Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

TIỂU LUẬN TCCT cải CÁCH HÀNH CHÍNH TRONG điều KIỆN xây DỰNG NHÀ nước PHÁP QUYỀN xã hội CHỦ NGHĨA ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (87.71 KB, 12 trang )

1

TRƯỜNG CHÍNH TRỊ
*

BÀI THU HOẠCH HẾT HỌC PHẦN
Chương trình Trung cấp lý luận chính trị - hành chính

CHỦ ĐỀ:

CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH TRONG
ĐIỀU KIỆN XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC
PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở
VIỆT NAM HIỆN NAY
Họ tên học viên:
Lớp: Trung cấp LLCT-HC
Phần: Những vấn đề cơ bản về hệ thống chính trị, nhà nước và pháp
luật xã hội chủ nghĩa Việt Nam

................................, năm 2021
PHẦN I. MỞ ĐẦU
Thực hiện đường lối đổi mới, Đảng ta đã có nhiều chủ trương về cải cách
hành chính nhà nước và ln xác định đó là một khâu quan trọng trong sự nghiệp
đổi mới để phát triển đất nước. Mục tiêu của đẩy mạnh cải cách hành chính nhà
nước là nhằm xây dựng một nền hành chính dân chủ, trong sạch, vững mạnh, từng


2

bước hiện đại; đội ngũ cán bộ, cơng chức có đủ phẩm chất và năng lực…; mà tổng
quát nhất là tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ


nghĩa.
Qua 35 năm đổi mới, cùng với đổi mới về kinh tế thì cải cách hành chính
nhà nước cũng được tiến hành. Cải cách hành chính đã đạt những kết quả bước đầu
quan trọng, góp phần vào thành tựu chung của đất nước. Tuy nhiên, nền hành
chính nhà nước vẫn còn nhiều hạn chế, yếu kém. Cùng với đó, bối cảnh tồn cầu
hố đang đặt ra trước Việt Nam những thách thức và cơ hội mới đòi hỏi phải có
những cố gắng cao độ. Điều đó cũng có nghĩa là q trình cải cách hành chính ở
Việt Nam còn rất nhiều vấn đề đặt ra cần được tiếp tục giải quyết.
PHẦN II. NỘI DUNG
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH TRONG
XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
1.1. Quan niệm về nhà nước pháp quyền
Về nhà nước pháp quyền, hiện nay có nhiều quan niệm khác nhau, được
nhìn nhận từ nhiều khía cạnh khác nhau. Tuy nhiên, về mặt nhận thức, có thể khái
quát nhà nước pháp quyền có những đặc trưng mang tính phổ biến:
Nhà nước pháp quyền trước hết là nhà nước hợp hiến, hợp pháp; nhà nước
quản lý xã hội bằng pháp luật, trong đó các đạo luật chiếm ưu thế trong hệ thống
pháp luật. Pháp luật của nhà nước pháp quyền là pháp luật chứa đựng tính nhân
văn, nhân đạo, pháp luật vì con người, vì số đông trong xã hội, pháp luật phải thể
hiện được ý chí cộng đồng dân tộc, quốc gia, khơng phải ý chí của một nhóm
người, một cá nhân hay một tập đồn nào đó.
Nhà nước, các cơ quan của nhà nước phải đặt mình dưới pháp luật, lệ thuộc
vào pháp luật. Trong mối quan hệ giữa nhà nước với pháp luật thì "tính trội " thuộc
về pháp luật, ở khía cạnh này pháp luật như là công cụ, phương tiện để hạn chế
quyền lực nhà nước, hạn chế công quyền.
Nhà nước pháp quyền là nhà nước trong đó các quyền tự do của công dân
phải ngày càng được mở rộng, được bảo đảm, bảo vệ bằng cơ chế pháp luật, bằng
các tiền đề, điều kiện về kinh tế- xã hội, bằng tổ chức nhà nước. Như vậy, pháp luật
là công cụ phương tiện ghi nhận, bảo vệ các quyền cơng dân.
Ngồi những đặc điểm mang tính phổ biến đó, Nhà nước pháp quyền Việt

