Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

Giáo dục đạo đức cho học sinh tiểu học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (143.14 KB, 20 trang )

A, PHẦN MỞ ĐẦU
I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI

Trong thời đại ngày nay, với xu thế tồn cầu hố, các quốc gia trên thế giới
đều hướng tới sự phát triển con người năng động, tồn diện, thích ứng với mọi
hồn cảnh xã hội vì vậy nghị quyết TƯ 2 (khố 8) đó khẳng định: "Giáo dục học
sinh trong giai đoạn hiện nay phải giáo dục toàn diện về đạo đức, trí tuệ, thể dục
và mỹ dục", trong đó đạo đức là cái gốc của con người phát triển toàn diện.
Theo luật giáo dục, mục tiêu của giáo dục là : '' Đào tạo con người Việt
Nam phát triển toàn diện có đạo đức, tri thúc, sức khoẻ, thẩm mĩ với nghề
nghiệp, trung thành với lí tưởng độc lập dân tộc và CNXH, hình thành và bồi
dưỡng nhân cách, phẩm chất và năng lực của công dân, đáp ứng yêu cầu xã hội
và bảo vệ Tổ quốc. ''
Đạo đức là một nhân tố quan trọng của nhân cách và được xem là khái niệm
luân thường đạo lý của của con người, nó thuộc về vấn đề đánh giá tốt - xấu,
đúng - sai, lành - ác, hiền - dữ, v.v. trong phạm vi: lương tâm con người, hệ
thống phép tắc đạo đức và trừng phạt mà đôi lúc cũng được gọi là giá trị đạo
đức. Đạo đức gắn liền với văn hóa, chủ nghĩa nhân văn, triết học và luật pháp
của một xã hội. Hay nói một cách dễ hiểu, đạo đức là những khuynh hướng tốt
trong tâm hồn con người, mà những khuynh hướng đó tạo nên những lời nói,
hành vi bên ngoài phù hợp với những quy tắc xử sự của cộng đồng, xã hội khiến
cho mọi người được an vui, lợi ích và chuyển hóa,
Có thể nói đạo đức là cái tốt, cái đúng ở bên trong con người được biểu hiện
ra bên ngồi bằng lời nói, hành vi. Đạo đức là gốc bên trong được chuyển hóa
thành lời nói và hành vi tốt đẹp bên ngồi. Tức là con người phải có nhận thức
đúng, tốt về sự vật hiện tượng và từ đó có lời nói, hành vi tốt đẹp, đúng đắn với
sự vật hiện tượng. Để có được nhận thức đúng cần phải có giáo dục. Đạo đức
con người khơng phải có sẵn mà phải được giáo dục. "Hiền dữ phải đâu là tính
sẵn, phần nhiều do giáo dục mà nên" (Hồ Chí Minh). Giáo dục nói chung và
giáo dục đạo đức nói riêng phải được thực hiện ngay từ lúc nhỏ, từ lứa tuổi tiểu


Gi¸o dục đạo đức cho học sinh tiểu học

1


học. Có nhiều phương cách giáo dục đạo đức cho trẻ tiểu học nhưng có lẽ trường
tiểu học là nơi có thể làm tốt cơng tác giáo dục đạo đức. Như chúng ta đã biết,
trẻ tiểu học dễ dàng học được điều tốt và cũng dễ dàng nhiễm điều xấu. Nếu
ngay từ bậc học này khơng có sự đầu tư quan tâm giáo dục đạo đức thì rất khó
cho việc hình thành nhân cách người sau này.
Từ những lí do trên, chúng tôi chọn vấn đề’’ giáo dục đạo đức cho học sinh
tiểu học ‘’ để nghiên cứu.
II, MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI

1. Mục đích nghiên cứu.
Như trên đã nói, mục đích của đề tài là nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục
đạo đức cho học sinh tiểu học.
2. Khách thể và đối tựợng nghiên cứu.
- Khách thể nghiên cứu : Qúa trình giáo dục đạo đức cho học sinh tiểu học
- Đối tượng nghiên cứu : Con đường và phương tiện giáo dục đạo đức cho
học sinh tiểu học.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu.
Đề tài có nhiệm vụ nghiên cứu chủ yếu sau:
- Nghiên cứu cơ sở lí luận của đề tài .
- Nghiên cứu cơ sở thực tĩên của đề tài .
- Đề xuất các con đường và phương tiện giáo dục đạo đức cho học sinh
tiểu học.
4. Phạm vi nghiên cứu.
Trong đề tài này chúng tôi quan tâm đến con đường và phương tiện giáo
dục đạo đức cho học sinh tiểu học.

5. Phương pháp nghiên cứu.
- Phương pháp nghiên cứu lí luận.
- Phương pháp phân tích tổng hợp.
- Phương pháp nghiên cứu thực tiễn.
- Phương pháp quan sỏt.

Giáo dục đạo đức cho học sinh tiểu học

2


B. PHẦN NỘI DUNG
I, CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU

1. Một sô khái niêm cơ bản
1.1. Đạo đức
Trong đời sống xã hội, con người có nhiều mối quan hệ, quan hệ giữa
con người với con người, giữa cá nhân với tập thể hay toàn xã hội. Các mối
quan hệ ấy vô cùng phức tạp, muốn tồn tại và phát triển địi hỏi mọi người sống
phải có đạo đức tức là phải tự giác điều chỉnh, uốn nắn hành vi của mình cho
phù hợp với lợi ích chung của cộng đồng hay toàn xã hội.
Như vậy, khái niệm đạo đức có thể hiểu như sau:
Đạo đức là một trong những hình thái ý thức xã hội, là hệ thống các nguyên
tắc, yêu cầu, chuẩn mực, quy tắc điều chỉnh ứng xử của con người trong tất cả
mối quan hệ thực tiễn, trong tất cả lĩnh vực đời sống xã hội.
Đạo đức có tính lịch sử, tính giai cấp, tính dân tộc được hình thành trong
đời sống xã hội, các hành vi của con người thường được đánh giá theo những
quy tắc, chuẩn mực được củng cố trong các khái niệm như: thiện - ác, chính - tà,
vinh - nhục, lương tâm, nghĩa vụ, hạnh phúc… Hệ thống khỏi niệm này phản
ánh và biểu hiện bản chất xã hội của con người, mà chủ yếu là mối quan hệ giữa

xã hội và cá nhân.
Mỗi con người sống trong điều kiện xã hội nhất định khi bộc lộ thái độ của
mình qua hành vi đạo đức hoặc phù hợp hay trái ngược với những chuẩn mực,
những giá trị đương thời đều có sự lựa chọn, điều chỉnh đó chính là sự điều
chỉnh đó chính là sự phản ánh trình độ phát triển đạo đức, ý thức đạo đức của
mỗi cá nhân là sự biểu hiện tính độc lập tương đối của đạo đức trong đời sống
xã hội, thiếu sự lựa chọn, điều chỉnh thì người đó khơng có đạo đức mà chỉ có sự
cưỡng chế, nghĩa là chỉ tồn tại sc mnh ca phỏp quyn.

