Tải bản đầy đủ (.docx) (12 trang)

Bài thảo luận đề tài QUAN HỆ SẢN XUẤT PHẢI PHÙ HỢP VỚI TRÌNH ĐỘ CỦA LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT. Ý NGHĨA CỦA VẤN ĐỀ NÀY VỚI CON ĐƯỜNG ĐI LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (120.67 KB, 12 trang )

Mục lục


MỞ ĐẦU
Trong học thuyết hình thái kinh tế - xã hội của chủ nghĩa Mác, quy luật quan hệ
sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất chiếm vị trí đặc biệt
quan trọng, là cơ sở lý luận và phương pháp luận khoa học trong nhận thức và cải tạo
xã hội. Đó là quy luật hết sức phổ biến trong công cuộc xây dựng đất nước của mỗi
quốc gia. Sự mâu thuẫn hay phù hợp giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất đều
có ảnh hưởng rất lớn đến nền kinh tế.
Đối với nước ta, trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là thời kỳ cải biến cách
mạng sâu sắc, toàn diện và triệt để về mọi mặt. Từ xã hội cũ sang xã hội mới Xã hội
chủ nghĩa. Đó là thới kỳ xây dựng từ lực lượng sản xuất mới dẫn đến quan hệ sản xuất
mới, quan hệ sản xuất mới hình thành lên các quan hệ sở hữu mới. Việc xây dựng quan
hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là một trong những
vấn đề quan trọng trong đường lối phát triển kinh tế - xã hội của Đảng và Nhà nước.
Chính vì vậy, việc nắm vững và vận dụng đúng đắn quy luật này giúp Đảng ta đề ra
đường lối, chính sách, mục tiêu phù hợp, góp phần quan trọng để đạt được những
thành tựu to lớn và trước hết là tạo bước phát triển mới của lực lượng sản xuất và quan
hệ sản xuất trong thời kỳ công nghiệp hóa – hiện đại hóa. Để tìm hiểu rõ hơn về quy
luật này cũng như tìm hiểu thực tiễn thời kỳ trước và sau đổi mới của nước ta, thấy
được những mặt đã làm được cũng như hạn chế trong quá trình nắm bắt và vận dụng
quy luật quan hệ sản xuất – lực lượng sản xuất như thế nào, nhóm 7 đã lựa chọn đề tài
“Quan hệ sản xuất phải phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất. Ý nghĩa của vấn
đề này với con đường đi lên Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam”.


CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1. Khái niệm
1.1.1. Lực lượng sản xuất
Bất kỳ một quá trình sản xuất vật chất nào cũng cần phải có các nhân tố thuộc về


người lao động (như năng lực, kỹ năng, tri thức,… của người lao động) cùng các tư
liệu sản xuất nhất định (như đối tượng lao động, công cụ lao động, các tư liệu phụ trợ
của q trình sản xuất,…). Tồn bộ các nhân tố đó tạo thành lực lượng sản xuất của
các quá trình sản xuất. Lực lượng sản xuất là tổng hợp các yếu tố vật chất và tinh thần
tạo thành sức mạnh thực tiễn cải biến giới tự nhiên theo nhu cầu sinh tồn, phát triển
của con người.
Như vậy, lực lượng sản xuất là những nhân tố có tính sáng tạo và tính sáng tạo đó
có tính lịch sử. Do đó, trình độ phát triển của lực lượng sản xuất phản ánh trình độ
chinh phục giới tự nhiên của con người: trình độ thủ cơng của lực lượng sản xuất phản
ánh trình độ chinh phục giới tự nhiên thấp hơn rất nhiều so với lực lượng sản xuất ở
trình độ kỹ thuật công nghiệp và công nghệ cao.
Trong các nhân tố tạo thành lực lượng sản xuất, “người lao động” là nhân tố giữ
vai trị quyết định. Bởi vì, suy đến cùng thì các tư liệu sản xuất chỉ là sản phẩm lao
động của con người, đồng thời giá trị và hiệu quả thực tế của các tư liệu sản xuất phụ
thuộc vào trình độ thực tế sử dụng và sáng tạo của người lao động. Mặt khác, trong tư
liệu sản xuất, nhân tố công cụ lao động là nhân tố phản ánh rõ nhất trình độ phát triển
của lực lượng sản xuất và thể hiện tiêu biểu trình độ con người chinh phục giới tự
nhiên.
Lực lượng sản xuất là nhân tố cơ bản, tất yếu tạo thành nội dung vật chất của q
trình sản xuất; khơng một q trình sản xuất hiện thực nào có thể diễn ra nếu một trong
hai nhân tố là người lao động và tư liệu sản xuất. Thế nhưng, chỉ có lực lượng sản xuất
vẫn chưa thể diễn ra quá trình sản xuất hiện thực được, mà cịn cần phải có những
quan hệ sản xuất đóng vai trị là hình thức xã hội của quá trình sản xuất ấy.
1.1.2. Quan hệ sản xuất
Quan hệ sản xuất là mối quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất
(sản xuất và tái sản xuất xã hội). Quan hệ sản xuất bao gồm: quan hệ sở hữu đối với tư
liệu sản xuất, quan hệ trong tổ chức - quản lý quy trình sản xuất và quan hệ trong phân
phối kết quả của quá trình sản xuất đó. Những quan hệ sản xuất này tồn tại trong mối
quan hệ thống nhất và chi phối, tác động lẫn nhau trên cơ sở quyết định của quan hệ sở
hữu về tư liệu sản xuất.



