say rượu hay ma tuý chỉ thúc đẩy hành vi bạo lực
được thực hiện nhanh hơn chứ không phải là nguyên nhân của bạo lực. Chính quan
điểm này của người chồng mới là nhân tố quyết định dẫn đến hành vi bạo lực chứ

18


không phải thái độ của người vợ là nguyên nhân vì đơi khi người vợ bị đổ lỗi cho
việc họ trở thành nạn nhân và nhiều người cho rằng người vợ tự đẩy mình vào nguy
cơ bị bạo hành [36].
Bạo lực gia đình khơng xảy ra ngẫu nhiên mà cũng khơng phải bất biến, nó
xảy ra theo những chu kỳ có thể được lặp đi lặp lại nhiều lần. Điều này được
Lenora Walker (1979) đã phân tích dựa trên kết quả nghiên cứu các nạn nhân của
bạo lực đã đưa ra kết luận rằng, bạo lực được hình thành và phát triển theo một chu
kỳ. Chu kỳ này bao gồm ba giai đoạn chính : Giai đoạn 1 hình thành sự căng thẳng (
tension bulding phase) ; Giai đoạn 2 sự ngược đãi đánh đập nghiêm trọng xảy ra
(acute battering episode) ; Giai đoạn 3 trăng mật ( the honeymoon phase ). Chu kỳ
này có thể được lặp đi lặp lại nhiều lần và giải thích cho lý do tại sao nạn nhân vẫn
tiếp tục sống trong bạo lực. Bạo lực có thể diễn ra một cách tồi tệ, nhưng sự hứa hẹn

của người gây bạo lực cùng với đó là sự tha thứ của nạn nhân trong giai đoạn ―
trăng mật‖ đã làm cho nạn nhân tin tưởng rằng mọi việc sẽ lại bình thường trở lại
[36].
Cho dù rượu khơng phải là ngun nhân chính gây ra bạo lực gia đình nhưng
đó là một yếu tố thúc đẩy quan trọng. Kết quả từ một báo cáo của Cục điều tra tội
phạm Anh chỉ ra rằng 44 người gây bạo lực gia đình chịu ảnh hưởng của rượu và
12

bị ảnh hưởng bởi chất kích thích khi họ thực hiện các hành vi bạo lực thể xác.

Nghiên cứu của Bộ Nội vụ Anh về người gây bạo lực gia đình với số mẫu là 336 chỉ
ra rằng 73 số người tham gia nghiên cứu đã sử dụng rượu trước khi thực hiện hành
vi bạo lực, trong đó 48 bị xem là phụ thuộc hồn tồn vào rượu. Ngồi ra nghiên
cứu cịn phát hiện ra rằng những người gây bạo lực mà uống rượu, đặc biệt là những
người nghiện nặng thường gây bạo lực cho vợ hoặc bạn tình nghiêm trọng hơn khi
họ khơng say rượu [20].
Phân tích kết quả các cơng trình nghiên cứu của các tác giả nước ngồi về
ngun nhân của BLGĐ với phụ nữ cho thấy, các nhà nghiên cứu đã chỉ ra được các
nguyên nhân sâu xa dẫn đến tình trạng BLGĐ của nam giới gây ra với phụ nữ trên
nhiều khía cạnh khác nhau. Từ đó cho ta cái nhìn vừa cụ thể vừa khái quát về các
nguyên nhân dẫn đến tình trạng BLGĐ với phụ nữ từ trước đến nay.
1.1.2 Các mơ hình, dịch vụ trong phịng chống bạo lực gia đình
Trong đa số các trường hợp bạo lực, phụ nữ là nạn nhân chính. BLGĐ gây
ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khoẻ và tinh thần của phụ nữ, gây ra tình trạng bất

19


an trong cuộc sống của người phụ nữ và cản trở sự phát triển của họ vì phải ln
ln sống chung một nhà với kẻ gây ra bạo lực. Nỗi lo sợ bạo lực làm giảm tính cơ

