A. ĐẶT VẤN ĐỀ
Biển, đảo có vai trò rất quan trọng đối với sự phát triển và an ninh của các
nước ven biển như nước ta và của cả thế giới. Xu thế hiện nay của các nước có
biển là tìm cách “tiến ra biển” để khai thác lợi ích kinh tế của biển, đảo; thực
hiện chủ quyền và các quyền chủ quyền của mình.
Vì thực tế ở nước nào cũng vậy, do nguồn tài nguyên trên đất liền bị khai
thác triệt để nên ngày càng cạn kiệt khi đó biển, đảo tuy mênh mông, hoang sơ
song nó hiện chứa nguồn tài nguyên rất dồi dào. Biển rộng hơn và giàu hơn đất
liền. Vì vậy mà các nước có biển, nhất là các nước lớn đều đã và đang tìm mọi
cách vươn ra biển, tăng cường tiềm lực mọi mặt để chiếm biển, nắm chủ quyền
và tự do khai thác biển phục vụ việc phát triển đất nước bất chấp công ước quốc
tế về luật biển đã được cam kết và đã xảy ra tranh chấp.
Có nhiều nước thực thi đúng luật, tích cực góp phần bảo vệ hòa bình và công
lý trên biển; song cũng có nước ỷ thế nước to uy hiếp nước nhỏ, nước mạnh uy
hiếp nước yếu mà cụ thể ở dây là Trung Quốc với yêu sách “ Đường lưỡi bò hay
Đường chín khúc” thò xuống hầu hết Biển Đông ( chiếm 80% diện tích ), giải
quyết yêu sách bằng vũ lực tạo nên áp lực về chính trị gây hoang mang cho nhân
dân các quốc gia có biển trong đó có Việt Nam
Mấy chục năm nay trên biển Đông âm ỉ, có khi nổ ra tranh chấp về chủ
quyền biển, đảo. Thách thức to lớn nhất là tranh chấp chủ quyền trên các đảo
thuộc hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa. Song có thể nói hiện nay sự hiểu biết
pháp luật về biển, đảo và ý thức thực hiện pháp luật của nhân dân ta còn chưa
cao, chưa đầy đủ đặc biệt là thế hệ trẻ đang ngồi trên ghế nhà trường. Vì vậy mà
có người chưa quan tâm đúng mức đến sự nghiệp giữ gìn, phát triển biển, đảo.
Một số người lại nóng lòng thể hiện thái độ, cách nhìn nhận không phù hợp. Vì
vậy việc thông qua môn học Giáo dục Quốc phòng – An ninh mà bản thân tôi
đang trực tiếp giảng dạy cùng với các môn học có liên quan khác như Lịch sử,
Địa lý, Giáo dục Công dân, bản thân phải tìm hiểu thêm, nắm bắt được những
1
bằng chứng lịch sử liên quan đến biển đảo, Công ước quốc tế về luật biển năm
1982 và đặc biệt là Luật Biển Việt Nam chính thức có hiệu lực từ ngày
01/01/2013 gồm 7 chương 55 điều qua các phương tiện thông tin đại chúng bằng
các hoạt động giảng dạy chính khóa, ngoại khóa để giáo dục cho học sinh yên
tâm hơn hiểu biết sâu sắc hơn quyền và chủ quyền biển đảo Việt nam, từ đó xây
dựng cho các em niềm tin, tình yêu quê hương đất nước, ý thức trách nhiệm
công dân về bảo vệ đất nước, bảo vệ biển đảo trên tinh thần tôn trọng luật pháp
quốc tế và tuyên truyền đến mọi người dân hiểu về luật biển Việt nam, quyền,
quyền chủ quyền, quyền tài phán của quốc gia Việt nam về biển đảo.
Đó là cơ sở, là lý do tôi lựa chọn đề tài “ Giảng dạy và giáo dục cho học
sinh Trường THPT Ngọc Lặc hiểu biết thêm về quyền và chủ quyền Biển đảo
Việt Nam – Luật Biển Việt Nam ” để giảng dạy cho học sinh Trường THPT
Ngọc Lặc năm học 2012 – 2013 và các năm học tiếp theo.
B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I. Cơ sở lý luận của vấn đề:
Thời xa xưa con người chủ yếu chỉ hoạt động trên đất liền. Về sau do yêu cầu
của cuộc sống, nhất là nhờ sự phát triển khoa học-kỹ thuật, người ta dần dần
quen sống trên biển; ngày càng thực hiện nhiều sinh hoạt đi lại, đánh bắt hải sản,
nghiên cứu, khai thác tài nguyên Cách sinh hoạt của con người từng bước hình
thành những tập quán chung (gọi là tập quán quốc tế) và những thỏa thuận thành
văn giữa các nhà nước với nhau. Đó gọi chung là luật biển quốc tế.
Luật biển quốc tế từng bước phát triển, nhằm mục đích chủ yếu là phân chia
chủ quyền trên biển, việc sử dụng, khai thác biển, bảo vệ môi trường biển và
hợp tác giữa các quốc gia trong các lĩnh vực này. Nước ven biển luôn muốn mở
rộng chủ quyền của mình trên biển và các đảo; còn quốc gia không có biển, từ
xa đến thì muốn được tự do trên biển về các mặt đi lại, sử dụng, nghiên cứu,
thăm dò, khai thác Hai khuynh hướng này đối lập nhau.
2
* Những bằng chứng chứng minh tính hợp pháp về chủ quyền Biển đảo
Việt Nam
"Thời chúa Nguyễn Phúc Chu, tháng Tư năm Tân Mão (1711) đã điều động
quân lính và những người có trách nhiệm mang các phương tiện đo vẽ đi thuyền
ra “đo bãi cát vàng Trường Sa dài ngắn, rộng hẹp bao nhiêu” (Đại Nam Thực
lục, tập 1, trang 126). Sự kiện nổi bật nhất thời Gia Long trong việc khẳng định
chủ quyền của quốc gia trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là lễ thượng
cờ và cắm mốc chủ quyền trên hai quần đảo đó. Sự kiện trọng đại ấy được miêu
tả hết sức vắn tắt trong Đại Nam Thực lục, tập 1, trang 922 bằng một câu: “Sai
thủy quân và đội Hoàng Sa đi thuyền ra Hoàng Sa để thăm dò đường thủy”.
Mười bảy năm sau, năm 1833, giám mục Giăng Lu-i Ta-be (Jean Louis
Tarberd), người đã nhiều năm truyền giáo ở Đàng Trong (phần đất từ đèo Ngang
trở vào) trong một công trình của mình đã viết khá rõ về sự kiện trọng đại đó:
“Chúng tôi biết chắc là Hoàng đế Gia Long đã chú tâm thêm cái đóa hoa kỳ lạ
đó vào vương miện của ngài, vì vậy mà ngài xét thấy đúng lúc phải thân chinh
vượt biển để tiếp thâu quần đảo Hoàng Sa, và chính là vào năm 1816, ngài đã
long trọng treo tại đó lá cờ của xứ Đàng Trong (thời này xứ Đàng Trong được
hiểu là nước Việt Nam chúng ta)” (1).
Tiếp tục ý tưởng của vua cha, năm 1833, Minh Mệnh đã nói với Bộ Công
rằng: “Trong hải phận Quảng Ngãi, có một dải Hoàng Sa, xa trông trời nước
một màu không phân biệt được nông hay sâu. Gần đây thuyền buôn thường bị
hại. Nay nên dự bị thuyền bè đến sang năm sẽ phái người tới, dựng miếu, lập
bia, lại trồng nhiều cây cối. Ngày sau cây cối to xanh tốt, người dễ nhận biết,
ngõ hầu tránh được nạn mắc cạn. Đó cũng là việc lợi muôn đời” (sđd, tr.743).