Giáo dục đạo đức cho học sinh tiÓu häc

3


Đạo đức là một hình thài ý thức xã hội xuất hiện rất sớm trong lich sử nhân
loại và được mọi xã hội mọi thời đại quan tâm. Sự phát triển của đạo đức xã hội
từ thấp lên cao như những nấc thang giá trị văn minh loài người trên cơ sở phát
triển của sức sản xuất vật chất và trong quá trình lao động con người làm biến
đổi thể chất của mình và làm nảy sinh ý thức ln thúc đẩy sự phát triển và sự
hoàn thiện của con người. Trong cuộc sống hiện thực đạo đức bao giờ cũng gồm
ý thức, quan hệ và hành động thực tiễn. Cả ba mặt có quan hệ thống nhất với
nhau nói lên năng lực phục vụ một cách tích cực, tự giác của cá nhân trong mối
tương quan và lợi ích của người khác, của xã hội. Do đó, việc giáo dục đạo đức
phải gồm ba mặt nhằm hình thành những dạng đạo đức ln mang tính tích cực
xã hội.
Cần hình thành cho con người những quan điểm cơ bản nhất, những
nguyên tắc, quy tắc, chuẩn mực đạo đức cơ bản có chức năng giáo dục,nhờ có
chức năng này con người có khả năng lựa chọn, đánh giá đúng đắn các hiện
tượng đạo đức xã hội cũng như tự đánh gía những suy nghĩ, hành vi của bản
thân mình và càng hiểu rõ vai trò to lớn của lương tâm, ý thức danh dự và các

phẩm chất đạo đức của cá nhân đối với bản thân mình trong đời sống cộng đồng.
Để đảm bảo cho sự phát triển và tồn tại xã hội địi hỏi phải có một hệ thống
quy tắc, nguyên tắc, chuẩn mực nhằm kết hợp cách này hay cách khác, lợi ích cá
nhân với lợi ích tập thể hay lợi ích xã hội. Vì vậy chức năng điều chỉnh của đạo
đức gắn bó mật thiết với chức năng quan hệ xã hội. Trong đời sống thực tiễn các
mối quan hệ vơ cùng phong phú và phức tạp vì vậy con người phải tự giác điều
chỉnh. Muốn có sự điều chỉnh hợp lý con người không chỉ dừng lại ở chỗ lời nói
mà điều quan trọng là biến lời nói thành hành động nhất là các mối quan hệ có
liên quan đến lợi ích giữa cá nhân với cá nhân, giữa cá nhân với xã hội, chúng
ln có mâu thuẫn giằng xé nhau, cho nên chủ thể đạo đức phải có nhận xét
đánh giá đúng đắn, phải dựa vào hệ thống các nguyên tắc, quy tắc, chuẩn mực.
Nếu không dựa vào hệ thống các nguyên tắc, quy tắc chuẩn mực thì khơng thể
lựa chọn, cân nhắc, điều chỉnh hành vi ca mỡnh cho phự hp.

Giáo dục đạo đức cho häc sinh tiÓu häc

4


Nhờ những nguyên tắc chuẩn mực đạo đức con người phân biệt được cái
đúng cái sai, cái tốt, cái xấu, cái thiện, cái ác trong đời sống, trên cơ sở đó mà
định hướng một cách đúng đắn hành vi của mình trong đời sống thực tiễn.
1.2. Giáo dục đạo đức
Đạo đức là một bộ phận cấu thành quan trọng của nhân cách học sinh. Bộ
phận quan trọng ấy không tự nhiên mà hình thành một cách trọn vẹn, địi hỏi
phải có một q trình sư phạm bộ phận, trong đó dưới tác động chủ đạo của nhà
giáo dục nhằm hình thành và phát triển ở học sinh ý thức đạo đức, tình cảm đạo
đức,

hành vi và thói quen đạo đức, nhờ đó mà tạo ra các phẩm chất đạo đức ở


học sinh theo những nguyên tắc đạo đức.
Giáo dục đạo đức gắn bó hữu cơ với giáo dục tư tưởng chính trị có tác dụng
xây dựng cơ sở thế giới quan và định hướng chính trị - xã hội cho ý thức và
hành động đạo đức cá nhân. Giáo dục đạo đức liên quan hữu cơ với giáo dục
pháp luật, giáo dục pháp luật có tác dụng cũng cố và thúc đẩy việc thực hiện các
yêu cầu đạo đức.
Giáo dục đạo dức là một mặt quan trọng của giáo dục nhân cách giúp con
người phát triển toàn diện. Hồ Chủ Tịch đó nói: ‘’ Dạy cũng như học phải biết
chú trọng cả tài lẫn đức. Đức là cái đức cách mạng. Đó là cái gốc rất quan
trọng’’
1.2.1. Giáo dục đạo đức cho HSTT
Giáo dục đạo đức cho học sinh tiểu học nhằm cung cấp cho các em
những tri thức đạo đức, bồi dưỡng cho các em những tri thức đạo đức, bồi
dưỡng cho các em những tri thức đạo đức, tình cảm đạo đức và hình thành ở các
em những thói quen hành vi đạo đức. Giáo dục đạo đức là một mặt giáo dục đặc
biệt phải coi trọng nhất là trong công cuộc đổi mới hiện nay, khi yếu tố con
người được đặc biệt coi trọng thì tiềm năng trí tuệ cùng với sức mạnh tinh thần
và đạo đức của con người càng được đề cao và phát huy mạnh mẽ trong mọi lĩnh
vực xã hội. Việc nõng cao chất lượng và hiệu quả giáo dục đạo đức cho các em
học sinh là việc làm thường xuyên, lâu dài ca cụng tỏc giỏo dc hin nay. Hin

Giáo dục đạo ®øc cho häc sinh tiÓu häc

5


nay vấn đề đạo đức của trẻ không chỉ là vấn đề của một đất nước mà là vấn đề
mang tính tồn cầu của thời đại, là điều kiện quan trọng để bảo vệ sự sống còn
và tương lai của loài người.

