Tải bản đầy đủ (.pdf) (19 trang)

Chức năng của pháp luật hình sự trong hệ thống pháp luật việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (192.09 KB, 19 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC GIAO THƠNG VẬN TẢI TP. HỒ CHÍ MINH
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

Họ và tên:Trần Cơng Vinh - 2051060223- 005106

TIỂU LUẬN KẾT THÚC HỌC PHẦN PHÁP LUẬT
ĐẠI CƯƠNG

Đề tài:
Chức năng của pháp luật hình sự trong hệ thống pháp luật Việt Nam
hiện nay

Giảng viên hướng dẫn: Phạm Duy Phượng

Thành phố Hồ Chí Minh, năm 2021


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU................................................................................................................... 3
CHƯƠNG I: TÌM HIỂU CHUNG VỀ PHÁP LUẬT HÌNH SỰ...............................4
1.1 Khái niệm Luật Hình sự...................................................................................4
1.2 Đối tượng điều chỉnh của Luật Hình sự...........................................................5
1.3 Nhiệm vụ của Luật Hình sự.............................................................................6
1.4 Phương pháp điều chỉnh của Luật Hình sự.......................................................6
1.5. Chức năng của luật hình sự :...........................................................................7
CHƯƠNG II: HỆ THỐNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN NAY......................13
2.1 Hệ thống pháp luật Việt Nam.........................................................................13
2.2. Đặc điểm của hệ thống pháp luật Việt Nam..................................................13
2.3 Hiện trạng của hệ thống pháp luật Việt Nam hiện nay...................................14
CHƯƠNG III: TÁC ĐỘNG CỦA PHÁP LUẬT VỚI XÃ HỘI VÀ ĐỐI VỚI VIỆT
NAM HIỆN NAY...................................................................................................16


3.1 Những tác động của pháp luật đối với xã hội.................................................16
3.2 Liên hệ thực tiễn Việt Nam............................................................................16
KẾT LUẬN.............................................................................................................18
TÀI LIỆU THAM KHẢO.......................................................................................19


MỞ ĐẦU
Như chúng ta đã biết, thuật ngữ “chức năng” của pháp luật nói chung thường được
hiểu là “những phương diện hoạt động chủ yếu, là những hình thức tác động đặc thù
của pháp luật bằng con đường Nhà nước lên các quan hệ xã hội…”.
Theo tinh thần này, thì chức năng của luật hình sự có thể được hiểu là những phương
diện hoạt động chủ yếu, những hình thức tác động đặc thù của luật hình sự lên các
quan hệ xã hội.Với tính cách là những phương diện hoạt động chủ yếu, những hình
thức tác động đặc thù của luật hình sự lên các quan hệ xã hội, chức năng của luật hình
sự thể hiện bản chất và giá trị xã hội của nó. Ngược lại, bản chất của Nhà nước, của chế
độ quyết định bản chất của luật hình sự nói chung, số lượng, tính chất cũng như mối
liên hệ giữa các chức năng của luật hình sự nói riêng.
Xét về bản chất, chế độ ta là chế độ XHCN, Nhà nước ta là Nhà nước của nhân dân,
do nhân dân và vì nhân dân. Do đó, luật hình sự của Nhà nước ta là sự thể hiện ý chí và
nguyện vọng của nhân dân. Vì vậy, việc nhìn nhận chức năng của luật hình sự cũng
phải xuất phát từ quan điểm, ý chí, nguyện vọng và lợi ích của nhân dân.
Là một bộ phận trong hệ thống pháp luật của Nhà nước, với tính cách là “một trong
những công cụ sắc bén, hữu hiệu để đấu tranh phịng và chống tội phạm, góp phần đắc
lực vào việc bảo vệ các quan hệ xã hội và lợi ích quan trọng… Bộ Luật hình sự thể
hiện tinh thần chủ động phòng ngừa và kiên quyết đấu tranh chống tội phạm và thơng
qua hình phạt để răn đe, giáo dục, cảm hóa, cải tạo người phạm tội trở thành người
lương thiện; qua đó, bồi dưỡng cho mọi cơng dân tinh thần, ý thức làm chủ xã hội, ý
thức tuân thủ pháp luật, chủ động tham gia phòng ngừa và chống tội phạm.



