Tải bản đầy đủ (.docx) (19 trang)

Lý luận của V.I.Lênin về nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội – Vận dụng với việc phát triển kinh tế tại tỉnh hà giang

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (132.06 KB, 19 trang )

BÀI THU HOẠCH
(thay thế bài thi kết thúc môn)
Môn: Học thuyết của Lenin về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.

Câu hỏi: Lý luận của V.I.Lênin về nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội – Vận dụng với việc phát triển kinh tế tại
tỉnh hà giang

1


MỤC LỤC
TRANG
MỞ ĐẦU

3

NỘI DUNG

3

I- LÝ LUẬN CỦA LÊNIN VỀ KINH TẾ NHIỀU THÀNH PHẦN

3

II- QUAN ĐIỂM KINH TẾ NHIỀU THÀNH PHẦN TRONG
CHÍNH SÁCH KINH TẾ MỚI CỦA LÊNIN

5

1. Bối cảnh ra đời chính sách kinh tế mới



5

2. Kinh tế nhiều thành phần là trọng tâm trong chính sách kinh
tế mói của Lênin
III- ĐẢNG TA VẬN DỤNG KINH TẾ NHIỀU THÀNH PHẦN
TRONG CHÍNH SÁCH KINH TẾ MỚI ĐỂ TỪNG BƯỚC ỔN
ĐỊNH, PHÁT TRIỂN ĐẤT NƯỚC
IV- MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN ĐẶT RA
KHI VẬN DỤNG KINH TẾ NHIỀU THÀNH PHẦN TRONG
CHÍNH SÁCH KINH TẾ MỚI CỦA LÊNIN TRONG THỜI KỲ
QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở NƯỚC TA
V- PHÁT TRIỂN SẢN PHẨM HÀNG HÓA ĐẶC THÙ CHẤT
LƯỢNG CAO, NÂNG TẦM HOẠT ĐỘNG HỢP TÁC XÃ ĐỂ
PHÁT TRIỂN KINH TẾ HÀ GIANG

MỞ ĐẦU
2

7
12

13

15


Cho đến cuối những năm 80 của thế kỷ 20, về cơ bản trong nền kinh tế
nước ta sản xuất nhỏ vẫn còn là phổ biến, trạng thái kinh tế tự nhiên hiện vật, tự
cung, tự cấp còn chiến ưu thế. Xã hội Việt Nam về cơ bản vẫn dựa trên nền tảng

của văn minh nông nghiệp lúa nước, nông dân chiếm đại đa số. Vì vậy Việt Nam
vẫn là nước nghèo nàn, lạc hậu và kém phát triển, Do đó phát triển trở thành
nhiệm vụ, mục tiêu số 1 đối với toàn Đảng, toàn dân ta trong những bước đường
đi tới. Muốn vậy phải chuyển nền kinh tế quốc dân sang trạng thái của sự phát
triển, là phát triển nền kinh tế thị trường cùng với nó là thực hiện cơng cuộc
cơng nghiệp hố, hiện đại hố. Để làm được điều đó chúng ta cần phải phát triển
nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa là giải
pháp cơ bản để chuyển từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn ở nước ta hiện nay.
Chuyển nền kinh tế từ hoạt động theo cơ chế kế hoạch hố tập trung, hành
chính, quan liêu bao cấp sang phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần
vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của nhà nước, theo định hướng
xã hội chủ nghĩa là nội dung, bản chất và đặc điểm khái quát nhất đối với nền
kinh tế của nước ta trong hiện tại và trong tương lai để đẩy mạnh quá trình
chuyển dịch cơ cấu theo hướng cơng nghiệp hố hiện đại hố để huy động sức
mạnh của tồn dân vào việc khắc phục nguy cơ tụt hậu ngày càng xa, cần phải
phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ
nghĩa. Đó là chủ trương có tính chiến lược trong cơng cuộc xây dựng và phát
triển kinh tế xã hội của nước ta hiện nay mà Đảng và nhà nước ta đã xác định.
NỘI DUNG
I- LÝ LUẬN CỦA LÊNIN VỀ KINH TẾ NHIỀU THÀNH PHẦN
Là người lãnh đạo xây dựng nền kinh tế Xã hội chủ nghĩa ở nước Nga sau
Cách mạng Tháng Mười (1917), thời kỳ đầu, V.I.Lênin đã trung thành với các
chỉ dẫn của C.Mác và Ph.Ăngghen trong “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” thực
hiện quốc hữu hóa các xí nghiệp, tổ chức kinh doanh trong các lĩnh vực công
nghiệp, thương nghiệp, tài chính và đất đai, đồng thời áp dụng chế độ thu sản
phẩm để phân phối trực tiếp không qua mua bán. Những chính sách này đã triệt
tiêu động lực của những người nơng dân và làm đình trệ q trình trao đổi sản
phẩm trong tình hình đất nước kiệt quệ sau chiến tranh. Để cứu nguy và phục
hồi nền kinh tế bằng chính sức lực của nhân dân, V.I.Lênin đã đưa ra lý thuyết
về nền kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội từ

một nước đa số dân cư là tiểu nông. Những ngành kinh tế mà V.I.Lênin muốn
khơi phục nhanh chóng là nông nghiệp và thương nghiệp. Chỉ cần hai lĩnh vực
này hồi sinh như trước cách mạng đã có thể cứu người dân Nga khỏi chết đói.
Sau đó là những kỳ vọng của V.I.Lênin về đầu tư từ các nước tư bản phát triển
cũng như từ tư bản tư nhân trong nước nhằm bổ sung nguồn vốn, công nghệ và
phương thức tổ chức kinh doanh hiện đại cho lĩnh vực cơng nghiệp đang cịn
non yếu và kiệt quệ sau chiến tranh. Trong bối cảnh bị các nước Tư bản chủ
nghĩa bao vây, cấm vận, chống phá, Chính sách kinh tế mới của V.I.Lênin tuy
không thu hút được nhiều vốn đầu tư nước ngoài (FDI), nhưng đã tạo điều kiện
cho tư nhân trong nước phát triển. Dễ dàng hình dung được những áp lực mà
V.I.Lênin phải gánh chịu từ cả những người ủng hộ chế độ Chủ nghĩa xã hội và
3


từ những người muốn lật đổ chế độ Chủ nghĩa xã hội. Để tạo sự đồng thuận
trong Đảng cũng như trong nhân dân, V.I.Lênin đã luận chứng nhiều lần cho sự
cần thiết phải thực hiện Chính sách kinh tế mới (mà chính ơng gọi là bước lùi về
Chủ nghĩa tư bản, nhưng là bước cực kỳ cần thiết để có thể tiến bước thành công
lên Chủ nghĩa xã hội). Vũ khí để chế độ Chủ nghĩa xã hội khơng thể bị lật đổ
chính là Nhà nước Xơ viết được nhân dân tin tưởng và tiến hành kiểm tra, kiểm
soát để tư bản tư nhân không thể lái nền kinh tế quay trở về quỹ đạo Tư bản chủ
nghĩa. Một thành phần kinh tế tư bản tư nhân chịu sự chế định, kiểm tra, kiểm
soát của nhà nước Xã hội chủ nghĩa được V.I.Lênin đặt cho tên mới là chủ nghĩa
tư bản nhà nước. Thực tiễn phát triển kinh tế nước Nga những năm thực thi
Chính sách kinh tế mới cho thấy đường lối, chủ trương, sách lược của V.I.Lênin
là đúng đắn. Song, câu hỏi thời kỳ quá độ lên Xã hội chủ nghĩa ở nước Nga đến
khi nào kết thúc và nền kinh tế Xã hội chủ nghĩa sau khi kết thúc thời kỳ quá độ
là như thế nào thì V.I.Lênin chưa có điều kiện trả lời.
Những năm từ 1923 đến 1991, kinh tế nước Nga nói riêng, Liên bang Xơ
viết nói chung, đã gặt hái được nhiều thành cơng. Từ điểm xuất phát là một nước

