Tải bản đầy đủ (.docx) (28 trang)

Tiểu luận CNXHKH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (271.81 KB, 28 trang )

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ
MINH
HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUN TRUYỀN
KHOA PHÁT THANH – TRUYỀN HÌNH
--------

BÀI TIỂU LUẬN
Đề tài:
QUÁ TRÌNH NHẬN THỨC VỀ ĐẶC TRƯNG CƠ BẢN CỦA
CHỦ NGHĨA XÃ HỘI VIỆT NAM ĐƯỢC NÊU TRONG CƯƠNG
LĨNH XÂY DỰNG ĐẤT NƯỚC TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ
LÊN CNXH (BỔ SUNG, PHÁT TRIỂN NĂM 2011)
Sinh viên thực
BÙI KHÁNH LY
hiện:
2056090028
Mã sinh viên:
Báo mạng Điện tử CLC
Lớp hành chính:
K40
Học phần:
Chủ nghĩa xã hội khoa
học
Lớp tín chỉ:
K40_CN51001_4
Giảng viên hướng
dẫn:
Bùi Thị Kim Hậu
HÀ NỘI, THÁNG 6 NĂM
2021



MỤC LỤC

2


A. MỞ ĐẦU
Chủ nghĩa xã hội (CNXH) theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin là giai
đoạn đầu của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa. CNXH có tính tiến
bộ, ưu việt hơn tất cả các mơ hình xã hội trước đó về các đặc trưng chính trị,
kinh tế, văn hố, xã hội bởi chủ nghĩa xã hội ln đề cao sự giải phóng con
người khỏi tình trạng áp bức, bóc lột, bất cơng. Hiện nay, dưới sự lãnh đạo sáng
suốt của Đảng Cộng sản Việt Nam, tích cực phát huy những thành tựu to lớn đã
đạt được, nhân dân ta đang tiếp tục thực hiện cơng cuộc đổi mới tồn diện, đẩy
mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước nhằm đưa nước ta phát triển theo
định hướng xã hội chủ nghĩa. Về vấn đề này, tại Đại hội lần thứ XI, Đảng ta đã
khẳng định: “Đi lên chủ nghĩa xã hội là khát vọng của nhân dân ta, là sự lựa
chọn đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, phù
hợp với xu thế phát triển của lịch sử”. Có thể nói, nhận thức của Đảng Cộng sản
Việt Nam về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
ngày càng sâu sắc, cụ thể và tồn diện hơn; trong đó, ln có sự kế thừa, bổ
sung, phát triển và dần hồn thiện qua từng giai đoạn.
Đại hội VII của Đảng (tháng 6/1991), Đảng Cộng sản Việt Nam đã chính thức
thơng qua bản "Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội" (gọi tắt là Cương lĩnh năm 1991). Bản Cương lĩnh đã phân tích
nội dung, tính chất của thời đại, tổng kết q trình cách mạng Việt Nam, kế thừa
và phát triển những quan điểm cơ bản trước đó của Đảng để nêu ra quan niệm
mới về CNXH, chỉ ra mục tiêu và những định hướng lớn trong thời kỳ quá độ
lên CNXH ở nước ta. Đây là văn kiện quan trọng mang tầm định hướng chiến
lược, là nền tảng tư tưởng lý luận và ngọn cờ chiến đấu của Đảng ta, dân tộc ta

trong giai đoạn mới.
Sau gần 20 năm thực hiện Cương lĩnh, với sự nỗ lực phấn đấu của toàn Đảng,
toàn dân và toàn quân, nước ta đã đạt được những thành tựu mang giá trị lịch sử
3


to lớn, làm thay đổi bộ mặt và vị thế của đất nước trên trường quốc tế. Những
thành tựu mà Cương lĩnh đem lại đã khẳng định giá trị to lớn, sức sống mãnh
liệt và niềm tin về xây dựng thành công hệ thống chủ nghĩa xã hội, đồng thời
cho chúng ta thêm nhiều bài học quý giá để tiếp tục phát triển sự nghiệp cách
mạng. Từ đó, Đảng Cộng sản Việt Nam thấy rằng cần thiết phải có một cương
lĩnh mới phù hợp với tình hình và nhiệm vụ mới trên cơ sở kế thừa, sửa đổi, bổ
sung và phát triển Cương lĩnh 1991. Cùng với tinh thần trách nhiệm và sự đóng
góp trí tuệ của tồn Đảng, tồn quân và toàn dân, tại Đại hội XI của Đảng Cộng
sản Việt Nam (3/2011) đã thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011).
Kết cấu nội dung tiểu luận gồm có:
I.

Những đặc trưng cơ bản của chủ nghĩa xã hội khoa học

II.

Đặc trưng cơ bản của chủ nghĩa xã hội Việt Nam trong Cương lĩnh
xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội tại Đại
hội VII (1991).

III.

Đặc trưng cơ bản của chủ nghĩa xã hội Việt Nam trong Cương lĩnh

xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung,
phát triển năm 2011) tại Đại hội XI (2011)

IV.

Các đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng
ngày càng được hiện thực hóa

Do những hạn chế về thời gian và tri thức nên bài tiểu luận cịn một số thiếu sót,
em rất mong nhận được sự giúp đỡ, đóng góp của thầy/cơ để tiểu luận của em
được hồn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn.
4


5


B. NỘI DUNG
I.

NHỮNG ĐẶC TRƯNG CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA XÃ
HỘI KHOA HỌC
Căn cứ vào những dự báo của C.Mác và Ph.Ăngghen và những quan điểm
của V.I.Lênin về chủ nghĩa xã hội ở nước Nga xơ viết, có thể khái quát
những đặc trưng cơ bản của chủ nghĩa xã hội như sau:
-

