Tải bản đầy đủ (.doc) (11 trang)

TIỂU LUẬN TRUNG cấp CHÍNH TRỊ PHƯƠNG HƯỚNG xây DỰNG và HOÀN THIỆN NHÀ nước PHÁP QUYỀN xã hội CHỦ NGHĨA ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (86.56 KB, 11 trang )

1

TRƯỜNG CHÍNH TRỊ
*

BÀI THU HOẠCH HẾT HỌC PHẦN
Chương trình Trung cấp lý luận chính trị - hành chính

CHỦ ĐỀ:

PHƯƠNG HƯỚNG XÂY DỰNG VÀ
HOÀN THIỆN NHÀ NƯỚC PHÁP
QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT
NAM HIỆN NAY
Họ tên học viên:
Lớp: Trung cấp LLCT-HC.
Phần: III.1

................................... năm 2021

PHẦN I. MỞ ĐẦU
Đảng Cộng sản Việt Nam trong quá trình lãnh đạo xây dựng đất nước theo
cịn đường đổi mới ln xác định nhiệm vụ xây dựng Nhà nước pháp quyền


2

XHCN dưới sự lãnh đạo của Đảng là một trong những nhiệm vụ có tính chiến
lược. Đây khơng chỉ là khẳng định quyết tâm chính trị của Đảng ta trong việc đẩy
mạnh cải cách tổ chức và hoạt động của Nhà nước, phát huy dân chủ, tăng cường
pháp chế mà còn là sự đánh dấu một giai đoạn phát triển mới một nhà nước của


dân, do dân, vì dân, khác hẳn với các hình thức nhà nước trong lịch sử.
Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của dân, do dân,
vì dân, mọi quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân là một vấn đề lớn trong đường
lối lãnh đạo của Đảng ta trong giai đoạn hiện nay. Đặt vấn đề xây dựng nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa đã được Đảng ta đề cập đến từ Đại hội đại biểu Đảng
toàn quốc lần thứ VII, VIII và tiếp tục được khẳng định trong các kỳ Đại hội Đảng.
Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay, khi chủ nghĩa xã hội đang lâm vào tình trạng
khủng hoảng và thoái trào. Nhà nước xã hội chủ nghĩa ở một loạt nước đã chấm
dứt sự tồn tại của mình, khơi phục và phát triển Nhà nước xã hội chủ nghĩa với tư
cách là cơng cụ để giải phóng con người đang được đặt ra như một vấn đề cấp bách
của những người cách mạng nói chung và các nhà lý luận Việt Nam nói riêng.
PHẦN II. NỘI DUNG
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI
CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
1.1. Nhà nước pháp quyền và những đặc trưng cơ bản của nhà nước pháp
quyền
Khái niệm nhà nước pháp quyền đề cập đến phương thức tổ chức, xây dựng
và vận hành bộ máy nhà nước nói chung thông qua hệ thống pháp luật, như hiến
pháp, luật và các văn bản pháp quy khác. Nói cách khác, nhà nước pháp quyền là
nhà nước được xem xét dưới góc độ pháp luật, trong đó tính tối cao của pháp luật
được tôn trọng, các tư tưởng và hành vi chính trị, tơn giáo... của bất cứ tổ chức
hoặc cá nhân nào cũng được giới hạn bởi khuôn khổ pháp luật và chịu sự điều
chỉnh của pháp luật.
Tư tưởng về xây dựng nhà nước pháp quyền đã có từ rất lâu trong lịch sử
nhân loại và tương ứng với mỗi kiểu nhà nước (chủ nô, phong kiến, tư sản, xã hội
chủ nghĩa) đều có một hệ thống pháp luật tương ứng và đạt mức độ phát triển khác
nhau. Tư tưởng về nhà nước pháp quyền phát triển không ngừng, là thành quả của
nhân loại, nó hình thành và phát triển cùng với sự tiến bộ xã hội và cho đến nay đã



