HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUN TRUYỀN
KHOA TUN TRUYỀN
*
TIỂU LUẬN
MƠN: HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ THẾ GIỚI ĐƯƠNG ĐẠI
ĐỀ TÀI:
NHÀ NƯỚC NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
Học viên
:
Lớp
: Cao học QLHĐTT-VH K26.2
Hà Nội – 2021
0
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU..............................................................................................................2
NỘI DUNG...........................................................................................................3
CHƯƠNG I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN.............3
1.1. Những tiền đề tư tưởng cho việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa Việt Nam............................................................................................3
1.1.1. Tư tưởng nhà nước pháp quyền trong lịch sử tư tưởng phương Tây.........3
1.1.2. Nhà nước pháp quyền trong lịch sử tư tưởng phương Đông................5
1.1.3. Những nhân tố nhà nước pháp quyền trong học thuyết Mác - Lênin và
tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật...........................................7
1.2. Khái niệm và những đặc điểm cơ bản của nhà nước pháp quyền.............10
1.2.1. Khái niệm nhà nước pháp quyền........................................................10
1.2.2. Những đặc điểm cơ bản của nhà nước pháp quyền............................10
1.3. Những quan điểm cơ bản về xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa Việt Nam, của dân, do dân và vì dân......................................................11
1.3.1. Xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam là yêu cầu phát triển tất
yếu khách quan.............................................................................................11
1.3.2. Những quan điểm cơ bản về xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa Việt Nam......................................................................................12
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC
PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM......................................17
2.1. Thực trạng xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam........17
2.1.1. Thành tựu............................................................................................17
2.1.2. Hạn chế...............................................................................................18
2.2. Phương hướng và giải pháp xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa Việt Nam................................................................................................19
2.2.1. Cải cách thể chế và phương thức hoạt động của nhà nước................19
2.2.2. Hoàn thiện hệ thống pháp luật............................................................21
2.2.3. Phát huy dân chủ, giữ vững kỷ luật, kỷ cương, tăng cường pháp chế......22
2.2.4. Xây dựng đội ngũ cán bộ, cơng chức trong sạch, có năng lực...........23
KẾT LUẬN........................................................................................................24
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.........................................................25
1
MỞ ĐẦU
Trong các văn kiện của Đảng, đặc biệt là Nghị quyết Đại hội IX của Đảng
đã khẳng định nhiệm vụ "xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của
nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng". Đó chính là
sự tiếp tục phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước pháp quyền trong điều
kiện mới. Ngay từ buổi đầu được thành lập và trong suốt quá trình xây dựng, phát
triển, Nhà nước ta đã mang những yếu tố của Nhà nước pháp quyền của nhân dân,
do nhân dân và vì nhân dân, gắn bó chặt chẽ và phục vụ lợi ích của nhân dân, của
dân tộc. Nhà nước đã từng bước thực hiện việc quản lý xã hội bằng pháp luật,
không ngừng phát huy dân chủ, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Q trình đổi mới tồn diện đất nước mà trọng tâm là đổi mới kinh tế theo
đường lối của Đảng đang diễn ra sôi động. Nền kinh tế hàng hoá nhiều thành
phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước từng bước
hình thành cùng với việc thực hiện đường lối đối ngoại mở cửa và yêu cầu dân
chủ hoá đời sống xã hội, tất cả đang địi hỏi một mơi trường pháp lý thuận lợi,
an toàn, bộ máy nhà nước có năng lực, đội ngũ cán bộ ngang tầm với nhiệm vụ
chính trị. Vì vậy, việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trở thành
nhu cầu bức thiết của sự nghiệp đổi mới ở nước ta hiện nay. Đây là nhiệm vụ to
lớn của sự nghiệp cách mạng nước ta, đặt ra nhiều thách thức, khó khăn, phức
tạp cả trong lý luận và thực tiễn mà chúng ta phải vượt qua. Việc tiến hành xây
dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong điều kiện xuất phát
điểm của đất nước ta trong giai đoạn hiện nay là một việc chưa có tiền lệ trong
lịch sử. Trong quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền đòi hỏi chúng ta vừa
thực hiện, vừa nghiên cứu, tổng kết để hình thành dần, hồn thiện dần mơ hình
phù hợp với yêu cầu mà lịch sử đặt ra đồng thời giữ được những yếu tố truyền
thống, bản sắc của Việt Nam nhằm đưa cách mạng nước ta đến mục tiêu: Dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Với lý do trên nên tôi
chọn đề tài: “Nhà nước nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
hiện nay” làm tiểu luận cho môn Hệ thống chính trị thế giới đương đại.
2
NỘI DUNG
CHƯƠNG I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN
1.1. Những tiền đề tư tưởng cho việc xây dựng nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa Việt Nam
1.1.1. Tư tưởng nhà nước pháp quyền trong lịch sử tư tưởng phương Tây
Lịch sử tư tưởng Nhà nước pháp quyền là lịch sử hình thành và phát triển
của tư tưởng về sự hợp lý và công bằng trong tổ chức một hình thức chính trị
hợp lý của đời sống xã hội, về mối tương quan giữa quyền lực và pháp luật.
Khái niệm nhà nước pháp quyền được các học giả phương Tây đưa ra vào
thế kỷ XVIII - XIX nhằm chống lại nhà nước chuyên chế, độc đoán. Nhà nước
pháp quyền không phải là một kiểu nhà nước tương ứng với hình thái kinh tế xã
hội trong lịch sử phát triển nhân loại. Nói đến nhà nước pháp quyền là nói đến
hình thức và nội dung dân chủ của nhà nước - một nhà nước được tổ chức hài
hoà giữa quyền lực và pháp luật, tơn trọng tính tối cao của pháp luật. Do vậy,
người ta thường hay gắn nhà nước pháp quyền với dân chủ, coi nhà nước pháp
quyền là một chế định.
Từ thời cổ đại, người ta đã tìm kiếm các nguyên tắc, hình thức và cơ cấu
để thiết lập mối quan hệ qua lại hài hoà giữa pháp luật và quyền lực. Quyền lực
muốn trở thành sức mạnh phải dựa vào pháp luật đồng thời lại bị ràng buộc bởi
pháp luật. Nhà thông thái Xôlông đã khẳng định: “Ta giải phóng tất cả mọi
người bằng quyền lực của pháp luật, bằng sự kết hợp sức mạnh với pháp luật”.
Sau này, Aristơt cũng đồng tình với tư tưởng ấy. Ông đề cao vai trò của pháp
luật tự nhiên trong việc tạo ra sự công bằng cho xã hội. Ở đây, khái niệm công
bằng gắn với khái niệm nhà nước bởi nhà nước gắn bó chặt chẽ với pháp luật mà
pháp luật là tiêu chuẩn đánh giá sự công bằng.
Các nhà tư tưởng cổ đại một mặt đề cao tính tối cao của luật, một mặt chú
ý tới sự tổ chức hợp lý của hệ thống quyền lực nhà nước, sự phân định chức
năng, quyền hạn rõ ràng, khơng có quy định trật tự nhất định trong mối quan hệ
3
giữa các cơ quan đó thì khơng thể đảm bảo tính tối cao của luật và lẽ đương
nhiên khơng thể nói về nhà nước pháp quyền.