Tư bản chủ nghĩa phát triển ở mức thấp, Nước Nga cùng với nhiều nước kém
phát triển khác trong Liên bang Xô viết đã trở thành một cường quốc đạt tới
trình độ cao trong nhiều lĩnh vực như năng lượng, công nghiệp, vũ trụ... Tuy
nhiên, những thành tựu đạt được chủ yếu do khai thác nguồn lực theo chiều rộng
và ở một mức độ lớn là hy sinh tiêu dùng của dân cư. Những nhược điểm của kế
hoạch tập trung cứng nhắc và kiểm soát chặt chẽ của nhà nước loại bỏ cơ chế thị
trường là một trong những nguyên nhân khiến Liên bang Xô viết hùng mạnh bị
suy yếu và tan rã.
Bản thân các nước tư bản phát triển cũng có sự điều chình theo hướng nhà
nước can thiệp nhiều hơn vào nền kinh tế, tăng tính xã hội của việc sử dụng tư
liệu sản xuất. Nếu như vào đầu thế kỷ XX, ngân sách nhà nước của hầu hết các
nước tư bản phát triển mới ở mức 10-15% GDP, thì đến cuối thế kỷ XX, nó đã
chiếm hơn 20% GDP. Ngồi chức năng cung cấp tài chính cho bộ máy nhà nước
ngày càng phình to do can thiệp vào nền kinh tế, ngân sách nhà nước cũng chi
những khoản lớn cho phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội và hỗ trợ thực
hiện an sinh xã hội. Nhiều nước ở châu Âu đã thành công trong sử dụng kế
hoạch nhà nước để tái thiết sau chiến tranh. Nhiều nước Tư bản chủ nghĩa ở
châu Á là kết quả công nghiệp hóa thành cơng có sự hỗ trợ mạnh mẽ của nhà
nước. Chính các nước tuyên bố thị trường tự do nhiều nhất như Anh và Mỹ, nhà
nước cũng buộc phải can thiệp để chống các cú sốc do suy thoái chu kỳ. Song
các nước Tư bản chủ nghĩa, ngay cả các nước đi đầu, vẫn chưa giải quyết được
các mâu thuẫn nội tại của xã hội tư bản như khủng hoảng, phân hóa giàu nghèo
và nhiều tệ nạn xã hội khác.
Có thể thấy, những phương pháp cải tạo theo cả hai hướng Xã hội chủ
nghĩa và Tư bản chủ nghĩa trong thế kỷ XX đều chưa mang lại kết quả mà lồi
người mong muốn. Chính vì thế, khơng chỉ các nước lựa chọn xu hướng Xã hội
chủ nghĩa phải cải cách, đổi mới để quay lại kinh tế thị trường, mà bản thân các
nước Tư bản chủ nghĩa cũng cải cách, đổi mới theo hướng tăng dần phạm vi can
4



thiệp của nhà nước vào nền kinh tế thị trường. Điểm chung của cả hai hướng cải
cách mang dấu ấn của thời đại quá độ lên Chủ nghĩa xã hội (với tư cách hình
thái kinh tế - xã hội tiên tiến hơn hình thái kinh tế Tư bản chủ nghĩa) là đều thừa
nhận kinh tế thị trường như là một môi trường, một điều kiện, một cơ chế điều
tiết hành vi của con người đáp ứng tốt nhất khát vọng giải phóng con người
trong lĩnh vực kinh tế. Đó là khát vọng tự do hành động, bình đẳng trong giao
dịch kinh tế và dân chủ trong quyết định. Tuy nhiên, điều kiện cần thiết để có
kinh tế thị trường là thừa nhận bằng hệ thống luật pháp sở hữu riêng của các chủ
thể kinh tế đối với tài sản thuộc về họ phân biệt với chủ thể không phải là chủ sở
hữu. Chỉ khi nào là người chủ sở hữu hợp pháp tài sản, chủ thể kinh tế mới có
thể mua, bán tài sản đó. Bản thân phạm trù “sở hữu” đã bao hàm quyền của
người chủ sở hữu đối với vật mà chủ thể khơng sở hữu khơng có. Về mặt lý
thuyết cũng như về mặt quy định của pháp luật quốc gia, có nhiều cách phân
định quyền của chủ sở hữu khác nhau. Song, tựu chung chủ sở hữu phải có ít
nhất các quyền sau: chiếm giữ (để khơng cho người khác sử dụng tài sản của
mình); sử dụng (khai thác giá trị sử dụng của tài sản và hưởng lợi từ sự sử dụng
đó); định đoạt tài sản trong quan hệ với người khác (đổi, cho, tặng, để thừa kế,
bán, phá hủy, cải tạo...). Bán tài sản chỉ là một quyền nhỏ của chủ sở hữu tài sản.
Nếu không là chủ sở hữu (hoặc không được chủ sở hữu ủy quyền), thì chủ thể
khơng có quyền bán tài sản. Nói cách khác, trong nền kinh tế thị trường hiện đại,
nhà nước phải bảo hộ quyền chính đáng của chủ sở hữu. Song, tùy loại tài sản,
quyền của chủ sở hữu có thể bị pháp luật thu hẹp nhân danh lợi ích chung. Ví
dụ, quyền của chủ sở hữu đất bị giới hạn về chiều cao, độ sâu, đồng thời phải
chia sẻ quyền sử dụng một phần cho những người chủ đất liền kề, quyền của chủ
sở hữu trí tuệ có thể bị pháp luật giới hạn trong một số năm...
Trong nền kinh tế thị trường hiện đại, các chủ thể kinh tế rất đa dạng gồm
thể nhân và pháp nhân. Mỗi pháp nhân lại có cơ chế thực thi quyền của chủ sở
hữu giữa các cá nhân có liên quan theo những cách đặc thù của mình. Ví dụ, sở
hữu của nhà nước là để phục vụ lợi quốc gia, địa phương, lĩnh vực. Sở hữu của

hiệp hội được sử dụng vì lợi ích chung của hội viên... Cơ chế thực thi quyền của
chủ sở hữu được ghi rõ trong điều lệ thành lập tổ chức và được phân cấp cho bộ
máy quản lý tổ chức.
II- QUAN ĐIỂM KINH TẾ NHIỀU THÀNH PHẦN TRONG CHÍNH
SÁCH KINH TẾ MỚI CỦA LÊNIN
1. Bối cảnh ra đời chính sách kinh tế mới
Sinh thời, cả C.Mác, Ph.Ăngghen và V.I.Lênin đã nhiều lần nhấn mạnh
rằng, chủ nghĩa xã hội trước hết là sản phẩm khách quan của chủ nghĩa tư bản và
điều đó tất yếu địi hỏi những người cộng sản, nhân dân lao động cùng với nhà
nước kiểu mới của mình phải biết tiếp thu, kế thừa tất cả các giá trị tiến bộ được
tạo ra bởi chủ nghĩa tư bản để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Tư tưởng
của V.I.Lênin về một kết cấu kinh tế quá độ với sự đan xen giữa các hình thức sở
hữu, các thành phần kinh tế, các giai cấp vô sản, tư sản và tiểu tư sản thực chất
đã được nêu ra từ năm 1918. Chính sách kinh tế mới, là sau bước thử nghiệm
xây dựng chủ nghĩa xã hội bằng “con đường trực tiếp” không thành công. Chúng
5


ta đều biết, thời kỳ sau Cách mạng Tháng Mười, nước Nga Xô-viết đã phải trải
qua một chặng đường phát triển đầy mâu thuẫn và phức tạp đan xen. Với chính
sách nhiều thành phần kinh tế của mình, Lênin đã xác định thành phần kinh tế
quan trọng để từ đó coi nó như “chiếc cầu nhỏ, xuyên qua chủ nghĩa tư bản đế
lên chủ nghĩa xã hội”. Tháng 2 năm 1921, V.LLênin đã xác định nhiệm vụ cho
nước Nga Xô-viết như sau: “Trong một số vấn đề kinh tế, chúng ta cần rút lui về
những vị trí của chủ nghĩa tư bản nhà nước”. “Chủ nghĩa tư bản nhà nước” mà
V.I.Lênin nói tới ở đây là chủ nghĩa tư bản nhà nước trong thời kỳ quá độ tiến
lên chủ nghĩa xã hội ở nước Nga. Nếu như trong những năm đó, đơi khi
V.I.Lênin có nói tới “Chủ nghĩa cộng sản”, thì điều đó chỉ có nghĩa là ơng nói nó
xuất hiện ở giai đoạn đầu của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa. Bởi
vì, chủ nghĩa cộng sản trọn vẹn, chín muồi là sự nghiệp của một tương lai lâu