Tháng Sáu năm Ất Mùi (1835), Bộ Công cho dựng đền thờ thần ở đảo Hoàng Sa
thuộc Quảng Ngãi. Đại Nam Thực lục có ghi: “Hoàng Sa ở hải phận Quảng
Ngãi có một chỗ nổi cồn cát trắng, cây cối xanh um, giữa cồn cát có giếng, phía
tây nam có miếu cổ có tấm bài khắc 4 chữ “Vạn lý ba bình” (muôn dặm sóng
êm), cồn Bạch Sa (cát trắng) chu vi 1070 trượng, tên cũ là núi Phật Tự, bờ đông,
3
tây, nam đều đá san hô thoai thoải uốn quanh mặt nước. Phía bắc, giáp với một
cồn toàn đá san hô, sừng sững nổi lên, chu vi 340 trượng, cao 1 trượng 3 thước
(1 trượng bằng 10 thước, 1 thước đo đất bằng 0,47m) ngang với cồn cát, gọi là
Bàn Than Thạch). Năm ngoái, vua toan dựng miếu lập bia ở chỗ ấy, bỗng vì
sóng gió không làm được. Đến đây mới sai Cai đội thủy quân là Phạm Văn
Nguyên đem lính thợ Giám thành cùng phu thuyền hai tỉnh Quảng Ngãi, Bình
Định, chuyên chở vật liệu đến dựng miếu (cách tòa miếu cổ 4 trượng). Bên tả
miếu dựng bia đá; phía trước miếu xây bình phong. Mười ngày làm xong rồi
về”… Từ khi nước ta bị Pháp đô hộ, chủ quyền ngoại giao đều nằm trong tay
Pháp. Lúc đó, họ thay mặt nước ta để ký kết, ban hành một số văn bản pháp luật
áp dụng cho nước ngoài. Thí dụ như một nghị định của chính phủ Pháp ban
hành năm 1926 nghiêm cấm nước ngoài vào đánh cá trong các lãnh hải của xứ
Đông Dương thuộc Pháp - phạm vi biển cách bờ ba hải lý (một hải lý bằng
1.852 m).
Pháp cũng ký một số hiệp ước song phương với Trung Hoa hoặc ra tuyên bố về
biển, đảo với các nước (1887, 1921, 1932 ). Những văn bản đó là “công pháp
quốc tế” ban đầu có liên quan đến biển, đảo của nước ta.
Sau 1945 đến 1975, Chính phủ Quốc gia Việt Nam (thời Bảo Đại) và Việt
Nam Cộng hòa (từ Ngô Đình Diệm đến Nguyễn Văn Thiệu) đều có ban hành
văn bản pháp luật, ra tuyên bố tuyên cáo với các nước về chủ quyền biển và việc
quản lý, sử dụng biển, đảo Việt Nam. Chính phủ Việt Nam Cộng hòa đã từng
tham gia Hội nghị quốc tế về Luật Biển lần thứ nhất vào năm 1958. Hội nghị
này đã thông qua bốn công ước quốc tế liên quan đến biển, đảo, việc đánh bắt cá
và bảo tồn tài nguyên sinh vật biển. Sau khi đất nước độc lập, thống nhất, nhà
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã tham gia Hội nghị quốc tế về Luật
Biển lần thứ ba (từ 1973 đến 1982). Việt Nam đã trở thành thành viên chính
thức của Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển (United Nations Convention
on the Law of the Sea) từ năm 1982.
4
Bên cạnh đó, nhà nước ta cũng đã ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp
luật quan trọng để điều chỉnh quan hệ biển, đảo. Như Tuyên bố ngày 12-5-1977
về lãnh hải, vùng tiếp giáp, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt
Nam; Tuyên bố ngày 12-11-1982 về đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh
hải Việt Nam; Luật Biên giới quốc gia ngày 17-6-2003; Nghị định số 30/CP
ngày 29-1-1980 về quy chế cho tàu thuyền nước ngoài hoạt động trên các vùng
biển Việt Nam; Bộ luật Hàng hải ngày 30-6-1990; Luật Dầu khí ngày 6-7-1993
v.v
Việt Nam ta là một nước nằm trên bờ biển Đông, ở tuyến hàng hải chủ yếu
thông thương giữa Ấn Độ Dương với Thái Bình Dương. Biển Đông của nước ta
và tám nước láng giềng: Malaysia, Indonesia, Philippines, Brunei, Singapore,
Thái Lan, Campuchia, Trung Quốc và vùng lãnh thổ Đài Loan đang chứa đựng
nhiều nguồn tài nguyên đa dạng, đặc biệt là dầu khí Biển, đảo nước ta có tiềm
năng tài nguyên rất đáng kể, phong phú và đa dạng, đặc biệt là tài nguyên sinh
vật (cá, tôm, san hô, đồi mồi, chim yến ); tài nguyên thực vật, tài nguyên
khoáng sản (dầu khí, than đá, quặng sắt, titan, cát thủy tinh, phân chim ); tài
nguyên giao thông- vận tải biển, tài nguyên du lịch Dầu khí với trữ lượng đã
thăm dò, khảo sát khoảng 3-4 tỷ m3 dầu quy đổi. Riêng về hải sản có tổng trữ
lượng khoảng 3-4 triệu tấn, khả năng cho phép khai thác 1,5-1,8 triệu tấn một
năm. Một nguồn lợi mà các nước trên thế giới đều khao khát.
Ở biển Đông, nước ta có khoảng 3.000 đảo phân phối không đều, chủ yếu tập
trung ở hai khu vực biển Bắc bộ và Nam bộ. Những đảo và quần đảo ven biển
như: Cô Tô, Cái Bầu (Quảng Ninh); Cát Bà, Bạch Long Vĩ (Hải Phòng); Hòn
Lớn, Hòn Tre (Khánh Hòa); Lý Sơn (Quảng Ngãi); Phú Quý (Bình Thuận),
Côn Sơn (Bà Rịa-Vũng Tàu); Phú Quốc, Thổ Chu, Nam Du (Kiên Giang)
Người dân Việt Nam có quyền tự hào về tổ quốc, thể hiện tình yêu quê hương
đất nước, bảo vệ chủ quyền thiêng liêng của tổ quốc mà từ ngàn xưa ông cha ta
đã gây dựng.
5
Đặc biệt có hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa nằm ngoài khơi biển phía
Đông, chạy dài từ khu vực tỉnh Quảng Trị, Thừa Thiên-Huế vào đến các tỉnh
Nam bộ, bao gồm nhiều đảo nhỏ, bãi cát ngầm, bãi đá, bãi san hô. Năm 1974,
Trung Quốc đã đưa quân đánh chiếm toàn bộ quần đảo Hoàng Sa; 1988, Trung
Quốc cùng với một số quốc gia có biển khu vực Đông Nam Á tiếp tục chiếm
một số đảo lớn của quần đảo Trường Sa đi trái với luật pháp quốc tế, Công ước
quốc tế về luật Biển năm 1982
Với Việt Nam công tác biển, đảo luôn được đặt dưới sự lãnh đạo và chỉ đạo
sát sao của Đảng, Nhà nước; luôn được sự quan tâm, ủng hộ của cán bộ, đảng
viên, chiến sĩ và nhân dân cả nước, kể cả đồng bào định cư ở nước ngoài; luôn
có sự phối hợp chặt chẽ của toàn bộ hệ thống chính trị. Chính vì vậy, mặc dù
tình hình biển Đông diễn biến hết sức phức tạp, nhưng công tác biển, đảo của ta
đã đạt được nhiều kết quả quan trọng, thể hiện:
- Khẳng định rõ chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán quốc gia
trên biển; giữ vững các vùng biển, đảo do ta quản lý; duy trì được hòa bình và
ổn định ở biển Đông.
- Các hoạt động kinh tế, đặc biệt là dầu khí và nghề cá trên biển Đông
vẫn được triển khai thường xuyên; lợi ích quốc gia được giữ vững.
- Giữ được cục diện quan hệ hữu nghị hợp tác với Trung Quốc và các
nước liên quan.