Sau này, tư tưởng nhà nước pháp quyền ngày càng phát triển và hoàn
thiện cùng với cuộc cách mạng tư sản. Tư tưởng nhà nước pháp quyền đã đan
xen vào quan niệm phân quyền, chế độ lập hiến và dân chủ. Trong sự phát triển
của lịch sử và lý luận, điều có ý nghĩa quan trọng trong giai đoạn này là những
vấn đề về quyền lực chính trị dưới hình thức phân quyền trở nên phù hợp. Thế
giới quan pháp lý của giai cấp tư sản đang lên đòi hỏi phải khẳng định những
quan niệm mới về tự do của con người thông qua việc tơn trọng tính tối cao của
luật trong điều chỉnh các quan hệ xã hội.
Khi nói về lịch sử nhà nước pháp quyền ở phương Tây không thể không
đề cập tới lịch sử tư tưởng về xã hội công dân. Và cơ sở của xã hội cơng dân
chính là tư tưởng của khế ước xã hội - tư tưởng của Rutxô được trình bày rõ
trong tác phẩm nổi tiếng: “Bàn về khế ước xã hội”. Rutxô bàn nhiều về các
quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp trong một nhà nước được xây dựng trên
cơ sở khế ước xã hội. Tính tối cao của luật, theo ông được thể hiện ở chỗ mọi
thành viên trong xã hội phải tuân thủ pháp luật một cách nghiệm chỉnh, ông vua
chỉ làm theo mô hình của nhà lập pháp, nhà lập pháp là kỹ sư sáng chế ra máy,
ông vua chỉ là người thợ dựng máy lên và vận hành máy.
Trong lịch sử nhà nước pháp quyền phương Tây, người ta cũng gắn những
dấu hiệu của nhà nước pháp quyền với với quan niệm của phân quyền: quyền
lập pháp, hành pháp và tư pháp. Điều đó được nêu rõ trong tác phẩm của
Mơngtexkiơ. Để tránh lạm quyền, ba quyền đó cần giao cho ba cơ quan khác
nhau, có khả năng kiềm chế lẫn nhau. Theo Mơngtexkiơ đó chính là điều kiện để
đảm bảo tự do chính trị trong nhà nước. Và thực sự thuyết phân quyền của
Môngtexkiơ đã đã ảnh hưởng lớn đến quan niệm về nhà nước pháp quyền, pháp
luật, hiến pháp của các nước đặc biệt là trong Hiến pháp Hoa Kì 1787, trong
Tuyên ngôn về quyền con người và quyền công dân của cách mạng tư sản Pháp.
Điều 5 của Tuyên ngơn 1789 viết: Luật chỉ có thể cấm những hành vi có hại đối
4
với xã hội, tất cả những gì mà luật khơng cấm là điều cho phép làm và khơng ai
có thể bị buộc phải làm điều gì mà luật khơng quy định.
Cantơ là người đã lập luận về mặt triết học cho lý luận về nhà nước pháp
quyền. Theo ông, nhà nước là sự tập hợp của nhiều người đều phục tùng các đạo
luật pháp quyền. Tức là, nhà nước là một tổ chức chính trị của xã hội - một xã
hội dân sự, trong đó mọi người đều phục tùng ý chí chung được thể hiện dưới
hình thức đạo luật và đạo luật đó phù hợp với pháp luật tự nhiên. Cantơ triệt để
tán thành việc áp dụng thuyết phân quyền trong tổ chức và thực hiện quyền lực
nhà nước: ở đâu có phân quyền thì ở đó có nhà nước pháp quyền cịn nếu khơng
ắt sẽ dẫn tới sự chuyên quyền. Thực ra, Cantơ đã quá cường điệu nguyên tắc
phân quyền của Môngtexkiơ. Thực tiễn cho thấy, phân quyền không phải là dấu
hiệu duy nhất của nhà nước pháp quyền.
Còn theo Hêghen, pháp luật là tư tưởng tự do, nhà nước cũng chính là
pháp luật. Hêghen đặt nhà nước lên trên hết, trên xã hội và trên cá nhân, thần
thánh hoá nhà nước, coi nhà nước là sự du ngoạn của Trời trên Trái đất. Ơng đề
cao tính tối cao của luật, bởi vì luật của Nhà nước cũng chính là sự thể hiện cụ
thể của pháp luật tự nhiên. Hêghen khẳng định: sự tự do chỉ tồn tại dưới chỉnh
thể quân chủ lập hiến dựa trên cơ sở của ngun tắc phân quyền. Có thể thấy rõ
rằng, tồn bộ tư tưởng của Hêghen về Nhà nước phân quyền trực tiếp chống lại
sự lạm quyền, chống mọi sự dùng bạo lực phi pháp. Ông đã dùng chủ nghĩa nhà
nước để chống lại chủ nghĩa cực quyền.
Tóm lại, các nhà tư tưởng phương Tây đều nhấn mạnh tính tối cao của
luật, coi đó là tiêu chuẩn quan trọng nhất của nhà nước pháp quyền. Đó chính là
sự bình đẳng của tất cả mọi người trước pháp luật. Và mục tiêu quan trọng của
nhà nước pháp quyền là làm thế nào để tổ chức được đời sống của nhân dân, sao
cho mỗi thành viên đều nhận được sự giúp đỡ và khuyến khích sự phát triển tối
đa và hồn thiện năng lực tổng hợp của mình.
1.1.2. Nhà nước pháp quyền trong lịch sử tư tưởng phương Đông
Trong lịch sử Nhà nước và pháp luật thế giới cũng đã tồn tại một loại hình
tư tưởng gần với nhà nước pháp quyền. Đó là nhà nước pháp trị - đối lập với nhà
5
nước đức trị, được sinh ra ở phương Đông trong thời kì nhà nước Trung Quốc cổ
đại. Thuyết pháp trị là học thuyết chính trị của các nhà luật học phái pháp gia do
Quản Trọng, Thương Ưởng, Than Bất Hại, Thận Đáo đề xướng, Hàn Phi Tử
phát triển và hoàn chỉnh. Nội dung cơ bản và quan điểm cai trị của học thuyết là
chỉ thừa nhận pháp luật và dùng nghiêm hình phạt. Theo thuyết pháp trị, vua trị
nước phải có ba yếu tố đó là pháp, thế và thuật. Khi vua có đủ ba yếu tố đó thì
vua phải chun quyền, độc đốn, dùng nghiêm hình phạt để cai trị.
Hàn Phi Tử cho rằng trong việc trị nước thì pháp luật là quan trọng nhất:
“Khơng có nước nào ln ln mạnh, cũng khơng có nước nào ln yếu. Hễ
những người thi hành pháp luật mà mạnh thì nước mạnh cịn hễ những người thi
hành pháp luật yếu thì nước yếu”. Mọi việc làm của vua cũng đều phải dựa trên
pháp luật. Tức là, một khi pháp luật được ban hành thì việc thi hành pháp luật
phải như nhau đối với mọi người, tất cả đều bình đẳng trước pháp luật. Tuy
nhiên, Hàn Phi Tử chưa có quan niệm rõ ràng về bản chất của pháp luật. “Luật”
của ơng chính là “Phép tắc của tiên vương”. Nhà vua trị nước bằng pháp luật
chính là bằng những quy định do vua ban ra. Và trong việc thi hành pháp luật,
Hàn Phi Tử thiên về chức năng trừng phạt: “hình phạt nghiêm là để lệnh được
thi hành”, để ngăn cấm những việc riêng tư sai lầm.