CHƯƠNG I: TÌM HIỂU CHUNG VỀ PHÁP LUẬT HÌNH SỰ
Thực hiện nhiệm vụ đấu tranh phòng và chống tội phạm – loại vi phạm pháp luật có
tính nguy hiểm cao hơn hẳn so với các loại vi phạm pháp luật khác cho xã hội. Nhà
nước sử dụng nhiều hình thức và biện pháp khác nhau, trong đó có biện pháp pháp luật
hình sự. Biện pháp này được Nhà nước sử dụng thể hiện trước hết qua hoạt động xây
dựng pháp luật mà kết quả là các văn bản quy phạm PLHS quy định về tội phạm và
hình phạt được ra đời.

1.1 Khái niệm Luật Hình sự
Hệ thống pháp luật của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam có nhiều
ngành luật hợp thành. Mỗi ngành luật điều chỉnh một lĩnh vực quan hệ xã hội nhất định
nhằm bảo vệ lợi ích của Nhà nước, của cơng dân, bảo đảm pháp chế, phịng chống vi
phạm pháp luật. Trong đó, quan hệ xã hội được Luật Hình sự bảo vệ là quan hệ hình
thành giữa Nhà nước và người phạm tội khi người đó thực hiện hành vi được Nhà nước
quy định là tội phạm. Như vậy Luật Hình sự là ngành luật không điều chỉnh mọi quan
hệ xã hội, mà chỉ điều chỉnh quan hệ xã hội liên quan đến tội phạm và hình phạt.
Từ các phân tích trên, khái niệm Luật Hình sự được xác định như sau: “Luật Hình
sự là một ngành luật trong hệ thống pháp luật quy định tội phạm, xác định hình phạt
với các tội phạm nhằm đấu tranh chống tội phạm, loại trừ mọi hành vi nguy hiểm cho
xã hội. Luật Hình sự bao gồm hệ thống những quy phạm pháp luật do cơ quan Nhà


nước có thẩm quyền ban hành, xác định những hành vi nguy hiểm cho xã hội nào là tội
phạm, đồng thời quy định hình phạt đối với những tội phạm ấy.”
Luật Hình sự có những đặc trưng cơ bản sau đây:
– Luật Hình sự là một ngành luật độc lập trong hệ thống pháp luật của nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam;
– Luật Hình sự bao gồm hệ thống quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã
hội liên quan đến Nhà nước và người phạm tội;
– Luật Hình sự là ngành luật do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành quy

định tội phạm và hình phạt.
1.2 Đối tượng điều chỉnh của Luật Hình sự
Luật Hình sự được xem là một ngành luật độc lập trong hệ thống pháp luật vì nó có
đối tượng và phương pháp điều chỉnh riêng biệt.
Đối tượng điều chỉnh của một ngành luật là các quan hệ xã hội được các quy phạm
pháp luật của ngành luật đó điều chỉnh. Các quan hệ xã hội được các quy phạm pháp
luật Hình sự tác động tới là đối tượng điều chỉnh của luật hình sự. Luật Hình sự chỉ
điều chỉnh các quan hệ xã hội khi có tội phạm xảy ra – đó cũng chính là các quan hệ
PLHS
Đối tượng điều chỉnh của luật hình sự là những quan hệ xã hội phát sinh giữa Nhà
nước và người phạm tội khi người này thực hiện tội phạm. Đây là căn cứ để phân biệt
Luật Hình sự với các ngành luật khác trong hệ thống pháp luật.


1.3 Nhiệm vụ của Luật Hình sự
Nhiệm vụ của Luật Hình sự quy định tại Điều 1 của Bộ luật Hình sự 1999, thể hiện
tập trung với 3 nhóm cụ thể như sau:
- Luật hình sự có nhiệm vụ bảo vệ những quan hệ xã hội cơ bản nhất và quan trọng
nhất trong đời sống xã hội. Đó là, bảo vệ chế độ xã hội, quyền làm chủ của nhân dân,
bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức, Nhà nước, bảo vệ trật tự
pháp luật XHCN.
- Với một vị trí rất quan trọng trong hệ thống pháp luật nước ta, Bộ luật hình sự là
một trong những công cụ hữu hiệu và sắc bén của Nhà nước trong đấu tranh phòng
ngừa và chống tội phạm.
- Luật hình sự cịn có nhiệm vụ giáo dục mọi người nâng cao ý thức pháp luật,
nâng cao ý thức đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm.
1.4 Phương pháp điều chỉnh của Luật Hình sự
Luật hình sự có phương pháp điều chỉnh riêng biệt vì quan hệ xã hội được Luật
Hình sự điều chỉnh là quan hệ hình thành giữa Nhà nước và người phạm tội. Nhà nước
dùng uy quyền để quy định tội phạm ấy, ấn định hình phạt buộc người phạm tội chịu