Nam lại có một số đặc điểm mang tính riêng biệt của mình thể hiện định hướng


3

chính trị của nhà nước, tính chất, bản chất của nhà nước mà Việt Nam cần xây
dựng đó là: Nhà nước pháp quyền Việt Nam theo định hướng xã hội chủ nghĩa;
Nhà nước pháp quyền Việt Nam phải là nhà nước mà tất cả quyền lực nhà nước
thuộc về nhân dân; Nhà nước pháp quyền Việt Nam phải là nhà nước của nhân
dân, do nhân dân và vì nhân dân. Nhà nước pháp quyền Việt Nam đặt dưới sự lãnh
đạo của Đảng cộng sản Việt Nam- đảng của giai cấp công nhân Việt Nam và của cả
dân tộc. Đây là những vấn đề mang tính ngun tắc có tính chính trị- xã hội định
hướng cho việc xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam trên thực tế.
Tóm lại: Nhà nước pháp quyền là nhà nước hợp hiến, hợp pháp, mọi hoạt
động của nhà nước hợp hiến, hợp pháp, nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Việt Nam là nhà nước của dân, do dân, vì dân. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền dân chủ.
1.2. Cải cách hành chính trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa ở Việt Nam
Lịch sử đã chỉ ra rằng bất kỳ một cuộc cải cách nào cũng đều có mục tiêu,
mục đích xã hội của nó. Mục tiêu cải cách hành chính ở Việt Nam hiện nay là: xây
dựng một nền hành chính trong sạch, vững mạnh, tiết kiệm, chuyên nghiệp, phục
vụ nhân dân ngày một tốt hơn.
Cải cách hành chính ở Việt nam được tiến hành nhiều năm nay với những bước đi lộ trình khác nhau từ thấp tới cao. Bắt đầu là việc cải cách một bước thủ tục hành
chính trong việc giải quyết các công việc của cá nhân, tổ chức, đến cải cách một
bước nền hành chính nhà nước với ba nội dung là: cải cách thể chế hành chính; cải
cách bộ máy hành chính nhà nước; xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức. Ngày nay
cải cách hành chính đã chuyển sang một bước mới với bốn nội dung: cải cách thể
chế hành chính; cải cách bộ máy hành chính nhà nước; xây dựng đội ngũ cán bộ,
cơng chức; cải cách tài chính cơng.

Cải cách hành chính nhà nước là q trình cải biến có kế hoạch cụ thể để đạt
mục tiêu hoàn thiện một hay một số nội dung của nền hành chính nhà nước (thể
chế, cơ cấu tổ chức bộ máy nhà nước, chuẩn hoá đội ngũ cán bộ, công chức…)
nhằm xây dựng nền hành chính đáp ứng yêu cầu của một nền hành chính hiệu lực,
hiệu quả, chuyên nghiệp và hiện đại.


4

Việc tiến hành và đẩy mạnh cải cách hành chính nhà nước góp phần xây
dựng và hồn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay được
xuất phát từ chính vai trị, tầm quan trọng của nền hành chính. Ở nước ta, nền hành
chính có chức năng thực thi quyền hành pháp - tổ chức thi hành pháp luật và quản
lý, điều hành mọi hoạt động trên các lĩnh vực đời sống xã hội nhằm chuyển hoá
chủ trương, đường lối của Đảng, pháp luật của nhà nước thành hiện thực, bảo đảm
cho các chủ thể quan hệ pháp luật thực hiện nghiêm chỉnh, bảo đảm và bảo vệ các
quyền công dân bằng pháp luật. Nền hành chính quan tâm đảm bảo các quyền và
lợi ích của công dân, bảo đảm an sinh xã hội, bảo đảm cơng bằng, bình đẳng, tạo
điều kiện cần thiết để mọi thành viên xã hội có cơ hội như nhau để phát triển. Điều
đó góp phần thiết thực hồn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay,
biểu hiện trực tiếp trên thực tế là xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay.
Trong sự nghiệp đổi mới đất nước hiện nay, nền hành chính giữ vai trị là
khâu trọng tâm của cơng cuộc xây dựng và hồn thiện Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa. Các khâu hoạt động kinh tế, văn hóa, xã hội đều phải qua khung cửa
bộ máy hành chính nhà nước thì mới thành hiện thực. Vì vậy, nếu khơng kịp thời
đổi mới hoạt động hành chính thì nhịp độ và chất lượng của sự nghiệp đổi mới sẽ
bị ảnh hưởng. Mặt khác, cải cách hành chính cũng là "đầu ra" của các cuộc cải
cách khác, như cải cách kinh tế, cải cách tư pháp… trong cơng cuộc đổi mới tồn
diện đất nước.