động của phụ nữ và hạn chế khả năng tiếp cận các nguồn lực và các hoạt động cơ
bản của họ [81]. Nhận thấy những tác động tiêu cực đến phụ nữ bởi vấn nạn BLGĐ
gây nên, tại nhiều quốc gia trên thế giới đã thực hiện các biện pháp can thiệp hỗ trợ
cho phụ nữ - những nạn nhân chính của BLGĐ nhằm phịng chống, giảm thiểu và
xố bỏ tình trạng BLGĐ tại các quốc gia bằng nhiều cách khác nhau.
Tại Úc chính quyền thành lập mơ hình can thiệp BLGĐ ( Family Violence
Intervention Program – FVIP ) chủ động tiếp cận BLGĐ bằng nhiều cách. Mơ hình
này liên kết các hoạt động của cảnh sát, cơng tố, tồ án và thi hành án, đồng thời
điều phối các các cơ quan nòng cốt khác như cơ quan cung cấp dịch vụ hỗ trợ
PCBLGĐ. Nội dung của mơ hình này bao gồm: việc trừng phạt, ngăn chặn những
người gây bạo lực hoặc có thể gây bạo lực; thành lập cơ chế để hỗ trợ và bảo vệ nạn
nhân; đặc biệt yêu cầu những người gây BLGĐ tham gia chương trình tư vấn tâm
lý. Việc triển khai mơ hình được thể hiện thơng qua việc tăng đều đặn về tỉ lệ người
gây BLGĐ bị bắt từ 6 năm 1993 đến 30 năm 2003 - 2004. Số lượng các vấn đề liên
quan đến BLGĐ được Sở Công tố công cộng xử lý tăng 464 trong vịng 8 năm từ
1998 đến năm 2006. Thêm vào đó, các vụ BLGĐ được xử lý thành công đã tăng từ
76 năm 2003 - 2004 lên 85 vào năm 2007 - 2008. Ngồi ra cịn có mơ hình an tồn
tại nhà ( safe at home ) tại bang Tasmania, Úc thể hiện sự liên kết xét xử tội phạm
để PCBLGĐ, trong đó sự an tồn của nạn nhân là mục tiêu quan trọng nhất. Nạn
nhân không phải là người thực hiện việc PCBLGĐ mà chính là cảnh sát chịu trách
nhiệm trừng phạt người vi phạm và đảm bảo nạn nhân không bị bạo lực từ người
gây bạo lực nữa [76],[55].


Mỹ có chương trình trợ cấp cho trường học (Campus Grant Program) tạo

ra sự hợp tác giữa cơ sở giáo dục trung học và đại học với tổ chức phi lợi nhuận để
vận động cho nạn nhân ở cộng đồng và cơ quan pháp lý dân sự hoặc thẩm phán ở
địa phương thực hiện quy trình và chính sách coi bạo lực đối với phụ nữ như một tội
nghiêm trọng và xây dựng các chương trình dịch vụ cho nạn nhân để đảm bảo nạn nhân

được bảo vệ an toàn, những người gây tội bị xét xử cũng như ngăn ngừa các loại hình
thức tội phạm như thế [100]. Đặc biệt phải kể đến là mơ hình Duluth - mơ hình điển
hình về chống bạo lực đối với phụ nữ trong gia đình được hình thành bởi dự án