hình phạt ấy. Tính uy quyền trong phương pháp điều chỉnh của Luật Hình sự là:
– Nhà nước tự mình quy định hành vi nào là hành vi nguy hiểm cho xã hội là tội
phạm;
– Nhà nước giao nhiệm vụ xử lý tội phạm cho các cơ quan tư pháp. Những cơ quan
này có quyền nhân danh Nhà nước điều tra, truy tố, xét xử, xác định hình phạt, buộc
người phạm tội phải chấp hành hình phạt


1.5. Chức năng của luật hình sự :
Như chúng ta đã biết, thuật ngữ “chức năng” của pháp luật nói chung thường được
hiểu là “những phương diện hoạt động chủ yếu, là những hình thức tác động đặc thù
của pháp luật bằng con đường Nhà nước lên các quan hệ xã hội…” 1.
Chức năng của Luật Hình sự (LHS) là một trong những vấn đề lý luận cơ bản của
khoa học LHS. Nhận thức đầy đủ, thống nhất về chức năng của LHS có ý nghĩa rất lớn
khơng những về mặt khoa học, mà cả với hoạt động thực tiễn của các nhà lập pháp,
những người làm công tác bảo vệ pháp luật. Vì vậy, nghiên cứu làm sáng tỏ về chức
năng của LHS là một việc làm cần thiết. Theo tinh thần này, thì chức năng của LHS có
thể được hiểu là những phương diện hoạt động chủ yếu, những hình thức tác động đặc
thù của LHS lên các quan hệ xã hội. Với tính cách là những phương diện hoạt động
chủ yếu, những hình thức tác động đặc thù của LHS lên các quan hệ xã hội, chức năng
của LHS thể hiện bản chất và giá trị xã hội của nó. Ngược lại, bản chất của Nhà nước,
của chế độ quyết định bản chất của LHS nói chung, số lượng, tính chất cũng như mối
liên hệ giữa các chức năng của LHS nói riêng.
Xét về bản chất, chế độ ta là chế độ XHCN, Nhà nước ta là Nhà nước của nhân dân,
do nhân dân và vì nhân dân. Do đó, LHS của Nhà nước ta là sự thể hiện ý chí và
nguyện vọng của nhân dân. Vì vậy, việc nhìn nhận chức năng của LHS cũng phải xuất
phát từ quan điểm, ý chí, nguyện vọng và lợi ích của nhân dân.
Là một bộ phận trong hệ thống pháp luật của Nhà nước, với tính cách là “một trong
những công cụ sắc bén, hữu hiệu để đấu tranh phịng và chống tội phạm, góp phần đắc
lực vào việc bảo vệ các quan hệ xã hội và lợi ích quan trọng… Bộ Luật hình sự

(BLHS) thể hiện tinh thần chủ động phòng ngừa và kiên quyết đấu tranh chống tội
phạm và thơng qua hình phạt để răn đe, giáo dục, cảm hóa, cải tạo người phạm tội trở
thành người lương thiện; qua đó, bồi dưỡng cho mọi cơng dân tinh thần, ý thức làm

1

Đào Trí Úc (1997), Nhà nước và pháp luật của chúng ta trong sự nghiệp đổi mới, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội,
tr 312.


chủ xã hội, ý thức tuân thủ pháp luật, chủ động tham gia phòng ngừa và chống tội
phạm”2.
Như vậy, ngay trong Lời nói đầu của BLHS, nhà làm luật đã xác định rõ các chức
năng cơ bản sau đây của LHS:
- Các chức năng phòng và chống tội phạm;
- Chức năng bảo vệ;
- Chức năng giáo dục;
Xuất phát từ bản chất nhân dân của LHS, để nó có thể thực hiện tốt vai trị xã hội
của mình, ngồi các chức năng cơ bản trên, LHS cịn có những chức năng sau:
- Chức năng điều chỉnh;
- Chức năng nhận thức;
- Chức năng thông tin;
* Nội dung của các chức năng nêu trên có thể được hiểu như sau:
- Chức năng phịng và chống tội phạm:
+ Chức năng phòng và chống tội phạm của LHS thể hiện ở chỗ, bằng những chế tài
đối với các hành vi xâm hại đến các quan hệ xã hội và lợi ích được bảo vệ, LHS có tác
dụng ngăn ngừa khơng để các hành vi xâm hại đến các lợi ích này xảy ra. Mặt khác,
khi một tội phạm đã được thực hiện trên thực tế, LHS sẽ đóng vai trị là cơng cụ pháp
lý cần thiết để các cơ quan tiến hành tố tụng tiến hành điều tra, truy tố, xét xử và buộc
người phạm tội phải chịu trách nhiệm hình sự. Lẽ dĩ nhiên, việc áp dụng với người