Chủ nghĩa xã hội giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc, giải phóng xã
hội. giải phóng con người, tạo điều kiện để con người phát triển toàn

diện

C.Mác và Ph.Ăngghen đã từng khẳng định trong tác phẩm Tuyên ngôn của
Đảng cộng sản: “Thay cho xã hội tư bản cũ, với những giai cấp và đối kháng
giai cấp của nó, sẽ xuất hiện một liên hợp, trong đó sự phát triển tự do của
mỗi người là điều kiện phát triển tự do của tất cả mọi người”, khi đó “con
người, cuối cùng làm chủ tồn tại xã hội của chính mình, thì cũng do đó làm
chủ tự nhiên, làm chủ cả bản thân mình trở thành người tự do”. Bên cạnh đó,
V.I.Lênin cũng khẳng định mục đích cao cả của chủ nghĩa xã hội cần đạt đén
là xóa bỏ sự phân chia xã hội thành giai cấp, biến tất cả thành viên trong xã
hội thành người lao động, tiêu diệt cơ sở của mọi tình trạng người bóc lột
người. V.I.Lênin cịn chỉ rõ trong q trình phấn đấu để đạt mục đích cao cả
đó, giai cấp cơng nhân, chính Đảng cộng sản phải hoàn thành nhiều nhiệm
vụ của các giai đoạn khác nhau, trong đó có mục đích, nhiệm vụ cụ thể của
thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội – tạo ra các điều kiện về cơ sở vật chất –
kỹ thuật và đời sống tinh thần để thiết lập xã hội cộng sản.

-

Chủ nghĩa xã hội là xã hội do nhân dân lao động làm chủ

Đây là đặc trưng thể hiện thuộc tính bản chất của chủ nghĩa xã hội, xã hội
con người và do con người; nhân dân mà nòng cố là nhân dân lao động là
6


chủ thể của xã hội thực hiện quyền làm chủ ngày càng rộng rãi và đầy đủ
trong quá trình cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới. Chủ nghĩa xã hội là
một chế độ chính trị dân chủ, nhà nước xã hội chủ nghĩa với hệ thống pháp
luật và hệ thống tổ chức ngày càng hoàn thiện sẽ quản lý xã hội ngày càng

hiệu quả.

-

Chủ nghĩa xã hội có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản
xuất hiện đại và chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu

Đây là đặc trưng về phương diện kinh tế của chủ nghĩa xã hội. Mục tiêu cao
nhất của chủ nghĩa xã hội là giải phóng con người trên cơ sở điều kiện kinh
tế - xã hội phát triển, mà xét đến cùng là trình độ phát triển cao, với lực
lượng sản xuất hiện đại, quan hệ sản xuất dựa trên chế độ công hữu về tư
liệu sản xuất, được tổ chức quản lý có hiệu quảm năng suất lao động cao và
phân phối chủ yếu theo lao động. Cùng với việc từng bước xác lập chế độ
công hữu về tư liệu sản xuất, để nâng cao năng xuất lao động cần phải tổ
chức lao động theo một trình độ cao hơn, tổ chức chặt chẽ và kỷ luật lao
động nghiêm, nghĩa là phải tạo ra quan hệ sản xuất tiến bộ, thích ứng với
trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.

-

Chủ nghĩa xã hội có nhà nước kiểu mới mang bản chất giai cấp cơng
nhân, đại biểu cho lợi ích, quyền lực và ý chí của nhân dân lao động

Các nhà sáng lập chủ nghĩa xã hội đã khẳng định trong chủ nghĩa xã hội phải
thiết lập nhà nước chun chính vơ sản, nhà nước kiểu mới mang bản chất
của giai cấp công nhân, đại biểu cho lợi ích, quyền lực và ý chí của nhân dân
lao động. Nhà nước vô sản, theo V.I.Lênin phải là một công cụ, một phương
tiện; đồng thời, là một biểu hiện tập trung trình độ dân chủ của nhân dân lao
động, phản ánh trình độ nhân dân tham gia vào mọi công việc của nhà nước,
7



quần chúng nhân dân thực sự tham gia vào từng bước của cuộc sống và đóng
vai trị tích cực trong việc quản lý.

-

Chủ nghĩa xã hội có nền văn hóa phát triển cao, kế thừa và phát huy
những giá trị của văn hóa dân tộc và tinh hoa văn hóa nhân loại
Tính ưu việt, sự ổn định và phát triển của chế độ xã hội chủ nghĩa không
chỉ thể hiện ở lĩnh vực kinh tế, chính trị mà cịn ở lĩnh vực văn hóa – tinh
thần của xã hội. Trong chủ nghĩa xã hội, văn hóa là nền tảng tinh thần của
xã hội, mục tiêu, hun đúc nên tâm hồn, khí phách, bản lĩnh con người,
biến con người thành con người chân, thiện, mỹ. Do vậy, quá trình xây
dựng nền văn hóa xã hội chủ nghĩa phải biết kế thừa những giá trị văn
hóa dân tộc và tinh hoa văn hóa nhân loại, đồng thời, cần chống tư tưởng,
văn hóa phi vô sản, trái với phương hướng đi lên chủ nghĩa xã hội.

-

Chủ nghĩa xã hội đảm bảo bình đẳng, đồn kết giữa các dân tộc và có
quan hệ hữu nghị, hợp tác với nhân dân các nước trên thế giới

Vấn đề giai cấp và dân tộc, xây dựng một cộng đồng dân tộc, giai cấp bình
đẳng, đồn kết, hợp tác, hữu nghị với nhân dân các nước trên thế giới ln
có vị trí đặc biệt quan trọng trong hoạch định và thực thi chiến lược phát
triển của mỗi dân tộc và quốc gia. Theo quan điểm của các nhà sáng lập ra
chủ nghĩa xã hội khoa học, vấn đề giai cấp và dân tộc có quan hệ biện chứng,
bởi vậy. giải quyết vấn đề dân tộc giai cấp trong chủ nghĩa xã hội có vị trí
đặc biệt quan trọng và phải tn thủ ngun tắc: “Xóa bỏ tình trạng người

bóc lột người thì tình trạng dân tộc này bóc lột dân tộc khác cũng bị xóa bỏ”.
Để xây dựng Cộng đồng bình đẳng đồn kết và có quan hệ hợp tác, hữu nghị
với nhân dân tất cả các nước trên thế giới, điều kiện chiến thắng hoàn toàn
chủ nghĩa tư bản, theo V.I.Lênin cần thiết phải có sự liên minh và sự thống
8


nhất của giai cấp vơ sản và tồn thể quần chúng cần lao thuộc tất cả các nước
và dân tộc trên tồn thế giới.
Bảo đảm bình đẳng, đồn kết giữa các dân tộc và có quan hệ hợp tác, hữu
nghị với nhân dân tất cả các nước trên thế giới, chủ nghĩa xã hội mở rộng
được ảnh hưởng và góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh chung của nhân
dân thế giới vì hịa bình, độc lập dân tộc dân chủ và tiến bộ xã hội.