- Ta đã tuyên truyền để dư luận quốc tế ngày càng hiểu rõ hơn lập
trường đúng đắn, chính nghĩa của ta trên biển Đông; hiểu rõ tính phi lý trong
yêu sách sách “đường lưỡi bò” của Trung Quốc.
- Cơ bản tạo được sự đồng thuận trong xã hội, đa số cán bộ, đảng viên,
chiến sĩ, tri thức trẻ, học sinh và nhân dân tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng
và Nhà nước ta trong việc xử lý vấn đề biển Đông.
II. THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ.
1. Tính tích cực:
6
Diễn biến việc tranh chấp và giải quyết chủ quyền trên quần đảo Hoàng
Sa giữa Việt Nam và Trung Quốc và tranh chấp chủ quyền trên quần đảo
Trường Sa giữa Việt Nam, Trung Quốc, Malaysia, Philipin, Đài Loan và
Brunei
Theo các tài liệu lịch sử và các tài liệu pháp lý hiện có, có thể khẳng định các
nhà nước phong kiến Việt Nam đã chiếm hữu và làm chủ hai quần đảo Hoàng
Sa và Trường Sa hoà bình, thực sự và liên tục ít nhất từ thế kỷ thứ XVII, sau đó
chính quyền Đông Dương lại tiếp tục củng cố chủ quyền của Việt Nam trên hai
quần đảo này thông qua các hoạt động như thành lập chính quyền, cử lính ra đồn
trú, lập các trạm thông tin, dự báo khí tượng cũng như xây dựng các đèn biển
trên hai quần đảo. Cho đến tận đầu thế kỷ XX không có nước nào yêu sách chủ
quyền trên hai quần đảo đối với Việt Nam. Các bản đồ cổ của Trung Quốc cũng
chỉ thể hiện phạm vi lãnh thổ phía Nam đến đảo Hải Nam. Trải qua thời gian dài
với nhiều biến chuyển lịch sử, cùng với ý đồ mở mang lãnh thổ, năm 1956, lợi
dụng lúc Pháp rút khỏi Đông Dương, Trung Quốc đã dùng vũ lực chiếm phần
phía Đông của quần đảo Hoàng Sa và năm 1974 tiếp tục dùng lực lượng hải
quân và không quân đánh chiếm phần phía Tây của quần đảo.
Trên quần đảo Trường Sa, chúng ta đang thực hiện chủ quyền quốc gia và
quản lý hành chính trên 21 đảo, đá và bãi cạn nửa nổi nửa chìm. Thông qua sách
trắng các năm 1979, 1981 và 1989, Việt Nam đã thể hiện quan điểm trước sau
như một, khẳng định chủ quyền quốc gia trên hai quần đảo này, bên cạnh công
tác đàm phán ngoại giao, đấu tranh bảo vệ chủ quyền quốc gia bằng các biện
pháp hoà bình, chúng ta cũng tiếp tục củng cố vị trí của mình trên quần đảo
Trường Sa. Để giải quyết vấn đề chủ quyền, Việt Nam đã mở diễn đàn đàm
phán các vấn đề trên biển thực chất là giải quyết vấn đề chủ quyền trên quần đảo
Hoàng Sa và Trường Sa với Trung Quốc, đến nay đã đàm phán được 8 vòng.
Cùng với hoạt động đàm phán song phương, chúng ta kiên trì đấu tranh, khẳng
định chủ quyền quốc gia trên hai quần đảo tại tất cả các diễn đàn quốc tế có liên
quan và đồng thời tiếp tục hoàn thiện hồ sơ pháp lý lịch sử về chủ quyền của ta
7
trên hai quần đảo. Tháng 11/2002 tại Pnonh Penh (Campuchia), các nước
ASEAN và Trung Quốc đã ký kết Tuyên bố ứng xử trên Biển Đông (DOC),
được đánh giá là một bước tiến quan trọng, là cơ sở để duy trì ổn định khu vực
trong khi các bên tiếp tục tìm kiếm một giải pháp cơ bản và lâu dài giải quyết
các tranh chấp lãnh thổ trên Biển Đông. Một số đảo đá và bãi cạn khác thuộc
quần đảo Trường Sa đang bị một số nước và vùng lãnh thổ chiếm đóng trái
phép, các bên tranh chấp cũng đưa ra các lập luận, ban hành các văn bản pháp
luật để biện minh cho việc chiếm đóng này.
a. Trung Quốc: Trung Quốc yêu sách chủ quyền đối với cả hai quần đảo
bằng việc vẽ đường đứt khúc 9 đoạn trên Biển Đông, mà ta thường gọi là
"đường lưỡi bò" trên bản đồ Nam Hải chư đảo do Trung Hoa dân quốc xuất bản
năm 1947 và được CHND Trung Hoa in lại năm 1950, bao gồm cả hai quần đảo
Hoàng Sa, Trường Sa trong cái gọi là "biên giới trên biển" của Trung Quốc. Mặc
dù bị hầu hết các nước có yêu sách và lợi ích liên quan trong khu vực phản đối
nhưng qua việc theo dõi các động thái trên biển và trên các phương tiện tuyên
truyền của Trung Quốc, có thể thấy Trung Quốc ngày càng thể hiện rõ và từng
bước thực hiện yêu sách này. Trong thời gian gần đây Trung Quốc đã liên tục
ban hành nhiều văn bản pháp luật để cụ thể hoá các yêu sách của mình trên Biển
Đông. Hiện nay, Trung Quốc chiếm giữ 7 bãi ngầm thuộc quần đảo Trường Sa.
b. Philipin: Philipin công bố Sắc lệnh 1596 tháng 2/1979 về vùng Kalayaan,
theo đó hầu hết quần đảo Trường Sa (trừ đảo Trường Sa) là lãnh thổ của Philipin
và được sáp nhập vào tỉnh Palawan. Lập luận của Philipin về việc xác định vùng
Kalayaan là tính kế cận và quyền lợi an ninh quốc phòng của Philipin đối với
quần đảo này. Hiện nay, Philipin đang chiếm đóng 9 đảo, đá thuộc quần đảo
Trường Sa.
c. Malaysia: Ngày 02/12/1979, Malaysia xuất bản bản đồ qui định về phạm
vi lãnh hải và ranh giới thềm lục địa, theo đó một phần phía Nam quần đảo
Trường Sa thuộc chủ quyền và quyền chủ quyền của Malaysia. Hiện nay,
Malaysia đang chiếm giữ 5 đảo thuộc quần đảo Trường Sa.
8
d. Đài Loan: Ngày 21/5/1992, Đài Loan thông qua một đạo luật tuyên bố
chủ quyền và lãnh hải, theo đạo luật này toàn bộ quần đảo Trường Sa thuộc chủ
quyền của Đài Loan. Hiện nay, Đài Loan đang chiếm đóng trên đảo Ba Bình, là
đảo có diện tích lớn nhất trong quần đảo Trường Sa. Tháng 8/2003, Đài Loan đã
cho cắm cờ trên bãi Bàn Than (bãi đá san hô nửa nổi nửa chìm, rộng khoảng
400m, dài khoảng 200m thuộc quần đảo Trường Sa, nằm cách đảo Ba Bình
khoảng 4 km về phía Đông và cách đảo Sơn Ca khoảng 6,5 km về phía Tây) và
mới đây, ngày 23/3/2004, phía Đài Loan đã xây dựng một nhà cao chân trên bãi
này. Như vậy, đến nay Đài Loan đang chiếm giữ một đảo và một bãi cạn thuộc
quần đảo Trường Sa.
e. Brunei: Năm 1993, Brunei đưa ra Tuyên bố về ranh giới thềm lục địa 200
hải lý nhưng chưa đưa ra toạ độ cụ thể. Tuy nhiên, phần chồng lấn với Việt Nam
và Malaysia trên quần đảo Trường Sa tương đối nhỏ, không ảnh hưởng đáng kể
tới tranh chấp. Brunei cũng là nước duy nhất trong các bên yêu sách không
chiếm giữ vị trí nào trong quần đảo Trường Sa.