3

được thế giới thừa nhận về mặt lý luận như một học thuyết về nhà nước pháp
quyền. Vấn đề nhà nước pháp quyền đề cập đến phương thức tổ chức, xây dựng và
vận hành bộ máy nhà nước dưới góc độ pháp luật, mà pháp luật thì bao giờ cũng
mang tính giai cấp và tính đặc thù của mỗi nhà nước, mỗi dân tộc; do đó, phương
thức tổ chức xây dựng và vận hành của nhà nước pháp quyền sẽ thể hiện cụ thể
khác nhau về bản chất chế độ chính trị, hệ thống quan điểm, mục đích nhiệm vụ
của từng thời kỳ phát triển hoặc điều kiện cụ thể của mỗi nước, chứ khơng có mơ
hình, tiêu chí về nhà nước pháp quyền đồng nhất cho tất cả các nước khác nhau.
Nhìn chung, bốn tiêu chí chung của nhà nước pháp quyền được thể hiện như
sau:
Phương thức tổ chức, xây dựng và vận hành bộ máy nhà nước phải do pháp
luật quy định;
Nhà nước và công dân phải thừa nhận tính tối cao của pháp luật (đảng phái,
tổ chức, tôn giáo... phải được tổ chức và hoạt động trong khuôn khổ của pháp luật);
Quyền lực nhà nước được xác định gồm: quyền lập pháp, quyền hành pháp
và quyền tư pháp;
Có hệ thống pháp luật đầy đủ, rõ ràng, minh bạch, thể hiện ý chí và nguyện
vọng của nhân dân để điều chỉnh những quan hệ pháp luật phát sinh trong xã hội;
đặc biệt là bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp cơ bản của công dân (hoặc con
người nói chung)
Như vậy, nhà nước pháp quyền khơng phải là một kiểu nhà nước gắn với một giai
cấp mà là một hình thức tổ chức quyền lực nhà nước, thực hiện quản lý xã hội theo
pháp luật, đảm bảo quyền tự do dân chủ của nhân dân.
1.2. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ (1994), Đảng ta đã xác định
nhiệm vụ và phương hướng xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt
Nam của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Đây là nhiệm vụ lớn lao của Đảng
và của toàn dân tộc, cho nên Đảng ta luôn quan tâm chỉ đạo thực hiện và cụ thể

hóa trong các văn kiện của Đảng như: Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8, khóa
VII, năm 1995; Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, v.v.. Tiếp thu
những tiến bộ khoa học về nhà nước pháp quyền đồng thời quán triệt quan điểm
chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật kiểu mới có
thể khái quát nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa như sau:


4

Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là nhà nước xã hội chủ nghĩa thực sự
của dân, do dân, vì dân; tất cả quyền lực nhà nước đều thuộc về nhân dân; bảo đảm
tính tối cao của Hiến pháp, quản lý xã hội bằng pháp luật nhằm phục vụ lợi ích và
hạnh phúc của nhân dân, do Đảng tiên phong của giai cấp công nhân lãnh đạo đồng
thời chịu trách nhiệm trước nhân dân và sự giám sát của nhân dân.
Trên cơ sở các tiêu chí chung về nhà nước pháp quyền, chúng ta có thể nhận
thấy tương đối rõ ràng sự khác nhau giữa Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
với Nhà nước pháp quyền tư sản.
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và Nhà nước pháp quyền tư sản đều
phải thừa nhận phương thức tổ chức, xây dựng và vận hành bộ máy nhà nước do
pháp luật quy định. Tuy nhiên, bản chất và nội dung pháp luật về tổ chức, xây
dựng và vận hành bộ máy của hai nhà nước đó có nhiều điểm khác nhau rất cơ bản.
Rõ nhất là, sự khác nhau trong các quy phạm của hiến pháp và pháp luật về tổ
chức, cơ cấu nhân sự và việc xây dựng, vận hành của bộ máy quyền lực như: Quốc
hội và Nghị viện; Tổng thống và Chủ tịch nước, Thủ tướng Chính phủ, Tịa án, Tịa
án Hiến pháp, v.v.. Pháp luật trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa thừa
nhận tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, do nhân dân bầu ra các cơ quan
quyền lực (Quốc hội, Chính phủ...) và chỉ có nhân dân trực tiếp hoặc thơng qua các
đại biểu của mình là chủ thể duy nhất có quyền tuyên bố chấm dứt hoạt động của
Quốc hội, Chính phủ hoặc tổ chức ra Quốc hội và Chính phủ nhiệm kỳ mới. Trong
khi đó, Hiến pháp và pháp luật tư sản lại thừa nhận quyền lực của cá nhân Tổng