II.

ĐẶC TRƯNG CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA XÃ HỘI VIỆT
NAM TRONG CƯƠNG LĨNH XÂY DỰNG ĐẤT NƯỚC
TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
TẠI ĐẠI HỘI VII (1991).
1. Hoàn cảnh lịch sử
Năm 1991, hệ thống chủ nghĩa xã hội trì trệ và lâm vào khủng hoảng kéo
dài, chế độ xã hội chủ nghĩa sụp đổ ở Ðơng Âu rồi Liên Xơ. Chỉ cịn số ít các
nước đi theo con đường này, và đều là những nước mà nền kinh tế đang còn
nghèo nàn, lạc hậu như Việt Nam, Lào, Cuba,.... Trong bối cảnh đó, các lực
lượng phản động cả trong nước và ngồi nước đua nhau nổi dậy chống phá
Đảng Cộng sản Việt Nam. Trước tình hình đầy khó khăn đó, Đảng ta đã xây
dựng "Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội" (gọi tắt là Cương lĩnh năm 1991) tại đại hội nhằm kiên định mục tiêu
đưa đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa. Muốn vậy, chúng ta phải tự

lực cánh sinh, phải tìm tịi những hình thức, những bước đi thích hợp, phải
mở rộng các mối quan hệ quốc tế.
2. Đặc trưng cơ bản của chủ nghĩa xã hội Việt Nam
Xây dựng chủ nghĩa xã hội là một sự nghiệp đầy khó khăn và thách thức đối
với lịch sử dân tộc Việt Nam. Chính vì vậy, trong q trình lãnh đạo tồn dân
và tồn qn thực hiện cơng cuộc đổi mới và xây dựng đất nước theo định
hướng xã hội chủ nghĩa, Đảng đã luôn kết hợp giữa nhận thức, nghiên cứu lý

9


luận với thử nghiệm và tổng kết chúng để xây dựng, bổ sung và hồn thiện
từng bước mơ hình chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Dựa vào việc nhận thức đầy đủ và đúng đắn các quan điểm của chủ nghĩa
Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội, kết hợp với
những kinh nghiệm của thế giới và thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội của
nước ta, đặc biệt là từ khi tiến hành công cuộc đổi mới (1986), trong Cương
lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội được thông
qua tại Đại hội VII (6/1991), Đảng ta đã xác định mơ hình xã hội xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam gồm 6 đặc trưng cơ bản nhất:
-

Do nhân dân lao động làm chủ;
Đảng ta xác định vai trò làm chủ của xã hội xã hội chủ nghĩa thuộc về
nhân dân lao động. Nhân dân lao động không chỉ có vị thế mà cịn có
năng lực để làm chủ xã hội. Trong chủ nghĩa xã hội, nhân dân lao động
được giải phóng và có điều kiện phát triển tồn diện, là lực lượng chính
trong việc xây dựng và phát triển đất nước.

-


Có một nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và
chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu;
Lực lượng sản xuất phát triển cao là điều kiện và tiền đề quan trọng nhằm
tăng năng suất lao động, tạo cơ sở vật chất cho chủ nghĩa xã hội và nâng
cao đời sống của nhân dân. Để đảm bảo cho nhân dân lao động được
hưởng những thành quả do sức lao động của mình làm ra, Đảng và Nhà
nước cần phải thực hiện chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu.
Bởi đó là điều kiện để thực hiện những lợi ích kinh tế cơ bản. Chế độ
công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu là bản chất kinh tế của chủ nghĩa
xã hội, là cơ sở bảo đảm cho nhân dân lao động làm chủ về kinh tế.

-

Có nền văn hố tiên tiến, đậm đà bản sắc văn hoá dân tộc;
10


Để xây dựng một nền văn hóa tiên tiến, mang đậm bản sắc dân tộc đòi
hỏi Đảng và Nhà nước vừa phải chọn lọc tiếp thu những giá trị của tinh
hoa văn hóa nhân loại, vừa phải kế thừa, phát triển bản sắc văn hóa của
các tộc người Việt Nam, xây dựng một nền văn hóa Việt Nam đa dạng
nhưng lại thống nhất. Khi xác định xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm
đà bản sắc dân tộc là đặc trưng của chủ nghĩa xã hội, Đảng ta đặt con
người vào trung tâm của sự phát triển bằng cách ủng hộ người dân tộc
thiểu số học và duy trì ngơn ngữ của dân tộc mình, duy trì các phong tục
tập quán tốt đẹp, tạo ra các phong trào giao lưu giữa các dân tộc với
nhau,... Phuy vai trò của văn hóa trong phát triển chính là phát huy những
năng lực, bản chất của con người. Đó là cơ sở cho việc hoạch định chiến
lược phát triển bền vững của đất nước.