2. Phân định ranh giới các vùng biển theo Công ước của Liên hợp quốc
về Luật biển năm 1982
a. G:ải quyết vùng chồng lấn thềm lục địa với Malaysia
Giữa Việt Nam và Malaysia tồn tại một vùng chồng lấn biển và thềm rộng
khoảng 2.800 km
2
được hình thành bởi đường ranh giới thềm lục địa do chính
quyền Sài Gòn công bố năm 1971 và đường ranh giới thềm lục địa được
Malaysia thể hiện trên bản đồ xuất bản năm 1979. Ngày 05/6/1992, tại Kuala
Lumpur (Malaysia), hai nước đã ký thoả thuận hợp tác thăm dò khai thác chung
vùng chồng lấn, giao cho các công ty dầu khí của hai nước ký các dàn xếp
thương mại và tiến hành hợp tác thăm dò, khai thác tiềm năng dầu khí ở khu vực
này. Việc phân định vùng chồng lấn sẽ giải quyết sau. Hiện nay, hoạt động thăm
dò và khai thác dầu khí ở khu vực này đang tiến triển tốt.
b. Giải quyết vùng chồng lấn ba nước Việt Nam - Thái lan - Malaysia
9
Vùng khai thác chung giữa Thái Lan và Malaysia rộng khoảng 7.250 km
2
,
trong đó có khoảng 875 km
2
là vùng chồng lấn thềm lục địa ba nước Việt Nam -
Thái Lan - Malaysia. Ba nước đã thỏa thuận thông qua đàm phán, thương lượng
để giải quyết vấn đề này, trước mắt đã thoả thuận được một số nội dung chủ yếu
liên quan tới mô hình hợp tác và các vấn đề kỹ thuật.
c. Giải quyết phân định biên giới biển với Campuchia
Ngày 07/7/1982, Chính phủ hai nước Việt Nam - Campuchia đã ký Hiệp
định về vùng nước lịch sử, ngoài nội dung xác định vùng nước lịch sử giữa hai
nước trong Vịnh Thái Lan, Hiệp định cũng thoả thuận sẽ hoạch định đường biên
giới biển giữa hai nước vào thời điểm thích hợp. Hiện nay, hai nước đang tập
trung tiến hành đàm phán phân định biên giới trên đất liền, vấn đề biên giới trên
biển sẽ được tiếp tục đàm phán, giải quyết trong thời gian tới.
• Quan điểm Đảng và Nhà nước ta về vấn đề tranh chấp Biển đảo
Nhà nước ta đã có những chủ trương gì trong việc giải quyết tranh chấp
biển, đảo hiện nay ?
- Chủ trương của ta là giải quyết các tranh chấp ở biển Đông bằng biện pháp
hòa bình trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên Hợp quốc,
Công ước Liên Hợp quốc về Luật Biển năm 1982 (UNCLOS), Tuyên bố về cách
ứng xử của các bên ở biển Đông giữa các nước ASEAN và Trung Quốc năm
2002 (DOC), Luật Biển Việt Nam. Yêu cầu chiến lược của ta là bảo vệ vững
chắc độc lập, chủ quyền và lợi ích quốc gia; đồng thời giữ vững môi trường hòa
bình, ổn định để xây dựng và phát triển đất nước; giữ quan hệ hữu nghị hợp tác
với Trung Quốc, các nước ASEAN và các nước khác. Chủ trương cụ thể là:
1. Trong xử lý vấn đề biển Đông, cần giữ vững độc lập, tự chủ, gắn bảo
vệ chủ quyền lãnh thổ quốc gia với giữ vững môi trường hòa bình để phát triển
đất nước. Tranh thủ sự đồng tình ủng hộ rộng rãi của cộng đồng quốc tế.
2. Tiếp tục khẳng định chủ quyền đối với 2 quần đảo Hoàng Sa và
Trường Sa; kiên định bảo vệ vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa theo luật
pháp quốc tế; tăng cường thực hiện và bảo vệ hoạt động kinh tế biển, nhất là
10
hoạt động dầu khí và đánh bắt cá trong phạm vi 200 hải lý; bác bỏ yêu sách
“đường lưỡi bò” của Trung Quốc.
3. Duy trì nguyên trạng biển Đông; bảo vệ quyền đánh bắt cá và hoạt
động đánh bắt cá chính đáng của ngư dân ta trên biển Đông. Ta chủ động, tích
cực cùng các bên liên quan đàm phán tìm giải pháp cơ bản lâu dài mà các bên có
thể chấp nhận được đối với các khu vực tranh chấp.
4. Xử lý hài hòa mối quan hệ giữa bảo vệ chủ quyền lãnh thổ với giữ
vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước, coi trọng quan hệ hữu
nghị hợp tác Việt - Trung và các nước có liên quan, phấn đấu không để xảy ra
xung đột quân sự ở biển Đông; tránh để các vấn đề tranh chấp làm đổ vỡ quan
hệ giữa nước ta với Trung Quốc.
Phương châm chung là vận dụng tổng hợp các biện pháp chính trị, ngoại
giao, dư luận, pháp lý, quân sự trên tinh thần “dĩ bất biến, ứng vạn biến”, kiên trì
nguyên tắc, đồng thời xử lý các tình huống, các vấn đề cụ thể một cách bình
tĩnh, chủ động.
Những hoạt động thực thi để bảo vệ chủ quyền và lợi ích của Việt Nam ở
biển Đông
- Lập trường nhất quán của Đảng và Nhà nước ta là khẳng định chủ
quyền đối với 2 quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa; quyền chủ quyền và quyền tài
phán trong vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý và thềm lục địa theo quy định của
Công ước Liên Hợp quốc về Luật Biển năm 1982. Ta chủ động, tích cực triển
khai đồng bộ một loạt công tác nhằm tạo cơ sở vững chắc cho việc bảo vệ chủ
quyền và lợi ích của ta trên biển Đông, cụ thể:
1. Ban hành Chiến lược Biển Việt Nam đến năm 2020: Chiến lược Biển
Việt Nam thể hiện rõ quan điểm hợp tác quốc tế về biển, góp phần xây dựng
vùng biển hòa bình, hợp tác, hữu nghị, cùng phát triển trên cơ sở tôn trọng chủ
quyền, toàn vẹn lãnh thổ. Hợp tác quốc tế về biển phải nhằm phát huy tiềm
năng, thế mạnh của Việt Nam, khai thác biển có hiệu quả và phát triển bền vững
11
biển; trong đó chú ý đảm bảo an ninh chung và giải quyết những tranh chấp trên
biển.
2. Về pháp lý: Chúng ta đã xây dựng và trình Liên Hợp quốc báo cáo xác
định ranh giới ngoài thềm lục địa khu vực phía Bắc, đồng thời phối hợp với Ma-
lai-xi-a xây dựng và trình Liên Hợp quốc báo cáo xác định ranh giới ngoài thềm
lục địa phía Nam. Năm 2003, ban hành Luật Biên giới quốc gia; năm 2012, ban
hành Luật Biển Việt Nam.
3. Về quản lý hành chính: Đã triển khai thành lập huyện đảo Hoàng Sa
thuộc thành phố Đà Nẵng; huyện đảo Trường Sa thuộc tỉnh Khánh Hòa; trong
đó, có thị trấn Trường Sa và 2 xã Song Tử Tây, Sinh Tồn; hiện có nhiều hộ gia
đình sống; xây dựng nhà khách, Nhà tưởng niệm Bác Hồ, dựng tượng Quốc
công Tiết Chế Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn, xây dựng chùa…; triển
khai một số dự án quan trọng như nuôi trồng hải sản, chương trình năng lượng
sạch và hệ thống chiếu sáng ở các đảo trên huyện đảo Trường Sa; đã phủ sóng
truyền hình, đài phát thanh, điện thoại di động lên toàn bộ biển Đông. Nhiều
đoàn trong cả nước thường xuyên ra thăm hỏi, động viên cán bộ, chiến sĩ và
nhân dân đang sinh sống, làm việc trên quần đảo Trường Sa.