1.2. Mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất là quan
hệ sản xuất
Mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là mối quan hệ thống
nhất biện chứng trong đó lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất và quan hệ
sản xuất tác động trở lại lực lượng sản xuất


Lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất

Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai mặt cơ bản, tất yếu của q trình sản
xuất, trong đó lực lượng sản xuất là nội dung vật chất của quá trình sản xuất, cịn quan
hệ sản xuất là “hình thức xã hội” của q trình đó. Trong đời sống hiện thực, khơng thể
có sự kết hợp các nhân tố của q trình sản xuất để tạo ra năng lực thực tiễn cải biến
các đối tượng vật chất tự nhiên nào có thể diễn ra bên ngồi những hình thức kinh tế
nhất định. Ngược lại, cũng khơng có một q trình sản xuất nào có thể diễn ra trong
đời sống hiện thực chỉ với những quan hệ sản xuất khơng có nội dung vật chất của nó.
Như vậy, lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất tồn tại trong tính quy định lẫn nhau,
thống nhất với nhau. Đây là yêu cầu tất yếu, phổ biến diễn ra trong mọi quá trình sản
xuất hiện thực của xã hội. Tương ứng với trình độ phát triển nhất định của lực lượng
sản xuất cũng tất yếu địi hỏi phải có quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ đó trên cả
ba phương diện: sở hữu tư liệu sản xuất, tổ chức - quản lý quá trình sản xuất và phân
phối kết quả của q trình sản xuất. Chỉ có như vậy, lực lượng sản xuất mới có thể
được duy trì, khai thác - sử dụng và không ngừng phát triển. Ngược lại, lực lượng sản
xuất của một xã hội chỉ có thể được duy trì, khai thác - sử dụng và phát triển trong một
hình thái kinh tế - xã hội nhất định.


Quan hệ sản xuất tác động trở lại lực lượng sản xuất


Mối quan hệ thống nhất giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất tuân theo
nguyên tắc khách quan: quan hệ sản xuất phải phụ thuộc vào thực trạng phát triển của
lực lượng sản xuất trong mỗi giai đoạn lịch sử xác định; bởi vì, quan hệ sản xuất chỉ là
hình thức kinh tế của quá trình sản xuất còn lực lượng sản xuất là nội dung vật chất, kỹ
thuật của q trình đó.
Tuy nhiên, quan hệ sản xuất, với tư cách là hình thức kinh tế của quá trình sản
xuất, nó ln ln có khả năng tác động trở lại sự vận động, phát triển của lực lượng
sản xuất. Sự tác động này có thể diễn ra theo chiểu hướng tích cực hoặc tiêu cực, điều
đó phụ thuộc vào tính phù hợp hay khơng phù hợp của quan hệ sản xuất với thực trạng
và nhu cầu khách quan của sự vận động, phát triển lực lượng sản xuất. Nếu “phù hợp”
sẽ có tác dụng tích cực và ngược lại, “khơng phù hợp” sẽ có tác dụng tiêu cực.
Mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là mối quan hệ thống
nhất có bao hàm khả năng chuyển hóa thành các mặt đối lập và phát sinh mâu thuẫn
Trong phạm vi tương đối ổn định của một hình thức kinh tế - xã hội xác định, lực
lượng sản xuất của xã hội được bảo tồn, không ngừng được khai thác – sử dụng và
phát triển trong quá trình sản xuất, tái sản xuất của xã hội. Tính ổn định, phù hợp của