phạm tội các biện pháp tư pháp hoặc hình phạt cịn nhằm ngăn ngừa họ phạm tội mới,
đồng thời còn nhằm răn đe người khác.
Khác với BLHS – 1985, BLHS – 1999 đã đề cao tinh thần chủ động phòng ngừa và
kiên quyết đấu tranh chống tội phạm theo phương châm “xét xử đúng là tốt nhưng nếu
2

Lời nói đầu Bộ luật hình sự 1999.


khơng phải xét xử thì càng tốt hơn”3. Do đó, nhìn vào các quy định của Bộ luật về các
tội phạm, chúng ta dễ nhận thấy rằng đối với những loại tội phạm ít nguy hiểm, thì cấu
thành tội phạm thường được xây dựng theo mơ hình là “đã bị xử phạt hành chính, xử lý
kỷ luật về hành vi này hoặc đã bị kết án nhưng chưa được xóa án mà còn vi phạm…”.
Về các biện pháp xử lý hình sự, thì BLHS cũng chú ý nhiều hơn việc áp dụng các biện
pháp tư pháp nhằm thay thế cho hình phạt cũng như việc áp dụng các hình phạt nhẹ
hơn hình phạt tù. Mặt khác, đối với những loại tội phạm gây nguy hại lớn, rất lớn hoặc
đặc biệt lớn cho xã hội, thì kiên quyết xử lý với các chế tài nghiêm khắc hơn nhiều so
với trong BLHS – 1985.
Với tinh thần “phòng bệnh hơn chữa bệnh”, hiện nay, hoạt động của các cơ quan
chức năng phải được tổ chức lại theo hướng chủ động áp dụng các biện pháp phịng
ngừa tội phạm, tránh tình trạng thụ động chờ tội phạm xảy ra hoặc thậm chí có xu
hướng để hoạt động tội phạm dấn sâu vào con đường tội lỗi, gây thiệt hại lớn cho xã
hội rồi mới “phá án” như trước đây.
- Chức năng bảo vệ:
+ LHS bảo vệ các quan hệ xã hội và lợi ích chủ yếu bằng cách quy định hình phạt
đối với các hành vi xâm phạm đến các quan hệ xã hội và lợi ích này. Trong 14 nhóm
quan hệ và lợi ích (khách thể loại) được LHS bảo vệ, thì các quyền tự quyết của dân
tộc được đặt lên hàng đầu. Bên cạnh đó, LHS cịn bảo vệ các lợi ích khác của Nhà
nước, quyền, lợi ích hợp pháp của cơng dân, tổ chức, góp phần duy trì trật tự an toàn xã
hội, trật tự quản lý kinh tế, bảo đảm cho mọi người được sống trong một môi trường xã

hội và sinh thái an tồn, lành mạnh, mang tính nhân văn cao. Đồng thời, LHS cịn góp
phần tích cực loại bỏ những yếu tố gây cản trở cho tiến trình đổi mới và sự nghiệp
cơng nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ và văn minh.
- Chức năng giáo dục:

3

Hội Luật gia Việt Nam (1985), Hồ Chí Minh và pháp chế, Tp. Hồ Chí Minh, tr 87.