thống hoặc cá nhân Thủ tướng có quyền giải tán Nghị viện (Quốc hội) hoặc giải
tán Chính phủ...
Trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, nhà nước và cơng dân đều
phải thừa nhận tính tối cao của pháp luật, vì pháp luật xã hội chủ nghĩa thể hiện ý
chí và nguyện vọng của tồn thể nhân dân. Trong Nhà nước pháp quyền tư sản, nhà
nước và cơng dân cũng phải thừa nhận tính tối cao của pháp luật, nhưng pháp luật
tư sản không phải là pháp luật của tồn dân, khơng thể hiện đầy đủ ý chí, nguyện
vọng của tồn dân mà chỉ phản ánh ý chí, nguyện vọng của một bộ phận nhân dân,
đó là những người giàu, là giai cấp tư sản. Nói cách khác, luật pháp của Nhà nước
pháp quyền tư sản chỉ bảo vệ lợi ích của giai cấp tư sản và gạt ra ngoài lề quyền lợi


5

của người lao động - những người bị áp bức bóc lột. Đây là nội dung khác biệt cơ
bản nhất giữa Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và Nhà nước pháp quyền tư
sản.
Nhà nước pháp quyền tư sản coi thuyết "tam quyền phân lập" là học thuyết
cơ bản trong việc thực hiện quyền lực nhà nước, các cơ quan lập pháp, hành pháp,
tư pháp hoàn toàn độc lập với nhau trong việc thực hiện ba quyền lập pháp, hành
pháp và tư pháp. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa không thừa nhận việc
phân chia quyền lực mà coi quyền lực nhà nước là thống nhất và thuộc về nhân
dân; trong đó, có sự phân cơng, phối hợp, để thực hiện các quyền lập pháp, hành
pháp và tư pháp nhằm bảo đảm cho quyền lực nhà nước thống nhất, được thực hiện
với hiệu quả cao nhất.
Về hệ thống pháp luật của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và Nhà
nước pháp quyền tư sản cũng có nhiều điểm khác nhau. Bên cạnh sự khác nhau về
tính giai cấp, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa chỉ cơng nhận các quy phạm
pháp luật khi nó được xác lập và thơng qua theo một trình tự và thủ tục nhất định;
trong khi đó, Nhà nước pháp quyền tư sản thường coi "án lệ" hoặc "tập quán" như

một loại quy phạm pháp luật "bất thành văn".
Xây dựng nhà nước pháp quyền đang trở thành một xu thế khách quan tất yếu
đối với các quốc gia dân chủ trong thế giới hiện đại. Việt Nam cũng khơng nằm
ngồi quỹ đạo chung đó. Yếu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền lần đầu tiên được
Đảng ta chính thức đưa vào văn kiện Đại hội VIII của Đảng và qua các kỳ ĐH tiếp
theo, tiếp tục được khẳng định tại Đại hội XI của Đảng, trong đó Đảng ta đặc biệt
chú ý đến việc “nâng cao năng lực quản lý và điều hành của Nhà nước theo pháp
luật, tăng cường pháp chế XHCN và kỷ luật, kỷ cương”
CHƯƠNG II: YÊU CẦU VÀ PHƯƠNG HƯỚNG XÂY DỰNG, HOÀN
THIỆN NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM
HIỆN NAY
2.1. Các yêu cầu xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa Việt Nam của dân, do dân, vì dân hiện nay
Các nghị quyết của Đảng, nhất là nghị quyết của Hội nghị lần thứ tám Ban
Chấp hành Trung ương (khoá VII) đã nêu lên những quan điểm cơ bản và phương
hướng tiếp tục xây dựng, hoàn thiện nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt


6

Nam. Cần tiếp tục quán triệt và triển khai thực hiện các nghị quyết định đó. Để đáp
ứng địi hỏi ngày càng cao đối với việc xây dựng Nhà nước trong thời kỳ mới,
trong các văn kiện của Đảng của các Đại hội VIII, IX, X, XI, XII. Tại Đại hội
XIII, đảng ta đã nhấn mạnh:“Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân do
Đảng lãnh đạo là nhiệm vụ trọng tâm của đổi mới hệ thống chính trị”. Một số chủ
trương, nhiệm vụ với các yêu cầu cụ thể đặt ra trong tình hình hiện nay đó là:
Một là, tiếp tục phát huy tốt hơn và nhiều hơn quyền làm chủ của nhân dân
qua các hình thức dân chủ đại diện và dân chủ trực tiếp để nhân dân tham gia xây
dựng và bảo vệ Nhà nước, nhất là việc giám sát, kiểm tra của nhân dân đối với hoạt

động của cơ quan và cán bộ, công chức nhà nước.
Hai là, tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa
Việt Nam trong sạch, vững mạnh, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả; cán bộ, cơng
chức nhà nước thật sự là công bộc, tận tuỵ phục vụ nhân dân.
Ba là, tăng cường sự lãnh đạo của đảng đối với Nhà nước; xây dựng và hoàn
thiện nội dung, phương thức lãnh đạo của Đảng phù hợp với đặc điểm, tính chất
của các cơ quan nhà nước ở từng cấp, chú trọng sự lãnh đạo của các tổ chức đảng
đối với việc kiểm kê, kiểm soát trong quản lý kinh tế, tài chính.
Ba yêu cầu trên quan hệ chặt chẽ với nhau, dựa trên nền tảng chung là xây
dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân, thực hiện đại
đồn kết dân tộc và đồn kết dân tộc mà nịng cốt là liên minh cơng nhân, nơng dân
và trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
2.2. Những phương hướng xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của dân, do dân, vì dân ở nước ta hiện nay
Một là, Mở rộng dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy quyền làm chủ của
nhân dân trong xây dựng và quản lý nhà nước
Mục đích cuối cùng của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là bảo đảm
và phát triển quyền công dân, quyền con người, quan tâm đến sự phát triển toàn
diện con người. Như vậy, nguyên tắc và yêu cầu nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa là phải bảo vệ tốt các quyền tự do dân chủ của công dân; đồng thời, bảo đảm
cho công dân thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của mình. Muốn vậy, cần phải có một hệ
thống pháp luật chặt chẽ, bao trùm mọi lĩnh vực đời sống xã hội và nó được duy có


7

nề nếp, kỷ cương. Đảng ta luôn khẳng định.“Phát huy dân chủ, giữ vững kỷ cương,
tăng cường pháp chế… Thực hiện tốt quy chế dân chủ, mở rộng dân chủ trực tiếp ở
cơ sở. Chăm lo con người, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mọi người.
Nền hành chính nhà nước quản lý mọi mặt đời sống xã hội bằng pháp luật,

được tổ chức và hoạt động phù hợp với pháp luật, pháp luật phải được thực hiện
thống nhất, nghiêm minh đối với mọi cá nhân và tổ chức. Dân chủ phải gắn liền
với kỷ luật, kỷ cương, phép nước, khơng thể có dân chủ chung chung. Mọi cơng
dân đều được bình đẳng trước pháp luật, sống và làm việc theo hiến pháp và pháp
luật. Để đảm bảo dân chủ thực sự đối với mọi công dân, cần phải kiên quyết trấn
áp các hành vi gây rối, phá hoại, coi thường trật tự, kỷ cương xã hội, lợi dụng tự do
dân chủ để vi phạm pháp luật, đối với bất cứ mọi công dân, ở cương vị nào trong
xã hội.
Hai là: Cải cách thể chế và phương thức hoạt động của nhà nước.
Tính chất tập trung quyền lực của Nhà nước ta là thống nhất; song, khơng vì
thế mà cơ quan đại diện nhân dân có quyền lực nhà nước cao nhất lại can thiệp vào
quá trình làm việc của các cơ quan hành pháp và tư pháp. Quốc hội chỉ thực hiện
các chức năng lập pháp, quyết định các vấn đề lớn, các chính sách đối nội và đối
ngoại. “Quốc hội làm tốt chức năng quyết định các vấn đề quan trọng của đất
nước, quyết định và phân bổ ngân sách nhà nước, thực hiện quyền giám sát tối cao
đối với toàn bộ hoạt động của Nhà nước, trước mắt tập trung vào những vấn đề
bức xúc như sử dụng vốn và tài sản nhà nước, chống tham nhũng, quan liêu”. Điều
đó đã làm rõ hơn, cụ thể hơn quyền hạn, nghĩa vụ và trách nhiệm của các cơ quan
trong phạm vi chức năng cơ bản của mình.
Cùng với các cơ quan khác trong bộ máy nhà nước, chính phủ; những năm
qua, cải cách nền hành chính nhà nước được Đảng ta coi là trọng tâm. Từng bước
xây dựng nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật và nền hành chính phục vụ nhân
dân trên cơ sở pháp luật theo phương châm đơn giản, phù hợp với các thủ tục hành
chính ln được quan tâm đúng mức. Tuy nhiên, so với yêu cầu của một nền hành
chính hiện đại, phát triển; chúng ta cần phải tiếp tục đẩy mạnh cơng cuộc cải cách
hành chính. Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đã chỉ rõ: “…bộ
máy hành chính nhà nước, có q nhiều đầu mối, trách nhiệm tập thể và cá nhân