quan hệ sản xuất đối với lực lượng sản xuất càng cao thì lực lượng sản xuất càng có
khả năng phát triển, nhưng chính sự phát triển của lực lượng sản xuất lại luôn luôn tạo
ra khả năng phá vỡ sự thống nhất của những quan hệ sản xuất từ trước đến nay đóng
vai trị là hình thức kinh tế - xã hội cho sự phát triển của nó. Những quan hệ sản xuất
này, từ chỗ là những hình thức phù hợp và cần thiết cho sự phát triển của các lực lượng
sản xuất đã trở thành những hình thức kìm hãm sự phát triển đó, nó đã tạo ra mâu
thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, từ đó xuất hiện nhu cầu khách quan
phải thiết lập lại mối quan hệ thống nhất giữa chúng. Chính nhờ các cuộc cách mạng
xã hội mà những quan hệ sản xuất cũ của xã hội được thay thế bằng một quan hệ sản
xuất mới, phù hợp với nhu cầu phát triển của lực lượng sản xuất đã phát triển, tiếp tục
phát huy tác dụng tích cực, thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất trong một

hình thức quan hệ sản xuất mới.
Như vậy, mối quan hệ giữa lực lượng và quan hệ sản xuất là mối quan hệ mâu
thuẫn biện chứng giữa nội dung vật chất, kỹ thuật với hình thức kinh tế - xã hội của
quá trình sản xuất. Sự vận động của mâu thuẫn này là một quá trình đi từ sự thống nhất
đến những khác biệt và đối lập, xung đột, từ đó làm xuất hiện nhu cầu khách quan phải
được giải quyết theo nguyên tắc quan hệ sản xuất phải phù hợp với trình độ phát triển
của lực lượng sản xuất. Sự vận động của mâu thuẫn này cũng tuân theo quy luật “từ
những sự thay đổi về lượng thành những sự thay đổi về chất và ngược lại”, quy định
“phủ định của phủ định”, khiến cho quá trình phát triển của nền sản xuất xã hội vừa
diễn ra với tính chất tiệm tiến, tuần tự, lại vừa có tính nhảy vợt với những bước đột
biến, kế thừa và vượt qua của nó ở trình độ ngày càng cao hơn.
Mâu thuẫn và sự vận động của mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản
xuất là nội dung cơ bản của “quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển
của lực lượng sản xuất”. Sự tác động của quy luật này tạo ra nguồn gốc và động lực cơ
bản nhất đối với sự vận động, phát triển của phương thức sản xuất, nền sản xuất vật
chất và do đó là sự vận động, phát triển của tồn bộ đời sống xã hội.

CHƯƠNG 2: VẬN DỤNG QUY LUẬT QUAN HỆ SẢN XUẤT
PHẢI PHÙ HỢP VỚI TRÌNH ĐỘ PHÁT TRIỂN CỦA LỰC
LƯỢNG SẢN XUẤT
2.1. Thực trạng lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất của
Việt Nam trước đổi mới
* Thực trạng
Ở Việt Nam, do điểm xuất phát rất thấp từ một nước nông nghiệp lạc hậu trong chế
độ phong kiến hàng nghìn năm, bị chủ nghĩa thực dân cai trị hàng trăm năm, nên yêu
cầu phát triển lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất càng bức thiết. Sau cuộc chiến
tranh bảo vệ dân tộc kéo dài, kinh tế nước ta vốn đã lạc hậu nay lại càng gặp nhiều khó