-

Con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất cơng, làm theo năng
lực, hưởng theo lao động, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều
kiện phát triển toàn diện cá nhân;
Mục tiêu của chủ nghĩa xã hội, quá trình phấn đấu đạt tới những giá trị
của xã hội xã hội chủ nghĩa đều là vì con người. Theo triết học, con người
là sự thống nhất giữa mặt sinh vật và mặt xã hội, là một thực thể sinh vật
- xã hội và là tổng hòa của các mối quan hệ xã hội. Lịch sử của lồi người
là lịch sử con người đấu tranh xóa bỏ mọi lực cản thiên nhiên và xã hội
để vươn tới một xã hội cao đẹp nhất - xã hội đó chính là xã hội xã hội chủ
nghĩa. Bản chất xã hội và trình độ xã hội của xã hội chủ nghĩa, chính là là
bản chất và trình độ phát triển của con người. Xã hội xã hội chủ nghĩa là
xã hội đem lại cuộc sống tự do, đầy đủ, ấm no, hạnh phúc cho con người.
Sự phát triển toàn diện con người là ước mơ, khát vọng của con người tự
do. Xã hội xã hội chủ nghĩa chính là nơi tạo ra sự phát triển tự do của mỗi
người, là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người... như
C.Mác đã nói: “Đặc trưng người nhất của khát vọng con người là hạnh
phúc. Bởi có thể người ta giàu có, đầy đủ tiện nghi, được phát triển, song
11


vẫn bất hạnh. Hạnh phúc là trạng thái yên lành, hài hòa, là tinh thần thoải
mái biểu hiện sự mãn nguyện thanh cao nhất của con người. Phấn đấu đạt
tới một xã hội bảo đảm hạnh phúc cho con người, đó là một xã hội văn
hóa cao”.

-

Các dân tộc trong nước bình đẳng, đồn kết và giúp đỡ lẫn nhau cùng

tiến bộ.
Xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc là mục tiêu mà Đảng ta vơ cùng coi
trọng, vì chỉ có đồn kết chúng ta mới tập hợp được sức mạnh trí tuệ, sự
sáng tạo, ý chí kiên cường, nhân cách cao đẹp, tinh thần chuẩn bị tốt nhất
vào quá trình xây dựng và phát triển đất nước. Điều này có ý nghĩa đặc
biệt quan trọng đối với nước ta, khi nguồn lực tài chính và hệ thống cơ sở
hạ tầng, vật chất cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội cịn hạn hẹp,
trong khi đó nguồn lực con người Việt Nam lại vô cùng dồi dào và giàu
tiềm năng. Nếu biết sự dụng và phát huy hợp lý, nó sẽ trở thành nguồn
lực to lớn cho sự phát triển bền vững. Đảng ta coi đoàn kết là chiến lược
cách mạng vì mục tiêu chung của dân tộc, xây dựng khối đại đoàn kết là
sự nghiệp của toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị.

-

Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân tất cả các nước trên thế
giới.
Theo nguyên lý phát triển xã hội, mỗi quốc gia là một bộ phận hợp thành
cộng đồng quốc tế. Sự phát triển quốc gia xã hội chủ nghĩa Việt Nam có
thể tồn tại và phát triển chỉ khi chúng ta tăng cường, đẩy mạnh “quan hệ
hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới”. Quan hệ hữu nghị và hợp
tác chính là thể hiện bản chất thiện chí và tạo điều kiện cho các quốc gia
hội nhập, tiếp thu những thành quả phát triển của mỗi bên, rút ngắn quá
trình phát triển của mỗi nước. Đặc biệt hơn là, “hữu nghị”, “hợp tác”,
12


“phát triển” chính là bản chất, là khát vọng có tính nhân loại của con
người, của lồi người, cho thấy được bản chất cao đẹp nhất của xã hội xã
hội chủ nghĩa.

Đó chính là những đặc trưng bản chất hay mục tiêu cơ bản của chủ nghĩa xã hội
ở Việt Nam mà nhân dân ta xây dựng và hướng tới dưới sự lãnh đạo của Đảng
Cộng sản. Từ những bài học và kinh nghiệm thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã
hội theo đường lối đổi mới, đúng như nhận định của Đảng nêu ra tại Đại hội lần
thứ X, nhận thức của chúng ta về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội ngày càng sáng tỏ hơn, hệ thống quan điểm lý luận về công cuộc
đổi mới, về xã hội xã hội chủ nghĩa và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam đã hình thành trên những nét cơ bản nhất.

III.

ĐẶC TRƯNG CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA XÃ HỘI VIỆT
NAM TRONG CƯƠNG LĨNH XÂY DỰNG ĐẤT NƯỚC
TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
(BỔ SUNG, PHÁT TRIỂN NĂM 2011) TẠI ĐẠI HỘI XI
(2011)
1. Hoàn cảnh lịch sử
Cương lĩnh năm 1991 có giá trị định hướng và chỉ đạo to lớn đối với sự nghiệp
cách mạng của đất nước ta trong suốt hai thập kỷ . Tuy nhiên, sau hơn 20 năm
từ khi cương lĩnh 1991 được thơng qua, tình hình thế giới và trong nước đã có
nhiều biến đổi to lớn và sâu sắc. Nhiều vấn đề mới nảy sinh từng bước được
Ðảng ta nhận thức và giải quyết có hiệu quả; nhiều vấn đề liên quan đến Cương
lĩnh đã có nhận thức mới, sâu sắc hơn; quan niệm về chủ nghĩa xã hội và con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta ngày càng rõ hơn; đồng thời cũng có
thêm những vấn đề mới đặt ra cần được giải đáp. Vì vậy, Ðại hội X của Ðảng đã
quyết định: "Sau Ðại hội X, Ðảng ta cần tiếp tục nghiên cứu, bổ sung và phát
triển Cương lĩnh, làm nền tảng chính trị, tư tưởng cho mọi hoạt động của Ðảng,
Nhà nước và nhân dân ta trong quá trình đưa nước ta đi lên chủ nghĩa xã hội"
13