Giáo dục đạo đức cho học sinh là làm cho nhân cách của trẻ phát triển đúng
đắn về mặt đạo đức,tạo cơ sở để các em ứng xử đúng đắn trong các mối quan hệ
của cỏ nhân đối với bản thân, với người khác( gia đình, bạn bè, thầy giáo, người
lớn tuổi và ít tuổi…) với xã hội làm cho các em nắm được, thể hiện trong nhận
thức và hành động. Các mối quan hệ đạo đức mới là các mối quan hệ thể hiện sự
hài hoà giữa lợi ích ca nhân và lợi ích xã hội. Kết quả của q trình giáo dục đạo
đức là học sinh có được các phẩm chất đạo đức tốt đẹp và bền vững có được bản
lĩnh đạo đức để ứng xử đúng trong các mối quan hệ đạo đức.
Giáo dục đạo đức ở trường tiểu học cần bồi dưỡng cho học sinh cơ sở đạo
đức, đó là cơ sở hình thành con người luôn tôn trọng người khác, ở nhà, ở
trường, ở nơi công cộng, trong xã hội.
1.2.2. Nội dung giáo dục đạo đức
Nội dung giáo dục đạo đức cho học sinh là các phẩmchất đạo đức xã
hội. ở tiểu học, các phẩm chất này được cụ thể hoá thành các chuẩn mực đạo
đức để bảo đảm tính vừa sức với nhận thức của trẻ em. Các chuẩn mực được đưa
ra phản ánh các quan hệ thường gặp của chúng. Đó là:
- Quan hệ cá nhân đối với xã hội : Mối quan hệ đó thể hiện ra ở phẩm chất
chủ yếu đó là; trung thành với lý tưởng xây dựng một xã hội theo định hướng xã
hội chủ nghĩa yêu quê hương đất nước, hiểu biết về các nước khác và tơn trọng
các dân tộc khác, tích cực tham gia các hoạt động bảo vệ hồ bình, chống chiến
tranh; tự hào với quá khứ và truyền thống vẻ vang của dân tộc; biết ơn các bậc
tiền liệt đó cú cơng dựng nước và giữ nước.
- Quan hệ cá nhân đối với lao động : đó là các phẩm chất yêu lao động, tinh
thần trách nhiệm, tinh cần cù, ý thức kỷ luật trong lao động, thái độ chăm chỉ
học tập , lòng say mê khoa học và kỷ thuật, quý trọng ngi lao ng, quý trng

Giáo dục đạo đức cho học sinh tiÓu häc

6



và bảo vệ các thành quả lao động xã hội và các di sản văn hoá, tiết kiệm( tiền,
vật tư, thì giờ).
- Quan hệ giữa cá nhân đối với người xung quanh : Đây là mối quan hệ diễn
ra trong cuộc sống hàng ngày của học sinh, các phẩm chất đạo đức biểu hiện:
kính trọng lễ phép và biết ơn ông bà, cha mẹ, anh chị và những người lớn tuổi
trong gia đình, thương u, chăm sóc, nhường nhịn em nhỏ, tơn trọng phụ nữ.
Kính trọng, lễ phép và biết ơn thầy cơ giáo, có tinh thần đồn kết và giúp đỡ bạn
bè, thơng cảm, đồn kết hợp tác, tơn trọng lợi ích của người khác và của tập thể.
- Quan hệ giữa cá nhân đối với bản thân: Các quan hệ này gắn chặt với sự
tự ý thức, với ý chí hành động, các tác động điều chỉnh bản thân học sinh được
thể hiện trong học tập, trong lao động trong sinh hoạt, và trong đời sống cộng
đồng của học sinh đó là: tính kỉ luật, thật thà, khiêm tốn, dũng cảm, lịng tự
trọng( biết giữa gìn phẩm giá và danh dự), trau dồi văn hoá ứng xử( lễ độ,
nhường nhịn, trật tự, vệ sinh,….). Có ý chí nghị lực, tự tin và khát vọng vươn
lên.
Trong quá trình giáo dục đạo đức cho học sinh nói chung, học sinh tiểu học nói
riêng phải rèn luyện để có được các phẩm chất đạo đức trên. Chúng ta không
nên xem nhẹ việc giáo dục một phẩm chất nào, càng không thể giáo dục trái với
nội dung của phẩm chất đó.
1.2.3. Hình thức giáo dục đạo đức
Việc giáo dục đạo đức ở trường tiểu học có quan hệ chặt chẽ với việc
giảng dạy mơn đạo đức. Vì vậy, nhiều hình thức giáo dục đạo đức có quan hệ
chặt chẽ với những hình thức giảng dạy môn đạo đức.
Việc giáo dục đạo đức được thực hiện thông qua hai con đường chủ yếu,
tiến hành đồng thời và kết hợp chặt chẽ với nhau.
Con đường thứ nhất : Giáo dục đạo đức thông qua môn học nhằm giúp
học sinh nắm được các yêu cầu về đạo đức của xã hội đối với mỗi cá nhân, các
yêu cầu biểu hiện dưới dạng chuẩn mực đạo đức, các khái niệm đạo đức, các
nguyên tắc đạo đức, các tư tưởng đạo đức… Để giúp học sinh ý thc c ý


Giáo dục đạo đức cho học sinh tiểu häc

7


nghĩa tính đúng đắn, giá trị của học hành vi đạo đức phù hợp với yêu cầu trên
cần cung cấp cho học sinh kiến thức về các chuẩn mực về hành vi đạo đức và
các khái niệm đạo đức thông qua mơn Đạo đức, các mơn học khác. Nói chuyện
với học sinh để giúp các em đánh giá các hành động của bản thân và của người
xung quanh về đạo đức, tổ chức báo cáo, thuyết trình, thảo luận về các chủ đề
đạo đức trong cuộc sống ở lớp, ở trường, và ở xã hội. Môn đạo đức ở bậc tiểu
học có nhiệm vụ chủ yếu là giúp học sinh nắm được điều sơ đẳng trong ứng xử
hàng ngày, nắm được các chuẩn mực hành vi đạo đức sơ đẳng trong các hoạt
động và các quan hệ hằng ngày, phân biệt được thế nào là hành vi tốt, xấu, đúng,
sai về mặt đạo đức trong các hành vi quen thuộc hàng ngày, bước đầu nhận thức
được tác động đối với người khác của hành vi tốt xấu. Các môn học khác như
Văn học, Lịch sử để góp phần vào việc giáo dục đạo đức cho học sinh, về lòng
nhân ái, yêu nước, yêu bạn bè, niềm tin... Khơi dậy trong học sinh nhưng tình
cảm trong sáng, thơi thúc các em làm việc tốt, có thái độ bất bình trước các hành
vi xấu xa.
Con đường thứ hai : Là hình thành cho hoc sinh kinh nghiệm đạo đức, kĩ
xảo và thói quen đạo đức thơng qua hoạt động ngồi giờ lên lớp. Đặc trưng của
hoạt động ngoài giờ lên lớp là hoạt động diễn ra ở các môi trường giáo dục với
quy mơ và hình thức khác nhau, một số hình thức tổ chức là: hình thức hái hoa
dân chủ, sân chơi trí tuệ, hình thức tổ chức hội thi văn nghệ, kể chuyện, tổ chức
các trò chơi, sinh hoạt lớp theo chủ điểm giáo dục, tham quan dã ngoại... Hình
thức có ý nghĩa quan trọng đến hiệu quả hoạt động giáo dục ngồi giờ lên lớp,
nó mang lại sự hấp dẫn của hoạt động, thu hút được nhiều học sinh tham gia
nhiệt tình và có kết quả.