+ Bằng việc quy định trách nhiệm hình sự đối với các tội phạm cũng như thông qua
các hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và buộc người phạm tội phải chấp hành các biện
pháp cưỡng chế hình sự, LHS khơng những nhằm răn đe, giáo dục, cảm hóa và cải tạo
người phạm tội trở thành người lương thiện (giáo dục riêng), mà còn tác động lên ý
thức của mọi thành viên của xã hội (giáo dục chung) để bồi dưỡng cho mọi công dân
tinh thần, ý thức làm chủ xã hội, ý thức tuân thủ pháp luật cũng như tinh thần chủ động
tham gia phòng và chống tội phạm. Kết quả của cả hai hướng giáo dục này phụ thuộc
vào nhau. Người phạm tội sẽ chỉ thực sự thấm thía, hối cải và yên tâm cải tạo nếu
chung quanh anh ta đều là những công dân gương mẫu. Ngược lại, ý thức làm chủ xã
hội, tuân thủ pháp luật, chủ động tham gia phòng ngừa và chống tội phạm của người
dân sẽ chỉ được nâng cao, nếu họ thấy rằng người phạm tội đã được răn đe, giáo dục,
cảm hóa và cải tạo tốt.
- Chức năng điều chỉnh:
+ Xuất phát từ cách hiểu hẹp về cơ chế điều chỉnh của pháp luật, từ trước đến nay
đối tượng điều chỉnh của LHS thường được hiểu ở phạm vi hạn chế là “những quan hệ
phát sinh giữa Nhà nước và người phạm tội”. Tuy nhiên, nếu hiểu chức năng của LHS
là những hình thức tác động, những phương diện hoạt động của nó, thì có thể thấy rằng
LHS cịn có tác động lên các quan hệ xã hội thông qua sự tự điều chỉnh của các thành
viên của xã hội. Lẽ dĩ nhiên, các thành viên của xã hội chỉ có thể tự điều chỉnh được xử

sự của mình theo những mơ hình khơng trái với các quy định của LHS, nếu họ chịu sự
tác động của LHS và có một mức độ ý thức pháp luật nhất định. Do đó, có thể khẳng
định rằng, ngồi quan hệ giữa Nhà nước và người phạm tội ra, LHS cịn có chức năng
điều chỉnh xử sự thường ngày của mọi thành viên trong xã hội.
Xuất phát từ cách hiểu hẹp về đối tượng điều chỉnh của LHS như trên, thì phương
pháp điều chỉnh của LHS cũng thường được hiểu ở mức độ hạn hẹp chỉ là “quyền uy”.
Tuy nhiên, về phương diện lý luận và cả trong thực tế, thì thấy rằng ngoài phương pháp
quyền uy ra, khi tham gia điều chỉnh các đối tượng điều chỉnh của nó, LHS cịn sử
dụng cả một số phương pháp khác như “cho phép” công dân thực hiện các hành vi có


ích (như phòng vệ chính đáng hoặc bắt người phạm tội chẳng hạn), hoặc như phương
pháp “tùy nghi” cho phép các cơ quan và người tiến hành tố tụng lựa chọn các hành vi
tố tụng hoặc biện pháp xử lý thích hợp.
Hiểu và nhận thức đúng về đối tượng và phương pháp điều chỉnh của LHS trên bình
diện rộng như trên sẽ thấy rõ được bản chất nhân dân và giá trị xã hội của nó, đồng thời
tránh được xu hướng “cứng hóa” các quan hệ PLHS và hạn chế được tệ quan liêu hách
dịch trong một bộ phận các cơ quan và người tiến hành tố tụng.
- Chức năng nhận thức:
+ Chức năng nhận thức của LHS thể hiện ở chỗ nó phải là kết quả của q trình
nhận thức đúng về thực tại khách quan, về tình hình tội phạm của nhà làm luật. Chức
năng này còn thể hiện ở chỗ LHS phải đóng vai trị là một trong những phương tiện
nhận thức của những người làm công tác điều tra, truy tố, xét xử và mọi người dân về
thực tại xã hội.
Tất nhiên, chức năng nhận thức LHS chỉ có thể được đảm bảo tốt, nếu nhà làm luật
xuất phát từ ý chí và nguyện vọng của nhân dân theo phương châm “pháp luật là đạo
đức của nhân dân – là đạo đức có tính chất Nhà nước” 4(4 ) mà căn cứ, đánh giá và dự
đoán những thay đổi về kinh tế, chính trị, pháp luật, đạo đức, văn hóa pháp lý, các điều
ước và thơng lệ quốc tế… lấy các tư tưởng pháp chế, nhân đạo, dân chủ, cơng bằng,
bình đẳng, tư tưởng kết hợp truyền thống và hội nhập làm kim chỉ nam để đánh giá và

quy định đúng về tội phạm cũng như xác định đúng các biện pháp xử lý phù hợp trong
BLHS. Có như vậy, LHS mới có thể thực sự đi vào đời sống, không bị khuôn sáo hoặc
duy ý chí.
- Chức năng thơng tin:
+ Chức năng thơng tin của LHS thể hiện ở chỗ nó thơng báo cho mọi cơng dân giới
hạn xử sự của họ. Có những thực tế đau lịng là nhiều người phạm tội vì thiếu hiểu biết
về LHS, khơng biết được mơ hình xử sự của mình bị luật hình sự cấm. Phải nhìn nhận
4