4. Về kinh tế: Các hoạt động về thăm dò, khai thác dầu khí của ta đã và
đang diễn ra bình thường, ta đang tiếp tục duy trì hợp tác với các tập đoàn dầu
khí lớn của Nga, Mỹ, Canada, Úc, Ấn Độ, Nhật, Hàn Quốc trên vùng đặc quyền
kinh tế 200 hải lý và thềm lục địa… Các ngành chức năng và các địa phương
cũng đã thực hiện nhiều biện pháp hỗ trợ đối với ngư dân khai thác trên biển.
Ngư dân ta tiếp tục đánh bắt hải sản ở khu vực đảo Hoàng Sa, Trường Sa; sản
lượng khai thác của khối tàu cá xa bờ chiếm 40% tổng sản lượng khai thác hải
sản của cả nước.
5. Về quốc phòng, an ninh: Thành lập lực lượng Cảnh sát Biển, Vùng II
Hải quân… Hải quân, Không quân thường xuyên được nâng cao năng lực phòng
thủ và tăng cường hoạt động tuần tra trong vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa
Việt Nam. Các lực lượng tuần tra, kiểm soát của bộ đội biên phòng, cảnh sát
12
biển thường xuyên triển khai các công việc để quản lý các hoạt động trên biển,
xua đuổi, xử lý hành chính các vụ việc tàu cá nước ngoài vi phạm vùng biển của
ta.
6. Về ngoại giao: Ta kiên trì đấu tranh có lý, có tình ở các cấp khác nhau,
song phương và đa phương, qua cả kênh chính thức và không chính thức; kết
hợp đấu tranh ngoại giao với đấu tranh dư luận và vận động quốc tế. Ta đã chủ
động vận động qua nhiều kênh, nhiều cấp khác nhau, kể cả cấp cao, làm rõ lập
trường đúng đắn của ta; phê phán yêu sách “đường lưỡi bò” phi lý của Trung
Quốc, ủng hộ thực hiện Tuyên bố về cách ứng xử của các bên ở biển Đông giữa
các nước ASEAN và Trung Quốc năm 2002 (DOC), tiến tới xây dựng Bộ Quy
tắc ứng xử của các bên ở biển Đông (COC) nhằm duy trì hòa bình, ổn định ở
biển Đông… tranh thủ được sự đồng tình, ủng hộ của cộng đồng quốc tế, tạo
thêm sức mạnh cho ta trong đấu tranh bảo vệ chủ quyền biển, đảo.
* Chúng ta cần thể hiện thái độ, hành động như thế nào để góp phần
xây dựng, phát triển và bảo vệ biển, đảo Việt Nam ?
- Tạo sự đồng thuận cao trong xã hội, mọi người nhận thức rõ giải quyết
vấn đề tranh chấp biển Đông là lâu dài và hết sức khó khăn, gian khổ, cần kiên
trì, bền bỉ, không thể nóng vội; cần phối hợp đồng bộ, tổng hợp, nhiều kênh,
nhiều biện pháp, tạo nên sức mạnh tổng hợp. Phấn đấu bằng mọi cách xử lý vấn
đề biển Đông bằng biện pháp hòa bình, tạo môi trường ổn định để phát triển đất
nước. Chúng ta kiên quyết đấu tranh bảo vệ chủ quyền biển, đảo, giữ vững
nguyên tắc, đồng thời linh hoạt, khôn khéo, xem xét vấn đề một cách khách
quan, cố gắng cùng tìm giải pháp các bên có thể chấp nhận được.
- Tiếp tục củng cố, tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh; thực hiện
chiến lược toàn dân tham gia bảo vệ chủ quyền biển, đảo. Tăng cường phối hợp
chặt chẽ, nhịp nhàng giữa các bộ, ngành Trung ương và các địa phương; tăng
cường công tác nghiên cứu dự báo, kịp thời đánh giá và đề xuất các biện pháp
13
xử lý tình hình và những diễn biến phức tạp ở biển Đông, không để bị động, bất
ngờ xảy ra.
- Với Trung Quốc, chúng ta tiếp tục thúc đẩy quan hệ hữu nghị, hợp tác
toàn diện; tăng cường xây dựng, củng cố lòng tin, tạo cơ chế đối thoại, giải
quyết tranh chấp trên biển bằng biện pháp hòa bình. Trong quan hệ với Trung
Quốc, ta kiên định nguyên tắc bảo vệ chủ quyền lãnh thổ biển, đảo của Tổ quốc,
nhưng ứng xử khôn khéo, tránh để rơi vào thế đối đầu trực tiếp về quân sự. Thực
tiễn cho thấy, nếu quan hệ Việt Nam - Trung Quốc tốt đẹp thì các tranh chấp dễ
giải quyết.
- Với thế giới, ta công khai, minh bạch hóa phạm vi chủ quyền, quyền
chủ quyền, lập trường, quan điểm chính nghĩa của ta trong vấn đề biển Đông để
tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ rộng rãi của các nước ASEAN và quốc tế đối với
ta; bác bỏ yêu sách sách “đường lưỡi bò” của Trung Quốc.
2. Tính tiêu cực
- Hiện nay sự hiểu biết pháp luật về biển, đảo và ý thức thực hiện pháp luật
của cán bộ, nhân dân ta còn yếu, chưa đầy đủ. Vì vậy mà có người chưa quan
tâm đúng mức đến sự nghiệp giữ gìn, phát triển biển, đảo. Một số người lại
nóng lòng thể hiện thái độ, cách nhìn nhận không phù hợp.
- Cũng nhân cơ hội này, nhiều thế lực phản động đã lợi dụng tình hình Biển
Đông để xuyên tạc chế độ và làm nhiều người hiểu sai về các chủ trương, chính
sách bảo vệ chủ quyền quốc gia của Đảng và Nhà nước ta.
- Một trong những hoạt động dễ bị các thế lực phản động lợi dụng chính là
những cuộc tụ tập, biểu tình, tuần hành tự phát phản đối Trung Quốc xâm phạm
chủ quyền biển, đảo của Việt Nam tại Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh trong thời
gian qua.
- Trong những ngày Chủ nhật từ đầu tháng 6 năm 2011 đến nay, trên địa bàn
TP Hà Nội, liên tiếp diễn ra các cuộc tụ tập, biểu tình, tuần hành tự phát phản
đối Trung Quốc xâm phạm chủ quyền biển, đảo của Việt Nam. Những ngày đầu,
14
các cuộc tụ tập, biểu tình, tuần hành tự phát, xuất phát từ tinh thần yêu nước và
tâm lý bức xúc của quần chúng nhân dân trước các vụ việc xảy ra đối với tàu cá
và tàu khai thác thăm dò dầu khí của Việt Nam.
- Những ngày gần đây, lợi dụng tình cảm yêu nước của nhân dân, các thế
lực chống đối Nhà nước Việt Nam ở trong nước và ngoài nước đã và đang kêu
gọi, kích động, hướng dẫn quần chúng biểu tình, tuần hành gây mất an ninh trật
tự ở Thủ đô.
- Những cuộc tụ tập, biểu tình, tuần hành tự phát đã gây ảnh hưởng xấu đến
trật tự an toàn xã hội, đến hình ảnh Thủ đô Hà Nội - Thành phố vì hòa bình; tạo
ra các yếu tố gây mất ổn định chính trị; đồng thời tác động tiêu cực tới việc thực
hiện đường lối, quan hệ đối ngoại của Đảng, Nhà nước ta.
- Một bộ phận quần chúng do thiếu thông tin, ngộ nhận tham gia biểu tình
tự phát, coi đó là thể hiện tinh thần yêu nước; trong khi số đối tượng chống
đối ở trong và ngoài nước đang ráo riết lợi dụng vấn đề trên để tiến hành hoạt
động chống phá Đảng, Nhà nước.