20


can thiệp BLGĐ ở Duluth, Minnesota ( Mỹ ). Mô hình này hoạt động dựa trên một
cam kết rằng cộng đồng sẽ chịu trách nhiệm đối với hành vi BLGĐ xảy ra ở địa
phương mình. Mơ hình này nhấn mạnh đến vai trò của cộng đồng đối với PCBLGĐ
và đã trở thành mơ hình tiêu biểu về biện pháp can thiệp đối với BLGĐ trên khắp
thế giới đã mang lại những hiệu quả tích cực trong việc giảm thiểu BLGĐ [1].
Đối với một số quốc gia ở Châu Á cũng triển khai hàng loạt các biện pháp,
chương trình hành động để PCBLGĐ và bảo vệ nạn nhân BLGĐ. Philippines có
luật chống bạo lực đối với phụ nữ và trẻ em ( VAWC ) được ban hành năm 2004. Ở
Philippines đơn vị chính quyền nhỏ nhất gọi là barangay được trao quyền để tiếp
cận và xử lý vụ BLGĐ ở địa phương. Đơn vị này thành lập các nguồn từ cộng đồng
để tiếp cận vụ việc một cách dễ dàng. Từ năm 1995, Bộ Y tế Philippines và Trung
tâm giải quyết khủng hoảng của phụ nữ (WCC) đã thử nghiệm một chương trình
thân thiện với phụ nữ và nhạy cảm giới trong hệ thống chăm sóc sức khoẻ của chính
phủ. Chương trình cung cấp hỗ trợ đối với nạn nhân của bạo lực đối với phụ nữ gồm
: Tư vấn về y tế, tâm lý xã hội, pháp lý và hỗ trợ tài chính cũng như tổ chức các
khố đào tạo ngắn hạn cho nhân viên chuyên môn y tế và người xây dựng chính
sách. Bên cạnh đó, quỹ trung tâm giải quyết khủng hoảng Bathaluman ( BCCF) –
một tổ chức phi chính phủ - cũng cung cấp trợ giúp cho phụ nữ và trẻ em về nơi tạm
lánh, tư vấn, hỗ trợ về pháp lý và y tế, trị liệu nhóm, điều trị bằng lao động, giáo dục
về tất cả vấn đề liên quan đến bạo lực đối với phụ nữ. Cơ quan phát triển con người
( DPF ) Philippines điều hành dự án ― ứng phó cộng đồng đối với bạo lực đối với
phụ nữ‖. Dự án hướng đến người đứng đầu là phụ nữ để tăng cường nhận thức cho
họ về phòng ngừa BLGĐ, đồng thời huy động các cơ quan y tế và cơ quan có liên

quan đến y tế cơng lập phủ ngồi cơng lập tham gia ứng phó với BLGĐ [78].
Nhìn chung, nhiều mơ hình dịch vụ CTXH trong PCBLGĐ tại các quốc gia
trên thế giới đã được triển khai rộng khắp ở mọi cấp độ trên nhiều lĩnh vực và ghi
nhận những kết quả tích cực.
1.1.3 Dịch vụ cơng tác xã hội với nam giới gây bạo lực
Các nghiên cứu ở nhiều nước trên thế giới cho thấy đối với phần lớn bạo lực
chống lại phụ nữ xảy ra trong gia đình, người gây ra bạo lực thường là người chồng,
bạn tình hoặc chồng cũ/ bạn tình cũ, hay những người đàn ơng quen biết của phụ nữ
( WHO, 1998) [86].“ Nếu chúng ta muốn giảm nạn bạo lực, xung đột và chiến

21


tranh, nếu chúng ta muốn hồ bình, nếu chúng ta muốn các mối quan hệ trở nên có
ý nghĩa, và nếu chúng ta thực sự muốn có sự phát triển lành mạnh chúng ta sẽ phải
hiểu về đàn ông và tính cách đàn ơng và phát triển mối quan hệ giữa các bé
trai/đàn ông và các bé gái/phụ nữ để đạt được những điều trên. Phụ nữ có thể và có
lẽ phải dẫn đầu phong trào này nhưng số đơng nam giới phải được tham gia vào”
Đó là thơng điệp mà nhà hoạt động nữ quyền nổi tiếng của Ấn Độ - Kamla Bhasin
muốn nhắn gửi [31]. Qua đó chúng ta thấy được rằng các nhà nghiên cứu, nhà hoạt
động trong lĩnh vực giới, bạo lực gia đình trên thế giới đều đề cao đến vai trò của
nam giới trong việc ngăn ngừa và chấm dứt tình trạng BLGĐ.
Ngay từ trong lịch sử hoạt động nghề CTXH của những thập kỷ trước làm
việc với nam giới đã là một lĩnh vực khơng cịn xa lạ được các nhà hoạt động
CTXH khi đã đề cao xây dựng triển khai các mô hình dịch vụ với nam giới nhằm
giảm thiểu và chấm dứt hành vi BLGĐ.
Dịch vụ tham vấn tâm lý, nhóm tác giả Jullie Pryke và Martin Thomas đã
tổng hợp các chương trình làm việc với người gây bạo lực – nam giới được biên
soạn bởi dự án CHANGE tại Đại học Stirling (1996). Nó liệt kê hơn 30 dự án từ
khắp nơi trên nước Anh như : Đề án West Yorkshire; Dự án Worth ở Keighley; Dự