Mặt khác, xuất phát từ đường lối, quan điểm của Đảng ta về đổi mới bộ máy
nhà nước nhằm xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ
nghĩa đặt ra yêu cầu phải đẩy mạnh cải cách hành chính. Việc xây dựng Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân đã được
Đảng ta đặt ra như một nhiệm vụ chiến lược quan trọng trong thời kỳ đổi mới tồn
diện đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, cơng bằng, văn minh.
Trong đó cải cách hành chính được xác định là khâu đột phá, trọng tâm.
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH TRONG XÂY
DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
1. Những kết quả đạt được.


5

Cải cách hành chính đã có những bước đột phá. Năm 2019 là năm thứ hai
thực hiện Nghị quyết Trung ương 6 (khóa XII) về tiếp tục đổi mới, sắp xếp, tổ
chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Đến
cuối năm 2019, tồn hệ thống chính trị đã giảm 4 đầu mối trực thuộc trung ương,
61 đầu mối trực thuộc cấp tỉnh, 485 đầu mối trực thuộc cấp huyện; 7 tổng cục và
tương đương; 87 cục, vụ; 73 đơn vị sự nghiệp thuộc ban, bộ, ngành trung ương;
gần 2.500 phòng và tương đương; hơn 2.100 đội thuộc chi cục; giảm hơn 4.100
đơn vị sự nghiệp công lập, giảm hơn 2.200 đầu mối trong các đơn vị sự nghiệp
công lập; giảm gần 15.200 cấp trưởng, cấp phó. Đồng thời, việc thực hiện Nghị
quyết số 39-NQ/TW ngày 17/4/2015 của Bộ Chính trị về tinh giản biên chế và cơ
cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức cũng giảm được khoảng 97.900 cán
bộ, công chức tại các cơ quan, đơn vị, địa phương1
Sau tinh giản biên chế, sắp xếp tổ chức, nhiều mô hình mới đã phát huy hiệu
quả cơng tác rõ rệt. Nổi bật là việc hợp nhất ban tổ chức cấp ủy với cơ quan nội vụ
cấp huyện; ủy ban kiểm tra cấp ủy với cơ quan thanh tra cấp huyện; hợp nhất đảng
bộ khối doanh nghiệp với đảng bộ khối các cơ quan cấp tỉnh; văn phòng cấp ủy với

văn phòng Hội đồng nhân dân (HĐND) và Ủy ban nhân dân (UBND) cấp huyện
hay mơ hình trưởng ban dân vận đồng thời là chủ tịch Ủy ban Mặt trận Tổ quốc;
trưởng ban tuyên giáo đồng thời là giám đốc trung tâm bồi dưỡng chính trị cấp
huyện…
Cải cách hành chính đã giúp tổ chức, bộ máy của hệ thống chính trị từng
bước được kiện toàn theo hướng tinh gọn, hoạt động hiệu quả hơn. Các cơ quan,
đơn vị nhà nước và các tổ chức chính trị – xã hội đã giảm đầu mối, giảm cấp phó,
giảm cấp trung gian; nâng cao hiệu quả hoạt động của bộ máy. Chức năng, nhiệm
vụ, quyền hạn, mối quan hệ công tác của các tổ chức trong hệ thống chính trị được
rà sốt, bổ sung, hoàn thiện, từng bước khắc phục sự chồng chéo, trùng lắp; xác
định rõ hơn thẩm quyền, trách nhiệm của từng tổ chức, cá nhân, nhất là người đứng
đầu.
Qua thực tiễn cho thấy, việc sắp xếp tổ chức bộ máy tinh gọn gắn với tinh
giản biên chế làm tăng hiệu quả cơng tác và góp phần tiết kiệm chi thường xun,
1