- Âm mưu, ý đồ của họ là chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc, kích động
hằn thù dân tộc, gây chia rẽ quan hệ Việt – Trung hòng lợi dụng để tập hợp lực
lượng, gây mất an ninh trật tự và ổn định chính trị đất nước.
3. Tính pháp lý
Luật biển của Nước CHXHCN Việt Nam ra đời để khẳng định chủ quyền Biển
đảo của quốc gia với cộng đồng quốc tế
Luật Biển Việt Nam bao gồm bảy chương và 55 điều: Có hiệu lực bắt đầu
từ ngày 01/ 01/ 2013
Chương I: Những quy định chung
Gồm có 7 điều quy định về phạm vi điều chỉnh, việc áp dụng pháp luật, giải
thích từ ngữ, nguyên tắc quản lý và bảo vệ biển, chính sách quản lý và bảo vệ
biển, hợp tác quốc tế về biển, quản lý nhà nước về biển.
15
a. Ðiều 1 của Luật Biển Việt Nam nêu rõ phạm vi điều chỉnh của luật là đường
cơ sở, nội thủy, lãnh hải, vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế, thềm
lục địa, các đảo, quần đảo Hoàng Sa, quần đảo Trường Sa và quần đảo khác
thuộc chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán quốc gia của Việt Nam; hoạt
động trong vùng biển Việt Nam; phát triển kinh tế biển, quản lý và bảo vệ biển,
đảo. Việc khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa
và Trường Sa trong luật là sự tiếp nối lập trường nhất quán của Việt Nam trong
vấn đề này, đã được nêu rõ trong Nghị quyết năm 1994 của Quốc hội Việt Nam
phê chuẩn Công ước Luật Biển năm 1982 và Luật Biên giới quốc gia năm 2003.
b. Về nguyên tắc và chính sách quản lý, bảo vệ biển, Luật Biển Việt Nam nêu rõ
quản lý và bảo vệ biển được thực hiện thống nhất theo quy định của pháp luật
Việt Nam, phù hợp với Hiến chương Liên hợp quốc và các điều ước quốc tế
khác mà nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên.
c. Luật Biển Việt Nam tiếp tục khẳng định chủ trương nhất quán của Nhà nước
ta là giải quyết các tranh chấp liên quan biển, đảo với các nước bằng các biện
pháp hòa bình, phù hợp Công ước Luật Biển năm 1982, pháp luật và thực tiễn
quốc tế. Nhà nước ta đẩy mạnh hợp tác quốc tế về biển với các nước, các tổ
chức quốc tế và khu vực, trong đó nêu nhiều lĩnh vực hợp tác cụ thể về biển và
đại dương.
d. Về cơ chế quản lý biển, quản lý biển là một công việc lớn và phức tạp, có liên
quan đến nhiều bộ, ngành và địa phương trong cả nước. Ðể bảo đảm nguyên tắc
quản lý biển thống nhất, đồng bộ và hiệu quả, Luật Biển Việt Nam quy định
Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về biển trong phạm vi cả nước; các bộ,
cơ quan ngang bộ, Ủy ban Nhân dân tỉnh, thành phố ven biển trực thuộc Trung
ương trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình thực hiện quản lý nhà nước
về biển.
Chương II: Vùng biển Việt Nam
16
Gồm có 14 điều quy định về việc xác định đường cơ sở, chế độ pháp lý của
các vùng biển thuộc chủ quyền của Việt Nam (nội thủy, lãnh hải) và các vùng
biển thuộc quyền chủ quyền của ta (vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền
kinh tế và thềm lục địa), đảo, quần đảo và chế độ pháp lý của đảo.
a. Về đường cơ sở, Luật Biển Việt Nam quy định đường cơ sở dùng để tính
chiều rộng lãnh hải Việt Nam là đường cơ sở thẳng đã được Chính phủ công bố.
Hiện nay ta đã có đường cơ sở từ đảo Cồn Cỏ đến đảo Thổ Chu. Một số khu vực
hiện nay chưa có đường cơ sở như Vịnh Bắc Bộ và các quần đảo Hoàng Sa,
Trường Sa thì Chính phủ sẽ xác định và công bố sau khi được Ủy ban Thường
vụ Quốc hội phê chuẩn.
b. Nhà nước ta thực hiện chủ quyền đối với nội thủy và lãnh hải Việt Nam. Nội
thủy của nước ta là vùng nước nằm giữa bờ biển và đường cơ sở. Lãnh hải của
nước ta rộng 12 hải lý kể từ đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải. Vùng
trời, đáy biển, lòng đất dưới đáy biển của nội thủy và lãnh hải cũng thuộc chủ
quyền của nước ta. Nhà nước ta thực hiện quyền chủ quyền và quyền tài phán
đối với vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa. Vùng đặc quyền kinh tế của
nước ta rộng 200 hải lý kể từ đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải.
Thềm lục địa của nước ta được xác định căn cứ vào phần kéo dài tự nhiên của
lãnh thổ đất ra đến mép ngoài cùng của rìa lục địa. Ở nơi mép ngoài cùng của rìa
lục địa chưa đến 200 hải lý thì phần thềm lục địa mở đến 200 hải lý. Ở nơi mép
ngoài cùng của rìa lục địa vượt quá 200 hải lý, thềm lục địa của ta được mở rộng
đến 350 hải lý theo các điều kiện và thủ tục Công ước Luật Biển năm 1982 quy
định. Nhà nước ta đã căn cứ vào quy định của Công ước, tiến hành khảo sát thực
tế đáy biển, xác định giới hạn thềm lục địa ở những khu vực mở rộng ra ngoài
200 hải lý. Năm 2009, Chính phủ đã gửi báo cáo về ranh giới thềm lục địa mở
rộng của Việt Nam ở hai khu vực cho Ủy ban Ranh giới thềm lục địa xem xét.
Phù hợp với Công ước Luật Biển năm 1982, Luật Biển Việt Nam quy định
tàu, thuyền nước ngoài được quyền đi qua không gây hại trong lãnh hải nước ta.
Tàu quân sự nước ngoài thông báo trước khi đi qua không gây hại trong lãnh hải
17
Việt Nam. Luật Biển Việt Nam cũng quy định quyền tự do hàng hải, quyền tự
do đặt dây cáp, ống dẫn ngầm và hoạt động sử dụng biển hợp pháp của các quốc
gia khác trong vùng đặc quyền kinh tế Việt Nam; cũng như quyền lắp đặt dây
cáp, ống dẫn ngầm trên thềm lục địa Việt Nam. Việc thực hiện các quyền và
hoạt động nói trên phải phù hợp Công ước Luật Biển 1982, các điều ước quốc tế
khác mà Việt Nam là thành viên và luật pháp Việt Nam về biển.
c. Ðối với các đảo, quần đảo, Luật Biển Việt Nam khẳng định Nhà nước ta thực
hiện chủ quyền trên các đảo, quần đảo Việt Nam. Phù hợp Ðiều 121 của Công
ước Luật Biển 1982, Luật Biển Việt Nam quy định đảo thích hợp cho đời sống
con người hoặc cho một đời sống kinh tế riêng thì có nội thủy, lãnh hải, vùng
tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa; còn đảo đá không
thích hợp cho đời sống con người hoặc cho một đời sống kinh tế riêng thì không
có vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa.
Chương III: Hoạt động trong vùng biển Việt Nam
Gồm có 20 điều quy định về nội hàm của việc đi qua không gây hại, nghĩa vụ
khi thực hiện quyền này, quy định tuyến hàng hải và phân luồng giao thông.