Nhìn lại một cách khái quát, chúng ta thấy rằng nhà nước pháp trị của
Trung Quốc không phải là nhà nước pháp quyền mặc dù ở đó cũng đề cao vai
trị của pháp luật. Nó mang một số điểm tiến bộ là đã chống lại nhà nước đức trị
đã ngự trị hàng nghìn năm trước đó với hệ tư tưởng của đạo Khổng, trong đó
hình phạt chỉ dành cho hạng thứ dân, bậc trượng phu không phải chịu hình phạt.
Tuy cịn có những tồn tại nhất định nhưng tư tưởng pháp trị đã nhất mực khẳng
định sự thống trị của pháp luật trong đời sống xã hội. Đó cũng là một trong
những tư tưởng có ảnh hưởng lớn đến các nước phương Đông từ thời cổ đại,
trung đại, cận đại và cho tới hiện nay.
Lịch sử Việt Nam cũng có những biểu hiện của tư tưởng đề cao tính tối
cao của pháp luật đặc biệt là giai đoạn từ thế kỷ XIV đến thế kỷ XVIII. Thời Lý
- Trần, các vua đã coi trọng tới việc dùng pháp luật để trị nước. Năm 1340, Luật
6
Hình thư ra đời. Sang thế kỷ XV, việc ban hành pháp luật được xúc tiến mạnh
nhất với rất nhiều cơng trình, văn bản pháp luật đã được pháp điển hố. Đó là
Quốc triều hình luật (6 quyển), Quốc triều luật lệnh (6 quyển)… trong đó Quốc
triều hình luật là bộ luật quan trọng và chính thống khơng chỉ trong thời Lê sơ
mà cịn cả thời Hậu Lê và có ảnh hưởng tới cả các giai đoạn sau. Người ta gọi
đó là Luật Hồng Đức.
Sau này, vào giữa thế kỷ XIX, lịch sử Việt Nam có một người theo chủ
nghĩa cách tân, ủng hộ pháp trị và ở một chừng mực nhất định đã có suy nghĩ về
tính khách quan của pháp luật, về sự bình đẳng của mọi người trước pháp luật.
Đó là Nguyễn Trường Tộ. Ơng cho rằng: nói đến phép trị nước phải nói đến
dùng pháp luật để duy trì trật tự nhưng luật pháp phải hợp với lịng trời, lịng
người. Muốn vậy, khơng nên cưỡng ép mà phải đặc biệt xây dựng trên cơ sở tự
do và công bằng. Như vậy, trong tư tưởng cách tân, quan điểm ủng hộ thuyết
pháp trị của Nguyễn Trường Tộ đã có những dấu hiệu về một nhà nước pháp
quyền. Bởi vì, quan niệm của ơng về pháp luật cơ bản khơng phải là sản phẩm
của sự duy ý chí, một khi pháp luật đã được ban hành thì mọi người đều bình
đẳng trước pháp luật.
Nghiên cứu lịch sử tư tưởng về nhà nước pháp quyền phương Đông,
phương Tây mặc dù cịn có nững vấn đề chưa được hồn thiện, hay chưa hình
thành rõ nét nhưng nó đã đặt nền cơ sở cho chúng ta tiếp tục nghiên cứu và hoàn
thiện trong giai đoạn hiện nay.
1.1.3. Những nhân tố nhà nước pháp quyền trong học thuyết Mác Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật
Trên cơ sở nhân định chính xác về bản chất của chế độ dân chủ của nhà
nước xã hội chủ nghĩa, Lênin đã đề ra nhiệm vụ phải làm cho người lao động
học cách quản lý nhà nước, thu hút đông đảo quần chúng nhân dân tham gia vào
công việc của nhà nước và xã hội, kiên quyết chống chủ nghĩa quan liêu, loại trừ
những kẻ đặc quyền, đặc lợi, những kẻ đứng trên quần chúng. Phải có những
biện pháp hữu hiệu để mọi người dân có thể thực hiện chức năng kiểm tra, giám
7
sát các cơ quan và cán bộ nhà nước. Theo Lênin, làm được như vậy sẽ gây trong
quần chúng một nhiệt tình cách mạng cao chưa từng thấy trong lịch sử.
Chủ nghĩa Mác - Lênin không đưa ra vấn đề phân chia quyền lực trong tổ
chức và bộ máy của nhà nước xã hội chủ nghĩa. Tuy cũng tồn tại sự phân cơng
các hình thức và lĩnh vực hoạt động lập pháp, hành pháp và tư pháp nhưng
quyền lực nhà nước xã hội chủ nghĩa là thống nhất, khơng có sự phân lập, đối
trọng giữa các hệ thống cơ quan đó. Do vậy, mối liên hệ giữa nhà nước và pháp
luật xã hội chủ nghĩa như là yếu tố đảm bảo cho nền dân chủ xã hội chủ nghĩa.
Điều đó xuất phát từ tính thống nhất nội tại thuộc về bản chất của chế độ xã hội
chủ nghĩa chứ không phải do cơ chế kìm chế, đối trọng về quyền lực nhà nước
như trong xã hội tư bản theo quan niệm của thuyết phân quyền.
Một trong những vấn đề quan trọng thể hiện một cách đặc thù mối liên hệ
giữa nhà nước xã hội chủ nghĩa và pháp luật xã hội chủ nghĩa là vấn đề pháp chế
xã hội chủ nghĩa. Nhìn khái quát, theo các quan điểm của Lênin thì pháp chế xã
hội chủ nghĩa được hiểu là sự hiện diện của hai thành tố cơ bản nói lên bản chất
của chế độ nhà nước và pháp luật xã hội chủ nghĩa. Đó là, hệ thống pháp luật
hồn chỉnh và sự tuân thủ pháp luật một cách nghiêm ngặt của tất cả các chủ thể
pháp luật. Vấn đề chủ yếu trong học thuyết pháp chế của Lênin là cần phải
nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật xã hội chủ nghĩa cùng với điều kiện tối cần
thiết là nhà nước xã hội chủ nghĩa phải có một hệ thống kiểm tra, giám sát một
cách chặt chẽ.
Điều cốt lõi trong pháp chế xã hội chủ nghĩa là pháp luật phải được chấp
hành đúng với tinh thần các quy phạm của nó, khơng được vin vào các đặc điểm
riêng biệt của địa phương, của ngành hay địa vị xã hội; chỉ tính đến điều đó
trong trường hợp tìm kiếm các biện pháp và hình thức thích hợp để đưa pháp
luật vào cuộc sống. Đặc biệt đối với nhà nước, các cơ quan, nhân viên nhà nước
phải nêu gương tuân thủ pháp luật một cách nghiêm chỉnh, chống thói chuyên
quyền và những hành vi vi phạm pháp luật. Như vậy, pháp pháp chế xã hội chủ
nghĩa được coi là công cụ quan trọng để thực hiện nền chun chính vơ sản, xây
dựng và củng cố nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Pháp chế xã hội chủ nghĩa thực
8
sự là phương thức thực hiện mối liên hệ bản chất giữa nhà nước xã hội chủ
nghĩa và pháp luật xã hội chủ nghĩa.
Trên cơ sở tiếp thu những yếu tố tích cực trong lịch sử tư tưởng, quán triệt
những quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về nhà nước và pháp luật, Hồ Chí
Minh cũng thể hiện rất rõ tư tưởng của mình về một nhà nước pháp quyền.