1.3. Một số đặc điểm tâm lí của học sinh
1.3.1. Đặc điểm về qúa trình nhận thức
Học sinh tiểu học là lứa tuổi mang nặng tính hình ảnh trực quan. Vì
vậy, cần phải chú ý đến các đặc điểm tâm lý như sau:

Gi¸o dơc ®¹o ®øc cho häc sinh tiĨu häc

8


* Khả năng chú ý: Chú ý không phải là q trình nhận thức, nhưng nó
tham gia vào các q trình nhận thức như là điều kiện đảm bảo cho các q trình
này diễn ra một cách có kết quả. Các lọai chú ý đều có ở học sinh tiểu học với
những trình độ khác nhau. Học sinh tiểu học nói chung cùng một lúc các em
chưa chú ý được nhiều đối tượng, sức tập trung chú ý của các em chỉ kéo dài
trong một thời gian ngắn. Sự chú ý về các sự vật hiện tượng bên ngoài thường
cao hơn trong trí tuệ, vì vậy trong giáo dục cần phải thay đổi các hình thức hoạt
động để tránh được sự nhàm chán, mất trật tự ở các em tạo được sự tập trung
chú ý, hứng thú và thu được kết quả tốt. Duy trì và phát triển chú ý của học sinh
trên giờ học là nhiệm vụ rất quan trọng của người giáo viên tiểu học. Chú ý ở
học sinh tiểu học có sự biểu hiện rất đa dạng và phong phú, có thể phân ra thành
các dạng sau: chú ý hành động, giả vờ không chú ý, chú ý vờ vĩnh, và không chú
ý thực sự.
* Tri giác : Tri giác của học sinh tiểu học được xác định trước hết bởi
đặc trưng của chính sự vật. Vì thế trong học tập học sinh để ý không phải cái cơ
bản, cái quan trọng, cái bản chất mà là những cái biểu hiện rõ nét hơn so với các
yếu tố, sự vật khác( về màu sắc, độ lớn, hình dáng...). L.V.Giancốp đã chứng tỏ
rằng, chính sự tổ chức hoạt động học tập quy định sự phát triển tri giác. Có thể
nói rằng tri giác của học sinh phát triển mạnh trong hoạt dộng học tập, nếu như
dạy học đảm bảo hình thành được ở học sinh kĩ năng nhìn và phân tích những gì

mà nó tri giác.
* Trí nhớ : ở học sinh tiểu học đã biết ghi nhớ chủ định nhưng kĩ năng
đó chưa hồn thiện, cịn ghi nhớ khơng chủ định thì đóng vai trị to lớn trong
hoạt động học tập của học sinh tiểu học và nó càng phát triển mạnh mẽ trong
suốt lứa tuổi tiểu học.
* Tư duy : ở lứa tuổi tiểu học, sự hình thành khái niệm khoa học trong
quá trình dạy học có ý nghĩa rất lớn đối với việc phát triển tư duy của trẻ đặc
biệt là đối với học sinh cuối bậc tiểu học tư duy đã có thay đổi về chất, tư duy
trừu tượng phát triển mạnh mẽ. Các em đã biết tổng hợp các sự vật hiện tượng,

Gi¸o dục đạo đức cho học sinh tiểu học

9


tích luỹ được nhiều kinh nghiệm hơn phát triển rõ rệt hơn so với các lớp đầu bậc
tiểu học. Trình độ pân tích, khái qt hố, óc phê phán thể hiện rõ nhất là ở học
sinh khá, giỏi các em lĩnh hội kiến thức, kỹ năng, thái độ không chỉ một chiều.
Vì vậy, người giáo dục cần chú ý đến câu hỏi'' tại sao'' để kích thích tư duy và
giúp học sinh hiểu sâu hơn, bản chất, ý nghĩa, giá trị của những điều đã lĩnh hội
được. Những nội dung hình thức giáo dục đạo đức cần lựa chọn sao cho gần gũi
với cuộc sống thực của học sinh, phù hợp với tâm lý lứa tuổi học sinh.
* Tưởng tượng : Hoạt động học của nhà trường tiểu học có những yêu
cầu xác định dối với trí tưởng tượng của trẻ. Trong các giờ học, học sinh không
chỉ cần ghi nhớ những điều mà chúng đã đọc, cô giáo đã kể, mà cịn phải hình
dung được cả một bức tranh về quá khứ cũng như tương lai, về những phong
cảnh, những con người, những miền đất... mà chúng chưa bao giờ nhìn thấy.
Hướng phát triển chính của tưởng tượng ở lứa tuổi học sinh tiểu học là khả năng
hình dung càng ngày càng chính xác và đầy đủ biểu tương mới trên cơ sở những
hiểu biết tương ứng. Mặc khác tính hiện thực của tưởng tượng trẻ tiểu học cũng

được phát triển theo tuổi. Điều đó được giải thích bằng sự tích luỹ tri thức và sự
phát triển tính phê phán của tư duy ở trẻ trong quá trình chúng thực hiện hoạt
động học. Trong suốt lứa tuổi tiểu học tưởng tượng của học sinh phát triển theo
các hướng sau đây:
- Từ rời rạc, mờ nhạt, đứt đoạn, hình ảnh tưởng tượng của học sinh tiểu hoc
trở nên rõ nét hơn và xác định hơn.
- Từ việc chỉ thể hiện được một số dấu hệu ở lớp 1, đến trình độ đầy đủ hơn
và cơ bản hơn ở các lớp 2-3.
- Từ sự gia công không đáng kể ở lớp 1, đến lớp 3, hình ảnh tưởng tượng của
trẻ trở nên khái quát hơn, chính xác hơn, sáng tạo hơn.
- Đầu tiên moị hình ảnh tái tạo ở trẻ đều phải có điểm tựa là những sự vật cụ
thể, những hành động cụ thể, sau đó đạt tới trình độ điểm tựa từ ngữ điều đó cho
phép học sinh tạo ra được hình ảnh có chất lượng, ý nghĩa mới.