khăn hơn, lực lượng sản xuất của nước ta còn thấp kém và chưa có điều kiện phát

triển.
Trình độ người lao động rất thấp, hầu hết khơng có chun mơn tay nghề, phần
lớn lao động chưa qua đào tạo. Lao động Việt Nam chủ yếu hoạt động trong lĩnh vực
nông nghiệp, chủ yếu dựa trên kinh nghiệm mà cha ông để lại. Trường dạy nghề rất
hiếm, chủ yếu chỉ xuất hiện ở Hà Nội, Sài Gịn,….Tại những đơ thị lớn, trình độ của
người lao động cao hơn các vùng khác trong cả nước.
Tư liệu sản xuất mà nhất là công cụ lao động ở nước ta thời kỳ này còn thô sơ, lạc
hậu. Là một nước nông nghiệp thế nhưng cơng cụ lao động chủ yếu là cày, cuốc, theo
hình thức “ con trâu đi trước, cái cày theo sau”, sử dụng sức người là chủ yếu, trong
công nghiệp máy móc thiết bị cịn ít và rất lạc hậu. Phát triển cơng cụ lao động giữa
các vùng, miền cũng có sự khác nhau.
Nhìn chung trước Đổi mới lực lượng sản xuất ở Việt Nam thấp kém, lạc hậu và
phát triển không đồng đều.
* Sự nhận thức và vận dụng quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ
phát triển của lực lượng sản xuất
Nước ta đã thiết lập một chế độ công hữu về tư liệu sản xuất một cách ào ạt bao
gồm hai thành phần kinh tế: thành phần kinh tế quốc doanh thuộc sở hữu toàn dân và
thành phần kinh tế hợp tác xã thuộc sở hữu tập thể của nhân dân lao động, trong khi đó
đang tạo địa bàn cho sự phát triển lực lượng sản xuất (vi phạm tính lịch sử cụ thể).
Nhà nước không thừa nhận yếu tố kinh tế tư bản như là các thành phần kinh tế cá thể,
kinh tế tư nhân dựa trên chế độ sở hữu tư nhân, đã phân định tách bạch thuần khiết chế
độ sở hữu và thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa, phi xã hội chủ nghĩa, tuyệt đối hóa
vai trị của chế độ cơng hữu, dẫn đến chủ trương cải tạo, sớm xóa bỏ các thành phần
kinh tế phi xã hội chủ nghĩa.
Đồng thời, trong quá trình cải tạo nền sản xuất chỉ tập trung cải tạo quan hệ sản
xuất, chủ trương xây dựng quan hệ sản xuất tiến bộ mở đường cho lực lượng sản xuất
phát triển (đi ngược lại với quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với phát triển của lực
lượng sản xuất). Trong thời kỳ đầu, sau giải phóng miền Bắc, bước vào xây dựng chủ
nghĩa xã hội, chúng ta đã nhấn mạnh thái q vai trị “tích cực” của quan hệ sản xuất,
dẫn đến chủ trương quan hệ sản xuất phải đi trước, mở đường để tạo động lực cho sự

phát triển lực lượng sản xuất. Có những nơi nông dân bị bắt ép đi vào các hợp tác xã,
mở rộng nông trường quốc doanh mà không tính đến lực lượng sản xuất cịn rất lạc
hậu. Người lao động khơng được chú trọng về cả trình độ và thái độ lao động, đáng ra
là chủ thể của sản xuất nhưng lại trở nên thụ động trong cơ chế quan liêu bao cấp.
Nước ta quá nhấn mạnh sở hữu tư liệu sản xuất theo hướng tập thể hóa, cho đó là nhân
tố hàng đầu của quan hệ sản xuất mới, từ đó người lao động bị biệt lập với đối tượng
lao động.


Thực tế vận dụng quy luật này cho thấy chúng ta đã quá coi trọng vai trò của quan
hệ sản xuất và cho rằng có thể đưa quan hệ sản xuất đi trước để mở đường, thúc đẩy
lực lượng sản xuất cùng phát triển. Việc áp dụng quan niệm ấy là hồn tồn sai lầm,
minh chứng cho điều đó là lực lượng sản xuất trong thời gian qua thấp kém, quan hệ
sản xuất được duy trì ở trình độ quá cao. Từ đó làm mâu thuẫn giữa yêu cầu phát triển
lực lượng sản xuất với hình thức kinh tế - xã hội được áp đặt một cách chủ quan trên
đất nước ta. Mâu thuẫn đó đã để lại nhiều hậu quả nặng nề cho nền kinh tế nước nhà:
kinh tế chậm phát triển, sản xuất trì trệ, tăng trưởng chỉ đạt 0,4% (trong khi chỉ tiêu đặt
ra là 13-14%), đến cuối năm 1985(12/1985, giá bán lẻ hàng hóa tăng 845.3%), năng
suất lao động quá thấp, tình trạng thiếu lương thực diễn ra gay gắt, năm 1980 phải
nhập khẩu 1,576 triệu tấn lương thực, ngân sách thiếu hụt, giá cả hàng năm tăng 20%,
nhập khẩu chiếm 4-5 phần xuất khẩu. Đến cuối năm 1985(12/1985, giá bán lẻ hàng
hóa tăng 845.3%). Nhà nước thiếu vốn đầu tư cho nền kinh tế, hàng tiêu dùng thiếu
trầm trọng,… Qua đó, ta có thể thấy một thực tế của việc làm trái quy luật đã gây ra
hậu quả nặng nề cho nền kinh tế đất nước là rơi vào tình trạng khủng hoảng trầm
trọng. Như vậy, quan hệ sản xuất khơng phù hợp với trình độ lực lượng sản xuất sẽ
kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất.
Tóm lại, ở thời kỳ trước đổi mới chúng ta đã mắc bệnh chủ quan duy ý chí, vi
phạm quy luật khách quan khi khơng tính đến điều kiện của một đất nước với nền kinh
tế lạc hậu, kém phát triển với lực lượng sản xuất còn thấp, nhưng lại chủ trương xây
dựng quan hệ sản xuất tiên tiến đi trước nhằm mở đường cho lực lượng sản xuất phát