Trước hết, Người khẳng định nhà nước phải là nhà nước hợp hiến. Chính vì vậy,
khi cách mạng tháng Tám thành cơng, Hồ Chí Minh đã thay mặt Chính phủ
tun bố trước quốc dân đồng bào và cộng đồng thế giới về quyền độc lập, tự do
của dân tộc Việt Nam: “Nước Việt Nam có quyền được hưởng tự do và độc lập
và sự thật đã thành một nước tự do, độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết
đem tất cả tinh thần, lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền độc lập
tự do ấy”. Vì thế, Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà là một nhà nước hợp
hiến, nó tiêu biểu cho ý chí, nguyện vọng của nhân dân Việt Nam. Ngay trong
phiên họp đầu tiên của Chính phủ, Người đã đề nghị tổ chức tổng tuyển cử bầu
Quốc hội, thành lập Chính phủ chính thức và ra Hiến pháp. Tháng 11/1946, bản
Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đã được thông qua.
Người cũng khẳng định một nhà nước pháp quyền là một nhà nước có nền
pháp lý mạnh mẽ, pháp luật và dân chủ đi liền với nhau. Khơng có dân chủ
ngồi pháp luật, pháp luật là bà đỡ của dân chủ. Mọi quyền dân chủ phải được
thể chế hoá bằng Hiến pháp và pháp luật. Pháp luật phải đảm bảo cho quyền tự
do dân chủ được thực hiện trên thực tế. Xây dựng một nền pháp chế xã hội chủ
nghĩa, thực hiện quyền lực của nhân dân là mối quan tâm hàng đầu của Người.
Nét đặc sắc trong tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước pháp quyền còn
được thể hiện ở sự thống nhất biện chứng giữa pháp luật và đạo đức. Người đề
cao vai trò của pháp luật, mọi người dân đều bình đẳng trước pháp luật và cán
bộ, đảng viên phải luôn gương mẫu trong việc chấp hành luật pháp. Mặt khác,
Người cũng đặc biệt chú ý đến việc giáo dục đạo đức cho nhân dân. Người cho
rằng dù pháp luật có đầy đủ đến đâu cũng không thể điều chỉnh được hết mọi
quan hệ xã hội, trong khi đó đạo đức có phạm vi điều chỉnh rộng hơn và mang
tính tự giác. Vì vậy, phải kết hợp chặt chẽ giữa quản lý điều hành xã hội bằng
9
pháp luật với việc tuyên truyền, giáo dục đạo đức cách mạng. Suốt cả cuộc đời,
Người luôn là tấm gương sáng về đạo đức cách mạng cũng như ý thức chấp
hành pháp luật.
Chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp
luật, về nhà nước pháp quyền là cơ sở quan trọng để chúng ta xây dựng và hoàn
thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam qua các các thời kì cách
mạng. Ngày nay, tư tưởng ấy vẫn tiếp tục rọi sáng con đường xây dựng và hoàn
thiện nhà nước pháp quyền xã hội, phục vụ sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước.
1.2. Khái niệm và những đặc điểm cơ bản của nhà nước pháp quyền
1.2.1. Khái niệm nhà nước pháp quyền
Nhà nước pháp quyền là một hình thức tổ chức nhà nước với sự phân
cơng lao động khoa học, hợp lý giữa các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp,
có cơ chế kiểm sốt quyền lực, nhà nước được tổ chức và hoạt động trên cơ sở
pháp luật, nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, pháp luật có tính khách quan,
nhân đạo, cơng bằng, tất cả vì lợi ích chính đáng của con người.
1.2.2. Những đặc điểm cơ bản của nhà nước pháp quyền
Trên cơ sở lý luận và thực tiễn của nhà nước pháp quyền, có thể nêu
những đặc điểm cơ bản nhất về nhà nước pháp quyền như sau:
- Nhà nước pháp quyền là nhà nước có hệ thống pháp luật hồn thiện, bảo
đảm tính đồng bộ, thống nhất để thực hiện quản lý xã hội bằng pháp luật dựa
trên nền tảng đạo đức xã hội và đạo đức tiến bộ của nhân loại.
- Xác lập và có cơ chế hữu hiệu để đảm bảo tính tối cao của luật trong hệ
thống các văn bản pháp luật.
- Pháp luật trong nhà nước pháp quyền phải mang tính pháp lý cao, khách
quan, công bằng, nhân đạo phù hợp với đạo đức xã hội, tất cả vì lợi ích chính
đáng của con người.
- Nhà nước pháp quyền là nhà nước, trong đó mối quan hệ giữa nhà nước
và cơng dân bình đẳng về quyền và nghĩa vụ, quan hệ đồng trách nhiệm. Tuân
thủ pháp luật là nghĩa vụ đối với mọi cá nhân, tổ chức kể cả nhà nước, nhà nước
10
phải chịu trách nhiệm bồi thường những thiệt hại vật chất, tinh thần cho cá nhân
về các quyền quyết định và hành vi sai trái của mình.
- Nhà nước pháp quyền là nhà nước trong đó các quyền tự do, dân chủ và
lợi ích chính đáng của con người được nhà nước bảo đảm thực hiện bằng hệ
thống pháp luật. Mọi hành vi vi phạm pháp luật đều phải xử lý nghiêm minh, kịp
thời, đúng pháp luật.
- Trong nhà nước pháp quyền, quyền lực nhà nước được tổ chức khoa
học, các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp được phân định rõ ràng, hợp lý cho
cả ba hệ thống cơ quan nhà nước tương ứng trong mối quan hệ cân bằng kiểm
soát lẫn nhau tạo thành một cơ chế đồng bộ đảm bảo sự thống nhất của quyền
lực nhà nước, thực hiện quyền lực nhân dân.
- Nhà nước pháp quyền tồn tại trên cơ sở một xã hội công bằng phát triển
lành mạnh, đảm bảo tự do của các cá nhân và các tổ chức của họ trên cơ sở pháp
luật và đạo đức xã hội.
- Nhà nước pháp quyền là nhà nước sống hòa đồng với cộng đồng thế
giới, thực hiện các cam kết quốc tế, các điều ước quốc tế mà nhà nước là thành
viên ký kết hay công nhận.
1.3. Những quan điểm cơ bản về xây dựng nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa Việt Nam, của dân, do dân và vì dân
1.3.1. Xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam là yêu cầu phát triển
tất yếu khách quan
Xây dựng nhà nước pháp quyền ở nước ta trong công cuộc đổi mới đất
nước hiện nay là một đòi hỏi cấp thiết, phù hợp với những điều kiện phát triển
khách quan của đất nước và xu thế chung của thời đại. Sự nghiệp này xuất phát
từ hàng loạt các yêu cầu khách quan của đất nước:
- Phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa;
- Thực hiện dân chủ hóa sâu sắc và tồn diện mọi mặt của đời sống xã hội;
- Bảo đảm và bảo vệ các quyền công dân;
- Chủ động tham gia vào quá trình hội nhập khu vực và quốc tế;
11
- Thực hiện công bằng xã hội đặt ra và xây dựng nền văn hóa tiên tiến,
đậm đà bản sắc dân tộc.