8


không rõ ràng, chất lượng hoạt động và hiệu quả thấp. Chức năng, nhiệm vụ, thẩm
quyền của nhiều cơ quan còn chồng chéo; cơ chế vận hành và nhiều mối quan hệ
còn bất hợp lý….Việc tuyển chọn, đào tạo, sắp xếp, sử dụng và đánh giá cán bộ
còn nhiều thiếu sót, có khi dựa vào một số kinh nghiệm cũ, định kiến và theo cảm
tính”. Vì vậy, tiếp tục thực hiện cải cách nền hành chính là một yêu cầu khách
quan, cấp bách trong giai đoạn hiện nay.
Cải cách thể chế và phương thức hoạt động của nhà nước phải được tiến
hành đồng bộ trên cả ba lĩnh vực lập pháp, hành pháp và tư pháp; cả ba lĩnh vực
này có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, là điều kiện và hỗ trợ cho nhau. Do đó,
cơng cuộc cải cách phải được tiến hành đồng thời và đồng bộ trên cả ba lĩnh vực.
Chỉ có như vậy, mới đáp ứng được cơng cuộc đổi mới tồn diện đất nước trong giai
đoạn hiện nay.
Hai là, “Xây dựng hệ thống pháp luật đầy đủ, kịp thời, đồng bộ, thống nhất, khả
thi, công khai, minh bạch, ổn định, lấy quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của
người dân, doanh nghiệp làm trọng tâm thúc đẩy đổi mới sáng tạo, bảo đảm yêu
cầu phát triển nhanh, bền vững”(7). Giải pháp này cũng xuất phát từ thực tế việc
xây dựng hệ thống pháp luật còn chưa đầy đủ, thiếu kịp thời, nhiều điều luật thiếu
tính khả thi. Tổng kết việc xây dựng, hồn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa trong nhiệm kỳ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nghị quyết Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đã đánh giá: “Hệ thống pháp luật còn một
số quy định chưa thống nhất, chưa đáp ứng kịp thời yêu cầu thực tiễn”. Rõ ràng,
nếu thiếu cơ sở pháp lý, thiếu hệ thống pháp luật thì hoạt động quản lý nhà nước
đối với các lĩnh vực kinh tế, xã hội sẽ khó khăn, khơng hiệu quả.
Do vậy, nhiệm vụ quan trọng thứ hai trong xây dựng, hoàn thiện Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam mà Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII
đề ra là xây dựng hệ thống pháp luật đầy đủ, kịp thời, đồng bộ, thống nhất, khả thi,
công khai, minh bạch, ổn định. Trong quá trình xây dựng pháp luật, phải lấy quyền
và lợi ích hợp pháp, chính đáng của người dân, doanh nghiệp làm trọng tâm thúc
đẩy đổi mới sáng tạo, bảo đảm yêu cầu phát triển nhanh, bền vững làm mục tiêu.

Đây vừa là giải pháp, vừa là định hướng quan trọng trong xây dựng hệ thống pháp
luật của Nhà nước ta.