John Backer (5/1989), bài phát biểu trên đài CNN.


một cách công bằng rằng, về phương diện này Nhà nước cũng phải gánh một phần
trách nhiệm. Để khắc phục tình trạng này, việc tiếp tục tuyên truyền, phổ biến một cách
sâu, rộng và thường xuyên BLHS, việc dân chủ hóa và cơng khai hóa các hoạt động tố
tụng theo phương châm “cán bộ tư pháp không chỉ giới hạn hoạt động của mình trong
khung Tịa án”5 là việc làm thiết thực có ý nghĩa to lớn.

5

Hội Luật gia Việt Nam (1985), Hồ Chí Minh và pháp chế, Tp. Hồ Chí Minh, tr 90.


CHƯƠNG II: HỆ THỐNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN NAY
2.1 Hệ thống pháp luật Việt Nam
Có thể hiểu hệ thống pháp luật Việt Nam chính là tồn bộ những văn bản quy phạm
pháp luật, những quy tắc xử sự chung.
Hệ thống pháp luật Việt Nam được phân định thành các ngành luật, các chế định
pháp luật và được thể hiện dưới dạng văn bản do cơ quan nhà nước ban hành theo hình
thức, thủ tục theo quy định.

Trên thực tế, có nhiều quan điểm khác nhau về tên gọi của hệ thống pháp luật Việt
Nam.
Đa số các ý kiến đều cho rằng hệ thống pháp luật bao gồm hai bộ phận là bộ phận
cơng pháp và bộ phận tư pháp.
Có ý kiến khác lại cho rằng cần phải phân biệt hai khái niệm: Hệ thống pháp luật và
hệ thống pháp luật thực định. Theo quan điểm này, hệ thống pháp luật có nội dung rất
rộng, bao gồm hệ thống quy phạm pháp luật hiện hành và những nguồn khác nữa của
pháp luật tồn tại trên thực tế mà dựa trên cơ sở đó tính hiện thực của pháp luật được
bảo đảm và pháp luật phát huy hiệu lực
2.2. Đặc điểm của hệ thống pháp luật Việt Nam
Hệ thống pháp luật Việt Nam bao gồm cấu trúc bên ngoài và cấu trong.
+ Cấu trúc bên trong hay còn gọi là Hệ thống ngành luật là những quy phạm pháp
luật có mối liên hệ nội tại thống nhất. Phối hợp với nhau và được phân chia thành
những chế định pháp luật và các ngành luật.
Quy phạm pháp pháp luật là những quy tắc xử sự chung mang tính bắt buộc, do nhà
nước ban hành để điều chỉnh các mối quan hệ xã hội.
Quy phạm pháp luật được đảm bảo thi hành bằng cưỡng chế nhà nước


Chế định pháp luật là nhóm những quy định pháp luật điều chỉnh một nhóm các
quan hệ xã hội cùng loại có quan hệ mật thiết với nhau.
Ngành luật là tổng thể các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội trong
một lĩnh vực nhất định của đời sống.
+ Cấu trúc bên ngoài của hệ thống pháp luật Việt Nam
Cấu trúc bên ngoài của hệ thống pháp luật Việt Nam là những văn bản quy phạm
pháp luật bao gồm các văn bản Luật và các văn bản dưới luật được ban hành và sắp
xếp theo một trật tự nhất định.
2.3 Hiện trạng của hệ thống pháp luật Việt Nam hiện nay
Hệ thống pháp luật Việt Nam hiện nay gắn liền với đời sống và lịch sử dấu tranh
giành độc lập của dân tộc.