Trên cơ sở phân tích thực tiễn cách mạnh Việt Nam, nhận định về bối cảnh thời
đại, Đại hội XI của Đảng (2011) một lần nữa tiếp tục khẳng định: “Theo quy
luật tiến hóa của lịch sử, lồi người nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội”. Đại
hội đã thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011), trong đó có sự bổ sung và phát
triển thêm nhiều điểm mới về mơ hình của chủ nghĩa xã hội so với Cương lĩnh
năm 1991.
2. Đặc trưng cơ bản của chủ nghĩa xã hội Việt Nam
Kế thừa và phát huy mơ hình xã hội xã hội chủ nghĩa của Đại hội X và
Cương lĩnh 1991, “Cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011)” do Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ XI của Đảng (1/2011) thông qua đã xác định 8 đặc trưng cơ bản của
chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam:
-

Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, cơng bằng, văn minh;
Do nhân dân làm chủ,
Có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và

-

quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp;
Có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc;
Con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển

-

tồn diện;
Các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đồn kết, tơn trọng và


-

giúp nhau cùng phát triển;
Có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân,

-

vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo;
Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới

Trong 8 đặc trưng nêu trên, so với Cương lĩnh 1991, có những sự bổ sung,
phát triển quan trọng sau đây:

-

Có 2 đặc trưng mới bổ sung là:
Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh;

14


Giàu mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh là những giá trị xã hội tốt đẹp
nhất, là khát khao của toàn nhân loại, cũng là mục tiêu phấn đấu của các
nước chủ nghĩa xã hội. Vì vậy, đây là đặc trưng bao quát, mang bản chất
của xã hội xã hội chủ nghĩa, nó thể hiện sự khác nhau căn bản và tiến bộ
hơn hẳn của chế độ xã hội chủ nghĩa so với các chế độ xã hội khác. Điển
hình như xã hội tư bản có đời sống vật chất và tiện nghi rất cao; kinh tế
phát triển mạnh mẽ, nhưng từ trong bản chất của chế độ xã hội tư bản
khơng có cơng bằng và dân chủ: nhà nước là nhà nước tư sản; sự giàu có

chỉ thuộc về giai cấp tư sản; và nó có được bằng việc bóc lột các giai cấp
khác, bóc lột sức lao động và giá trị thặng dư, dẫn đến tình trạng người
giàu càng giàu, còn người nghèo lại càng nghèo. Trong xã hội phân biệt
giai cấp như vậy, người dân không thể đứng lên làm chủ đất nước, làm
chủ xã hội.
Trước năm 1945, dưới sự bóc lột của chủ nghĩa tư bản, Việt Nam không
hề tồn tại các giá trị dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Trong Dự thảo Cương lĩnh (bổ sung và phát triển), Đảng ta đã có đánh
giá đúng đắn, khách quan về chủ nghĩa tư bản: “Hiện tại, chủ nghĩa tư
bản còn tiềm năng phát triển, nhưng về bản chất vẫn là một chế độ áp
bức, bóc lột và bất cơng”. CNXH mà nhân dân ta đang xây dựng phát huy
triệt để dân chủ hóa, đảm bảo mỗi cơng dân đều có quyền làm chủ, đồng
thời hướng tới những giá trị công bằng cho mọi tầng lớp, mọi người dân,
xây dựng xã hội Việt Nam thành một xã hội công bằng, văn minh, hiện
đại. Dân chủ vừa là mục tiêu mà xã hội chủ nghĩa hướng tới, mà còn là
động lực quan trọng nhằm thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội theo
hướng phát triển nhanh và bền vững. Vì chỉ khi dân chủ được bảo đảm
mới có thể nói đến cơng bằng và lớn mạnh, những điều đó mới thể hiện
sự văn minh.
Đặc biệt hơn trong Cương lĩnh 2011, khi diễn đạt đặc trưng thứ nhất có
sự thay đổi về trật tự từ so với diễn đạt trong Văn kiện Đại hội X của
15


Đảng: Cụm từ “dân chủ” được đưa lên trước cụm từ "công bằng”. Sự
thay đổi này không phải ngẫu nhiên mà là một sự thay đổi có chủ đích,
nhằm phản ánh sự nhận thức ngày càng sâu sắc và toàn diện hơn của
Đảng ta đối với mục tiêu dân chủ. Dân chủ là bản chất của chế độ xã hội
chủ nghĩa, vừa là mục tiêu, vừa là động lực, là nguồn lực phát triển đất
nước. Muốn phát huy dân chủ thì càng phải tơn trọng kỷ luật, pháp luật,

kỷ cương phép nước trong quản lý đời sống xã hội.

-

Có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân vì
nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo;
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là nhà nước quản lý và điều hành
đất nước và xã hội bằng pháp luật thể hiện quyền lợi và ý chí của nhân
dân; vì vậy, là nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.
Đây là nhà nước mà tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân với nền
tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nơng dân và đội
ngũ trí thức. Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân cơng, phối
hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập
pháp, hành pháp, tư pháp. Nhà nước ban hành pháp luật, tổ chức và quản
lý xã hội bằng hệ thống pháp luật đó và khơng ngừng tăng cường pháp
chế xã hội chủ nghĩa. Tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước theo
nguyên tắc tập trung dân chủ, có sự phân cơng, phân cấp, đồng thời bảo
đảm sự chỉ đạo thống nhất của Trung ương.
Việc bổ sung đặc trưng này thể hiện vị trí đặc biệt quan trọng của Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong hệ thống chính trị của Việt Nam.
Nhà nước ấy thuộc về nhân dân, do nhân dân xây dựng nên và hướng tới
phục vụ lợi ích của nhân dân, là cơ quan quyền lực của nhân dân, do nhân
dân, vì nhân dân. Để tránh hiểu lầm hoặc sự xuyên tạc của một số người
khi cho rằng “dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản” nghĩa là Đảng ta
đứng trên Nhà nước và pháp luật, nêu trong Cương lĩnh 2011 đã thay
16


từ “dưới” sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản bằng từ “do” Đảng Cộng sản
lãnh đạo như trong Văn kiện Đại hội X.