Gi¸o dục đạo đức cho học sinh tiểu học

10


Trong quá trình học tập, khả năng điều khiển hoạt động trí tuệ của học sinh
tiểu học phát triển và cùng với nó, tưởng tượng của các em cũng trở thành một
quá trình được điều khiển, điều chỉnh. Nhờ vậy học sinh có khả năng tưởng
tượng một cách có chủ định và hình ảnh của nó dược hình thành theo yêu cầu
của nhiệm vụ học tập.
1.3.2. Đặc điểm về nhân cách
* Tính cách: Học sinh bậc tiểu học thường bị kích động bởi những kích
thích bên trong và bên ngồi. Do vậy các em dễ có hành vi bột phá học sinh ở
lứa tuổi này có tính vị tha và sự hồn nhiên. Hồn nhiên với bạn bè, thầy cô và
những người xung quanh. Hồn nhiên nên rất cả tin: tin vào sách vở, tin vào lời
người lớn, tin vào khả năng của bản thân, tất nhiên niềm tin này chỉ cũng cảm

tính, chưa có lý trí soi sáng. Vì vậy giáo viên cần tận dụng niềm tin này để giáo
dục các em.Thầy, cô giáo phải làm mẫu đúng, lời nói phải đi đơi với việc làm,
phải giáo dục các em những điều hiểu biết, nhưng phải giữ được tính cách hồn
nhiên ngây thơ.
* Tự đánh giá và đánh giá : Học sinh tiểu học thường đánh giá cũng
mang nặng tính cảm tính, chưa biết căn cứ vào các chuẩn mực hành vi để đánh
giá. Giáo dục các em biết đánh giá và tự đánh giá là nhiệm vụ rất quan trọng, khi
các em biết tự đánh giá đúng mức thì nó là sức mạnh tinh thần giúp các em từ
chối sự chiếu cố, sự châm chước của giao viên, ngay cả khi các em’’ thất bại’’;
các em sẽ dễ dàng chấp nhận đúng mình để vươn lên trong học tập.
* Tình cảm: Tình cảm của các em mang tính cụ thể, trực quan và giàu
cảm xúc; Tình cảm trí tuệ của các em đang hình thành và phát triển. Các em suy
nghĩ rằng’’ hình thù, màu sắc, âm thanh và xúc cảm’’(Usinxki). Các em rất thích
được nghe kể chuyện, đặc biệt các em rất nhạy cảm với những thành tích mà
mình đó đạt được. Tình cảm thẩm mĩ của các em học sinh đang phát triển. Các
em thích cái đẹp trong thiên nhiên, yêu động vật nuôi trong nhà, cỏ cây hoa lá.
Nhiều em thích các hoạt động nghệ thuật.Tình cảm đạo đức phát triển thể hiện
trong cách ứng xử với những người trong gia đình, thầy cơ, bạn bố v trong cng

Giáo dục đạo đức cho học sinh tiÓu häc

11


đồng xã hội cụ thể: các em làm những việc từ thiện như tặng quà giúp đỡ các gia
đình thương binh liệt sĩ, mua tăm ủng hộ người mù. Những đặc điểm tình cảm
trên giáo viên cần triệt để khai thác những hình ảnh trực quan để tạo cho các em
những xúc cảm tích cực, tận dụng văn học nghệ thuật làm phương tiện giáo dục
tình cảm đạo đức cho học sinh( tổ chức các hình thức như trị chơi, hội thi tham
quan, các hoạt động bảo vệ môi trường, sinh hoạt theo chủ điểm…); Tổ chức

cho học sinh các hoạt động ngoài giờ lờn lớp như thăm hỏi thầy cơ, bạn bè, giúp
đỡ các gia đình có hồn cảnh đặc biệt khó khăn…dùng tình cảm để cảm hố và
tác động đến các em, tránh thuyết lý một cách áp đặt, cứng nhắc thương yêu
nhưng phải nghiêm điều đó mới có tác động trong hiệu quả giáo dục.
1.3.1. Cấu trúc hành vi đạo đức
*Tri thức đạo đức : là sự hiểu biết của con người về những chuẩn
mực đạo đức quy định hành vi của họ trong quan hệ với người khác, với cộng
đồng. Có tri thức thơi chưa đủ đảm bảo có hành vi đạo đức. Con người cần có
niềm tin đạo đức là sự tin tưởng một cách sâu sắc của cá nhân vào tính khách
quan của các chuẩn mực đạo đức và sự thừa nhận tính tất yếu phải thực hiện đầy
đủ các chuẩn mực ấy.
*Động cơ và tình cảm đạo đức : Hành vi đạo đức luôn luôn được
thúc đẩy bởi động cơ đạo đức và tình cảm đạo đức . Động cơ đạo đức là yếu tố
bên trong thúcc đẩy hoạt động của con người trong mối quan hệ giữa con người
với con người, giữa con người với xã hội. Khi con người xuất hiện các hành vi
của mình và của người khác. Sự rung cảm ấy( tích cực hoặc tiêu cực) là tình
cảm đạo đức. Nó trở thành một trong những động cơ thúc đẩy và điều chỉnh
hành vi đạo đức. Do đó, giáo dục đạo đức cho học sinh tiểu học không những
cung cấp cho các em những tri thức đạo đức, mà quan trọng hơn là hình thành ở
các em động cơ và tình cảm đạo đức trong cuộc sống.
* Thói quen đạo đức : là những hành vi đạo đức đó ổn định của con
người, được thể hịên trong những tình huống mn hình mn vẻ, được xem
như nhu cầu đạo đức. Nhu cầu này được thoả mãn thì con người thy thoi mỏi,