án CHANGE ở Scotland; Dự án The Derby IMPACT; Dự án Kirklees MAN…
Trong đó có các chương trình cung cấp dịch vụ tư vấn cá nhân và điều trị cặp đôi để bổ
trợ cho một chương trình nhóm (bao gồm cả tư vấn riêng cho nạn nhân). Một vài dự án
cung cấp dịch vụ tư vấn như là một điểm đầu tiên của việc thu thập thơng tin và có thể
giới thiệu về các chương trình hoặc dịch vụ cụ thể. Làm việc theo nhóm là phương
pháp chủ yếu được các chương trình sử dụng. Rõ ràng là có những kết quả tiềm năng
tốt hơn trong làm việc với các nhóm đàn ơng hơn là làm việc 1-1 đơn thuần. Các nhà tổ
chức chương trình cho rằng duy trì các nhóm có hiệu quả hơn trong việc mở khóa cảm
xúc và sự phịng ngự và giúp người đàn ông cân nhắc các chiến lược thay thế để đối
phó với khuynh hướng bạo lực của họ. Dự án Worth ở Keighley ở West Yorkshire nhận
định : ―Chúng tôi cho rằng bạo lực là trách nhiệm của nam giới và điều quan trọng là
thách thức trong việc thay đổi thái độ và niềm tin cơ bản nằm sau bạo lực và điều này
khiến chúng tôi phải tìm kiếm tại các vấn đề bất bình đẳng giới trong quyền lực‖ (Dự
án Worth 1991). Hiệp hội Nhà ở Tây Yorkshire, kết hợp với dịch vụ quản chế West
Yorkshire (sau đây gọi là chương

22


trình West Yorkshire), đã đặt ra các tiêu chuẩn rõ ràng về điều kiện một người đàn
ông thoả mãn trong chương trình làm việc theo nhóm. Một thân chủ có thể bị cảnh
cáo hoặc yêu cầu rời đi nếu anh ta bỏ lỡ các cuộc họp hoặc đến trễ; bạo lực, đe dọa
hoặc gây rối tại các cuộc họp; tình trạng nghiện rượu hoặc ma túy trong các cuộc
họp; không muốn chấp nhận phản hồi hoặc không chịu trách nhiệm đáng kể về hành
vi lạm dụng của mình; quấy rối đối tác hoặc đối tác cũ của mình hoặc hành vi bạo
lực trong mọi ngữ cảnh trong suốt thời gian của chương trình làm việc theo nhóm;
phá vỡ một lệnh cấm; hành vi của anh ta xấu đi sau các cuộc họp; cuối cùng nhiều
lần không thay đổi hoặc không thực hiện theo các mục tiêu. Một số hành vi nghiêm
trọng đến mức một người có thể được yêu cầu rời đi mà khơng cần cảnh báo.
Chương trình giảng dạy trong các chương trình nhóm nam giới bao gồm các nội

dung sau :
Điều gì được tính là bạo lực? Nhấn mạnh vào việc giúp người đàn ơng nhận
ra nhiều hình thức hành vi lạm dụng và kiểm soát (trong việc bạo lực tâm lý, tình
dục và kinh tế).
Xác định các dấu hiệu cho bạo lực: Mục đích là để giúp nam giới xác định
những suy nghĩ và cảm xúc mà họ kích hoạt sự bạo lực, và sự phát triển của bạo lực
từ đó giúp họ quản lý các dấu hiệu như vậy.
Một cuộc thăm dò về tác động của bạo lực đối với phụ nữ: Mục tiêu ở đây nhấn
mạnh rằng phụ nữ không muốn bị lạm dụng và cố gắng giúp người đàn ơng hiểu
được phụ nữ có thể cảm thấy thế nào sau khi ngược đãi và những khó khăn trong
việc xua tan những cảm xúc đó, ảnh hưởng của bạo lực đối với trẻ em ở các độ tuổi
khác nhau.
Vấn đề xây dựng lại niềm tin và mối quan hệ - trọng tâm chính: Giúp những
người đàn ơng hiểu rõ hơn cách họ có thể bị ảnh hưởng bởi bạo lực của chính họ khi
giao tiếp với trẻ em và giúp những người đàn ông xây dựng lại mối quan hệ.
'Letting go' có thể là lựa chọn duy nhất cho một người đàn ông, và những bài học
này được thiết kế để hỗ trợ người đàn ông trong việc phát triển các chiến lược.
Xây dựng lại các mối quan hệ nơi bạo lực đã diễn ra: Mục đích là để xác
định và giúp nam giới sử dụng, hợp tác, tôn trọng và hỗ trợ các cách tiếp cận đến vợ
mình để loại bỏ bạo lực và sự kiểm soát các cách giao tiếp với vợ của họ và để xác
định và thể hiện nhu cầu của họ (chấp nhận) theo những cách không bạo lực.