Các quan hệ xã hội ngày càng đa dạng và phức tạp, hội nhập và tồn cầu
hóa đang đặt ra cho chúng ta nhiều cơ hội và thách thức. Những cung cách quản
lý, điều hành xã hội của cơ chế hành chính, tập trung hóa, bao cấp trước đây
khơng còn phù hợp. Để đủ sức quản lý xã hội trong bối cảnh mới, phải cải cách
sâu sắc và toàn diện mọi mặt đời sống kinh tế, chính trị, xã hội, nhà nước và
pháp luật. Xây dựng nhà nước pháp quyền sẽ đáp ứng được những yêu cầu đó.
Xây dựng nhà nước pháp quyền để củng cố, phát huy bản chất nhân dân
của nhà nước ta, thiết lập những mối quan hệ đúng đắn giữa nhà nước và nhân
dân. Xây dựng nhà nước pháp quyền sẽ cho phép giải quyết một cách tốt nhất
giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội trong điều kiện nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Xây dựng nhà nước pháp quyền là vấn đề còn mới mẻ đối với chúng ta cả
về lý luận lẫn thực tiễn, do vậy phải được tiến hành một cách đồng bộ. Trong
quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền, cần phải tiếp thu có chọn lọc lý luận
và thực tiễn nước ngoài, vừa phát huy nội lực, đảm bảo định hướng xã hội chủ
nghĩa và giữ gìn bản sắc dân tộc, kế thừa kinh nghiệm dựng nước và giữ nước
của ông cha.
1.3.2. Những quan điểm cơ bản về xây dựng nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa Việt Nam
Việc xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa ở nước ta
hiện nay cần quán triệt các quan điểm cơ bản sau đây:
1.3.2.1. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước của
dân, do dân và vì dân
Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì
dân, thực hiện quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Quan điểm này thể hiện
bản chất nhà nước ta và đã được xác định trong Hiến pháp 1992(sửa đổi): “Nhà
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai
12
cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức” (Hiến pháp nước Cộng
hịa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2001),
Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2002, tr.13).
Nguyên tắc quyền lực thuộc về nhân dân được thể hiện trong tổ chức và
hoạt động, trong chính sách và pháp luật của Nhà nước ta. Nhà nước ta do nhân
dân thành lập, do dân kiểm tra, giám sát. Mục tiêu cao nhất của nhà nước là
phục vụ lợi ích của nhân dân. Đấy cũng chính là nguồn sức mạnh to lớn của nhà
nước đã được kiểm nghiệm trong lịch sử dân tộc. Để đảm bảo nguyên tắc tất cả
quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, cần phải thực hiện thường xuyên hoạt
động giám sát nhà nước và giám sát xã hội đối với toàn bộ hoạt động của bộ
máy nhà nước, đặc biệt là giám sát tối cao của Quốc hội.
1.3.2.2. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam được xây dựng
trên nguyên tắc quyền lực nhà nước thống nhất trên cơ sở có sự phân công,
phối hợp trong việc thực hiện ba quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp
Trước đây, nguyên tắc tập quyền được nhìn nhận như một nguyên tắc tổ
chức quyền lực xã hội chủ nghĩa và là nguyên tắc phủ định nguyên tắc phân
quyền trong tổ chức quyền lực của nhà nước tư sản. Trên thực tế, chúng ta vẫn
chưa có được một nhận thức nhất qn về mơ hình tổ chức quyền lực. Đã có sự
đồng nhất, lẫn lộn nguyên tắc tập quyền với quan điểm toàn bộ quyền lực nhà
nước tập trung vào Quốc hội, kết quả là tạo ra một Quốc hội tồn quyền về mặt
hình thức nhưng không thực quyền trên thực tế.
Bắt đầu từ Đại hội lần thứ VII năm 1991, cùng với Cương lĩnh xây dựng
đất nước trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội, quan điểm về sự tồn tại của
ba quyền và sự phân công, phối hợp giữa ba phạm vi quyền lực đó của nhà nước
chính thức được khẳng định trên cơ sở tiếp thu, kế thừa, phát triển và vận dụng
vào hoàn cảnh lịch sử cụ thể của Việt Nam, các tri thức nhân loại và trước yêu
cầu của sự nghiệp đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả, hoạt động của bộ máy
nhà nước. Và đến hội nghị Trung ương lần thứ Tám khoá VII năm 1995, quan
niệm của Đảng về sự tồn tại của ba quyền có sự bổ sung quan trọng: quyền lực
nhà nước có sự thống nhất, có sự phân cơng, phối hợp chặt chẽ trong việc thực
13
hiện ba quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Đây chính là quan điểm có tính
ngun tắc chỉ đạo trong thiết kế mơ hình tổ chức nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa Việt Nam.
Khác với các nhà nước tư sản, chúng ta theo nguyên tắc “quyền lực nhà
nước là thống nhất”, không thể phân chia, đối chọi nhau giữa các quyền bởi vì
tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Hơn nữa sự lãnh đạo của Đảng là
điều kiện đảm bảo chắc chắn cho việc thực hiện quyền lực nhà nước là thống
nhất. Mặt khác, hoạt động của nhà nước có phạm vi rộng lớn, khơng thể một cơ
quan nào có khả năng trực tiếp thực hiện một cách đầy đủ, có hiệu quả ba quyền
lập pháp, hành pháp và tư pháp. Vì vậy, cần thiết có sự phân cơng rành mạch, sự
phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện ba quyền
nhằm vừa đảm bảo tính độc lập, chủ động, tính trách nhiệm cao của từng cơ
quan khi được dân trao quyền vừa đảm tính thống nhất, khách quan và hiệu quả,
tránh lạm quyền, chuyên quyền. Sự khác nhau căn bản trong tổ chức quyền lực
của nhà nước ta so với kiểu tổ chức nhà nước kiểu “tam quyền phân lập” là ở
chỗ khơng có sự phân quyền mà chỉ có sự phân cơng đồng thời lại có sự thống
nhất quyền lực cao nhất ở Quốc hội. Cách tổ chức quyền lực này tránh được sự
đối chọi giữa các nhánh quyền lực thường xảy ra trong kiểu tổ chức phân lập ba
quyền phục vụ cho lợi ích của các thế lực đứng sau mỗi nhánh quyền lực đó.
1.3.2.3. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Đảng Cộng
sản Việt Nam lãnh đạo
Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng chính trị duy nhất lãnh đạo xã hội
và nhà nước. Sự lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước là nhân tố bảo đảm thành
công của sự nghiệp đổi mới đất nước. Trong điều kiện hiện nay, nói đến tăng
cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước phải gắn liền với đổi mới và
chỉnh đốn tổ chức Đảng, đáp ứng yêu cầu sự nghiệp cách mạng trong điều kiện
mới. Trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền ở nước ta, điều vô cùng
quan trọng là cần phân định rõ giữa sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của nhà
nước. Kiên quyết đấu tranh chống lại các hiện tượng “hành chính đơn thuần, phi
chính trị”, xa rời sự lãnh đạo của Đảng trong tổ chức và hoạt động của bộ máy
14
nhà nước và ngược lại, sự bao biện, làm thay các cơng việc của nhà nước từ phía
các tổ chức Đảng.