9

Ba là, Xây dựng đội ngũ cán bộ công chức trong sạch, có năng lực cao,
phẩm chất tốt.
Trong q trình lãnh đạo cách mạng, chủ tịch Hồ Chí Minh ln đề cao
phẩm chất, năng lực người cán bộ, Bác Hồ đã nói: “Cán bộ là cái gốc của mọi cơng
việc”, “muôn việc thành hay bại đều bởi cán bộ tốt hay xấu”; đồng thời, Người
cũng luôn đề cao vấn đề đạo đức cách mạng. Hồ Chí Minh viết: “Cũng như sơng
thì có nguồn mới có nước, khơng có nguồn thì sơng cạn. Cây có gốc, khơng có gốc
thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, khơng có đạo đức thì dù tài giỏi
mấy cũng khơng lãnh đạo được nhân dân. Vì muốn giải phóng cho dân tộc, giải
phóng cho lồi người là một cơng việc to tát, mà tự mình khơng có đạo đức, khơng
có căn bản, tự mình đã hủ hóa, xấu xa thì cịn làm nổi việc gì”. Thấm nhuần quan
điểm, tư tưởng của Người, qua các kỳ Đại hội Đảng ta luôn nhấn mạnh vấn đề này.
Trước thành tựu của công cuộc đổi mới đã cho phép chúng ta đẩy mạnh
cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, địi hỏi phải xây dựng đội ngũ cán bộ
ngang tầm nhiệm vụ đang đặt ra cấp bách trong giai đoạn hiện nay. Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng định hướng: “Xây dựng và hoàn thiện Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong sạch, vững mạnh, tinh gọn, hoạt động
hiệu lực, hiệu quả, vì Nhân dân phục vụ và vì sự phát triển của đất nước. Tăng
cường công khai, minh bạch, trách nhiệm giải trình, kiểm sốt quyền lực gắn với
siết chặt kỷ cương, kỷ luật trong hoạt động của Nhà nước và của cán bộ, công
chức, viên chức. Tiếp tục đẩy mạnh đấu tranh phịng, chống tham nhũng, lãng phí,
quan liêu, tội phạm và tệ nạn xã hội”. Như vậy, khẳng định việc xây dựng đội ngũ
cán bộ trong sạch, vững mạnh, có đủ phẩm chất đạo đức, bản lĩnh và năng lực đáp
ứng yêu cầu của nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân là một tất yếu khách

quan đặt ra trong giai đoạn hiện nay.
CHƯƠNG III: BÀI HỌC GẮN VỚI CÔNG VIỆC BẢN THÂN
Do ảnh hưởng của nền kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế do sự bùng phát
của lối sống thực dụng chạy theo danh lợi bất chấp đạo lý đã dẫn đến những tiêu
cực trong xã hội ngày càng phổ biến. Những biểu hiện xa rời mục tiêu của chủ
nghĩa xã hội chưa được khắc phục, sự chống phá của các thế lực phản động quốc tế
nhằm thực hiện âm mưu “diễn biến hịa bình” đã tác động không nhỏ đến đời sống


10

đạo đức công dân, ảnh hưởng lớn đến tâm tư, tình cảm, ý chí phấn đấu cán bộ,
đảng viên và nhân dân. Hậu quả là đã có một bộ cán bộ, đảng viên và nhân dân
phai nhạt niềm tin, lý tưởng, mất phương hướng phấn đấu, khơng có trí lập thân,
lập nghiệp: chạy theo lối sống thực dụng, sống thiếu trách nhiệm, thờ ơ với gia
đình và xã hội và không tôn trọng pháp luật.... Đây là những biểu hiện khơng thể
coi thường, nó ảnh hưởng rất lớn đến việc xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa hiện nay ở nước ta.
Bản thân tôi nghĩ rằng, là người công dân, trước hết chúng ta phải có ý thức
cơng dân trong xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Ý thức công dân
biểu hiện trước hết ở việc công dân thực hiện quyền bầu cử, ứng cử đại biểu quốc
hội, đại biểu hội đồng nhân dân các cấp, thái độ tích cực hay khơng tích cực trong
việc tham gia đóng góp ý kiến xây dựng hiến pháp, pháp luật, tham gia giám sát cơ
quan cơng quyền, tham gia phản biện chính sách có liên quan tới quốc kế dân sinh;
Ý thức công dân gắn với việc tuân thủ pháp luật mang tính tự giác. Pháp luật có đi
vào cuộc sống hay khơng phụ thuộc nhiều vào ý thức thực thi và tuân thủ của công
dân. Sự thụ động của công dân trước pháp luật khơng làm tăng tính pháp quyền mà
ngược lại, hàm lượng tính cưỡng bức cao, điều đó làm cho tiến trình xây dựng nhà
nước pháp quyền bị chậm lại. Ý thức công dân gắn liền với việc thúc đẩy thực hiện
các chuẩn mực đạo đức xã hội, góp phần xây dựng nhân cách cơng dân, ngăn chặn