dài. Chính sách kinh tế mới được xem là khâu chính của thời kỳ quá độ cũng là
đối sách của V.I.Lênin do hoàn cảnh khách quan trong nước những năm 1920 1921 tạo ra. Vì vậy, để hiểu rõ thực chất chính sách kinh tế mới của V.I.Lênin,
trước tiên cần phải xem xét tình trạng của nước Nga Xô-viết thời kỳ sau nội
chiến (1920).
Như mọi người đều biết, tình trạng kinh tế của nước Nga Xơ-viết sau nội
chiến vô cùng tồi tệ: “Hậu quả của nội chiến đạt tới mức độ khổng lồ", tình
trạng phân tán và tản mạn của những người tiểu sản xuất sự nghèo đói, vơ văn
hố và mù chữ của họ, mối liên hệ trao đổi hàng hóa giữa thành thị và nơng thôn
bị ngừng trệ. Nội chiến những nãm 1918 - 1920 làm khánh kiệt đất nước, cản trở
công việc tái thiết lực lượng sản xuất vốn đã bị tàn phá nặng nề. Thêm vào đó là
nạn mất mùa năm 1920, nạn dịch súc vật; vì vậy tăng thêm những vùng bị đói,
việc đó lại càng cản trở việc khồi phục giao thơng và cơng nghiệp.
Theo đà ngày càng suy thối của tình trạng kinh tế đất nước, tình thế
chính trị cũng tiếp tục trầm trọng hơn. Khá phổ biến là sự dao động về chính trị
của người tiểu sản xuất. Cuộc nổi loạn ở Crônstát và cuộc khỏi nghĩa của nông
dân ở vùng Tambốp đã thể hiện một cách đặc trưng cho sự dao động của tầng
lớp tiểu tư sản và tính tự phát của nơng dân nói chung. Những sự kiện diễn ra
vào mùa xuân năm 1921 chúng tỏ Đảng xã hội chủ nghĩa cách mạng và những
người mensêvích muốn thực hiện ‘Chuyển giao chính quyền" cho những phần tử
tư bản chủ nghĩa. Nguyên nhân làm nảy sinh tình trạng này đã được V.LLênin
chỉ rõ rằng, đó là do ‘Chúng tôi đã tiến quá xa trong cuộc tấn công về mặt kinh
tế ... Chúng tôi chưa đủ sức để chuvển trực tiếp sang những hình thức thuần túy
xã hội chủ nghĩa sang việc phân phối thuần túy xã hội chủ nghĩa; và nếu chúng
tơi lại tỏ ra khơng có khả năng lùi bước, để chỉ đóng khung trong những nhiệm
vụ dễ hơn mà thơi, thì có lẽ chúng tơi đã bị nguy cơ diệt vong rồi". V.I.Lênin
muốn nói ràng, nếu như “chủ nghĩa cộng sản thời chiến" trước đây được rất
nhiều người trong Đảng hiểu như là một chính sách cần phải được tiếp tục trong
chặng đường tiếp theo của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, thì thực tế đã cho
thấy, sau chiến tranh, không thể tiếp tục con đường đó, bởi nó đối lập Đảng với
quần chúng nhân dân, công nhân với nông dân và chỉ làm trầm trọng thêm nền

kinh tế vốn đã hoang tàn của đất nước.
6


2. Kinh tế nhiều thành phần là trọng tâm trong chính sách kinh tế
mói của Lênin
Tháng 2 năm 1921, tại Hội nghị lần thứ XI, Đảng Cộng sản Nga đã nhất
trí thơng qua chính sách kinh tế mới. Đảng đã quyết định áp dụng ở nước Nga
Xô viết những biện pháp khẩn cấp, kiên quyết nhằm cải thiện tình cảnh của
nông dân và phát triển lực lượng sản xuất ở nơng thơn.
Qua nhiều bài viết và nói của V.LLênin, chứng ta thấy rõ lúc đó ơng đã
thay đổi quan điểm của mình về các thành phần kinh tế trong nước và sự tác
động qua lại lẫn nhau của chúng, về vai trò của giai cấp tư sản mới, và nhất là về
vai trò của hợp tác xã và quan hệ thị trường, cần nhấn mạnh rằng, những quan
điểm đó cịn tiếp tục thay đổi trong những tác phẩm cuối cùng của V.I.Lênin.
Đối với ơng, việc thay đổi đó là hồn tồn tự nhiên. Ơng ln vận dụng phương
pháp của phép biện chứng duy vật để giải quyết những mâu thuẫn mới nảy sinh
và phát triển. Ồng chỉ rõ rằng, khi tình hình đã thay đổi thì khơng thể áp dụng
những phương pháp cũ. Rằng, chúng ta không tránh khỏi sai lầm khi vẫn duy trì
tình trạng cả xã hội chỉ là một văn phòng và một nhà máy cùng lao động như
nhau, hưởng cùng một mức lương. Vì vậy, sau nội chiến, ông đã kịp thời thay
đổi chủ trương, chuyển từ cái gọi là “chủ nghĩa cộng sản thời chiến’' sang chính
sách kinh tế mới.
V.I.Lênin đã rút ra kết luận là: Trong điều kiện thực tế của nước Nga, giai
cấp vô sản đã giảm nhiều sau hai cuộc chiến tranh lại vừa mới giành chính
quyền về tay, họ khơng có kinh nghiệm quản lý và do vậy, khơng có khả năng
khẳng định sở hữu xã hội đối với tất cả các tư liệu sản xuất của xã hội. Để phát
triển lực lượng sản xuất trong điều kiện mới hình thành, cần phải kiên quyết duy
trì nền kinh tế nhiều thành phần. Điều đó có nghĩa là, ngồi phương thức sản
xuất xã hội chủ nghĩa mới chi phôi thai và về ngun tắc, được cơng nhận là có

vai trị chủ đạo, cần phải cho phép tồn tại những phương thức sản xuất khác và
hơn nữa cần phải phát triển ở mức độ nhất định một số thành phần kinh tế khác.
Trong khi vận dụng chính sách kinh tế mới, V.LLênin đã dùng từ “quá độ” để
chỉ rõ trong nền kinh tế của nước Nga khi đó “có những thành phần, những bộ
phận, những mảnh của chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội”.
Nền kinh tế nhiều thành phần là nét đặc trưng của thời kỳ quá độ. Đầu thế
kỷ XX, ở nước Nga khi đó có những thành phần kinh tế sau đây:
- Kinh tế nông dân kiểu gia trưởng, nghĩa là một phần lớn có tính chất tự nhiên
- Sản xuất hàng hố nhỏ (trong đó bao gồm đại đa số nông dân bán lúa mỳ)
- Chủ nghĩa tư bản tư nhân
- Chủ nghĩa tư bản nhà nước
- Chủ nghĩa xã hội.
Những thành phần kinh tế trên phản ánh đúng thực tiễn kinh tế của nước
Nga Xô Viết thời đó và được sắp xếp theo trình tự từ thấp đến cao phù hợp với
quá trình lịch sử tự nhiên của sự phát triển lực lượng sản xuất.

7


Thành phần kinh tế nông dân kiểu gia trưởng mang nặng tính chất tự
cung, tự cấp chủ yếu hướng vào giá trị sử dụng, chỉ có sản phẩm thừa ra mới
mang đi trao đổi. Nhưng dần dần lưu thông hàng hóa thúc đấy phân cơng lao
động xã hội, tác động vào sản xuất làm cho sản xuất từng bước hướng vào trao
đổi hơn là tiêu dùng trực tiếp, khiến cho thành phần kinh tế này tan rã, chuyển
thành sản xuất hàng hóa nhỏ.
Thành phần sản xuất hàng hóa nhỏ: Sản xuất hàng hóa nhỏ vận động theo
cơng thức H-T-H, mục đích cuối cùng vẫn là giá trị sử dụng. Thành phần này
bao gồm nông dân, thợ thủ công và những người làm dịch vụ cá thể, nhưng ở
một nước tiểu nơng thì nơng dân chiếm đại đa số.
V.I. Lênin nhắc lại luận điểm của Ph.Ăngghen rằng, chúng ta nhìn thấy

trước, tiểu nông không tránh khỏi bị tiêu vong, nhưng điều đó tuyệt nhiên khơng
u cầu chúng ta đẩy mạnh sự tiêu vong ấy. Khi chúng ta nắm được chính
quyền, chúng ta sẽ không nghĩ đến việc dùng bạo lực để tiêu diệt tiểu nông mà
phải liên minh với nông dân, kể cả trung nông, Nhiệm vụ của chúng ta là hướng
nền sản xuất cả thế và sở hữu cá thể của họ vào con đưịng tập thể, nhưng khơng
phải bằng cách cưỡng ép mà bằng cách nêu gương cho họ thấy và bằng cách
đem lại cho họ sự giứp đỡ xã hội để họ thực hiện việc ấy. Phải sẵn sàng cung
cấp cho họ những gì mà chính quyền Xơ Viết có thể, để nâng cao lực lượng sản
xuất của họ, cải thiện đời sống của họ, bảo vệ lợi ích của họ, đồng thời phải đấu
tranh chống lại tính tự phát vơ chính phủ của họ.
Nếu khơng đi theo con đường hợp tác thì sản xuất hàng hóa nhỏ phát
triển, dưới tác động của quv luật giá trị và cạnh tranh, sẽ phân hóa hai cực: một
số ít người giàu lên trở thành những nhà tư bản, đa số người bị phá sản trở thành
công nhân làm thuê, và ra đời sản xuất hàng hóa lớn tư bản chủ nghĩa, tức là chủ
nghĩa tư bản tư nhân.
Trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản C. Mác đã nhấn mạnh: Sự phát
triển của cơng nghiệp đã xóa bỏ và hàng ngày vẫn tiếp tục xóa bỏ sở hữu của
những người tiểu tư sản, của tiểu nông. Trong xã hội tư sản, chế độ tư hữu đã bị
xóa bỏ đối với chín phần mười số thành viên xã hội.
Thành phần kinh tế tư bản tư nhân (chủ nghĩa tư bản tư nhân), vận động
theo cơng thức T-H-T, nhằm mục đích thu lợi nhuận. Toàn bộ các yếu tố đầu vào
và đầu ra của sản xuất đều phải thông qua thị trường. Thành phần kinh tế này
dựa trên quan hệ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất và sử dụng
sức lao động làm thuê. Nhà tư bản, với tư cách là chủ sở hữu tư bản, sẽ chiếm
đoạt giá trị thơng dư, cịn cơng nhân làm th, với tư cách là chủ sở hữu sức lao
động, chỉ nhận được tiền cơng.
Tuy cịn quan hệ bóc lột nhưng chủ nghĩa tư bản tiến bộ hơn sản xuất nhỏ.
Vì chúng ta chưa có điều kiện để chuyến trực tiếp từ nền tiểu sản xuất lên chủ
nghĩa xã hội, trong một mức độ nào đó, chủ nghĩa tư bản là khơng thể tránh
khỏi, nó là sản vật tự nhiên của nền tiểu sản xuất và trao đổi. Bởi vậy, chúng ta