triển, xác lập kiểu “quan hệ xã hội xã hội chủ nghĩa thống trị” dựa trên chế độ cơng
hữu là sở hữu tồn dân và sở hữu tập thể. Chính sự nhận thức và vận dụng sai lầm đó
đã được Đại hội lần thứ VI của Đảng năm 1986 chỉ rõ: một trong những nguyên nhân
cơ bản của sự khủng hoảng kinh tế xã hội nói chung, của sự kìm hãm lực lượng sản
xuất phát triển nói riêng trong những năm 1976 - 1980 là do trong nhận thức và hành
động, “chúng ta chưa thật sự thừa nhận cơ cấu kinh tế nhiều thành phần ở nước ta còn
tồn tại trong một thời gian tương đối dài, chưa nắm vững và vận dụng đúng quy luật về
sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất”.
* Giải pháp
Đảng và Nhà nước ta chủ trương xây dựng quan hệ sản xuất xã hôi chủ nghĩa dựa
trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, bao gồm hai thành phần kinh tế: thành phần
kinh tế quốc doanh thuộc sở hữu toàn dân và thành phần kinh tế hợp tác xã thuộc sở
hữu tập thể của nhân dân lao động.
Sau giải phóng miền Bắc, bước vào xây dựng chủ nghĩa xã hội, chúng ta không
nên nhấn mạnh thái quá vai trị “tích cực” của quan hệ sản xuất, dẫn đến chủ trương
quan hệ sản xuất phải đi trước, mở đường để tạo động lực cho sự phát triển lực lượng
sản xuất.
Người lao động phải được chú trọng về cả trình độ và thái độ lao động.


Nước ta không nên nhấn mạnh sở hữu tư liệu sản xuất theo hướng tập thể hóa, cho
đó là nhân tố hàng đầu của quan hệ sản xuất mới, từ đó người lao động bị biệt lập với
đối tượng lao động.
Làm cho quan hệ sản xuất không lên quá cao, tách rời với lực lượng sản xuất dẫn
đến hậu quả là sản xuất bị kìm hãm, đời sống nhân dân đi xuống nhanh chóng.
2.2. Thực trạng lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất của
Việt Nam sau đổi mới
* Thực trạng
Nhận thức được sai lầm trong thời kỳ trước, Đại hội Đảng lần thứ VI năm 1986 đã
thẳng thắn thừa nhận khuyết điểm, chủ trương Đổi mới phương thức quản lý kinh tế và