Theo sự phát triển của đất nước qua các thời kỳ, hệ thống pháp luật nước ta có sự
phát triển ngày càng hồn thiện hơn.
Giai đoạn từ 1945 đến 1954: Việt Nam đã có Hiến pháp 1946 là Hiến pháp đầu tiên
trong lịch sử dân tộc và các văn bản Pháp luật nhưng vẫn còn hạn chế, chưa hình thành
đầy đủ các ngành luật.
Giai đoạn từ 1954 đến 1986: Nhà nước xây dựng và phát triển hệ thống pháp luật
xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Tính ưu việt của Pháp luật xã hội chủ nghĩa được phát huy.
Tuy nhiên trong giai đoạn này vẫn còn những hạn chế về cơ chế tập trung, bao cấp làm
chậm sự phát triển kinh tế đất nước.
Giai đoạn từ 1986 đến nay: Quan điểm đổi mới đã khắc phục được những nhược
điểm trước đó, hệ thống pháp luật có đầy đủ các ngành luật điều chỉnh hầu hết các quan
hệ xã hội. Văn bản quy phạm pháp luật ban hành kịp thời và phù hợp với sự phát triển
kinh tế của đất nước


Hệ thống pháp luật nước ta trong giai đoạn hiện nay có thể coi là thế hệ thứ hai của
hệ thống pháp luật thời kỳ đổi mới và cũng là thế hệ thứ hai của hệ thống pháp luật
chuyển đổi. Dịng chính trong sự phát triển của hệ thống pháp luật giai đoạn này vẫn
tiếp tục mang dấu ấn của thời kỳ chuyển đổi nhưng chú trọng nhiều hơn đến hội nhập
quốc tế. Theo đó, hệ thống pháp luật thời kỳ này tiếp tục được sửa đổi, bổ sung, hoàn
thiện để chuyển đổi, xóa bỏ về cơ bản các tàn tích của cơ chế quản lý cũ, xác lập đồng
bộ cơ chế quản lý mới, đặc biệt là hình thành đồng bộ thể chế kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa; từng bước tiệm cận đến thông lệ quốc tế.


CHƯƠNG III: TÁC ĐỘNG CỦA PHÁP LUẬT VỚI XÃ HỘI VÀ ĐỐI VỚI VIỆT
NAM HIỆN NAY
3.1 Những tác động của pháp luật đối với xã hội
Pháp luật tác động rất mạnh mẽ đến các mặt của xã hội, cụ thể như sau:
– Pháp luật được xem là thước đo trong mối quan hệ giữa các thiết chế quyền lực.

Pháp luật bảo đảm cho những chủ thể ngang quyền với nhau được thực hiện những nhu
cầu về quyền lựa chọn hành vi và trách nhiệm của mình thơng qua các phạm trù pháp
lý.
– Pháp luật là công cụ và là cơ sở để nhận thức xã hội. Xuất phát từ tính quy phạm
của pháp luật đã hình thành và phát triển trong lịch sử, chúng ta có thể hình dung của
các quan hệ xã hội của xã hội loài người từ khi phân chia thành giai cấp đến nay. Nó
duy trì một trật tự xã hội mà trong đó các giai cấp và các nhóm xã hội có lợi ích khác
nhau, đấu tranh với nhau cùng tồn tại, tạo tiền đề cần thiết cho sự phát triển xã hội.
– Pháp luật khi được chính thức ban hành có giá trị và đăng tải thông tin, định
hướng hành vi xã hội, tác động mạnh mẽ vào ý thức và tâm lý xã hội.
3.2 Liên hệ thực tiễn Việt Nam
Chức năng điều chỉnh của pháp luật: Phạm vi điều chỉnh của pháp luật ngày càng
được mở rộng. Trong thời kỳ đổi mới, nhà nước ta đã xây dựng một khung pháp lý mới
trong mọi lĩnh vực quan hệ xã hội. Nguyên tắc quản lý xã hội bằng pháp luật và tăng
cường pháp chế đã được thể hiện và thực hiện.
– Trong thời gian tới, công tác xây dựng pháp luật cầ tập trung vào những lĩnh vực
quan hệ xã hội quan trọng như: xây dựng khung pháp lý cần thiết cho sự hình thành
đồng bộ các thiết chế thị trường, đơn giản hóa thủ tục hành chính: xóa bỏ cơ chế “xin –
cho”…
– Chức năng bảo vệ: Trong sự nghiệp đổi mới đất nước, Việt Nam đã đạt nhiều
thành tựu về đảm bảo, bảo vệ các quyền con người bằng hệ thống pháp luật và cơ chế


pháp lý – xã hội thực hiện. Pháp luật ghi nhận và có cơ chế bảo vệ các quyền và lợi ích
hợp pháp của cơng dân trong tất cả các lĩnh vực đời sống xã hội. Các quy định pháp
luật về quyền khiếu nại, tố cáo, quyền trong lĩnh vực giáo dục, học tập, hưởng thụ các
giá trị văn hóa tinh thần, quyền tự do cá nhân: bất khả xâm phạm về thư tín, điện thoại,
chỗ ở, bí mật đời tư…được tâm sửa đổi, bổ sung cho phù hợp. Nhà nước ta cần quan
tâm hơn để hoàn thiện các văn bản pháp luật về hình thức, thủ tục và cơ chế thực hiện
các quyền con người.