/>

6

tăng chi cho đầu tư phát triển. Theo kết quả khảo sát của Liên hiệp quốc năm 2018,
Việt Nam xếp thứ 88/193 quốc gia về chính phủ điện tử trực tuyến và xếp hạng
5/193 quốc gia về chỉ số dịch vụ công trực tuyến. Đây là những kết quả hết sức khả
quan, thể hiện sự quyết tâm của Đảng và cả hệ thống chính trị trong nỗ lực tạo đột
phá cải cách hành chính. làm cho bộ máy hành chính hồn bị hơn, hoạt động có
hiệu quả hơn, phục vụ nhân dân ngày một đúng pháp luật, tốt hơn và tiết kiệm
nhất, dần từng bước chuyển nền hành chính từ cơ quan cai quản thành các cơ quan
phục vụ dân. Những cải cách đã góp phần tạo ra tăng trưởng kinh tế mạnh mẽ
trong thời gian qua, đồng thời góp phần vào thực hiện xây dựng và hoàn thiện nhà
nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân.

2.2. Những hạn chế yếu kém và ngun nhân
Cơng cuộc cải cách hành chính nhà nước mặc dù đã đạt được những kết quả
tiến bộ, quan trọng, đáng ghi nhận nhưng vẫn đang còn nhiều mặt hạn chế, yếu
kém, tập trung chủ yếu ở những điểm sau:
Hệ thống thể chế hành chính chưa đồng bộ, cịn chồng chéo và thiếu thống
nhất; thủ tục hành chính trên nhiều lĩnh vực còn rườm rà, phức tạp; trật tự, kỷ
cương chưa nghiêm. Hiện vẫn chưa xác định được một cách đầy đủ, rõ ràng về
khung khổ thể chế cần phải có cho quản lý các hoạt động kinh tế - xã hội của đất
nước trong điều kiện mới. Những bổ sung, sửa đổi về mặt thể chế mặc dù rất tích
cực nhưng chất lượng cịn nhiều hạn chế; mang tính chắp vá, thiếu đồng bộ và vẫn
còn bị ảnh hưởng bởi thể chế cũ - thể chế quản lý tập trung quan liêu, bao cấp.
Tổ chức bộ máy còn cồng kềnh, nhiều tầng nấc; phương thức quản lý hành
chính vừa tập trung quan liêu lại vừa phân tán, chưa thông suốt; chưa có những cơ
chế, chính sách tài chính thích hợp với hoạt động của các cơ quan hành chính, đơn
vị sự nghiệp, tổ chức làm dịch vụ công.
Đội ngũ cán bộ, cơng chức cịn nhiều điểm yếu về phẩm chất, tinh thần trách
nhiệm, năng lực chuyên môn, kỹ năng hành chính; phong cách làm việc chậm đổi
mới; tệ quan liêu, tham nhũng, sách nhiễu nhân dân còn diễn ra trong một bộ phận
cán bộ, cơng chức.…Vẫn cịn một bộ phận cán bộ cơng chức suy thối về phẩm
chất đạo đức, thiếu trách nhiệm, cửa quyền, thiếu ý thức và tinh thần phục vụ, vô
cảm trước yêu cầu của nhân dân và xã hội. Công tác quản lý, sử dụng, thi tuyển,
đánh giá cán bộ, công chức chậm được thay đổi vì vẫn đang sử dụng phương pháp