cho đến nay đã đạt được nhiều thành tựu to lớn. Người lao động nước ta đến năm 2005
là 44,3 triệu người, trong đó lao động đã qua đào tạo là 24,79 %. Hệ thống trường dạy
nghề các cấp được mở rộng. Đội ngũ trí thức cũng tăng lên nhanh chóng, năm 20072008, cả nước có 1.603.484 nghìn sinh viên.
Năm 2008, nước ta có 160 trường đại học, 209 trường cao đẳng và 275 trường
trung cấp chuyên nghiệp, đáp ứng được phần nào nhu cầu đào tạo lao động cho đất
nước. Tuy nhiên, thị trường lao động vẫn bị phân mảng, tồn tại tình trạng mất cân đối
giữa cung và cầu lao động, nhất là thiếu thợ. Nền kinh tế đang thiếu đi nguồn nhân lực
có tay nghề, chất lượng nhân lực của Việt Nam còn thấp so với các nước lân cận.
Máy móc và các trang thiết bị hiện đại ngày càng được sử dụng rộng rãi trong các
ngành kinh tế. Trong nông nghiệp là máy cày, máy bừa,…các giống cây trồng mới
cũng được tìm ra và phổ biến. Trong công nghiệp, kỹ thuật hạt nhân bắt đầu phát triển,
đẩy mạnh sản xuất. Tuy nhiên nhìn chung so với nhiều quốc gia trên thế giới thì tư liệu
sản xuất nước ta cịn nghèo nàn, chậm cải tiến, hiệu quả chưa thật sự cao và còn phân
hóa giữa các vùng trong cả nước.
Nhà nước ta chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều thành phần theo định hướng
xã hội chủ nghĩa, cơ cấu kinh tế nhiều thành phần với các hình thức kinh doanh đa
dạng, phát huy mọi năng lực sản xuất, mọi tiểm năng của các thành phần kinh tế, các
quan hệ sản xuất xã hôi chủ nghĩa, quan hệ sản xuất tư bản, manh mún của quan hệ
sản xuất phong kiến được công nhận.
Như vậy, trong hồn cảnh lực lượng sản xuất khơng ngừng phát triển, Đảng và
Nhà nước ta chủ trương đa dạng các mối quan hệ xã hội đã bước đầu vận dụng đúng
quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất và đã đạt
nhiều thành tựu đáng kể. Năm 2005, tốc độ tăng trưởng GDP của nước ta là 8,4 %, cao
nhất khu vực Đông Nam Á. Trong bối cảnh nhiều nước rơi vào khủng hoảng thì vốn
đầu tư nước ngồi vào Việt Nam vẫn cao,cụ thể là 45 tỷ USD vốn FDI từ 2005-2010,
GDP trên người khoảng 1168 USD/người/năm.
Thực trạng hiện nay


Sau chặng đường thực hiện đổi mới vừa qua, Đảng ta đã khơng ngừng tìm tịi, phát

triển nhận thức về mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất trên tổng thể
và đối với từng yếu tố cấu thành nên quan hệ sản xuất.
Thực tiễn cho thấy con đường chúng ta đang đi là đúng đắn và đạt nhiều thành tựu
quan trọng, vượt qua nhiều giai đoạn lịch sử nhạy cảm. Về con đường và cách thức đi
lên xã hội chủ nghĩa ở nước ta có nhiều vấn đề được làm sáng tỏ nhưng cũng có nhiều
vấn đề cần phải phát triển thêm. Có thể nói việc xây dựng và hoàn thiện quan hệ sản
xuất trong nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta là một
vấn đề như thế. Mặt khác cần đi đôi với việc phát triển công nghiệp hóa – hiện đại hóa
đất nước và đi tắt đón đầu, chú trọng các ngành nhiều thế mạnh trở ngành công nghiệp
mũi nhọn, phù hợp với sự phát triển nền khoa học công nghệ nước nhà.
Việc phát triển công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước và phát triển nền kinh tế
thị trường phải được thực hiện đồng thời, thúc đẩy hỗ trợ nhau cùng phát triển. Bởi lẽ
nếu cơng nghiệp hóa – hiện đại hóa tạo nên lực lượng sản xuất cần thiết cho sự phát
triển xã hội thì việc phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần có sự điều tiết của
nhà nước và theo định hướng xã hội chủ nghĩa chính là để xây dựng hệ thống quan hệ
sản xuất phù hợp. Nước ta cần xác lập và hoàn thiện một quan hệ sản xuất tiến bộ và
phù hợp với lực lượng sản xuất hiện nay để đất nước phát triển hơn nữa,mà trước hết
là phát triển kinh tế một cách bền vững.
* Sự nhận thức và vận dụng quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ
phát triển của lực lượng sản xuất
Trong khi tiến hành cơng nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước, đặc biệt là qua 10
năm thực hiện chiến lược phát triển kinh tế xã hội 2001 - 2010, chúng ta đã từng bước
nhận thức và vận dụng quy luật này ngày càng rõ và đúng đắn hơn. Đó là chủ trương
phát triển nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng xã hội
chủ nghĩa với nhiều hình thức sở hữu; nhiều thành phần kinh tế, hình thức tổ chức
kinh doanh và hình thức phân phối, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trị chủ đạo. Vì
vậy đã góp phần quan trọng để “đạt được những thành tựu to lớn và rất quan trọng…,
đạt bước phát triển mới cả về lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất”. Xây dựng và phát
triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa vừa phù hợp với xu hướng
phát triển chung của nhân loại, vừa phù hợp với yêu cầu phát triển của lực lượng sản