1.3.2.4. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam tổ chức và hoạt
động theo nguyên tắc tập trung dân chủ
Tập trung dân chủ là nguyên tắc nền tảng của nhà nước và hệ thống chính
trị nước ta, nếu xa rời thì làm giảm hiệu lực và hiệu quả quản lý xã hội của nhà
nước nhất là trong điều kiện kinh tế thị trường, hội nhập và mở rộng dân chủ
như hiện nay. Tập trung dân chủ là nguyên tắc quản lý nhà nước được thể hiện
trong sự kết hợp giữa lãnh đạo điều hành tập trung thống nhất của Trung ương
với phát huy tính chủ động, năng động của địa phương, khắc phục cả hai khuynh
hướng phân tán cục bộ và tập trung quan liêu. Nguyên tắc tập trung dân chủ yếu
cần phải thực hiện sự phân cấp mạnh mẽ giữa các cơ quan trong tổ chức bộ máy
nhà nước, xác định rõ ràng cơ chế trách nhiệm theo quy định của pháp luật. Tập
trung dân chủ là nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bất kỳ cơ quan nhà nước, ở
chế độ tập thể lãnh đạo hay chế độ thủ trưởng. Nguyên tắc tập trung dân chủ lại có
những biểu hiện đặc thù ở mỗi loại cơ quan nhà nước trong bộ máy nhà nước.
1.3.2.5. Tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, nhà nước quản lý xã hội
bằng pháp luật, đồng thời coi trọng giáo dục nâng cao đạo đức
Pháp chế là nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, là
nguyên tắc hiến định, trong điều kiện nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa ở nước ta hiện nay, tăng cường pháp chế lại càng trở thành một yêu
cầu cấp thiết. Bên cạnh, việc thực hiện nguyên tắc tính pháp chế thống nhất, cịn
phải đảm bảo thực hiện nguyên tắc giải quyết mối quan hệ giữa tính pháp chế
thống nhất với tính hợp lý và sự cơng bằng. Trong khi chưa có sự thay đổi của
cơ quan nhà nước có thẩm quyền, mọi chủ đề đều phải tuân thủ pháp luật. Pháp
luật trong nhà nước pháp quyền chỉ có thể phát huy được hiệu lực, hiệu quả thực
tế khi có sự kết hợp với đạo đức. Đây là vấn đề có tính quy luật đã được minh
chứng trong lịch sử.
Cho dù hoàn thiện đến đâu, pháp luật cũng khơng bao giờ dự liệu hết
được tính chất đa dạng, phong phú của cuộc sống. Để bổ sung cho pháp luật, để
15
pháp luật có thể thực hiện, xã hội cịn cần tới những quy tắc điều chỉnh xã hội
khác, như các quy phạm đạo đức, phong tục, tập quán,… Trong quản lý xã hội,
muốn cho pháp luật được mọi người dân tơn trọng, tự giác thực hiện thì pháp
luật phải được bảo vệ, phải thể hiện được những giá trị đạo đức, được nhân dân
chấp nhận, ủng hộ, đồng tình. Do vậy, lấy đạo đức để quản lý xã hội cũng là một
điều tất yếu khách quan, xuất phát từ chính thực tiễn của cuộc sống. Nhà nước
pháp quyền quản lý bằng pháp luật nhưng không loại trừ đạo đức, bởi pháp luật
trong nhà nước pháp quyền là hướng tới những giá trị nhân đạo, công bằng,
hướng tới chân - thiện - mỹ - ích, tất cả vì mục đích phục vụ con người.
16
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC
PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
2.1. Thực trạng xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
2.1.1. Thành tựu
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành cơng, nhà nước Việt Nam Dân
chủ Cộng hồ ra đời. Bộ máy nhà nước ngày càng được củng cố, phát triển và
hồn thiện đã trở thành cơng cụ sắc bén để động viên và tổ chức nhân dân hoàn
thành xuất sắc những nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam ở mỗi giai
đoạn lịch sử và ngày nay đang lãnh đạo, tổ chức nhân dân thực hiện đường lối
đổi mới toàn diện đất nước đạt được nhiều thành tựu quan trọng.
Sau hơn 20 năm đổi mới, cùng với sự đổi mới về tổ chức và phương thức
hoạt động của hệ thống chính trị, nhà nước ta tiếp tục được xây dựng và hoàn
thiện. Hoạt động của bộ máy nhà nước cũng có những bước tiến mới.
Chất lượng các kì họp Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp được nâng cao.
Hoạt động của chính phủ sâu sát và thực tế hơn.
Các hoạt động của ngành tư pháp (Toà án, Viểm kiểm sát) có nhiều tiến bộ.
Chức năng nhiệm vụ của một số cơ quan được điều chỉnh trước hết là các
cơ quan hành chính nhà nước theo yêu cầu chuyển từ cơ chế tập trung, quan liêu
bao cấp sang quản lý nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Có sự
phân cấp về thẩm quyền quản lý cho các bộ, ngành, Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh.
Lĩnh vực sự nghiệp và cơng tác cán bộ có sự phân cơng nhiệm vụ rõ ràng.
Nền hành chính được cải cách một bước, đã tiến hành rà soát, hủy bỏ, sửa
đổi các thủ tục hành chính khơng phù hợp, chồng chéo, bất hợp lý gây sách
nhiễu, phiền hà cho nhân dân. Thực hiện mơ hình “một cửa một dấu”, khốn
hành chính và bước đầu thu kết quả. Chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan nhà
nước cơ quan hành chính nhà nước cũng được điều chỉnh.
Quyền làm chủ của nhân dân trên các lĩnh vực được phát huy, một số
chính sách và quy chế đảm bảo quyền dân chủ của dân trước hết ở cơ sở bước
đầu được mở rộng và trở thành hiện thực.
17
Đội ngũ cán bộ, công chức được xây dựng theo Luật cán bộ, cơng chức có
những quy định về chức danh, tiêu chuẩn, ngạch, bậc, công chức. Công tác đào
tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức được chú trọng.
Nội dung lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước đã có bước đổi mới, đảm
bảo tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, vừa phát huy trách nhiệm, tính chủ
động của các cơ quan nhà nước.
Đáng chú ý nhất là hệ thống pháp luật được đổi mới, bổ sung và tăng
cường. Qua mỗi bước phát triển quan trọng của đất nước, nhà nước ta đều có
Hiến pháp và một hệ thống pháp luật ngày càng đầy đủ hơn. Đồng thời, nhà
nước ta đã có những biện pháp tăng cường ý thức tôn trọng pháp luật và kỷ cương
xã hội. Nhờ vậy, mà mặc dù trong điều kiện chuyển đổi cơ chế cịn nhiều lúng túng,
khó khăn nhưng chúng ta ln giữ vững ổn định chính trị, xã hội. Việt Nam được
bàn bè quốc tế đánh giá là nơi ổn định và an tồn nhất trên thế giới.
Có thể khẳng định việc xây dựng nhà nước pháp quyền đúng hướng là
một trong những nhân tố quan trọng góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, lành
mạnh hoá các hoạt động văn hoá, xã hội giữ ổn định lâu dài cho đất nước.
2.1.2. Hạn chế
Bên cạnh, những thành tựu đạt được, nhà nước ta còn bộc lộ nhiều hạn
chế, yếu kém.
Tổ chức bộ máy cồng kềnh, trùng lặp chức năng với nhiều tầng, nấc trung gian,
trách nhiệm cá nhân, tập thể không rõ ràng, chất lượng, hiệu quả hoạt động thấp .
Cơ chế vận hành với nhiều mối quan hệ giữa các cơ quan nhà nước ở
Trung ương và địa phương còn bất hợp lý, trách nhiệm cá nhân, tập thể không rõ
ràng, chất lượng hiệu quả hoạt động thấp.