7

cũ là chủ yếu. chất lượng đội ngũ cán bộ, cơng chức cịn nhiều mặt chưa đáp ứng
được u cầu đổi mới.
Bộ máy hành chính ở các địa phương và cơ sở chưa thực sự gắn bó với dân,
khơng nắm chắc được những vấn đề nổi cộm trên địa bàn, lúng túng, bị động khi

xử lý các tình huống phức tạp. Việc tinh giảm biên chế trong bộ máy hành chính
nhà nước chưa đạt yêu cầu.
Những hạn chế, khuyết điểm trên do nhiều nguyên nhân. Nhưng trước hết,
nhận thức của cán bộ, cơng chức về vai trị và chức năng quản lý của Nhà nước, về
xây dựng bộ máy nhà nước nói chung và bộ máy hành chính nhà nước trong tình
hình mới, điều kiện mới chưa thật rõ ràng và chưa thống nhất, còn nhiều vấn đề về
lý luận và thực tiễn chưa được làm sáng tỏ, còn nhiều chủ trương, chính sách, quy
định của pháp luật ra đời trong cơ chế tập trung, quan liêu bao cấp chưa được kịp
thời sửa đổi, thay thế.
Thứ hai, việc triển khai các nhiệm vụ về cải cách hành chính chưa được tiến
hành đồng bộ với đổi mới tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị do Đảng
lãnh đạo, cải cách hành chính chưa gắn bó chặt chẽ với đổi mới hoạt động lập pháp
và cải cách tư pháp.
Thứ ba, cải cách hành chính gặp trở ngại lớn do đụng chạm đến lợi ích cục
bộ của nhiều cơ quan hành chính, nhiều cán bộ, cơng chức trong bộ máy nhà nước
ở trung ương và địa phương; ảnh hưởng của cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp
còn đè nặng lên nếp nghĩ, cách làm của khơng ít cán bộ, cơng chức; cuộc cải cách
chưa được chuẩn bị tốt về mặt tư tưởng. Cùng với đó, các chế độ, chính sách về tổ
chức và cán bộ, về tiền lương còn nhiều điều chưa phù hợp, chưa tạo ra động lực
thúc đẩy công cuộc cải cách.
CHƯƠNG III: PHƯƠNG THỰC HIỆN ĐẨY MẠNH CẢI CÁCH HÀNH
CHÍNH NHÀ NƯỚC TRONG ĐIỀU KIỆN XÂY DỰNG VÀ HOÀN THIỆN
NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM HIỆN
NAY VÀ TRÁCH NHIỆM CỦA BẢN THÂN
3.1. Phương hướng đẩy mạnh cải cách hành chính nhà nước trong điều kiền
xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay
Để phù hợp với bối cảnh và tình hình mới, cơng cuộc đẩy mạnh cải cách
hành chính ở nước ta cần thực hiện tốt những nội dung sau:



8

Trước hết, cần nâng cao nhận thức của đội ngũ cán bộ, cơng chức về cải
cách hành chính nhà nước góp phần xây dựng và hồn thiện nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay. Đẩy mạnh việc học tập, quán triệt về chủ
trương, quan điểm của Đảng và Nhà nước về cải cách hành chính trong nội bộ cán
bộ, công chức từ tỉnh đến cơ sở để thông suốt thực hiện.
Để làm việc này, trước tiên cần phải làm rõ cho được cơ chế “Đảng lãnh
đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ” để có thể xác định được nội dung và
trách nhiệm của các cơ quan của Đảng, của Nhà nước và các đồn thể, quần chúng
nhân dân, khơng bị chồng chéo hoặc trông chờ, ỷ lại, không làm cản trở lẫn nhau
trong lãnh đạo, quản lý và điều hành công việc. Phải làm cho mọi người thơng suốt
cải cách hành chính khơng phải là công việc chỉ riêng của các cơ quan nhà nước và
cũng không phải chỉ tự cơ quan nhà nước làm được, bởi vì nó tác động trực tiếp
đến mọi lĩnh vực hoạt động của đời sống xã hội. Do vậy, phải huy động cho được
mọi lực lượng xã hội tham gia theo một chương trình kế hoạch cụ thể, có bước đi
thích hợp với từng địa phương, đơn vị, tập trung chỉ đạo hướng vào các nội dung
trọng yếu trong từng thời gian nhất định.
Hai là, Đẩy mạnh cải cách hệ thống thể chế hành chính
Có thể khẳng định cải cách thể chế hành chính là nội dung cốt lõi và thực
chất của cải cách hành chính ở nước ta hiện nay. Cải cách thể chế hành chính có
nghĩa là điều chỉnh mối quan hệ giữa cơ cấu hành chính với các cơ cấu xã hội khác
và đồng thời điều chỉnh tổ chức bộ máy hành chính để thích ứng với những u
cầu của tình hình mới. Nội dung cụ thể của cải cách thể chế hành chính bao gồm từ
điều chỉnh chức năng hệ thống hành chính, đổi mới cơ cấu hệ thống hành chính,
đến đổi mới cơ chế, phương thức hoạt động của hệ thống hành chính.
Trong cải cách thể chế, Cần tiếp tục xây dựng và hồn thiện hệ thống thể
chế, trong đó chủ yếu là thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và
thể chế về tổ chức, hoạt động của nền hành chính Nhà nước. Những cơng việc chủ
yếu phải làm là loại bỏ, sửa đổi hoặc bổ sung những thể chế lạc hậu, bất cập, đồng

thời thiết lập các thể chế còn thiếu để điều chỉnh các quan hệ kinh tế- xã hội mới
phát sinh theo tiến trình phát triển của nền kinh tế thị trường và quá trình hội nhập
kinh tế quốc tế. Để đáp ứng tốt các yêu cầu của hội nhập kinh tế quốc tế, phải tiến


9

tới xây dựng một hệ thống pháp luật đầy đủ, hồn chỉnh, đồng bộ, thống nhất,
minh bạch, dễ đốn trước và phù hợp với luật lệ quốc tế. Quá trình xây dựng và
thực thi thể chế cần có sự tham gia sâu rộng và giám sát thoả đáng của các chủ thể
hữu quan, đặc biệt là của người dân và doanh nghiệp.
Một mặt rất quan trọng của cải cách thể chế là cải cách thủ tục hành chính,
hợp lý hóa trình tự giải quyết cơng việc trong quan hệ giữa các cơ quan công
quyền với xã hội dân sự, với công dân, với doanh nghiệp. Khắc phục những hạn
chế trước đây, cải cách thủ tục hành chính trong giai đoạn tới phải được được thực
hiện song hành với những mặt khác của cải cách hành chính như đẩy mạnh phân
cấp, xã hội hố các dịch vụ cơng, cải cách tiền lương, ứng dụng công nghệ điện tử
và viễn thông… Mục tiêu cơ bản của cải cách là đơn giản hoá các thủ tục, tạo
thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp cũng như cho cơ quan nhà nước trong giải
quyết công việc.
Ba là, Cải cách tổ chức và hoạt động bộ máy hành chính
Cần chuyển đổi mạnh mẽ, cơ bản vai trị, chức năng, nhiệm vụ của cả bộ
máy hành chính nhà nước cũng như của mỗi cơ quan hành chính để phù hợp hơn
với yêu cầu quản lý nền kinh tế thị trường và dân chủ hóa đời sống xã hội. Cải tiến
phương thức quản lý, lề lối làm việc của cơ quan hành chính các cấp. Thực hiện
từng bước hiện đại hố nền hành chính. Đẩy mạnh hiện đại hóa hành chính, áp
dụng rộng rãi cơng nghệ thơng tin vào hoạt động của các cơ quan hành chính, xây
dựng, vận hành Chính phủ điện tử.
Đề cao vai trị giám sát của nhân dân và tạo điều kiện để nhân dân tham gia
nhiều hơn vào giải quyết các công việc của địa phương, xây dựng cộng đồng dân