Giáo dục đạo đức cho học sinh tiểu häc

12


hài lịng. Nhu cầu khơng được thỗ mãn thì thấy khó chịu. Muốn có thói quen

đạo đức thì phải tổ chức cho học sinh hoạt động một cách có hệ thống các hành
vi đạo đức trong các tình huống khác nhau. Tóm lại tri thức đạo đức soi sáng
con đường đi đến hành vi của đạo đức, động cơ đạo đức, tình cảm đạo đức, phát
động sự tiềm ẩn sức mạnh vật chất và tinh thần để con người thực hiện hành vi
đạo đức. Thói quen đạo đức góp phần tạo nên sự thống nhất giữa ý thức và hành
vi đạo đức.
II, cơ sở thực tiễn của vấn đề nghiên cứu
1. Thực trạng nhận thức của giáo viên tiểu học về giáo dục đạo đức cho
học sinh tiểu học
Việt Nam từ xưa đến nay dã nổi tiếng là một dân tộc hiếu học hiếu nghĩa. Có
truyền thống tơn sư trọng đạo được thể hiện trong dân gian bằng các câu ca dao
tục ngữ: '' Không thầy đố mày làm nên'', '' Nhất tự vi sư, bán tự vi sư''... Và rất
coi trọng đạo đức người học sinh, cụ thể ở bất kì trường học phổ thơng nào cũng
có khẩu hiệu : '' Tiên học lễ, hậu học văn''.
ấy vậy mà bây giờ có rất nhiều điều phải bàn, phải nói về đạo đức của học
sinh đối với thầy cô giáo, đối với cha mẹ, đối với nhau và đối với xã hội. Trước
hết ta hãy nói về quan hệ đạo đức của học sinh đối với thầy cô giáo. Bên cạnh
những học sinh chăm ngoan, kính thầy, yêu bạn, sống có trách nhiệm với gia
đình, cha mẹ và bản thân. Hiện nay cũng khơng ít những học sinh bị tha hố, hư
hỏng. Đã khơng ít bài báo, khơng ít dư luận đề cập đến vấn đề này. Biểu hiện
của nó là gì?
Đó chính là những học sinh khơng tơn trọng thầy cơ giáo, khơng tơn trọng
chính bản thân . Các em không chịu học tập nghiêm chỉnh mà lại đua địi những
thói hư tật xấu, coi thương thầy cơ giáo. Và đặc biệt hiện tượng học sinh chửi
bậy, nói tục ngay trong trường học cũng như ngoài trường học tương đối nhiều.
Nhận thức của học sinh về các chuẩn mực hành vi đạo đức cũng như thái độ của
học sinh về việc thực hiện các chuẩn mực hành vi đạo đức chưa cao, việc thực
hiện các chuẩn mực đạo đức cng cú nhng hn ch nht nh.

Giáo dục đạo đức cho häc sinh tiÓu häc


13


Trong thực tế hiện nay vấn đề giáo dục đạo đức cho học sinh chưa có hiệu quả
cao bởi :
* Nhận thức của giáo viên về giáo dục đạo đức chưa cao, chưa đúng đắn
trong quá trình giảng dạy. Giáo viên đang cịn nặng nề dạy mơn đạo dức là mơn
phụ, dễ, ai cũng có thể dạy được, vì vậy ít có sự say mê tìm tịi, nâng cao hiệu
quả dạy học. Đó là cịn chưa kể đến giáo viên thỉnh thoảng dùng thời gian tiết 2
của bài để dành cho học sinh luyện toán và tiếng việt.
- Giáo dục thơng qua dạy học các mơn học: có thể nói rằng đây là những
môn học bắt buộc được giáo viên và học sinh quan tâm, tuy nhiên dường như
giáo viên chỉ quan tâm đến vấn đề kiến thức, kĩ năng của mơn học mà qn đí ý
nghĩa giáo dục đạo đức cho các em, nó chỉ được quan tâm khi có thanh kiểm tra.
Khi tham gia các cuộc thi giáo viên giỏi các cấp.
- Cịn đối với giáo dục thơng qua việc tổ chức các hoạt động ngoài giờ lên
lớp chưa đúng đắn, cịn xem nhẹ, thậm chí cịn bị lạm dụng bởi các mơn học bắt
buộc khác, nếu có chăng chỉ diễn ra qua các hội thi và cũng chỉ được ở một số ít
những học sinh có khả năng, có năng khiếu được tham gia.Vì vậy việc học của
học sinh, việc đến trường của học sinh khơng cịn hứng thú, ham thích mà làm
cho các em có cảm nhận đến tường là phải học - là sự ''gò ép '' - '' nhồi nhét '' đã
xuất hiện. Tại sao vậy ? Bởi :
- Đa số giáo viên cho rằng : Hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp là
hoạt động được tiến hành ngoài trường ngoài lớp.
- Đa số giáo viên chưa có kĩ năng trong việc thực hịên các hoạt động giáo
dục ngoài giờ lên lớp cho học sinh và họ cho rằng thiếu những điều kiện cần
thiết ( thời gian, địa điểm, cơ sở vật chất ...).
*Trong quan hệ của giáo viên đối với học sinh, với đồng nghiệp, với công
việc, thể hiện trong cách ăn mặc, đi đứng, nói năng..thì đâu đó cịn chưa chuẩn

mực, ngôn ngữ giao tiếp của giáo viên với đồng nhiệp chưa chuẩn mực (đặc biệt
là những giáo viên cùng tuổi) trong khi ta bắt học sinh phải xưng hô: bạn, tơi, tớ,
cậu . thì các cơ lại xưng hơ với nhau là mày, tau, mi, vậy thì làm sao học sinh

Giáo dục đạo đức cho học sinh tiểu học

14


của chúng ta có thể'' nói lời hay làm việc tốt'' như khẩu hiệu được. Đó là cịn
chưa kể đến cịn một số câu từ ‘’ khơng hề mơ phạm ‘’ trong q trình giảng dạy
mà khơng ít bài báo đã lên án. Đâu đó có khơng ít thầy cơ giáo cũng chưa làm
tròn và nghĩa vụ người thầy của mình. Chính mặt này đã làm xuống cấp đạo đức
học sinh đối với nhà trường và xã hội.

III, Con đường và phương tiện giáo dục đạo đức cho học sinh tiểu h ọc.
Việc giáo dục đạo đức cho học sinh tiểu học được thực hiện qua các con
đường và phương tiện cơ bản sau:
3.1.Gi áo dục đạo đức thông qua day học các môn học ở tiểu học
Các môn học ở tiểu học đều có ý nghĩa giáo dục đạo đức cho các em. Giáo
viên cần nên khai thác triệt để khả năng tiềm tàng của nội dung các môn học để
giáo dục đạo đức, đặc biệt là các môn như Tiếng Việt, Tốn, Tự nhiên - xã hội…
Trong đó, mơn Tiếng Việt đóng vai trị quan trọng. Bởi lẽ , trong sách Tiếng việt
có nhiều bài văn, bài thơ phong phú và đa dạng núi về quê hương đất nước, núi
về con người lao động, về phép cư xử của các nhân vật khác nhau… và nhờ đó
mà cú thể giáo dục cho học sinh lòng yêu quê hương đất nước, yêu con người
lao động, các chuẩn mực đạo đức cụ thể…
Khi học các môn học khác nhau, ở học sinh sẽ hình thành các nột phẩm chất
đạo đức tích cực - cần cù, chăm chỉ, chính xác, yêu sự thật … Chúng cũng làm
cho các em có tâm hồn hơn, cuộc sống tinh thần phong phú hơn- điều này tác