xuất ở nước ta; với yêu cầu của quá trình xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ kết hợp
với chủ động hội nhập kinh tế quốc tế.
Nước ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa trong điều
kiện của trình độ phát triển lực lượng sản xuất đa dạng, khơng đồng đều. Chính vì vậy,
nhiệm vụ quan trọng hàng đầu là phải tiến hành cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa nhằm
xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội. Đó là nhiệm vụ trung tâm trong
suốt thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Mặt khác, tích cực chủ động
hội nhập kinh tế quốc tế để phát huy cao độ nội lực, tranh thủ tối đa ngoại lực, không
ngừng nâng cao đời sống của nhân dân. Nhận thức đúng u cầu đó, trong q trình


đổi mới, Đảng và Nhà nước có nhiều chủ trương, chính sách, biện pháp thực hiện cơng
nghiệp hóa-hiện đại hóa để phát triển lực lượng sản xuất như: xác định rõ vị trí, vai trị
của các thành phần kinh tế: kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế tập thể không
ngừng củng cố và phát triển, kinh tế nhà nước cùng kinh tế tập thể ngày càng trở thành
nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân. Kinh tế tư nhân là một trong những
động lực của nền kinh tế, kinh tế có vốn đầu tư nước ngồi được khuyến khích phát
triển…, tạo cơ sở củng cố, từng bước hoàn thiện quan hệ sản xuất mới.
Mục đích của việc xây dựng quan hệ sản xuất, phù hợp với trình độ phát triển của
lực lượng sản xuất trong q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa là nhằm khai thác các
lợi thế tiềm năng trong và ngoài nước, các thành phần kinh tế vào phát triển kinh tế xã
hội, ổn định và nâng cao đời sống của nhân dân, thực hiện mục tiêu dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, cơng bằng, văn minh. Có thể khẳng định, đó là thành tựu nổi bật nhất
của sự nhận thức và vận dụng một cách sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh vào điều kiện kinh tế xã hội cụ thể của đất nước trong thời kỳ quá độ lên
Chủ nghĩa xã hội.
* Giải pháp
Nâng cao trình độ người lao động bằng cách phát triển giáo dục đào tạo đặc biệt là
đào tạo nghề. Nâng cao chất lượng hiệu quả giáo dục đào tạo nghề, nhằm đẩy mạnh
phát triển nguồn lao động cả về số lượng và chất lượng.

Hoàn thiện cơ chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa để hoàn thiện
quan hệ sản xuất.
Tăng cường những bước cơ bản về cơ sở vật chất cho khoa học – công nghệ, tập
trung xây dựng một số phịng thí nghiệm đạt trình độ tiên tiến trong khu vực trên các
lĩnh vực công nghệ trọng điểm như cơng nghệ thơng tin, cơng nghệ sinh học, hóa
dầu….
Về quản lý, trong kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa phải có sự quản
lý của Nhà nước xã hội chủ nghĩa. Nhà nước xã hội chủ nghĩa quản lý nền kinh tế
bằng pháp luật, chiến lược, kế hoạch, chính sách đồng thời sử dụng cơ chế thị trường,
các hình thức kinh tế và phương pháp quản lý kinh tế thị trường để kích thích sản xuất,
giải phóng sức sản xuất, phát huy tính tích cực và hạn chế những mặt tiêu cực.
2.3. Ý nghĩa của quy luật với con đường đi lên Chủ nghĩa Xã
hội ở Việt Nam
Vì lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất đối với quá trình sản xuất xã
hội, cho nên trong hoạt động thực tiễn cần coi trọng vị trí, vai trò của lực lượng sản
xuất đối với quan hệ sản xuất. Muốn thúc đẩy quá trình sản xuất xã hội cần phải phát
huy vai trò của lực lượng sản xuất; cần phải ưu tiên, mở đường cho lực lượng sản xuất
phát triển tối đa. Tuy nhiên, trước thời điểm đổi mới, việc vận dụng, giải quyết mối
quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất chưa tốt, không tuân theo các quy
luật khách quan. Bước vào thời kỳ đổi mới, Đảng ta xác định phải từng bước xây