– Chức năng giáo dục của pháp luật ở nước ta hiện nay được thực hiện bằng nhiều
hình thức, phương pháp khác nhau như phổ biến pháp luật, tư vấn và trợ giúp pháp
luật, thông qua hoạt động áp dụng pháp luật của các cơ quan nhà nước có thẩm
quyền… Để có hiệu quả giáo dục, cần đổi mới các hình thức, phương pháp, nội dung
giáo dục pháp luật phù hợp với trình độ, điều kiện và nhu cầu của các đối tượng giáo
dục pháp luật.Xây dựng mơi trường văn hóa pháp luật, sự tn thủ pháp luật từ phía
các cơ quan cơng quyền và các nhân viên của họ, đảm bảo tính đúng đắn của các quyết
định áp dụng pháp luật.


KẾT LUẬN
Pháp luật xuất hiện trong mọi mặt của đời sống và là công cụ quan trọng để Nhà
nước thực hiện việc tổ chức và quản lí xã hội. Thơng qua pháp luật, con người được
sống và làm việc trong một mơi trường an tồn và có kỷ luật. Vai trị của pháp luật có
thể được xem xét ở nhiều góc độ, mức độ, nhiều khía cạnh và nhiều chiều khác nhau.
Bất cứ một quốc gia nào cũng cần ngày càng hoàn thiện hệ thống pháp luật để nhằm
đảm bảo quyền và nghĩa vụ cơ bản của con người cũng như sự phát triển của đất nước
mình. Do đó với tính chất là ý chí và nguyện vọng của nhân dân, LHS của Nhà nước ta
có vai trị xã hội rất lớn lao. Để thực hiện tốt vai trò của mình, LHS phải được xây
dựng và áp dụng theo định hướng là phát huy hơn nữa các chức năng xã hội vốn có của
nó. LHS phải vừa làm tốt chức năng bảo vệ các quan hệ xã hội và các lợi ích tiến bộ,
vừa đấu tranh phịng và chống tội phạm một cách hữu hiệu, vừa góp phần giáo dục
nâng cao ý thức pháp luật cho mọi người dân. Bên cạnh đó, cùng với việc điều chỉnh
quan hệ pháp luật hình sự khi có tội phạm thực hiện, LHS cịn phải có tác động lên các
hành vi xử sự thường ngày của mọi thành viên của xã hội, thông tin chính xác cho họ
biết về giới hạn xử sự của mình và vừa là phương tiện đáng tin cậy của mọi người dân
trong hoạt động nhận thức thực tại xã hội và pháp luật của họ. Do đó với tính chất là ý
chí và nguyện vọng của nhân dân, LHS của Nhà nước ta có vai trị xã hội rất lớn lao.
Để thực hiện tốt vai trị của mình, LHS phải được xây dựng và áp dụng theo định
hướng là phát huy hơn nữa các chức năng xã hội vốn có của nó. LHS phải vừa làm tốt

chức năng bảo vệ các quan hệ xã hội và các lợi ích tiến bộ, vừa đấu tranh phòng và
chống tội phạm một cách hữu hiệu, vừa góp phần giáo dục nâng cao ý thức pháp luật
cho mọi người dân. Bên cạnh đó, cùng với việc điều chỉnh quan hệ pháp luật hình sự
khi có tội phạm thực hiện, LHS cịn phải có tác động lên các hành vi xử sự thường
ngày của mọi thành viên của xã hội, thơng tin chính xác cho họ biết về giới hạn xử sự
của mình và vừa là phương tiện đáng tin cậy của mọi người dân trong hoạt động nhận
thức thực tại xã hội và pháp luật của họ


TÀI LIỆU THAM KHẢO
 Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm tại Điều 26 của Bộ luật Tố
tụng hình sự năm 2015
 Những vướng mắc khi thực hiện quy định bổ nhiệm lại giám định viên kỹ
thuật hình sự theo khoản 2 điều 10 thơng tư 33/2014/TT-BCA
 Một số quy định về người đại diện trong tố tụng hình sự
 Các quy định pháp luật về biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt
 Tồ án hình sự quốc tế - một thiết chế pháp lý bảo vệ các quyền con người



×