Sự phân công, phối hợp trong việc thực hiện ba quyền lập pháp, hành
pháp và tư pháp ở các cấp chưa cụ thể.
Cải cải hành chính tiến hành chậm, thiếu kiên quyết, hiệu quả khơng cao,
cịn nhiều thủ tục gây phiền hà cho dân.
Cơng tác tổ chức cán bộ chậm được đổi mới, hiệu quả quản lý và điều
hành công việc chưa tốt, chưa đáp ứng được yêu cầu của tình hình mới.
18
Sự lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước có đổi mới nhưng cịn biểu hiện
“bng lỏng, bao biện”. Mối tương quan giữa các cơ quan Đảng và bộ máy nhà
nước từ trung ương đến địa phương, các tiêu chí phân định sự lãnh đạo chính trị
của các cấp ủy Đảng và quyền độc lập tự chủ của các cơ quan nhà nước còn
chưa cụ thể. Và thực tế là chúng ta cịn lúng túng, chính sự lúng túng này làm
cho nguyên tắc quyền lực nhà nước là thống nhất với sự phân cơng ba quyền gặp
nhiều khó khăn khi cụ thể hoá về nội dung để tạo cơ sở cho sự thiết kế cơ chế,
quan hệ quyền lực trong bộ máy nhà nước ta. Trong khi đó, sự nghiệp cơng
nghiệp hố, hiện đại hố đất nước đang được đẩy mạnh và ngày càng đi vào
chiều sâu, nền kinh tế mở cửa nhiều thành phần đang đứng trước nhiều thách
thức mới, bối cảnh chính trị quốc tế diễn biến phức tạp, có nhiều mặt khơng
lường trước được. Tất cả địi hỏi chúng ta phải nhanh chóng khắc phục những
hạn chế, yếu kém, phát huy hơn nữa vai trò của pháp luật trong quản lý xã hội.
Vì vậy, xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
đã trở thành một nhu cầu thực tế và bức thiết.
2.2. Phương hướng và giải pháp xây dựng nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa Việt Nam
2.2.1. Cải cách thể chế và phương thức hoạt động của nhà nước
Trước hết là kiện toàn tổ chức, đổi mới phương thức hoạt động của Quốc
hội trọng tâm là tăng cường công tác lập pháp, quyền quyết định những vấn đề
lớn của quốc gia và thực hiện quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động
của nhà nước. Để phát huy vị trí, vai trị của cơ quan quyền lực nhà nước cao
nhất, Quốc hội phải được kiện toàn đổi mới theo hướng:
- Tăng cường và nâng cao chất lượng hoạt động lập pháp, nâng cao chất
lượng các đạo luật, tăng cường ban hành luật, hạn chế ban hành các pháp lệnh,
nghị định, tiến tới hoàn thiện hệ thống pháp luật trên cơ sở quán triệt quan điểm,
đường lối của Đảng phù hợp với thực tế Việt Nam và luật pháp quốc tế. Muốn
vậy, cần phải xây dựng chương trình làm luật, đổi mới quy trình ban hành và
hướng dẫn thực thi pháp luật.
19
- Làm tốt chức năng quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước,
quyết định và phân bố ngân sách nhà nước hợp lý, tiết kiệm và đúng luật.
- Làm tốt chức năng giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của Nhà
nước, trước mắt tập trung vào các vấn đề bức xúc như: việc sử dụng vốn, tài sản
nhà nước, chống tham nhũng….
Tiếp đó là thực hiện cải cách nền hành chính quốc gia. Cải cách nền hành
chính quốc gia là khâu trọng tâm của tồn bộ công cuộc cải cách bộ máy nhà
nước đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền. Trong đó, cải cách thủ
tục hành chính được xác định là khâu đột phá. Mục tiêu đặt ra cho cải cách hành
chính xét về tổng thể là nhằm chuyển dần từ nền hành chính trị trệ, nhiều tầng,
nhiều nấc, thủ tục hành chính phức tạp, khơng thuận tiện cho người dân sang
nền hành chính gọn nhẹ, trong sạch, hiệu quả phục vụ những nhu cầu của người
dân và xã hội một cách tốt nhất.
- Để có một nền hành chính năng động, hiệu quả, tinh gọn cần phải tiếp
tục đổi mới tổ chức và hoạt động của Chính phủ, sắp xếp, thu gọn các đầu mối
của Chính phủ. Đổi mới hoạt động của Chính phủ theo hướng Chính phủ tập
trung vào việc xây dựng các chính sách, các thể chế, hoạch định chiến lược phát
triển kinh tế - xã hội, chỉ đạo và điều hành phối hợp các ngành, các cấp thực thi
chính sách, pháp luật.
- Chức năng, quyền hạn của Bộ và các cơ quan ngang bộ cũng cần được
điều chỉnh theo hướng Bộ quản lý đa ngành, đa lĩnh vực, bao quát tất cả các
thành phần kinh tế. Phân định rõ chức năng, thẩm quyền quản lý hành chính nhà
nước của các cơ quan để bố trí bộ máy và định ra phương thức hoạt động cho
phù hợp.
- Bộ máy chính quyền ở địa phương cũng cần được cải cách, kiện toàn
theo nguyên tắc quyền lực nhà nước là thống nhất, khơng có quyền lực nhà nước
ở địa phương tách rời quyền lực nhà nước ở Trung ương. Bộ máy phải được
phân công, phân cấp một cách rõ ràng theo hướng nâng cao tính chủ động của
chính quyền địa phương kết hợp quản lý theo ngành và theo lãnh thổ.
20
Trong nhà nước pháp quyền và một xã hội công dân phát triển lành mạnh,
vai trò của bộ máy tư pháp đặc biệt quan trọng. Cải cách tư pháp cần được tiến
hành trong tổng thể của cải cách bộ máy nhà nước, cải cách hành chính. Cải
cách tư pháp ở nước ta cần tập trung vào một số lĩnh vực hoạt động sau:
- Xây dựng các cơ quan tư pháp vững mạnh, trong sạch, từng bước hiện
đại hóa. Các hoạt động tư pháp phải đảm bảo tính dân chủ, giản tiện, minh bạch
và hiệu quả. Hoạt động tư pháp phải thực sự bảo vệ được các quyền và lợi ích
chính đáng của nhân dân.
- Xử lý nghiêm minh, đúng pháp luật, công bằng, kịp thời mọi hành vi vi
phạm pháp luật, giảm đến mức thấp nhất tình trạng oan sai, tồn động các vụ
việc.
- Nâng cao đạo đức nghề nghiệp của cán bộ tư pháp trong công tác điều
tra, giám định, truy tố, xét xử, thi hành án và các hoạt động tư pháp khác.
2.2.2. Hoàn thiện hệ thống pháp luật
Hồn thiện hệ thống pháp luật theo tiêu chí nhà nước pháp quyền là vấn
đề rộng lớn, liên quan đến các lĩnh vực xây dựng pháp luật, tổ chức thực hiện
pháp luật, phổ biến, giáo dục pháp luật, xây dựng ý thức pháp luật và văn hóa
pháp lý.
Trong pháp luật cần chú ý đảm bảo cả về số lượng và chất lượng các văn
bản pháp luật, cả pháp luật về nội dung và pháp luật về thủ tục. Hoàn thiện hệ
thống pháp luật theo hướng đảm bảo tính cơng bằng, minh bạch, tính khả thi của
các quy định, tính đồng bộ và thống nhất của các văn bản, tính phù hợp giữa
pháp luật với các hình thức điều chỉnh khác. Giải quyết đúng đắn mối quan hệ
giữa pháp luật quốc gia với pháp luật quốc tế.