phải lợi dụng chủ nghĩa tư bản (nhất là bằng cách hướng nó vào con đường chủ
nghĩa tư bản Nhà nước) làm mắt xích trung gian giữa nền tiểu sản xuất và chủ
8


nghĩa xã hội, để tăng lực lượng sản xuất lên. Với ý nghĩa ấy, chủ nghĩa tư bản tư
nhân đóng vai trò trợ thủ cho chủ nghĩa xã hội. Điều đó khơng có gì là ngược
đời mà là một sự thật kinh tế hồn tồn khơng thể chối cãi được.
Trong một nước mà tiểu nơng chiếm ưu thế hễ có trao đổi thì sự phát triển
của nền kinh tế nhỏ là một sự phát triển tiểu tư sản, một sự phát triển tư bản chủ
nghĩa. Đó là một chân lý không thể chối cãi được, một chân lý sơ đẳng của kinh
tế chính trị, đã được kinh nghiệm hàng ngày và sự quan sát của ngay cả những
người bình thường xác nhận, nhưng khơng thể ngăn cấm. Chính sách ngăn cấm
là một sự dại dột và tự sát đối với đảng nào muốn áp dụng nó. Dại dột, vì về
phương diện kinh tế, chính sách ấy là khơng thể nào thực hiện được; tự sát, vì
những Đảng nào định thi hành một chính sách như thế nhất định sẽ bị phá sản.
Bởi vậy, khơng nên tìm cách ngăn cấm hay chặn đứng sự phát triển của chủ
nghĩa tư bản tư nhân mà khuyến khích nó phát triển và hướng nó vào con đường
chủ nghĩa tư bản nhà nước và tạo điều kiện cần thiết để đảm bảo sự chuyển biến
từ chủ nghĩa tư bản nhà nước sang chủ nghĩa xã hội trong tương lai.
Thành phần kinh tế tư bản nhà nước
Chủ nghĩa tư bản nhà nước theo nghĩa rộng là sự dung hợp giữa nhà nước
với các doanh nghiệp tư bản. Chủ nghĩa tư bản nhà nước bao gồm nhiều hình
thức, V.L. Lênin đã kể ra những hình thức sau:
Chế độ tơ nhượng: Đó là một giao kèo giữa chính quyền Xô Viết với nhà
tư bản. Người nhận tô nhượng là nhà tư bản. Họ kinh doanh theo phương thức tư
bản chủ nghĩa để thu lợi nhuận, lợi nhuận siêu ngạch hoặc để có được loại
ngun liệu mà họ khơng thể tìm được hoặc khó tìm được bằng cách khác.
Chính quyền Xơ Viết cũng được lợi vì lực lượng sản xuất phát triển, tăng cường
đại sản xuất tạo việc làm, cải thiện đời sống của công nhân và nông dân. Dĩ

nhiên phải có sự hy sinh vì phải thả cho nhà tư bản hàng chục triệu pút sản phấm
quý báu. Nhưng chúng ta biết đích xác cái lợi và cái hại, biết rõ nghĩa vụ và
quyền hạn của chúng ta, biết rõ thời hạn giao tô nhượng. Sau này, chuyển từ chế
độ tô nhượng lên chủ nghĩa xã hội là chuyển từ một hình thức đại sản xuất này
sang một hình thức đại sản xuất khác, thuận lợi hơn là chuyển từ sản xuất nhỏ
lên sản xuất lớn. Chính sách tô nhượng một khi thắng lợi sẽ đưa lại cho chúng ta
một số xí nghiệp kiểu mẫu ngang trình độ của chủ nghĩa tư bản hiện đại.
Hợp tác xã của những người sản xuất hàng hóa nhỏ: Chủ nghĩa tư bản hợp
tác xã giống chủ nghĩa tư bản nhà nước ở chỗ nó tạo điều kiện thuận lợi hơn cho
sự kiểm kê, kiểm soát của nhà nước, là sự liên hợp sản xuất nhỏ thành sản xuất
hàng hóa lớn. Chuyển từ chế độ hợp tác xã lên chủ nghĩa xã hội là chuyển từ
tiểu sản xuất sang đại sản xuất, là một bước quá độ phức tạp hơn, nhưng nếu
thành cơng có thể bao gồm những khối quần chúng nhân dân đông đảo, nhổ
được gốc rễ sâu xa hơn, đa dạng hơn của những quan hệ cũ tiền xã hội chủ
nghĩa, thậm chí tiền tư bản chủ nghĩa. Chế độ hợp tác xã tự nó chưa phải là xây
dựng xã hội chủ nghĩa, nhưng đó là tất cả những cái cần thiết và đầy đủ để tiến
hành công cuộc xây dựng đó. Mỗi chế độ xã hội chỉ nảy sinh ra nếu được một
giai cấp nhất định nào đó giúp đỡ về tài chính. Trong lúc này chế độ xã hội mà
chúng ta phải ủng hộ hơn hết là chế độ hợp tác xã. Nhưng không phải ủng hộ bất
9


cứ hợp tác xã nào mà chỉ ủng hộ hợp tác xã được quần chúng nhân dân chân
chính thực sự tham gia.
Nhà nước cho một nhà kinh doanh tư bản thuê một xí nghiệp hoặc vùng
mở, hoặc khu rừng, khu đất... tương tự như hợp đồng tô nhượng.
Nhà nước lôi cuốn nhà tư bản, với tư cách một nhà buôn, trả cho họ một
số tiền hoa hồng để họ bán sản phẩm của Nhà nước và mua sản phẩm của người
sản xuất hàng hóa nhỏ. V.I. Lênin coi chủ nghĩa tư bản nhà nước là sự chuẩn bị
điều kiện vật chất đầy đủ cho chủ nghĩa xã hội. Chủ nghĩa tư bản nhà nước là

một bước tiến so với thế lực tự phát tiểu tư hữu. Trong nhà nước tư bản, chủ
nghĩa tư bản nhà nước được nhà nước kiểm sốt một cách có lợi cho giai cấp tư
sản; cịn trong nhà nước vô sản, chủ nghĩa tư bản nhà nước được kiểm soát và
điều tiết để làm lợi cho giai cấp công nhân và giai cấp nông dân, tạo lập cơ sở
kinh tế cho chủ nghĩa xã hội. Thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa. Chủ nghĩa xã
hội là bước kế tiếp liền ngay sau chủ nghĩa tư bản nhà nước, kế thừa kỹ thuật
hiện đại, năng suất lao động cao và hệ thống tổ chức có kế hoạch liền kinh tế
quốc dân do chủ nghĩa tư bản nhà nước đã tạo lập.
Kinh tế xã hội chù nghĩa, xét về lực lượng sản xuất, về kỹ thuật, ít nhất
phải đạt trình độ hiện đại như chủ nghĩa tư bản - độc quyền nhà nước ở những
nước tư bản chủ nghĩa phát triển, về quan hệ sản xuất, phải dựa trên chế độ công
hữu về tư liệu sản xuất và thực hiện hình thức phân phối theo lao động, phù hợp
với trình độ xã hội hóa cao của lực lượng sản xuất, chứ khơng phải cơng hữu
hóa một cách hình thức, chủ quan, duy ý chí.
Bởi vậy theo V.I.Lênin, trong giai đoạn đầu thời kỳ quá độ, thành phần
kinh tế xã hội chủ nghĩa mới chỉ là mầm móng, mầm móng mới nhú lên. Điều
quan trọng nhất là phải vun bón chu đáo những mầm móng đó để nó lớn dần lên
và sẽ tiến tới giữ địa vị thống trị nền kinh tể quốc dân.
Theo phép biện chứng duy vật, mỗi sự vật khi phát triển đến trình độ cao
nhất lại tạo điều kiện để phủ định chính nó và chuyển lên một hình thái cao hơn.
Kinh tế nơng dân kiểu gia hưởng bị phá vỡ sẽ chuyển lên sản xuất hàng hóa nhỏ;
sản xuất hàng hóa nhỏ phát triển sẽ phân hóa hai cực và chuyển lên chủ nghĩa tư
bản tư nhân; chủ nghĩa tư bản tư nhân phát triển cao sẽ chuvển thành chủ nghĩa
tư bản độc quyền và dung hợp với nhà nước hình thành chủ nghĩa tư bản độc
quyền nhà nước; chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước là sự chuẩn bị vật chất
đầy đủ cho chủ nghĩa xã hội; chủ nghĩa xã hội là bước tiến liền ngay sau chế độ
tư bản độc quyền nhà nước. Sự vận động theo quá trinh lịch sử tự nhiên nói trên
chúng tỏ trong tiến trình phát triển các thành phần kinh tế đều hưởng dần lên chủ
nghĩa xã hội, mà hiện nay được gọi là theo định hướng xã hội chủ nghĩa, chứ
không phải đem chủ nghĩa xã hội từ bên ngoài lồng ghép vào kinh tế thị trường.