23


Một trong các chương trình dự án đó được thiết lập tại Scotland là dự án
CHANGE và dự án bạo hành gia đình Lothian đưa lại kết quả khả quan: Những
người đàn ơng hồn thành chương trình ít có khả năng bạo lực hoặc nếu họ gây bạo
lực một lần nữa thì hành vi bạo lực của họ đã giảm mức độ nghiêm trọng và tần số
thực hiện so với những người chưa tham gia [71].



Úc, chính phủ đã đầu tư 42 triệu đô la Úc để thực hiện nhiều hoạt động

trên phạm vi toàn quốc như dịch vụ tư vấn qua điện thoại và trực tuyến ― 1800
RESPECT‖ ( 1800 tơn trọng ). Bên cạnh đó, các hoạt động phòng ngừa BLGĐ khác
ở Úc cũng được tiến hành như : Chương trình giảm việc tiếp tục gây bạo lực của
người đã gây bạo lực; chương trình liên hiệp nam giới và trẻ em nam tham gia
chống lại việc gây bạo lực ở người nam; chương trình an tồn tại nhà ( safe at
home ) tại bang Tasmania, Úc thể hiện sự liên kết xét xử tội phạm để PCBLGĐ,
trong đó sự an tồn của nạn nhân là mục tiêu quan trọng nhất. Nạn nhân không phải
là người thực hiện việc PCBLGĐ mà chính là cảnh sát chịu trách nhiệm trừng phạt
người vi phạm và đảm bảo nạn nhân không bị bạo lực từ người gây bạo lực nữa.
Nhờ chương trình này, bạo lực từ chỗ tăng từ 279 đến 310 trường hợp giữa các năm
2004 -2007, đã giảm còn 284 trường hợp vào năm 2008 [55].
Dịch vụ truyền thông nâng cao nhận thức, chiến dịch White Ribbon ( White
Ribbon Campain-WRC) được tổ chức hàng năm từ ngày 25 tháng 11 cho đến ngày
6 tháng 12 tại Canada đã thu hút được hàng nghìn trường học và cơng sở tham gia.
Chiến dịch này nhằm mục đích kêu gọi sự lên tiếng của nam giới về việc đấu tránh
với nạn bạo lực chống lại phụ nữ và từ đó nhằm thay đổi thái độ và hành vi của mọi
người trong cộng đồng. Chiến dịch này đã được tiến hành trong 11 năm và hiện các
hoạt động của WRC có mặt trên 25 quốc gia trên thế giới [19].


Úc, chương trình ― Respectful relationships ‖ ( những mối quan hệ tôn

trọng ) được thực hiện trong các trường học và các môi trường có người trẻ tuổi từ
12 đế 24 để phát triển kỹ năng ứng xử một cách tôn trọng đối với vợ của họ; Chiến
dịch vận động xã hội ― Đường kẻ‖ ( The line ) hướng đến thanh niên và cha mẹ của
họ; các nghiên cứu về điều trị những người gây bạo lực được thực hiện làm hài hoà

hơn luật quốc gia và luật của các bang và vùng lãnh thổ [55].
Điều trị tâm lý cho nhóm nam giới, theo tác giả Alyce La Violette điều trị
nhóm đối với nam giới có hành vi lạm dụng bạn tình là một biện pháp khá phổ biến

24


×