suy thối về lý tưởng, đạo đức của một bộ phận công dân. Ý thức công dân gắn
chặt với niềm tin của mỗi cá nhân công dân vào công lý, sự lãnh đạo, định hướng,
điều hành của Nhà nước......
Trên cương vị là người cán bộ, đảng viên, bản thân tơi xác định cần phải
tích cực học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. Hồ Chí Minh
khơng chỉ là một nhà đạo đức học lỗi lạc mà còn là một tấm gương đạo đức vơ
song. Chính điều này đã đem lại cho tư tưởng và tấm gương đạo đức của người có
một sức sống mãnh liệt và sự cổ vũ lớn lao khơng chỉ với nhân dân Việt Nam mà
cịn cả với nhân dân thế giới trong cuộc đấu tranh vì dân chủ và tiến bộ xã hội. Để
trở thành người công dân gương mẫu sống và làm việc theo hiến pháp và phát luật
thì trước tiên mối người cần phải học tập theo tưởng đạo đước và phong cách của
Hồ Chí Minh – Người công dân vĩ đại của dân tộc Việt Nam, người sáng lập và


11

xây dựng nên nhà nước dân chủ đầu tiên ở Đơng Nam châu Á. Theo đó, mối người
chúng ta cần tích cực học tập, nghiên cứu khoa học, làm chủ kiến thức, năng lực
chun mơn để hồn thành tốt mọi nhiệm vụ. Đồng thời tích cực đấu tranh chống
mọi âm mưu diễn biến hịa bình, bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch chống phá
Đảng và Nhà nước ta, nhất là những tư tưởng phản động, những âm mưu thủ đoạn
xuyên tạc đường lối cách mạng, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.

PHẦN III. KẾT LUẬN
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, nhà nước pháp quyền là nhà nước được cai trị
bằng pháp luật, pháp luật có hiệu lực trong cuộc sống. Ở một nhà nước dân chủ,
dân chủ và pháp luật luôn đi đôi với nhau, nương tựa vào nhau mới đảm bảo được
cho chính quyền hoạt động mạnh mẽ. Mọi quyền dân chủ của người dân phải được
quy định trong Hiến pháp và cụ thể hoá thành pháp luật để đi vào cuộc sống, hệ
thống pháp luật phải bảo đảm quyền tự do, dân chủ của người dân được tôn trọng

trong thực tế. Người nói: “Pháp luật của nước ta là pháp luật thực sự dân chủ, vì nó
bảo vệ quyền tự do, dân chủ rộng rãi cho nhân dân lao động...”. Quán triệt và thực
hiện tốt quan điểm của Đảng, của chủ tịch Hồ Chí Minh về xây dựng và hồn thiện
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là trách nhiệm chính trị cao cả, là nhiệm vụ
vẻ vang của mỗi cán bộ, đảng viên, toàn thể nhân dân và của cả hệ thống chính trị
nước ta hiện nay
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia
Sự thật, Hà Nội, 2021, t. II.
2.Quốc hội (2013), Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
3. GS.TS. Phạm Hồng Thái, PGS.TS. Đinh Văn Mậu: Lý luận chung về nhà
nước và pháp luật, Nxb.Giao thông vận tải, H.2008.
4. Học viện chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, “Những vấn đề cơ bản về hệ
thống chính trị, nhà nước và pháp luật xã hội chủ nghĩa” (Giáo trình Trung cấp lý
luận chính trị - hành chính), Nxb.Lý luận chính trị, 2017.



×