Ở đây xuất hiện vấn đề là, thành phần kinh tế nào trong những thành phần
kinh tế ấy có thể chấp nhận được đối với chủ nghĩa xã hội tương lai, các thành
phần kinh tế tác động qua lại theo hướng nào trong mối quan hệ tương hỗ ấy?
Chính sách kinh tế mới của V.I.Lênin cho phép sử dụng ở từng khâu sản
xuất và lưu thông những phương thức kinh tế đa dạng và đang từ từ biến đổi với
10


quy mơ lớn; có chú ý tới trình độ trang bị kỹ thuật nhằm phát huy cao độ khả
năng của tất cả các thành phần kinh tế khác nhau và từng bước liên kết chúng,
trong khi vẫn duy trì và phát huy vai trò chủ đạo của khu vực nhà nước, hướng
hoạt động của nền kinh tế theo hướng xã hội chủ nghĩa. Quyết định mang ý
nghĩa chiến lược này có tác dụng mở ra mọi khả năng phát triển lực lượng sản
xuất và thiết lập một cơ cấu kinh tế hợp lý. Đó chính là phương sách đúng đắn
như V.I.Lênin đã chỉ ra: “Để chúng ta có thể làm tròn một cách thắng lợi nhiệm
vụ của chúng ta, tức là chuyển thẳng lên chủ nghĩa xã hội, chúng ta phải hiểu
những đường lối, thể thức, thủ đoạn và phương sách trung gian cần thiết để
chuyển từ những quan hệ tiền tư bản chủ nghĩa lên chủ nghĩa xã hội. Chính chủ
nghĩa tư bản cũng phải bắt đầu bằng cách ấy. Nhấn mạnh vai trò của chủ nghĩa
tư bản như là phương tiện để phát triển lực lượng sản xuất, V.I.Lênin đã kiên trì
giải thích rằng, nước Nga chưa đủ sức để chuyển trực tiếp từ tiểu sản xuất sang
chủ nghĩa xã hội, và trong điều kiện như vậv, chủ nghĩa tư bản ở một mức độ
nhất định là không tránh khỏi, giống như sản phấm tự nhiên của nền tiểu sản
xuất và trao đổi hàng hoá; nhưng nhiệm vụ trực tiếp là: “Chúng ta phải lợi dụng
chủ nghĩa tư bản (nhất là bằng cách hướng nó vào con đường chủ nghĩa tư bản
nhà nước) làm mắt xích trung gian giữa nền tiểu sản xuất và chủ nghĩa xã hội,
làm phương tiện, con đường, phương pháp, phương thức để tăng cường lực
lượng sản xuất lên”.
Đương nhiên, chủ nghĩa tư bản nhà nước đúng với nghĩa của nó khơng
phải là giải pháp trực tiếp đưa nền sản xuất nông nghiệp sang nền nếp xã hội chủ

nghĩa, Song, theo V.I.Lênin, ở giai đoạn phát triển này của nền kinh tế nước
Nga, chủ nghĩa tư bản có thể là chủ nghĩa tư bản đặc biệt, bởi nó tồn tại và chịu
sự quản lý, điều tiết của chính quyền Xơ-viết. Vì vậv, cho dù giữa hình thái kinh
tể tư bản chủ nghĩa và chủ nghĩa xã hội cịn có sự cạnh tranh, song đó chính là
động lực phát triển của lực lượng sản xuất V.I.Lênin nhận xét rằng, chủ nghĩa tư
bản nhà nước còn đóng vai trị hỗ trợ cho chủ nghĩa xã hội và chính quyền Xơviết có được lợi ích trước mắt dưới dạng phát triển lực lượng sản xuất và tăng
khối lượng sản phẩm cho những nhu cầu thiết yếu trong một thời gian ngắn, Đây
là lý do cắt nghĩa vì sao cần sử dụng chủ nghĩa tư bản nhà nước như một phương
tiện trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, như ông viết: “Trong một nước
tiểu nông, trước hết các đồng chí phải bắc những chiếc cầu nhỏ vững chắc, đi
xuyên qua chủ nghĩa tư bản nhà nước, tiến lên chủ nghĩa xã hội”.
Kinh tế nhiều thành phần trong chính sách kinh tế mới cịn có ý nghĩa to
lớn đối với nông thôn, nông dân, mặc dù thực chất của vấn đề là ở sự điều chỉnh
mối quan hệ trao đổi giữa thành phố (công nghiệp) và nông thơn (nơng nghiệp),
song đó chính là sự sống cịn của nông thôn và người nông dân. Không phải vô
cớ mà V.I.Lênin đánh giá rất cao vai trị của chính sách thuế lương thực và cơ
chế thị trường. Trên thực tế, thực hiện chính sách thuế lương thực khơng chỉ là
sự thay thế việc trưng thu lương thực thừa, mà còn có nghĩa là tự do bn bán
lúa mì thừa và các sản phẩm khác sau khi đã nộp thuế. Đây là một chính sách
thơng minh và hợp lý. Bởi lẽ, thứ nhất, nó củng cố khối liên minh cơng nơng với
tư cách nền tảng giai cấp của chủ nghĩa xã hội tương lai; thứ hai, tạo ra sự phát
11


triển thưong mại tự do, chủ động và góp phần khơi phục tồn bộ nền kinh tế
thơng qua việc hồi sinh các quan hệ tư bản tư nhân. Theo V.I.Lênin, tự do
thương mại chính là địn bẩy phát triển lực lượng sản xuất của nền kinh tế nông
nghiệp và tiểu công nghiệp, cũng như mở rộng cuộc đấu tranh chống lại chủ
nghĩa quan liêu trong kinh tế. Ông viết: “Cơ sở kinh tế” của sự tiêu vong của
chủ nghĩa quan liêu, của sự tiêu vong các tầng lớp trên và tầng lớp dưới, của sự

tiêu vong sự bất bình đẳng...” là ở “việc trao đỗi hàng hố vói nơng dân”. Rằng,
“kinh tế nông dân, với tư cách là một nền kinh tế tiểu nông, không thể đứng
vững được, nếu không có một sự tự do trao đổi nào đó, và khơng có những quan
hệ tư bản chủ nghĩa gắn liền với tự do trao đổi đó”. Do vậv, theo ơng, với nước
Nga khi đó, thương nghiệp là “phương sách kiêm nghiệm” đời sống kinh tế nhà
nước, là “mối ghép” duy nhất, là cái có thể liên minh đội ngũ tiên tiến của giai
cấp vô sản với nông dân để từ đó, mới có thể có sự phát tríến kinh tế.
Với V.I.Lênin, chính sách kinh tế mói là sự kết hợp nhiều hình thức sở
hữu khác nhau và do vậy, trong nó có sự tác động qua lại lẫn nhau giữa các quan
hệ sản xuất khác nhau. Đường lối phát triển này là sự củng cố từ từ nhằm tăng
cường phương thức sản xuất xã hội chủ nghĩa trong công nghiệp và nơng nghiệp
để nó đủ khả năng phục hồi kinh tế đất nước và sau đó, phát triển nhanh lực
lượng sản xuất ở nước Nga Xô-viết. Rất tiếc rằng, mấy năm sau khi V.I.Lênin
qua đời, chính sách kinh tế mới đã sớm bị dừng lại, khơng được tiếp tục hồn
chỉnh, bổ sung trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô.
III- ĐẢNG TA VẬN DỤNG KINH TẾ NHIỀU THÀNH PHẦN
TRONG CHÍNH SÁCH KINH TẾ MỚI ĐỂ TỪNG BƯỚC ỔN ĐỊNH,
PHÁT TRIỂN ĐẤT NƯỚC
Trong công cuộc đổi mới đất nước, Đảng ta đã nhận thức và vận dụng
sáng tạo chính sách kinh tế mới của V.I.Lênin vào điều kiện lịch sử cụ thể của
nước ta. Từ Đại hội VI (năm 1986), Đảng ta đã thừa nhận nền kinh tế hàng hoá
nhiều thành phần là đặc trưng của cơ cấu kinh tế quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở
nước ta và đưa ra chủ trương chuyển nền kinh tế nước ta sang nền kinh tế nhiều
thành phần. Nếu thời kỳ trước đổi mới, ở nước ta chỉ có một thành phần kinh tế
là thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa bao gồm cả khu vực quốc doanh và khu
vực tập thể”, thì giờ đây, phải “bằng những biện pháp thích hợp, sử dụng mọi
khả năng của các thành phần kinh tế khác trong sự liên kết chặt chẽ và dưới sự
chỉ đạo của thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa”.
Đây là lúc thực tiễn đặt ra cho chúng ta cần phải nhận thức đúng đặc điểm
của nền kinh tế trong thời kỳ quá độ như V.I.Lênin đã chỉ ra là có những thành