dựng, hoàn thiện quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất, nhằm phát triển lực lượng sản xuất, coi đó là tiêu chuẩn đánh giá việc xây dựng
quan hệ sản xuất theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Vì quan hệ sản xuất có sự tác động tích cực trở lại đối với lực lượng sản xuất (thể
hiện thông qua sự phù hợp và khơng phù hợp với trình độ lực lượng sản xuất) trong
q trình sản xuất xã hội, cho nên khơng được xem thường, bỏ qua vai trò này và cần
phải biết phát huy vai trò của quan hệ sản xuất nhằm tạo điều kiện, môi trường thuận
lợi cho lực lượng sản xuấ phát triển. Từ thực tiễn đổi mới của đất nước cho thấy việc

giải phóng sức sản xuất, động viên tối đa mọi nguồn lực bên trong và bên ngoài cho
cơng nghiệp hố, hiện đại hố, nâng cao hiệu quả kinh tế và xã hội, cải thiện đời sống
của nhân dân làm mục tiêu hàng đầu trong việc khuyến khích phát triển các thành phần
kinh tế và hình thức tổ chức kinh doanh. Tiêu chuẩn căn bản để đánh giá hiệu quả xây
dựng quan hệ sản xuất theo định hướng xã hội chủ nghĩa là thúc đẩy phát triển lực
lượng sản xuất, cải thiện đời sống nhân dân, thực hiện cơng bằng xã hội.
Vì giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất tồn tại trong mối quan hệ vừa
thống nhất, vừa đấu tranh lẫn nhau, cho nên cần phải tôn trọng quy luật này. Việc tôn
trọng quy luật giúp chúng ta chủ động trong việc giải quyết mối quan hệ cũng như có
những biện pháp phù hợp nhằm thúc đẩy quá trình sản xuất xã hội phát triển. Nhìn lại,
sau hơn 30 năm đổi mới, nhất là sau năm 2011 nhận thức của chúng ta về mức độ quan
hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất ngày càng tăng dần từ “phù hợp” đến
“phù hợp từ thấp đến cao” và đến nay là “phù hợp tiến bộ”, một trong những đặc trưng
của xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là "có nền kinh tế phát triển cao, dựa
trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển
của lực lượng sản xuất".

KẾT LUẬN
Từ những phân tích trên ta có thể thấy rằng quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ
phát triển của lực lượng sản xuất là quy luật kinh tế cơ bản, phổ biến, chi phối mọi
phương thức sản xuất, không loại trừ một quốc gia dân tộc nào. Điều đó địi hỏi chúng
ta muốn phát triển kinh tế đất nước thì phải nhận thức đúng để hành động phù hợp với
quy luật khách quan. Quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất là hai mặt hợp thành của
phương thức sản xuất có tác động qua lại biện chứng với nhau. Việc đẩy quan hệ sản
xuất lên quá xa so với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là một
hiện tượng tương đối phổ biến ở nhiều nước xây dựng xã hội chủ nghĩa. Trong thời kỳ
quá độ lên CNXH ở Việt Nam, sự tác động qua lại giữa lực lượng sản xuất và quan hệ
sản xuất có những đặc điểm riêng địi hỏi sự nhận thức khách quan, khoa học để có thể
đề ra đường lối, chính sách nhằm phát triển lực lượng sản xuất, xây dựng quan hệ sản
xuất tiến bộ, phù hợp, nhằm xây dựng thành công CNXH ở Việt Nam. Thực hiện

đường lối đổi mới của Đảng, nhìn tổng thể đất nước ta đã đạt được những thành tựu to
lớn, có ý nghĩa lịch sử trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội. Trong đó, có thành
tựu về nhận thức và vận dụng quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ


phát triển của lực lượng sản xuất ở nước ta. Hơn nữa, trong bối cảnh tồn cầu hố và
hội nhập quốc tế, việc nhanh chóng phát triển lực lượng sản xuất đi đơi với từng bước
hồn thiện quan hệ sản xuất để phát triển kinh tế - xã hội, khắc phục nguy cơ tụt hậu
xa về kinh tế đang càng là một yêu cầu cấp thiết.



×