Các đặc trưng có sự thay đổi về câu chữ sao cho phù hợp với thực tiễn và

-

nhận thức mới về chủ nghĩa xã hội:
Do nhân dân làm chủ;
Nếu Cương lĩnh 1991 đã xác định một trong những đặc trưng của xã hội
xã hội chủ nghĩa là xã hội “do nhân dân lao động làm chủ” thì trong Văn
kiện Đại hội X và Cương lĩnh 2011, đặc trưng này được điều chỉnh thành
“do nhân dân làm chủ”. Có thể dễ dàng nhận thấy, khái niệm “nhân dân”
trong Cương lĩnh 2011 có nghĩa rộng hơn so với khái niệm “nhân dân lao
động” được đề cập trong Cương lĩnh năm 1991. Điều này cho phép thực
hiện khối đại đoàn kết toàn dân tộc và huy động sức mạnh của toàn dân
vào sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước theo định hướng xã hội
chủ nghĩa. Không chỉ riêng nhân dân lao động mà mọi tầng lớp nhân dân,
mỗi người dân Việt Nam đều là người chủ đất nước, có trách nhiệm xây
dựng đất nước, dù mình sống trong hay ngoài nước.
“Nhân dân làm chủ xã hội” là đặc trưng quan trọng và quyết định nhất
trong những đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa. Vì chỉ khi nhân dân
có đầy đủ quyền làm chủ đất nước mới có thể xây dựng thành công nền
dân chủ xã hội chủ nghĩa.

-

Có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và
quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp;
Đặc trưng thứ hai trong Cương lĩnh năm 1991 “Có một nền kinh tế phát
triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về các

tư liệu sản xuất chủ yếu” được Cương lĩnh 2011 bổ sung bằng “Có nền
kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản
xuất tiến bộ phù hợp” (thêm từ “tiến bộ” so với Văn kiện Đại hội X và
17


khơng có cụm từ “chế độ cơng hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu” như
trong Cương lĩnh 1991). Điều này là cần thiết và đúng đắn. Quan hệ sản
xuất tiến bộ phù hợp là quan hệ sản xuất phải được xem xét và đánh giá
trên cả ba mặt: quan hệ sở hữu, quan hệ quản lý và quan hệ phân phối. Sự
phù hợp khơng chỉ với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất mà còn
phù hợp với chế độ xã hội, với từng điều kiện lịch sử - cụ thể, với đặc thù
dân tộc... Quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp ở nước ta trong thời điểm
hiện nay chính là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Đến khi chúng ta xây dựng xong chủ nghĩa xã hội, quan hệ sản xuất tiến
bộ phù hợp đó phải dựa trên chế độ cơng hữu về các tư liệu chủ yếu.
Lực lượng sản xuất hiện đại quyết định việc nâng cao năng suất của nền
sản xuất - yếu tố quy định sự phát triển phương thức sản xuất mới lên một
trình độ cao. Trên cơ sở đó thiết lập quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa
tiến bộ phù hợp để thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Đảng ta đã tập
trung phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, mà
trước mắt là hoàn thiện thể chế của nó; đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện
đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức, nhằm xây dựng một lực lượng
sản xuất hiện đại để có một nền kinh tế phát triển cao - điều kiện bảo đảm
cho sự phát triển bền vững xã hội xã hội chủ nghĩa.

-

Có nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc;
Tuy khơng có sự thay đổi gì về câu chữ so với Cương lĩnh 1991 và Văn

kiện Đại hội X song đặc trưng này vẫn chứa đựng những nhận thức mới
mẻ và sâu sắc của Đảng ta về khái niệm “nền văn hóa tiên tiến, đậm đà
bản sắc dân tộc”, về vai trị của văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội,
về quan hệ giữa kinh tế và văn hóa... Hội nhập quốc tế đang là một xu thế
lớn khách quan lôi cuốn nhiều quốc gia, khu vực tham gia. Xu thế này
vừa tạo cho chúng ta cơ hội để mở rộng giao lưu, học tập văn hóa giữa
các dân tộc, quốc gia; nhưng cũng làm nảy sinh nguy cơ mai một, biến
18


chất các giá trị văn hóa truyền thống của từng dân tộc. Trong bối cảnh
quốc tế mà các chế độ chính trị - xã hội khác nhau cùng tồn tại, vừa hợp
tác vừa đấu tranh; trong giao lưu, hợp tác và phát triển văn hóa, chúng ta
vừa phải biết tiếp thu chọn lọc những giá trị tinh hóa văn hóa nhân loại,
vừa duy trì và bảo tồn các giá trị văn hóa dân tộc.

-

Con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển
tồn diện;
Cụm từ “được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất công” được nêu trong
đặc trưng thứ tư của Cương lĩnh 1991 và trong đặc trưng thứ 5 Văn kiện
Đại hội X được Cương lĩnh 2011 lược bỏ và xác định là “Con người có
cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển tồn diện”. Sự
thay đổi này là hoàn toàn hợp lý và đúng đắn. Bởi lẽ, sự “ấm no, tự do,
hạnh phúc” của con người cũng đồng nghĩa với việc con người được giải
phóng khỏi áp bức, bóc lột và bất cơng. Trong Cương lĩnh năm 2011 xác
định “con người... có điều kiện phát triển tồn diện” (trong Cương lĩnh
1991 viết: “Con người... có điều kiện phát triển toàn diện cá nhân”, cũng
Văn kiện Đại hội X ghi “con người ... được phát triển toàn diện”). Việc

bổ sung cụm từ “có điều kiện” là thể hiện trong chủ nghĩa xã hội sự phát
triển của con người luôn được tạo điều kiện, tạo động lực, cơ hội nhưng
cũng đồng thời phải căn cứ vào trình độ phát triển kinh tế - xã hội của đất
nước.
Bản chất xã hội và trình độ phát triển của xã hội chủ nghĩa chính là là bản
chất và trình độ phát triển của con người. Xã hội xã hội chủ nghĩa chính
là nơi: sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự
do của tất cả mọi người... như C.Mác đã nói: “Đặc trưng người nhất của
khát vọng con người là hạnh phúc. Bởi có thể người ta giàu có, đầy đủ
tiện nghi, được phát triển, song vẫn bất hạnh. Hạnh phúc là trạng thái yên
19


lành, hài hòa, là tinh thần thoải mái biểu hiện sự mãn nguyện thanh cao
nhất của con người. Phấn đấu đạt tới một xã hội bảo đảm hạnh phúc cho
con người, đó là một xã hội văn hóa cao”.