phần, những bộ phận, những mảnh của chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội.
Trong điều kiện đó, khơng thể xây dựng chủ nghĩa xã hội. chỉ bằng thành phần
kinh tê xã hội chủ nghĩa; nghĩa là khi đề ra đường lối kinh tế phải tính tới tất cả
các thành phần kinh tế hợp thành nền kinh tế quốc dân, không được bỏ sót một
thành phần kinh tế nào. Chỉ có như vậy, chúng ta mới khai thác được mọi tiềm
năng của sản xuất, khai thác được sức mạnh của toàn dân trong tất cả các thành
phần kinh tế, mới thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển.

12


Qua hơn 30 năm đổi mới (từ 1986), nền kinh tế nước ta đã và đang phát
triển theo tư tưởng của chính sách Kinh tế mới của Lênin trong điều kiện và
hoàn cảnh mới: “Đảng và Nhà nước ta chủ trương thực hiện nhất quán và lâu dài
chính sách phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận động theo cơ
chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng Xã hội chủ nghĩa,
đó chính là nền kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa”. “Kinh tế thị
trường định hướng Xã hội chủ nghĩa có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành
phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trị chủ đạo; kinh tế nhà nước
cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc”. “Thực hiện
nhất quán chính sách phát triển nền kinh tế nhiều thành phần. Các thành phần
kinh tế kinh doanh theo pháp luật đều là bộ phận cấu thành quan trọng của nền
kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa, cùng phát triển lâu dài, hợp tác
và cạnh tranh lành mạnh”.
Trên cơ sở tổng kết thực tiễn 30 năm đổi mới, Văn kiện Đại hội XII của
Đảng đã có những khái quát mới về lý luận: “Nền kinh tế thị trường định hướng
Xã hội chủ nghĩa Việt Nam có quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp với trình độ
phát triển của lực lượng sản xuất; có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần
kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế tư nhân là một
động lực quan trọng của nền kinh tế; các chủ thể thuộc các thành phần kinh tế

bình đẳng, hợp tác và cạnh tranh theo pháp luật.
IV- MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN ĐẶT RA KHI
VẬN DỤNG KINH TẾ NHIỀU THÀNH PHẦN TRONG CHÍNH SÁCH
KINH TẾ MỚI CỦA LÊNIN TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ
NGHĨA XÃ HỘI Ở NƯỚC TA
Một là: Hiện nay chúng ta đang xây dựng và phát triển nền kinh tế hàng
hóa nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà
nước, định hướng xã hội chủ nghĩa. Có một số mâu thuẫn phát sinh ngay trong
quan điểm này cần phải giải quyết, đó là chúng ta đã đưa ra quan niệm về kinh
tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa ở Đại hội XII của đảng "Nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nền kinh tế vận hành đầy
đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, đồng thời bảo đảm định
hướng xã hội chủ nghĩa phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước. Đó
là nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế; có sự quản lý của Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, nhằm
mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh". Song theo
chúng tôi kinh tế thị trường vẫn là kinh tế thị trường, nó là sản phẩm của nhân
loại, nó khơng bị chi phối ngoài các quy luật khách quan như quy luật cạnh
tranh, quy luật giá trị, quy luật cung cầu...nó hoạt động theo quy luật và bản chất
của nó. Nếu kinh tế thị trường mà bị phủ bóng, ảnh hưởng bởi mơ hình kinh tế
Xã hội chủ nghĩa vậy nó cịn tính khách quan nữa khơng? Lúc này kinh tế thị
trường - sự phát triển cao của kinh tế hàng hóa đã bị sự tác động có nguy cơ biến
dạng kinh tế thị trường.
Hai là: Lần đầu tiên trong Văn kiện, Đảng ta khẳng định nội dung, kết
cấu của nền kinh tế Xã hội chủ nghĩa Việt Nam là có nhiều hình thức sở hữu,
13


nhiều thành phân kinh tế, các chủ thể thuộc các thành phần kinh tế bình đẳng
trước pháp luật. Đây là một bước phát triền mới trong nhận thức lý luận của

Đảng về nền kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Trong Văn kiện Đại hội XII, Đảng ta tiếp tục khẳng định: “Nhà nước
đóng vai trị định hướng, xây dựng và hồn thiện thể chế kinh tế, tạo mơi trường
cạnh tranh bình đẳng, minh bạch và lành mạnh; sử dụng các nguồn lực của Nhà
nước và cơng cụ, chính sách để định hướng và điều tiết nền kinh tế, thúc đấy sản
xuất kinh doanh và bảo vệ môi trường; thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội trong
từng bước, từng chính sách phát triển. Phát huy vai trò làm chủ của nhân dân
trong phát triển kinh tế - xã hội. Song vấn đề đặt ra là, kinh tế nhà nước vẫn giữ
vai trò chủ đạo, doanh nghiệp nhà nước trên lý luận là bình đẳng với doanh
nghiệp khác nhưng thực tế doanh nghiệp nhà nước vẫn đang hoạt động trên rất
nhiều các lĩnh vực của nền kinh tế. Trong khi đó doanh nghiệp nhà nước được
ưu thế về vốn, về đất đai về con người, như vậy có bình đẳng khơng? Chúng tơi
nghĩ rằng cần được luật hóa kinh tế nhà nước được làm những lĩnh vực nào mà
pháp luật cho phép.
Ba là: Đại hội X chỉ khác Đại hội IX ở chỗ đã sát nhập hai thành phần
kinh tế, kinh tế cá thể, tiểu chủ và kinh tế tư bản tư nhân thành một thành phần
đó là kinh tế tư nhân, là vì hai thành phần này có điểm chung giống nhau là đều
dựa trên chế độ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất; mặt khác chúng ta xóa đi sự
mặc cảm đối với kinh tế tư bản tư nhân và nó sẽ thuận hơn khi nói đến Đảng
viên được làm kinh tế tư nhân. Vậy thực chất cán bộ, đảng viên hiện nay có
được làm kinh tế tư nhân hay khơng? Có một số cán bộ, đảng viên trong biên
chế nhà nước, có chức có quyền thì khơng được làm kinh tế tư nhân. Tuy nhiên
xét về mặt thực tiễn đó chỉ là hình thức, nhiều cán bộ Đảng viên vẫn làm kinh tế
tư nhân dưới nhiều góc độ khác nhau. Theo chúng tơi nên xóa bỏ rào cản này,
nên chăng có cơ chế pháp lý để người làm kinh tế tư nhân khỏi lợi dụng kẽ hở
của pháp luật để cạnh tranh không công bằng.
Bốn là: Tại Đại hội XI (năm 2011), gồm có 4 thành phần kinh tế: Thành
phần kinh tế nhà nước; Thành phần kinh tế tập thể; Thành phần kinh tế tư nhân
(gồm kinh tế cá thể, tiểu chủ, tư bản tư nhân) và Thành phần kinh tế có vốn đầu tư
nước ngồi. Thành phần kinh tế tư bản nhà nước khơng cịn tồn tại. Thành phần

kinh tế tư bản nhà nước, đó là "hình thức tổ chức liên kết kinh tế tư bản tư nhân,
kinh tế tư nhân với nhà nước xã hội chủ nghĩa; hình thức kinh tế hiện đại để phát
triển nền kinh tế nhiều thành phần thành kinh tế thị trường theo định hướng xã hội
chủ nghĩa; hình thức kinh tế kết hợp nội lực với ngoại lực". Khái niệm này rất gần
gũi và đúng với quan điểm của V.I.Lênin trước đây khi người thực hiện chính
sách kinh tế mới. Ta có thể hiểu khái niệm này dưới nhiều góc độ:
- Về góc độ quan hệ sản xuất: Thành phần kinh tế tư bản nhà nước không
phải là tiền mà là quan hệ xã hội. Đó là quan hệ kinh tế giữa nhà nước với tư nhân
và tư bản tư nhân. Thành phần kinh tế này nếu phát triển ở trong các nước đi theo
con đường tư bản chủ nghĩa thì đó là kinh tế tư bản nhà nước của chủ nghĩa tư
bản. Nếu sự phát triển ấy ở trong các nước đi theo con đường tiến lên chủ nghĩa
xã hội thì đó là kinh tế tư bản nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
14