động rất mạnh đến đời sống đạo đức của chúng.
Trong quá trình học tập, học sinh xây dựng mối quan hệ với nhau trên tinh
thần hợp tác đồng đội, tương trợ lẫn nhau,chia sẻ khó khăn, thuận lợi cho
nhau…
Ở tiểu học mơn đạo đức chiếm vị trí đặc biệt mà khơng mơn nào thay thế
được,bởi chức năng của nó là giáo dục đạo đức cho học sinh, với nhiệm vụ chủ
yếu là giúp các em nắm được những chuẩn mực đạo đức sơ đẳng trong các hoạt
động và các quan hệ ngày càng có hệ thống. Ngồi ra,nó cũng nh hng cho

Giáo dục đạo đức cho học sinh tiểu häc

15


các môn học khác về nội dung giáo dục đạo đức được tích hợp qua các mơn học
này, định hướng và tạo tiền đề cho các hoạt động giáo dục đạo đức nhằm giúp
học sinh tiểu học ôn luyện hành vi và thói quen hành vi đạo đức.
Như vậy, qua quá trình dạy học bằng việc giảng giải, qua kể chuyện, đàm
thoại… giáo viên tiểu học,chủ yếu là giúp các em hiểu rõ các chuẩn mục đó. Đó
chính là cơ sở để hình thành các phẩm chất đạo đức bền vững.
3.2.Giáo dục đạo đức thông qua việc tổ chức các hoạt động ngồi giờ lên
lớp
Thơng qua các hoạt động được tổ chức ngoài giờ lờn lớp( vui chơi, lao
động, cụng tác xã hội), học sinh chủ yếu được ôn luyện hành vi đạo đức và
những hành vi này được lặp đi lặp lại nhiều lần sẽ trở thành thói quen.
Hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp là sự nối tiếp hoạt động trên lớp, là
con đường thực hiện mục tiêu giáo dục. Hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp
được tổ chức trong nhà trường, ngồi nhà trường, nó chịu ảnh hưởng bởi nhiều
yếu tố khách quan, chủ quan như: Mục tiêu, nội dung, chương trình, đội ngũ tổ
chức, chủ thể hoạt động của lực lượng giáo dục và cả điều kiện tổ chức các hoạt

động giáo dục ngoài giờ lên lớp. Do đó khi lựa chọn các hình thức hoạt động
giáo dục ngoài giờ lên lớp cho học sinh cần phải tuân theo các nguyên tắc sau:
3.2.1 Bảo đảm tính mục tiêu
* Về kiến thức: Củng cố và khắc sâu những kiến thức về đạo đức, mở rộng
và nâng cao hiểu biết cho học sinh về các lĩnh vực của đời sống xã hội, làm
phong phú them vốn tri thức, kinh nghiệm hoạt động tập thể của học sinh
* Về kĩ năng: Học sinh củng cố và kiểm nghiệm những tri thức đạo đức đã
tiếp thu được trong giờ học, hình thành và phát triển ở học sinh các năng lực
như: năng lực hoạt động tập thể, năng lực tổ chức và điều khiển, năng lực kiểm
tra đánh giá, năng lực giao tiếp, ứng xử, năng lực thích ứng, năng lực hoạt động
chính trị xã hội, năng lực hợp tác.
* Về thái độ: Bồi dưỡng cho các em thái độ tự giác, tích cực tham gia các
hoạt động tập thể và hoạt động xã hội; hình thành tình cm chõn thnh, nim tin

Giáo dục đạo đức cho học sinh tiÓu häc

16


trong sáng với cuộc sống, với quê hương đất nước, có tháI độ tơn trọng mọi
người, ln quan tâm đến mơi trường sinh thái, có tinh thần bảo vệ hịa bình,
cơng lí và tinh thần ham học hỏi, giàu trí sáng tạo.
3.2.2 Bảo đảm phù hợp với đặc điểm lứa tuổi học sinh
Hoạt động giáo dục giáo dục ngoài giờ lên lớp có đặc trưng khác hoạt
động dạy học trên lớp là’’ Bộ mơn khơng chính thống’’ trong nhà trường nên có
những đặc điểm riêng, nội dung, hình thức đa dạng phong phú, đánh giá hoạt
động có định lượng, chưa nằm trong tiêu chí, khó huy động được người tham gia
hoạt động và tổ. Mặt khác để đảm bảo sự tự quản và phạt huy năng lực sáng tạo
của, tập thể lớp của các em học sinh trong các họat động cần chú ý đến đặc điểm
cá nhân của từng học sinh, nhất là khi phân công nhiệm vụ giáo dục và bồi

dưỡng.
Việc bảo đảm nguyên tắc này trong hoạt động giáo dục giáo dục ngồi
giờ lên lớp là khó khăn, phức tạp đòi hỏi giáo viên phải sâu sát đối với từng em,
biết lựa chọn nội dung, hình thức, phương pháp và phương tiện hoạt động phù
hợp với cá nhân, từng nhóm học sinh, chú ý khai thác được mặt mạnh sẽ thúc
đẩy các em có những hành vi đúng đắn, có những kĩ năng cần thiết trong cuộc
sống và hình thành những phẩm chất tốt đẹp của người học sinh.
3.2.3 Bảo đảm tình hiệu quả
Các hình thức phải được tổ chức theo đúng quy trình và mang lại hiệu
quả giáo dục cho học sinh tiểu học.
3.2.4 Bảo đảm tính khả thi
Ngun tắc này địi hỏi các hình thức luôn gắn với yêu cầu của giáo dục
của nhà trường của xã hội ở từng thời điểm, cao điểm , ln đổi mới đa dạng
hóa các hình thức phù hợp với hừng thú của học sinh ở bậc tiểu học để đảm bảo
tính thực tiễn và khả thi trong giáo dục. Các hình thức phải đảm bảo một số yêu
cầu sau:
-

Phù hợp với năng lực giáo viên.

-

Phù hợp với đặc im ca nhn thc ca hc sinh.

Giáo dục đạo đức cho häc sinh tiÓu häc

17


-


Phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh thực tế của địa phương.

-

Tính khả thi cao.