cư đoàn kết, thống nhất.
Bốn là: Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ công chức.
Phải xây dựng cho được một đội ngũ cán bộ, cơng chức thực sự có tâm, đủ
tầm, trung thực, tận tuỵ với công việc và am hiểu pháp luật. Phải có kế hoạch đào
tạo, đào tạo lại, bồi dưỡng thường xuyên, định kỳ đối với cán bộ, công chức, đặc
biệt là với đội ngũ cán bộ làm công tác lãnh đạo để kịp thời nắm bắt thông tin, kiến
thức mới, phục vụ cho công tác lãnh đạo, điều hành, nhất là trong thời kỳ nước ta
vừa được kết nạp vào Tổ chức thương mại thế giới. Kịp thời loại bỏ những cán bộ,


10

cơng chức ln khơng hồn thành nhiệm vụ, tham nhũng, biến chất, cơ hội, gây
cản trở công cuộc cải cách hành chính hiện nay.
3.2. Liên hệ trách nhiệm bản thân
Là công chức công tác tại UBND xã, tôi nhận thức rõ vị trí, vai trị và trách
nhiệm của cá nhân đối với cơng tác cải cách hành chính nói chung, tại UBND xã
nói riêng. Kết quả cơng tác cải cách hành chính trong điều kiện xây dựng chính
quyền địa phương vững mạnh thời gian qua ở địa phương tôi đã đạt được kết quả
đáng khích lện, có được kết quả đó là sự đóng góp lớn vào vai trị, trách nhiệm đội
ngũ cán bộ, công chức - những người thực thi cơng vụ trong bộ máy hành chính
nhà nước. Tơi cũng hiểu rõ cán bộ, công chức là một mắt xích quan trọng, khơng
thể thiếu của nền hành chính nhà nước, là chủ thể quan trọng trong quá trình cải
cách hành chính. Đội ngũ này có nhiệm vụ tổ chức thực thi chính sách, pháp luật,
quản lý các lĩnh vực của đời sống xã hội, đảm bảo hiệu lực, hiệu quả trong quản lý
nhà nước. Vì vậy, để khẳng định vai trị của mình, bản thân tơi xác định phải ln
chủ động, tích cực hết lịng, hết sức phục vụ Nhân dân, ln nâng cao ý thức, trách
nhiệm, văn hóa ứng xử trong giao tiếp, thường xuyên đi cơ sở tìm hiểu tâm tư,
nguyện vọng của Nhân dân, từ đó đề ra các giải pháp cải tiến phương pháp làm
việc giúp công tác giải quyết hồ sơ cho người dân được tốt hơn.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói cán bộ phải có tài và đức; có đức mà
khơng có tài thì khơng khác gì ơng Bụt, khơng làm hại ai nhưng cũng khơng làm
được gì có ích cho mọi người; ngược lại, có tài mà khơng có đức thì sẽ trở thành kẻ
phá hoại. Tài và đức ln song hành với nhau, quyết định năng lực và nhân cách
người cán bộ, cơng chức. Vì vậy, đối với bản thân tơi, khi đã xác định gắn bó với
nhiệm vụ của mình trong cơ quan nhà nước, thì trong bất kỳ hồn cảnh nào cũng
phải đặt lợi ích của Nhân dân, của Đảng và Nhà nước lên hàng đầu. Trong giao
tiếp, ứng xử với Nhân dân phải luôn thể hiện tinh thần trách nhiệm cao, không thờ
ơ, lơ là trước những yêu cầu, bức xúc của Nhân dân; đồng thời q trình cơng tác
là q trình tích cự đấu tranh với những hành vi tiêu cực, nhũng nhiễu, phiền hà
đối với dân, ln lắng nghe ý kiến góp ý của người dân về thái độ phục vụ để điều
chỉnh kịp thời. Thường xuyên học tập, bồi dưỡng nâng cao trình độ chun mơn,
chủ động học hỏi, giáo dục tính liêm chính, đạo đức cơng vụ, đổi mới phương thức