- về góc độ trình độ lực lượng sản xuất: Thành phần kinh tế tư bản nhà
nước thuộc về "nền đại sản xuất", "nền sản xuất tiên tiến", "nền sản xuất cơ khí
hố". Như vậy, vồ mặt bản chất của thành phần kinh tế tư bản nhà nước trong
xây dựng chủ nghĩa xã hội thì thành phần này là hình thức kinh tế trung gian,
quá độ lên hình thức kinh tế xã hội xã hội chủ nghĩa.
Hiện nay chúng ta không gọi tên thành phần kinh tế tư bản nhà nước nữa,
như vậy có phù hợp với quy luật khách quan không? Bởi theo Lênin thành phần
kinh tế này rất quan trọng cho công cuộc quá độ xây dựng Chủ nghĩa xã hội.
Theo chúng tơi thì nó vẫn phù hợp với quy luật khách quan. Bởi điều kiện lịch
sử từng giai đoạn là khác nhau và mọi học thuyết không thể dập khn máy móc
mà nó phải được vận dụng sáng tạo trong điều kiện lịch sử cụ thể. Hiện nay
chúng ta có kinh tế nhà nước, kinh tế tư nhân, kinh tế có vốn đầu tư nước ngồi,
đó là những thành phần kinh tế có liên quan đến tên gọi thành phần kinh tế tư
bản nhà nước, tuy nhiên bây giờ được phân định rạch ròi để thuân lợi trong q
trình hợp tác sản xuất kinh doanh.

Như vậy, có thể nói, kinh tế nhiều thành phần trong chinh sách kinh tế mới
của Lênin đã được đảng và nhà nước ta vận dụng sáng tạo về phát triển nền kinh
tế nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường, định hướng xã hội chủ
nghĩa, có sự quản lý của Nhà nước, đây chính là sự tiếp tục cuộc cách mạng trên
lĩnh vực quan hệ sản xuất trong điều kiện mới, đảm bảo thích ứng của quan hệ sản
xuất với trinh độ hiện có của lực lượng sản xuất, thúc đẩy lực lượng sản xuất phát
triển. Sau hơn 30 năm đối mới, hơn 25 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất
nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, dưới sự lãnh đạo sáng suốt của
Đảng, chúng ta đã đạt những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, tạo đà cho đất
nước bước vào thời kỳ phát triển mới. Điều đó đã và đang khẳng định chủ trương
phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa mà Đảng ta đã
đề ra trên tinh thần vận dụng sáng tạo chính sách kinh tế mới của V.I.Lênin là
đúng đắn và cần thiết để đưa nền kinh tế nước ta từng bước tiến lên, hướng tới
mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”.
V- PHÁT TRIỂN SẢN PHẨM HÀNG HÓA ĐẶC THÙ CHẤT
LƯỢNG CAO, NÂNG TẦM HOẠT ĐỘNG HỢP TÁC XÃ ĐỂ PHÁT
TRIỂN KINH TẾ HÀ GIANG
Phát huy lợi thế khí hậu, thổ nhưỡng, Đảng bộ tỉnh khóa XVII xác định
phát triển nơng nghiệp đặc trưng, hàng hóa chất lượng cao theo chuỗi giá trị là 1
trong 3 đột phá chiến lược. Đồng thời, quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo, cụ thể hóa
bằng các đề án, kế hoạch; ban hành cơ chế, chính sách khuyến khích phát triển
sản xuất nơng nghiệp hàng hóa và khơi thơng nguồn vốn tín dụng đầu tư vào
lĩnh vực nơng nghiệp, nơng thơn.
Nâng tầm giá trị sản phẩm nông nghiệp
Tỉnh Hà Giang xác định các cây, con chủ lực, đặc thù, có thế mạnh, lợi thế
so sánh như: Cam, chè, dược liệu, trâu, bị, ong để tập trung sản xuất thành hàng
hóa theo chuỗi giá trị; theo tiêu chuẩn an toàn, gắn với xây dựng chỉ dẫn địa lý
và truy xuất nguồn gốc sản phẩm.
15



Lĩnh vực trồng trọt, xác định sản phẩm cam Sành; chè Shan tuyết cổ thụ;
cây ăn quả ôn đới là 3 nhóm cây đặc thù để tập trung sản xuất. Riêng 2 sản phẩm
cam Sành và chè Shan tuyết cổ thụ đã được Cục Sở hữu trí tuệ - Bộ Khoa học và
Công nghệ chứng nhận chỉ dẫn địa lý sản phẩm. Sản phẩm cam Sành bước đầu
đưa vào hệ thống siêu thị; giá trị sản xuất cam đạt gần 1.000 tỷ đồng/năm, chiếm
khoảng 14,8% giá trị ngành Trồng trọt. Sản phẩm chè Shan tuyết cổ thụ có mặt tại
các châu lục (châu Âu, châu Á, châu Mỹ) và hơn 20 quốc gia; giá trị sản xuất chè
đạt trên 655 tỷ đồng, chiếm khoảng 9% giá trị ngành Trồng trọt. Đối với các cây
ăn quả ôn đới, như: Hồng không hạt, lê, mận… đang được tập trung phát triển tại
4 huyện Cao nguyên đá và 2 huyện phía Tây của tỉnh.
Ngành chăn nuôi của tỉnh chủ yếu quảng canh, quy mơ nơng hộ, vì vậy
các sản phẩm bị Vàng, lợn đen, gia cầm địa phương, mật ong Bạc Hà là những
sản phẩm đặc thù có chất lượng cao, có lợi thế của tỉnh. Các trung tâm nghiên
cứu khoa học chủ động phục tráng và bảo tồn các nguồn gen quý, cung ứng
giống tốt cho các hộ dân có nhu cầu ở địa phương. Thu hút doanh nghiệp đầu tư
vào nuôi trồng và chế biến sản phẩm. Do đó, sản phẩm bị Vàng được Cục sở
hữu trí tuệ chứng nhận chỉ dẫn địa lý cho 6 huyện (Đồng Văn, Mèo Vạc, n
Minh, Quản Bạ, Hồng Su Phì và Xín Mần). Chứng nhận chỉ dẫn địa lý cho sản
phẩm mật ong Bạc hà Mèo Vạc cho 4 huyện Cao nguyên đá. Xây dựng hệ thống
quản lý chất lượng an toàn thực phẩm trong sản xuất mật ong. Đối với ngành
thủy sản, tỉnh Hà Giang khơng có lợi thế về mặt nước ao, hồ mà chủ yếu tận
dụng các dịng sơng và lịng hồ thủy điện, do đó, tỉnh xác định cá Bỗng là loại cá
bản địa quý hiếm. Đây là loài cá đặc sản địa phương, chất lượng thịt ngon, rất
được nhiều khách du lịch yêu thích.
Tuy nhiên, theo lãnh đạo Sở Nông nghiệp và phát triển nông thôn cho
biết: Việc phát triển nơng nghiệp đặc trưng, hàng hóa chất lượng cao theo chuỗi
giá trị trên địa bàn tỉnh thời gian qua chưa quy hoạch được vùng để sản xuất các
sản phẩm đặc thù; các sản phẩm thấp cả về năng suất, mẫu mã, chất lượng sản
phẩm; một số sản phẩm đặc thù dù đã xây dựng được chuỗi giá trị xong mới