Như vậy, khi tham gia các hoạt động, học sinh tiểu học không những thực hiện
các công việc, các hoạt động, các hành vi khác nhau mà cũng thể hiện bản thân,
học hỏi người khác qua các mối quan hệ với bạn bè, với các tầng lớp nhân dân
trong xã hội, việc tổ chức các hoạt động đóng vai trị là phương tiện quan trọng
nhất của quá trình giáo dục đạo đức.
3.3.Giáo dục đạo đức thơng qua các hoạt động khác
Ngồi các con đường, phương tiện cơ bản trên, việc giáo dục đạo đức cho
học sinh tiểu học còn được thực hiện nhờ việc tổ chức cho học sinh chấp hành
các yêu cầu đạo đức theo nội quy dành cho học sinh tiểu học, điều lệ sao nhi
đồng, đội thiếu niên. Đây vừa là các yêu cầu đạo đức vừa là các quy phạm pháp
lí, quy định thái độ ứng xử của học sinh trong hoạt động hàng ngày( thể dục
buổi sáng, vệ sinh thân thể, đi học đúng giờ...), trong các quan hệ với những
người được tiếp xúc hàng ngày( những người trong gia đình, thầy cơ giáo, bạn
bè...), quy định các đức tính để đội viên nhi đồng, thiếu niên phấn đấu rèn luyện(
chăm chỉ, cần cù, khiêm tốn, đoàn kết...).
Đối với học sinh tiểu học, giáo viên có một uy tín tuyệt đối, được coi là tấm
gương mẫu mực, là mô thức đạo đức hoàn hảo mà hàng ngày các em lắng nghe,
theo dõi, ngắm soi và bắt chước. Vậy, khơng có cách nào khác là giáo viên tiểu
học phải có những phẩm chất dạo đức mẫu mực - lòng nhân từ, độ lượng đức hi
sinh, vị tha yêu lao động, yêu trẻ... Điều đó phải thể hiện trong quan hệ của giáo
viên với học sinh, với đồng nghiệp, với công việc, thể hiện trong cách ăn mặc, đi
đứng, nói năng... Đây đồng thời cũng là khó khăn và là thuận lơị của giáo viên
tiểu học trong việc giáo dục đạo đức cho học sinh.

Học sinh lĩnh hội tri thức đạo đức, tích lũy kinh nghiệm và thực hiện hành vi
đạo đức không chỉ ở trường mà chủ yếu là ở nhà, ngồi xã hội, thơng qua các
mối quan hệ khác nhau, qua việc tiếp cận các phương tiện truyền thông( tivi,
radiô, sách báo...). Vì vậy vai trị của gia đình và các tổ chức xã hội trong việc
giáo dục đạo đức cho học sinh tiểu học là rất lớn. Nhà trường cần thống nhất các
lực lượng giáo dục trên với vai trũ trung tõm ca mỡnh.

Giáo dục đạo đức cho học sinh tiÓu häc

18


ở nhà trường tiểu học, các con đường và phương tiện giáo dục đạo đức nêu
trên được vận dụng đồng bộ. Nhờ đó, các nét phẩm chất đạo đức được rèn luyện
thường xuyên, có hệ thống ở mọi lúc, mọi nơi, được cũng cố liên tục và chúng
trở nên bền vững, trở thành thói quen đạo đức tốt ở từng học sinh.

C, KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1.Kết luận
Hiện nay, việc nâng cao chất lượng và hiệu quả của việc giáo dục đạo đức
cho học sinh là một vấn đề đòi hỏi cấp thiết không chỉ riêng Việt Nam mà là vấn
đề chung của tồn thế giới, đó là điều kiện quan trọng để bảo vệ sự sống còn của
tương lai loài người.
Trong các con đường giáo dục đạo đức cho học sinh nếu chỉ dừng lại ở các
giờ lên lớp thì mục tiêu giáo dục đạo đức cho học sinh sẽ không được thực hiện
đầy đủ, trọn vẹn bởi kiến thức và kỹ năng trong khuôn khổ. Giáo dục đạo đức có
tính liên thơng và có nội dung cực kỳ phong phú, các phương pháp và hình thức
giáo dục cũng phong phú. Do vậy việc tổ chức các hoạt động giáo dục đạo đức
qua hoạt động ngoài giờ lên lớp là hết sức cần thiết và thuận lợi. Bên cạnh đó
cịn cần phải phối hợp với cơng tác đội với gia đình , xã hội

Tự việc nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn chúng tôi đề xuất một số con
đường vầ phương tiệngiáo dục đạo đức cho học sinh tiểu học như sau:
- Giáo dục đạo đức thông qua dạy học các môn học.
- Giáo dục đạo đức thơng qua việc tổ chức các hoạt động ngồi giờ lên lớp.
- Giáo dục đạo đức thông qua các con đường khác: điều lệ sao nhi đồng, điều
lệ thiếu niên; uy tín tuyệt đối của giáo viên đối với học sinh; vai trị của gia đình
và xã hội.
2. Kiến nghị

Gi¸o dục đạo đức cho học sinh tiểu học

19


- Ban giám hiệu của trường tiểu học đóng vai trò quan trọng trong việc động
viên, theo dõi và kiểm tra việc thực hiện giáo dục đạo đức của giáo viên và học
sinh, cần quan tâm đúng mức về việc giáo dục đạo đức trong nhà trường là một
nhiệm vụ quan trọng của nhà trường tiểu học hiện nay.
- Giáo viên phải không ngừng rèn luyện các phẩm chất đạo đức, phải luôn tự
học tự nghiên cứu nhằm trang bị những kiến thức đáp ứng những yêu càu mới
của công tác giáo dục đạo đức nói chung và việc tổ chức các hoạt động ngồi
giờ nói riêng.
- Kết hợp chặt chẽ giữa nhà trường, gia đình và xã hội trong cơng tác chăm
sóc và giáo dục học sinh.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Đạo đức học, NXBGD
2. Đạo Đức và phương pháp dạy học đạo đức ở trường tiểu học- Tài liệu bồi
dưỡng chu kì 1992- 1996 cho GVTH

3. Giáo dục đạo đức và phương pháp dạy học đạo đức ở trường tiểu học.
4. Đỗ Nguyên Hạnh - '' Một vài hình thức giáo dục học sinh ngồi giờ lên lớp
có hiệu quả'' Tạp chí NCGD(2-1998)
5. Lý luận giáo dục tiểu học - PTS. Đặng Vũ Hoạt - Nguyễn Hữu Hợp
6. Tâm lý học tiểu học ( dùng cho sinh viên ngành giáo dục tiểu học )
TS Phan Quốc Lâm - năm 2005.

Giáo dục đạo đức cho học sinh tiểu học

20



×