Luật Biển Việt Nam quy định rõ những hành vi mà tàu, thuyền nước ngoài
không được làm khi đi qua lãnh hải nước ta. Cụ thể là không được đe dọa hoặc
sử dụng vũ lực chống lại độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam;
đe dọa hoặc sử dụng vũ lực chống lại độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ
của quốc gia khác; thực hiện các hành vi trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp
luật quốc tế được quy định trong Hiến chương Liên hợp quốc; luyện tập hay
diễn tập với bất kỳ kiểu, loại vũ khí nào, dưới bất kỳ hình thức nào; thu thập
thông tin gây thiệt hại cho quốc phòng, an ninh của Việt Nam; tuyên truyền
nhằm gây hại đến quốc phòng, an ninh của Việt Nam; phóng đi, tiếp nhận hay
xếp phương tiện bay lên tàu thuyền; phóng đi, tiếp nhận hay xếp phương tiện
quân sự lên tàu, thuyền; bốc, dỡ hàng hóa, tiền bạc hay đưa người lên xuống tàu
thuyền trái với quy định của pháp luật Việt Nam về hải quan, thuế, y tế hoặc
18
xuất nhập cảnh; cố ý gây ô nhiễm nghiêm trọng môi trường biển, đánh bắt hải
sản trái phép; nghiên cứu, điều tra, thăm dò trái phép, v.v Tàu thuyền nước
ngoài phải tuân thủ quy định pháp luật Việt Nam liên quan đến an toàn hàng hải,
bảo vệ thiết bị và hệ thống bảo đảm hàng hải, đường dây cáp ngầm, bảo tồn tài
nguyên biển, giữ gìn môi trường biển.
Luật Biển Việt Nam cũng nêu rõ Chính phủ quy định công bố tuyến hàng hải
và phân luồng giao thông trong lãnh hải, khi cần thiết lập vùng cấm tạm thời
hoặc vùng hạn chế hoạt động trong lãnh hải Việt Nam. Luật Biển Việt Nam
cũng quy định tàu ngầm và các phương tiện đi ngầm khác khi ở trong nội thủy,
lãnh hải Việt Nam phải nổi trên mặt nước. Trong chương này, Luật Biển Việt
Nam cũng quy định về vấn đề tìm kiếm, cứu nạn, cứu hộ, về giữ gìn bảo vệ tài
nguyên và môi trường biển, về nghiên cứu khoa học biển; đồng thời nêu cụ thể
những hành vi bị cấm, như đe dọa chủ quyền, quốc phòng, an ninh Việt Nam;
khai thác tài nguyên, lắp đặt sử dụng thiết bị công trình, khoan đào, nghiên cứu
khoa học một cách trái phép; tàng trữ, sử dụng, mua bán trái phép vũ khí chất
nổ, chất độc hại, mua bán người, hoạt động cướp biển, phát sóng trái phép.
Chương IV: Phát triển kinh tế biển
Chương này có năm điều quy định các nguyên tắc phát triển biển, các ngành
kinh tế biển ưu tiên phát triển, vấn đề quy hoạch phát triển kinh tế biển, khuyến
khích, ưu đãi đầu tư phát triển kinh tế biển trên các đảo và hoạt động trên biển.
Các nguyên tắc phát triển kinh tế biển là phục vụ xây dựng và phát triển kinh
tế - xã hội của đất nước; gắn với sự nghiệp bảo vệ chủ quyền quốc gia, quốc
phòng, an ninh, trật tự an toàn trên biển; phù hợp với yêu cầu quản lý tài nguyên
và bảo vệ môi trường biển; gắn với phát triển kinh tế - xã hội của các địa
phương ven biển và hải đảo. Luật Biển Việt Nam quy định Nhà nước ưu tiên tập
trung phát triển các ngành kinh tế biển: tìm kiếm, thăm dò, khai thác, chế biến
dầu, khí và các loại tài nguyên, khoáng sản biển; vận tải biển, cảng biển, đóng
mới và sửa chữa tàu thuyền, phương tiện đi biển và các dịch vụ hàng hải khác;
19
du lịch biển và kinh tế đảo; khai thác, nuôi trồng, chế biến hải sản; phát triển,
nghiên cứu, ứng dụng và chuyển giao khoa học - công nghệ về khai thác và phát
triển kinh tế biển; xây dựng và phát triển nguồn nhân lực biển.
Luật Biển Việt Nam là luật cơ bản về biển của nước ta. Ngoài Luật Biển Việt
Nam, chúng ta đã có các luật chuyên ngành như Luật Dầu khí, Luật Thủy sản,
v.v Những nội dung cụ thể của các ngành kinh tế biển được điều chỉnh trong
các luật chuyên ngành.
Chương V: Tuần tra, kiểm soát trên biển
Chương này có ba điều quy định về lực lượng tuần tra, kiểm soát trên biển;
nhiệm vụ và phạm vi trách nhiệm tuần tra, kiểm soát trên biển.
Luật Biển Việt Nam quy định rõ các lực lượng có thẩm quyền tuần tra, kiểm
soát trên biển, gồm: Hải quân nhân dân, Cảnh sát biển, Bộ đội Biên phòng,
Công an Nhân dân, các đơn vị quân đội đóng trên các đảo, quần đảo, các lực
lượng tuần tra kiểm soát chuyên ngành hải quan, thủy sản, giao thông vận tải,
môi trường, y tế và kiểm dịch. Các lực lượng này hoạt động theo nhiệm vụ được
quy định cụ thể trong luật pháp Việt Nam và được trang bị cờ, sắc phục, phù
hiệu có dấu hiệu đặc trưng. Ngoài các lực lượng chuyên trách nêu trên, khi cần
thiết, các cơ quan có thẩm quyền sẽ huy động sự tham gia của các lực lượng bán
chuyên trách.
Chương VI: Xử lý vi phạm
Chương này có bốn điều quy định về dẫn giải và địa điểm xử lý vi phạm, biện
pháp bảo đảm tố tụng, xử lý vi phạm, biện pháp đối với đối tượng là người nước
ngoài nhằm đảm bảo sự phối hợp nhịp nhàng, đúng pháp luật giữa các cơ quan
có trách nhiệm xử lý vi phạm Luật Biển Việt Nam.
Chương VII: Ðiều khoản thi hành
20
Luật Biển Việt Nam có hiệu lực thi hành từ ngày 1/1/2013. Chính phủ sẽ ban
hành những quy định hướng dẫn thi hành các điều khoản được giao ở trong luật.
Việc thông qua Luật Biển Việt Nam là một hoạt động lập pháp quan trọng
nhằm hoàn thiện khuôn khổ pháp lý liên quan biển, đảo nước ta. Lần đầu tiên
nước ta có một văn bản luật quy định đầy đủ chế độ pháp lý các vùng biển, đảo
thuộc chủ quyền và quyền chủ quyền của Việt Nam theo đúng Công ước Luật
Biển năm 1982. Ðây là cơ sở pháp lý quan trọng trong việc quản lý, bảo vệ và
phát triển kinh tế biển, đảo của nước ta.
Với việc thông qua Luật Biển Việt Nam, chúng ta đã thực hiện nhiệm vụ mà
Quốc hội khóa IX đề ra là bổ sung quy định của luật pháp quốc gia phù hợp với
Công ước Luật Biển năm 1982, bảo đảm lợi ích của Việt Nam. Cùng với việc
khẳng định chủ trương giải quyết các tranh chấp biển, đảo bằng các biện pháp
hòa bình, Nhà nước ta đã chuyển một thông điệp quan trọng tới toàn thế giới:
Việt Nam là một thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế, tôn trọng
và tuân thủ luật pháp quốc tế, nhất là các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành
viên, trong đó có Công ước Luật Biển năm 1982, quyết tâm phấn đấu vì hòa
bình, ổn định, hợp tác và phát triển của khu vực và trên thế giới.
III. GIẢI PHÁP VÀ TỔ CHỨC THỰC HIỆN.
1. TỔ CHỨC GIẢNG DẠY CHÍNH KHÓA.
a. Về phía giáo viên:
- Triển khai đến toàn bộ giáo viên giảng dạy trực tiếp môn Giáo dục Quốc
phòng & An ninh thực hiện giảng dạy đầy đủ nội dung chương trình theo quy
định của Bộ GD&ĐT đối với 3 khối học 10, 11, 12.