-

Các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đồn kết, tương trợ,
giúp nhau cùng tiến bộ;
Trong đặc trưng thứ 5 của Cương lĩnh năm 1991 viết “Các dân tộc trong
nước bình đẳng, đồn kết và giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ”; trong Văn
kiện Đại hội X viết: “Các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng,
đồn kết, tương trợ, giúp nhau cùng tiến bộ”. Trong Cương lĩnh 2011, đặc
trưng này được điều chỉnh thành “Các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam
bình đẳng, đồn kết, tơn trọng và giúp nhau cùng phát triển”. Việc thay
thuật ngữ “tương trợ” bằng thuật ngữ “tơn trọng” hồn tồn đúng đắn và
làm cho đặc trưng này có nội dung tồn diện, sâu sắc hơn (với 4 tiêu chí:
bình đẳng, đồn kết, tơn trọng và giúp nhau), bởi thuật ngữ “tương trợ”

và “giúp nhau” (trong Văn kiện Đại hội X), về cơ bản, có nội dung như
nhau.
Chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta đang xây dựng chắc chắn phải bảo đảm
quyền bình đẳng giữa các dân tộc trên mọi lĩnh vực văn hóa - đời sống: từ
kinh tế, chính trị đến văn hóa, xã hội, khơng phân biệt dân tộc đa số hay
thiểu số, về lịch sử ra đời sớm hay muộn, trình độ phát triển cao hay thấp
giữa các dân tộc. Đối lập với các chế độ áp bức bóc lột người thường
phân biệt, kỳ thị và chia rẽ các dân tộc, phân biệt giai cấp thường thấy ở
chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta đang xây dựng gắn
liền với việc xây dựng tình đồn kết các dân tộc, tôn trọng và giúp đỡ
nhau cùng phát triển, từng bước rút ngắn khoảng cách chênh lệch về trình
độ phát triển giữa các dân tộc hiện nay.

20


-

Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới.
Nếu trong Cương lĩnh 1991, đặc trưng thứ 6 của chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam được viết là “Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân tất cả
các nước trên thế giới” thì trong Văn kiện Đại hội lần thứ X và trong
Cương lĩnh 2011, nó được diễn đạt một cách chính xác hơn - “Có quan hệ
hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới”. Cụm từ “với các nước
trên thế giới” rõ ràng mang ý nghĩa rộng hơn cụm từ “với nhân dân tất cả
các nước trên thế giới”. Nó thể hiện mối quan hệ hữu nghị và hợp tác của
Việt Nam không chỉ dừng lại với nhân dân các nước, mà hơn cả là cùng
với nhà nước, chính phủ và các tổ chức phi chính phủ của các nước trên
thế giới.
Quan hệ hữu nghị và hợp tác chính là thể hiện sự thiện chí, cởi mở và tạo

điều kiện cho các quốc gia hội nhập, tiếp thu những thành quả phát triển
của mỗi bên, tích lũy kinh nghiệm và rút ngắn quá trình phát triển của
mỗi nước. Điều có ý nghĩa lớn lao hơn là ở chỗ, “hữu nghị”, “hợp tác”,
“phát triển” chính là bản chất và khát vọng mang tính nhân văn cao cả
của nhân loại, của loài người; điều thể hiện bản chất cao đẹp nhất của xã
hội xã hội chủ nghĩa.
Trong điều kiện hội nhập quốc tế diễn ra ngày càng sâu rộng, đặc trưng
này cịn càng tính ưu việt của đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hịa
bình, hợp tác và phát triển; đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ, chủ
động và tích cực hội nhập quốc tế của Đảng và Nhà nước ta. Việt Nam
luôn luôn khẳng định quan hệ hữu nghị và hợp tác giữa nhân dân ta và
nhân dân các nước trên thế giới. Việt Nam là bạn, là đối tác tin cậy của
các nước trong cộng đồng quốc tế. Đảng và Nhà nước ta chủ trương hợp
tác bình đẳng, cùng có lợi với tất cả các nước, khơng phân biệt chế độ
chính trị - xã hội khác nhau trên cơ sở tôn trọng những nguyên tắc cơ bản
của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế.

21


IV.

CÁC ĐẶC TRƯNG CỦA XÃ HỘI XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
MÀ NHÂN DÂN TA XÂY DỰNG NGÀY CÀNG ĐƯỢC
HIỆN THỰC HÓA.
1. Việc thực hiện đặc trưng tổng quát: dân giàu, nước mạnh,
dân chủ, công bằng, văn minh từng bước được hiện thực
hóa.
Đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân ngày càng được cải thiện. Các
phong trào xây dựng gia đình văn hóa, làng, xã văn hóa, đồn kết ở các

khu dân cư được hưởng ứng rộng rãi, các hoạt động của Hội Phụ nữ, Hội
Cựu chiến binh của địa phương hoạt động có hiệu quả và đạt được kết
quả tốt, góp phần xây dựng tính đồn kết dân tộc.
Việc ban hành và thực hiện quyền làm chủ của nhân dân được Hiến pháp
khẳng định rõ ràng, được Nhà nước thực hiện giám sát, các ý kiến xây
dựng Đảng và Nhà nước của nhân dân được ghi nhận, lắng nghe và đưa
lên Chính phủ và Quốc hội. Nhân dân thực hiện quyền làm chủ trực tiếp
ngày càng nhiều hơn, nhất là thực hiện quyền ứng cử, bầu cử Quốc hội và
Hội đồng nhân dân các cấp vừa diễn ra vào ngày 23/5/2021 đã đạt kết quả
thành công tốt đẹp. Xã hội ngày càng công bằng, văn minh hơn.