11

làm việc, nâng cao tinh thần trách nhiệm với phương châm “làm hết việc chứ
không làm hết giờ”, rèn luyện kỹ năng ứng dụng công nghệ thông tin, thực hiện tốt
dịch vụ công trực tuyến ở các cấp độ nhằm đáp ứng nhanh chóng, kịp thời yêu cầu
của Nhân dân, góp phần tích cực vào cơng cuộc cải cách hành chính nói chung,
xây dựng chính quyền địa phương vững mạnh tồn diện.
PHẦN III. KẾT LUẬN
Cải cách hành chính nhà nước ở nước ta là cơng việc mới mẻ, nó địi hỏi vừa
phải tìm tịi vừa phải rút kinh nghiệm. Vì vậy, việc hình thành quan niệm và những
nguyên tắc cơ bản chỉ đạo cơng cuộc cải cách hành chính cũng như việc đề ra
những nội dung, phương hướng, chủ trương, giải pháp thực hiện trong từng giai
đoạn là một quá trình tìm tịi sáng tạo chứ khơng phải là một cái gì có sẵn hoặc một
lúc là hồn thành.
Việc cải cách hành chính nhà nước ở Việt Nam trong những năm qua và trong

tương lai đi theo hướng làm cho bộ máy hành chính hồn bị hơn, hoạt động có hiệu
quả hơn, phục vụ nhân dân ngày một đúng pháp luật, tốt hơn và tiết kiệm nhất, dần
từng bước chuyển nền hành chính từ cơ quan cai quản thành các cơ quan phục vụ
dân, làm các dịch vụ hành chính đối với dân, công dân là khách hàng của nền hành
chính, là người đánh giá khách quan nhất về mọi hoạt động của bộ máy nhà nước,
bộ máy hành chính. Tất cả những mục tiêu đó của cải cách hành chính cũng là
nhằm góp phần xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa với bản chất của
nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.
Trong thời gian qua, cơng tác cải cách hành chính nhà nước cũng đã đạt được
nhiều kết quả tích cực, góp phần thiết thực vào việc xây dựng nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tuy nhiên, bên
cạnh đó cơng tác này cũng cịn nhiều bất cập cần tiếp tục nghiên cứu và rút kinh
nghiệm. Điều này càng trở nên khó khăn hơn khi bối cảnh thế giới và trong nước
đang đặt ra đối với nước ta nhiều thử thách mới. Với sự nỗ lực, nghiêm túc của cả
hệ thống chính trị, đặc biệt là vai trò của Đảng trong lãnh đạo, chỉ đạo và kiểm tra
được tăng cường đối với công tác cải cách hành chính nhà nước hiện nay, chúng ta
có thể tin tưởng về sự thành công của công tác cải cách hành chính nhà nước ở
nước ta trong thời gian tới. Và xa hơn, vấn đề xây dựng nhà nước pháp quyền xã


12

hội chủ nghĩa với bản chất của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân sẽ khả thi hơn
từ cơng tác cải cách hành chính nhà nước.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Học viện chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, “Những vấn đề cơ bản về hệ
thống chính trị, nhà nước và pháp luật xã hội chủ nghĩa” (Giáo trình Trung cấp lý
luận chính trị - hành chính), Nxb.Lý luận chính trị, 2017.
2. Học viện chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, “Giáo trình những vấn đề cơ bản
về Nhà nước và pháp luật xã hội chủ nghĩa, Nxb. Chính trị - Hành chính, H.2009.

3. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII,
Nxb.Chính trị quốc gia, H.2016.
4. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XIII, Nxb.Chính trị quốc gia, H.2021.
5. Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013.



×