- Đ/c Tổ trưởng chuyên môn tổ chức một buổi hội thảo công bố đề tài đến các
thành viên trong tổ và mời thêm đại diện Ban giám hiệu, Đoàn thanh niên, giáo
viên các tổ bộ môn Lịch sử, Địa lý, Giáo dục Công dân…cùng tham gia và đóng
góp, xây dựng ý kiến để đề tài được hoàn thiện và thực thi.
21
- Bố trí giảng dạy lồng ghép nội dung hiểu biết về Biển đảo cũng như giáo dục
cho học sinh hiểu biết thêm về thực trạng cũng như Luật Biển Việt Nam vừa
được ban hành và có hiệu lực từ ngày 01/01/2013 vào những tiết thực hành của
3 khối học mà do lý do thời tiết ( trời mưa ) không thể học ngoài trời được sau
đó tổ chức học bù lại khi điều kiện cho phép.
b. Về phía học sinh:
- Tích cực học tập, chuẩn bị trang phục, học cụ để tập luyện, và ghi chép bài
đầy đủ nội dung theo chương trình quy định.
- Nắm vững kỹ năng, kiến thức để từ đó trở thành những tuyên truyền viên tích
cực tuyên truyền những hiểu biết của mình về chủ quyền Biển đảo cũng như luật
Biển đến đông đảo quần chúng nhân dân nơi cư trú được rõ.
2. TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG NGOẠI KHÓA.
a. Tổ chức tuyên truyền rộng rãi đề tài đến tất cả giáo viên và học sinh trường
THPT Ngọc Lặc để mọi người cùng nắm được, từ đó phối kết hợp tổ chức các
hoạt động về Biển đảo
b. Phối hợp với Đoàn trường tổ chức thi “ RUNG CHUÔNG VÀNG ” chủ đề về
Biển đảo với nội dung kiến thức:
- Kiến thức Biển đảo Việt Nam.
- Công ước Quốc tế về luật Biển năm 1982.
- Luật Biển Việt Nam năm 2013.
c. Phối hợp với một số cơ quan, đơn vị đóng trên địa bàn huyện Ngọc Lặc tổ
chức các chương trình giao lưu văn nghệ “Gần lắm Trường Sa” hay “Nối vòng
tay biển”; viết thư cho bộ đội nơi đảo xa; sinh hoạt ngoại khóa với chủ đề “Tuần
lễ công dân biển” đã góp phần nuôi dưỡng tình yêu biển - đảo trong tâm hồn
mỗi học sinh.
d. Sưu tầm các video clip liên quan đến vấn đề Biển đảo mang tính tích cực có
nội dung giáo dục, tính pháp lý cao tuân thủ luật pháp quốc tế, phù hợp luật
pháp Việt Nam trình chiếu cho học sinh xem một cách rộng rãi, có tính chất
tuyên truyền.
22
e. Phát đề cương ôn tập, tìm hiểu cho học sinh 3 khối 10, 11, 12 nghiên cứu sau
đó viết bài thu hoạch hiểu biết về chủ quyền biển đảo Việt Nam.
f. Thành lập ban giáo khảo chấm các bài thu hoạch, công bố cơ cấu giải thưởng
mang tính động viên và trao giải thưởng vào sáng thứ 2 chào cờ.
IV. KIỂM NGHIỆM.
1. Giáo viên: Tổ chức tập huấn về kiến thức biển đảo cho toàn bộ giáo viên một
cách đại trà, đây là lực lượng nòng cốt trong việc tuyên truyền về chủ quyền
biển đảo Việt Nam sâu rộng và cụ thể đến mỗi đối tượng học sinh trong mỗi
vùng miền khác nhau.
- Đã có 86/ 91 cán bộ giáo viên là đoàn viên Công đoàn, Chi đoàn giáo viên,
Đoàn thanh niên trường THPT Ngọc Lặc tham gia học tập và tổ chức các hoạt
động, phong trào về Giáo dục hiểu biết về Biển đảo chiếm 94,50%, họ đã tỏ ra
rất hào hứng và nhận thức được ý thức trách nhiệm của bản thân một cách sâu
sắc hơn.
- 100% cán bộ GV tham gia xem đây là bài học hết sức bổ ích sau khi kết thúc
đợt hoạt động và đề nghị sang năm học tới tiếp tục tổ chức tuyên truyền thêm.
2. Học sinh: Đã góp phần nuôi dưỡng ý thức trách nhiệm công dân tình yêu,
Biển - Đảo trong tâm hồn mỗi học sinh, sẵn sàng đứng lên góp góp công sức của
mình bảo vệ và xây dựng quyền và quyền chủ quyền Biển đảo.
- Đã có 1.556/ 1.556 học sinh học tập và tham gia các phong trào do Giáo viên
lựa chọn đề tài này phối hợp với các tổ chức đoàn thể trong nhà trường tổ chức
thực hiện chiếm 100%.
23
C. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT
I. KẾT LUẬN.
- Thực tế hiện nay, đa số học sinh phổ thông đều còn thiếu kiến thức về biển đảo
và chủ quyền vùng biển Việt Nam. Với số lượng bài học về biển đảo còn hạn
chế trong chương trình môn GDQP & AN, Địa lí, Lịch sử… chưa thể giúp
học sinh có cái nhìn toàn diện và hiểu biết cụ thể về các vấn đề biển đảo
Việt Nam. Mặt khác, các bài học này chỉ nêu vài nét khái quát về vị trí địa
lý, tình hình phát triển kinh tế xã hội ở vùng biển chứ không nói lên được
giá trị lịch sử, kinh tế, chính trị… về Biển đảo để học sinh có thể hiểu biết
hơn từ đó các em mới ý thức trách nhiệm của bản thân trước vận mệnh của
đất nước, định hướng nghề nghiệp…cho nên khi đưa ra lý do chọn và triển
24
khai vận dụng đề tài này cho giáo viên và học sinh trường THPT Ngọc Lặc
thực hiện, bản thân thấy cũng hợp lý và được đồng nghiệp, học sinh đánh
giá cao và hưởng ứng nhiệt tình, đầy đủ.
- Thông qua giáo viên và học sinh đề tài có thể là công cụ để tuyên truyền
rộng rãi đến quần chúng nhân dân trên địa bàn huyện Ngọc Lặc hiểu biết
hơn về giá trị vật chất và tinh thần của Biển đảo, vững tin trước chủ
trương, đường lối, luật biển, chính sách ngoại giao của Đảng, nhà nước ta
về việc giải quyết các tranh chấp ở Biển đông với các nước trong khu vực
trên cơ sở hòa bình và tuân thủ luật pháp Quốc tế.
II. ĐỀ XUẤT
- Các Bộ Ngành có liên quan cần tổ chức nhiều lớp tập huấn về kiến thức biển
đảo cho toàn bộ giáo viên một cách đại trà, đây là lực lượng nòng cốt trong
việc tuyên truyền về chủ quyền biển đảo Việt Nam sâu rộng và cụ thể đến mỗi
đối tượng học sinh trong mỗi vùng miền khác nhau. Mỗi địa phương, đặc biệt là
các tỉnh/thành giáp biển đều chú trọng việc tuyên truyền thành tựu KT - CT -
XH với việc nhấn mạnh vai trò của kinh tế biển. Tuyên truyền, nhân rộng các
mô hình phát triển kinh tế biển hiệu quả.
- Xây dựng hệ thống phần mềm học tập về biển đảo, chủ quyền biển đảo, các
Công ước Liên hiệp Quốc về biển đảo, luật biển Việt Nam,… Tăng cường in ấn
các ấn phẩm, xuất bản nhiều sách viết và giới thiệu về biển đảo Việt Nam. Mở
các trung tâm triển lãm tranh ảnh về biển đảo. Giới thiệu các bộ phim, video,
phóng sự về biển đảo Việt Nam.
- Nếu có thay sách giáo khoa vào năm 2015 nên đưa thêm phần chủ quyên Biển
đảo Việt Nam vào sách giáo khoa để học sinh năm rõ kiến thức và hiểu rõ vấn
đề hơn như các quốc gia có Biển vẫn làm.
25