1. Việc thực hiện nhân dân làm chủ có bước tiến mới.

Đảng và Nhà nước đã và đang ban hành nhiều chủ trương, chính sách,
pháp luật nhằm bảo đảm thực hiện quyền làm chủ của nhân dân. Ý thức
về quyền và nghĩa vụ công dân, năng lực làm chủ, tham gia quản lý xã
hội của nhân dân, ý thức về dân chủ trong xã hội được nâng lên thông qua
các hoạt động tuyên truyền, phổ cập kiến thức về dân chủ đạt kết quả tốt.
Việc thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở và Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở
xã, phường, thị trấn có tiến bộ.
22


Quyền làm chủ của nhân dân được phát huy tốt hơn trong các lĩnh vực
của đời sống xã hội bằng dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện, nhất là
trong lĩnh vực chính trị và kinh tế, nhân dân tích cực đóng góp ý kiến của
mình về các mặt đời sống xã hội góp phần xây dựng đất nước ngày càng
giàu mạnh hơn.

2. Việc xây dựng nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực

lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù
hợp đạt kết quả quan trọng.
Từ mơ hình tăng trưởng từ chủ yếu theo chiều rộng, đất nước ta đã có sự
chuyển biến sang kết hợp giữa chiều rộng và chiều sâu, chú trọng phát
triển theo chiều sâu, tập trung nâng cao chất lượng tăng trưởng và sức
cạnh tranh trên cơ sở nâng cao năng suất lao động, ứng dụng khoa học –
công nghệ vào sản xuất, đổi mới và sáng tạo phương thức lao động, nâng
cao chất lượng nguồn nhân lực, phát huy lợi thế so sánh và chủ động hội
nhập quốc tế. Cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa tiếp tục được đẩy mạnh, đạt
một số kết quả quan trọng. Cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động có bước
chuyển biến tích cực. Năng suất lao động và sức cạnh tranh được nâng
lên.
Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được khẳng định,
các hệ thống luật pháp, cơ chế, chính sách, tiếp tục được bổ sung và hồn
thiện nhằm xác định vai trò vững chắc của thể chế kinh tế thị trường. Vai
trò, hiệu quả, sức cạnh tranh của các chủ thể, các loại hình doanh nghiệp
trong nền kinh tế được nâng lên. Các yếu tố thị trường và các loại thị
trường được phát triển và tạo điều kiện đồng bộ hơn, gắn kết với thị
trường khu vực và quốc tế. Các thành phần kinh tế tiếp tục phát triển.
23


Kinh tế nhà nước vẫn nắm vai trò chủ đạo, bên cạnh đó là sự phát triển và
củng cố của kinh tế tập thể, trở thành nền tảng vững chắc của kinh tế
quốc dân. Kinh tế tư nhân hiện đang dần trở thành một trong những động
lực của nền kinh tế. Ngồi ra, kinh tế có vốn đầu tư nước ngồi đang
được Nhà nước khuyến khích phát triển với những chính sách vơ cùng ưu
đãi.

3. Việc xây dựng, phát triển văn hóa, con người có tiến bộ.

Sự nghiệp xây dựng văn hóa và phát triển tồn diện con người đã được
Đảng, Nhà nước quan tâm trong các chính sách phát triển kinh tế - xã hội.
Đảng và Nhà nước đang thực hiện tốt nhiệm vụ xây dựng con người
nhằm đáp ứng yêu cầu của xã hội trong thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp
hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế có bước chuyển biến quan trọng.
Bước đầu đã hình thành những giá trị mới về con người với các phẩm
chất và trách nhiệm xã hội tốt đẹp, ý thức công dân, dân chủ, chủ động,
sáng tạo, khát vọng được thúc đẩy và tạo điều kiện thông qua các hoạt
động thi đua, đổi mới sáng tạo trong lao động. Các giá trị văn hóa truyền
thống của các dân tộc được kế thừa, duy trì và phát huy; nhiều di sản văn
hóa được bảo tồn, tơn trọng. Giao lưu và hợp tác quốc tế về văn hóa có
nhiều khởi sắc, tạo điều kiện giới thiệu văn hóa, bản sắc dân tộc tới bạn
bè quốc tế, khẳng định vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.

4. Việc thực hiện các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình
đẳng, đồn kết và giúp nhau cùng phát triển đạt kết quả
quan trọng.

24


Đảng và Nhà nước đã và đang tiếp tục hoàn thiện các cơ chế, chính sách,
nhằm bảo đảm các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam được hưởng các
quyền lợi bình đẳng, xây dựng tinh thần đồn kết 54 dân tộc anh em, giải
quyết hài hòa quan hệ giữa các dân tộc, giúp nhau cùng phát triển kinh tế,
văn hóa, xã hội. Nhà nước cũng có những chính sách ưu tiên đối với
những vùng có đồng bào dân tộc thiểu số, nhất là các vùng Tây Bắc, Tây
Nguyên, Tây Nam Bộ, Tây Duyên hải miền Trung nhằm đảm bảo mọi
công dân đều được hưởng quyền lợi của mình. Các dân tộc được Đảng và
Nhà nước bảo vệ và phát triển tiếng nói, chữ viết, giữ gìn bản sắc dân tộc,

phát huy phong tục, tập quán, truyền thống và văn hóa tốt đẹp của mình.
Đấu tranh chống kỳ thị dân tộc; nghiêm trị những âm mưu, hành động
chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc được tăng cường mạnh mẽ.

5. Việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của
nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân đạt những thành tựu
quan trọng.

Quan điểm và thể chế về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa được bổ
sung, hoàn thiện một bước quan trọng và cơ bản. Trong Hiến pháp năm
2013 đã được ghi rõ: "Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do
nhân dân làm chủ; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền
tảng là liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nơng dân và đội ngũ trí
thức".
Ngun tắc tổ chức quyền lực nhà nước được quy định đầy đủ hơn trong
Hiến pháp năm 2013: "Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân
cơng, phối hợp, kiểm sốt giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện
25


Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×