Tổ chức thực hiện pháp luật, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động áp
dụng pháp luật của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền, xây dựng môi trường
xã hội - pháp lý thuận lợi cho những hành vi hợp pháp.
Đảm bảo thực hiện tính tối cao của luật. Trong hệ thống pháp luật, các
đạo luật phải chiếm ưu thế, điều đó thể hiện tính tối cao của quyền lực nhân dân
21
bởi các đạo luật được cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân ban hành, quyết
định những vấn đề quan trọng, cơ bản của xã hội.
Đảm bảo tính minh bạch, công khai của pháp luật, nhà nước phải đáp ứng
nhu cầu thông tin về pháp luật, về các hoạt động thực tiễn pháp lý cho cá nhân
và tổ chức. Cần triển khai chiến lược xây dựng ý thức pháp luật và nền văn hóa
pháp lý.
2.2.3. Phát huy dân chủ, giữ vững kỷ luật, kỷ cương, tăng cường pháp chế
Dân chủ là bản chất của nhà nước ta, của chế độ ta, thể hiện tính ưu việt
của chủ nghĩa xã hội so với các các chế độ khác. Quyền làm chủ của nhân dân
được thể hiện trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội và nó ngày càng được hồn
thiện, nâng cao trong q trình phát triển kinh tế, xã hội. Để xây dựng nhà nước
pháp quyền thì quyền làm chủ của nhân dân phải được thể chế hoá bằng pháp
luật buộc toàn xã hội thực hiện thống nhất. Quyền làm chủ của nhân dân còn
phải được đảm bảo bằng pháp luật và bằng các cơ quan bảo vệ pháp luật. Bất cứ
công dân hay cơ quan nhà nước nhà nước nào vi phạm pháp luật, làm tổn hại
đến quyền làm chủ của nhân dân đều phải bị nghiêm trị.
Một mặt, chúng ta phải nâng cao chất lượng dân chủ đại diện bằng cách
đề cao tiêu chuẩn, chất lượng các đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân
dân, hoàn thiện các quy định về bầu cử, ứng cử, về tiêu chuẩn và cơ cấu, cung
cấp đầy đủ thông tin cho nhân dân để họ nhân thức và bầu ra những đại biểu
xứng đáng đại diện cho mình, thực thi quyền làm chủ của mình bằng nhà nước,
thơng qua nhà nước. Mặt khác, phải mở rộng và thực hiện chế độ dân chủ trực
tiếp một cách thiết thực và hiệu quả trước hết là ở cơ sở, đảm bảo cho nhân dân
trực tiếp tham gia quản lý xã hội, thảo luận và quyết định những vấn đề lớn của
đất nước. Chỉ có như vậy, chúng ta mới có một nền dân chủ đích thực.
Tuy nhiên, dân chủ bao giờ cũng đi liền với tập trung, bao giờ cũng được
giới hạn trong khn khổ nhất định đó là pháp chế, kỷ luật, kỷ cương. Bởi thế,
trong khi ra sức thực hiện quyền làm chủ của nhân dân nhưng chúng ta không
được quên nhiệm vụ phải xây dựng pháp luật, đẩy mạnh công tác giáo dục pháp
luật, nâng cao ý thức pháp luật cho nhân dân, làm cho mọi người hiểu rõ và thực
22
hiện trong cuộc sống, gắn quyền hạn với trách nhiệm, lợi ích và nghĩa vụ cơng
dân. Nhân dân có quyền làm chủ thì phải có nghĩa vụ làm trịn nghĩa vụ cơng
dân. Tất cả đều bình đẳng trước pháp luật, sống và làm việc theo pháp luật, mọi
hành vi vi phạm đều phải được nghiêm trị.
2.2.4. Xây dựng đội ngũ cán bộ, cơng chức trong sạch, có năng lực
Hồ Chí Minh đã từng khẳng định: “Cán bộ là gốc của mọi việc. Công việc
thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hay kém”. Và hiện nay, việc xây dựng
một đội ngũ cán bộ vừa “hồng” vừa “chuyên” được xem là một nội dung quan
trọng trong xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Trước mắt, chúng ta cần tập trung vào các vấn đề sau:
- Hồn thiện chế độ cơng vụ, quy chế cán bộ.
- Sắp xếp lại đội ngũ cán bộ, công chức theo đúng chức danh, tiêu chuẩn
gắn với việc tinh giản biên chế theo tinh thần “Thà ít mà tốt”. Nâng cao chất
lượng đội ngũ cán bộ đặc biệt là cán bộ cho cơ sở ở vùng sâu, vùng xa.
- Định kỳ kiểm tra, đánh giá chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, kịp
thời thay thế những cán bộ năng lực yếu kém, thoái hoá biến chất. Những tiêu
cực trong thời gian vừa qua cho chúng ta những bài học đắt giá về công tác kiểm
tra, đánh giá cán bộ. Thực tế là cơng tác này cịn thực hiện một cách hình thức.
Nhiều cán bộ vi phạm pháp luật trong một thời gian dài mà không bị phát hiện,
gây thiệt hại lớn cho ngân sách nhà nước, làm ảnh hưởng tới lòng tin của nhân
dân. Trong thời gian tới cần tiến hành kiểm, rà soát lại đội ngũ cán bộ, loại trừ
những nhân tố tiêu cực, động viên, khen thưởng những yếu tố mới, tích cực. Chỉ
có trên cơ sở một đội ngũ cán bộ có chất lượng thì q trình xây dựng nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa mới có được những bước phát triển mới.
Tóm lại, những giải pháp cần thực hiện để xây dựng và hoàn thiện nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng gồm nhiều vấn đề
nhưng cơ bản nhất là phải đẩy mạnh cải cách tổ chức và hoạt động của nhà
nước, phát huy dân chủ đi đôi với tăng cường pháp chế.
23
KẾT LUẬN
Mơ hình nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa mà Đảng và Nhà nước ta
đang xây dựng và hoàn thiện là kết quả tất yếu của sự vận dụng lịch sử, được
khái quát trong lý luận và đã hình thành trong thực tế. Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa Việt Nam được xây dựng trên cơ sở vận dụng sáng tạo chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, xuất phát từ thực tiễn đất nước, truyền
thống dân tộc đồng thời có chọn lọc, kế thừa, tiếp thu những kinh nghiệm tiên
tiến trên thế giới. Bản chất của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân,
do dân và vì dân được Đảng ta xác định rõ ràng, được ghi nhận trong văn kiện
quan trọng của Đảng và được đặt trang trọng trong bản Hiến pháp năm 1992 sửa
đổi, bổ sung: “Nhà nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân”.
Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là một q
trình lâu dài, vơ cùng khó khăn, phức tạp. Chúng ta vừa tiếp thu có chọn lọc lý
luận và thực tiễn của thế giới về xây dựng nhà nước pháp quyền, vừa phải đảm
bảo và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, kiên định con đường xã hội chủ nghĩa
vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Mặc dù
q trình ấy cịn nhiều khó khăn gian khổ nhưng dưới sự lãnh đạo sáng suốt và
đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam nhất định chúng ta sẽ đi được đến đích Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của dân, do dân và vì dân với
những bản chất tốt đẹp của nó.
24