dừng lại ở việc hỗ trợ cho sản xuất; việc ứng dụng khoa học kỹ thuật vào sản
xuất, bảo quản, chế biến còn hạn chế; chưa tận dụng được lợi thế về du lịch để
đưa các sản phẩm nông nghiệp đặc thù phục vụ du khách. Việc thu hút các
doanh nghiệp lớn đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp, nông thơn gặp khó khăn;
chưa tìm được thị trường tiêu thụ bền vững cho các sản phẩm…
Hiện thực mục tiêu đột phá
Xác định sản xuất nơng nghiệp đóng vai trị “trụ đỡ” kinh tế của tỉnh, giúp
người dân, nhất là đồng bào dân tộc thiểu số ổn định đời sống, tỉnh Hà Giang tập
trung phát triển các sản phẩm hàng hóa đặc thù chất lượng cao theo chuỗi giá trị,
nhằm nâng cao giá trị gia tăng, nâng tính cạnh tranh của sản phẩm, hướng tới
mục tiêu cốt lõi nâng cao sinh kế bền vững cho người dân.
Tỉnh đã ban hành các nghị quyết chuyên đề, đề án và xây dựng kế hoạch
chiến lược phát triển các chuỗi giá trị sản phẩm mới; nhất là Nghị quyết 05 về
Cải tạo vườn tạp; Đề án phát triển bền vững cây cam Sành… đang mang đến
16


những “trái ngọt” đầu tiên. Đối với các chuỗi giá trị, đã tổ chức rà soát, đánh giá
lại các khâu để nâng cấp phù hợp với điều kiện thực tế; tập trung hỗ trợ, đầu tư
để phát triển các khâu tạo ra giá trị gia tăng; ban hành cơ chế, chính sách khuyến
khích phát triển các sản phẩm đặc thù của tỉnh thành hàng hóa với cách thức hỗ
trợ trực tiếp, hỗ trợ sau đầu tư, như: Nghị quyết 58, ngày 9.12.2020 của HĐND
tỉnh về chính sách đặc thù hỗ trợ phát triển kinh tế vườn hộ và phát triển bền
vững cây cam Sành, giai đoạn 2021 – 2025…
Mặt khác, chủ động, tích cực phối hợp với các đơn vị bảo tồn, phục tráng
các nguồn gen quý; đẩy mạnh ứng dụng khoa học kỹ thuật, công nghệ sinh học
vào các khâu sản xuất giống để cung ứng giống tốt, chất lượng cao cho các tổ
chức, cá nhân trên địa bàn tỉnh, nhằm phát triển sản phẩm, tạo ra các sản phẩm
chất lượng, mã đẹp, phù hợp thị hiếu người tiêu dùng. Đối với các sản phẩm đặc
thù được sản xuất theo tiêu chuẩn an toàn; gắn tem truy xuất nguồn gốc sản phẩm.

Đẩy mạnh thu hút doanh nghiệp đầu tư vào các sản phẩm đặc thù, như: Tạo quỹ
đất sạch; chính quyền địa phương làm trung gian xây dựng các mối liên doanh,
liên kết sản xuất, chế biến, tiêu thụ sản phẩm giữa người dân với doanh nghiệp
thông qua mô hình HTX nơng nghiệp và tổ chức lại sản xuất cho người dân.
Đồng thời, tăng cường quảng bá, giới thiệu sản phẩm, tìm kiếm thị
trường; dự báo thị trường gắn với tìm kiếm, mở rộng thị trường tiêu thụ các sản
phẩm đặc thù; chủ động phối hợp xúc tiến, quảng bá giới thiệu, tiêu thụ sản
phẩm. Xây dựng các phần mềm quản lý sản phẩm, trang web thông tin, giới
thiệu sản phẩm; hỗ trợ các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất xây dựng vùng nguyên
liệu đối với cây, con đặc thù; tăng cường quản lý nhà nước; kiểm tra, kiểm soát
chất lượng các sản phẩm đã được đăng ký bảo hộ chỉ dẫn địa lý; xử lý nghiêm
các trường hợp vi phạm…
Với những giải pháp đồng bộ, hiệu quả, phát huy tốt lợi thế, tiềm năng
trong lĩnh vực nông nghiệp, có thể tin tưởng trong tương lai khơng xa, việc phát
triển nơng nghiệp đặc trưng, hàng hóa chất lượng cao theo chuỗi giá trị sẽ thực
sự mang lại cuộc sống ấm no cho đồng bào biên cương.
Hà Giang nâng tầm hoạt động các hợp tác xã
Thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế tập thể của Trung ương, tỉnh,
thời gian qua với vai trò nòng cốt trong xây dựng, nâng cao chất lượng hoạt
động các hợp tác xã (HTX), Liên minh HTX tỉnh đã có những giải pháp,
cách triển khai cụ thể nhằm khuyến khích, hỗ trợ và nhân rộng các HTX
hoạt động hiệu quả, góp phần vào sự phát triển kinh tế chung của tỉnh.
Nhiều sản phẩm của các HTX được bày bán tại gian hàng trước trụ sở
Liên minh Hợp tác xã tỉnh Hà Giang
Tỉnh khẳng định với quan điểm việc thành lập mới HTX, phát triển kinh
tế tập thể phải đảm bảo yếu tố đổi mới, thực chất, khơng chạy theo thành tích;
thời gian qua, Liên minh HTX tỉnh chủ động phối hợp với các sở, ngành, địa
phương tham mưu cho tỉnh chỉ đạo việc thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế
tập thể, triển khai các chính sách có liên quan đến lĩnh vực kinh tế tập thể, HTX
đã ban hành. Trong đó, phối hợp với Sở Kế hoạch và Đầu tư tham mưu cho tỉnh

17


xây dựng chương trình hành động thực hiện Kết luận số 70-KL/TW, ngày
9.3.2020 của Bộ Chính trị tiếp tục thực hiện Nghị quyết T.Ư 5, khóa IX về đổi
mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể; xây dựng định hướng chiến
lược phát triển kinh tế tập thể, HTX của tỉnh giai đoạn 2021-2030; Tiếp tục thực
hiện Chỉ thị số 12/CT-TTg, ngày 22.5.2018 của Thủ tướng Chính phủ về tăng
cường công tác triển khai thi hành Luật HTX năm 2012; xây dựng Kế hoạch
phát triển HTX kiểu mới để triển khai thực hiện các nhiệm vụ, mục tiêu Nghị
quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh khóa XVII, nhiệm kỳ 2020 - 2025 có liên quan đến
lĩnh vực kinh tế tập thể…
Liên minh HTX tỉnh ban hành bộ thủ tục, quy trình chuyển đổi, thành lập,
giải thể HTX theo Luật mới năm 2012. Trực tiếp hỗ trợ, hướng dẫn các HTX
xây dựng Điều lệ, phương án sản xuất, hạch toán kinh doanh; giúp HTX tiếp cận
các nguồn vốn từ Quỹ hỗ trợ của Liên minh HTX Việt Nam. Cùng đó là u cầu
các địa phương tiến hành rà sốt, kiên quyết tiến hành giải thể đối với những
HTX đã ngừng hoạt động, hoạt động kém hiệu quả, tránh tình trạng để HTX
hoạt động cầm trừng hoặc vẫn có đăng ký hoạt động kinh doanh nhưng chỉ tồn
tại trên giấy tờ.
Với các giải pháp, cách triển khai đồng bộ, có trách nhiệm nên số lượng
các HTX trên địa bàn tỉnh hoạt động ngày một ổn định, hiệu quả. Riêng trong
năm 2020 và 3 tháng đầu năm 2021, toàn tỉnh thành lập mới được trên 60 HTX
theo Luật HTX năm 2012, nâng tổng số HTX đang hoạt động trên địa bàn lên
trên 600 HTX, với 21.150 thành viên. Phần lớn các HTX này hoạt động gắn với
xã, thơn điển hình tiên tiến. Trong đó, có nhiều HTX hoạt động trong lĩnh vực
thương mại - dịch vụ tổng hợp; sản xuất, chế biến nông - lâm nghiệp; tiểu thủ
công nghiệp... đã xây dựng được thương hiệu riêng, mang lại nguồn thu nhập
cao, ổn định cho thành viên, tiêu biểu như: HTX nông dân trồng cam sạch xã
Vĩnh Phúc, HTX Hải Khang (Bắc Quang); HTX Tuấn Dũng, HTX dịch vụ nông

nghiệp Tả Lủng (Mèo Vạc); HTX Bắc Nam, HTX nông lâm nghiệp và dịch vụ
thương mại Po Mỷ (Đồng Văn); HTX tiểu thủ công nghiệp Việt Thành (Vị
Xuyên); HTX thương mại chè Tuấn Băng (Xín Mần); HTX chế biến chè Phìn
Hồ, xã Thơng Ngun (Hồng Su Phì); HTX cộng đồng Nặm Đăm, xã Quản Bạ
(Quản Bạ); HTX sản xuất rau an toàn và kinh doanh dịch vụ tổng hợp Tân Đức,
xã Đạo Đức (Vị Xuyên); HTX Bản Tùy, xã Ngọc Đường (thành phố Hà Giang)
Theo thống kê đến đầu năm 2021, tổng vốn điều lệ các HTX trong tỉnh là
897.236 triệu đồng; tổng doanh thu 1.499.000 triệu đồng; lợi nhuận bình quân
315 triệu đồng/HTX; thu nhập bình quân thành viên/người lao động đạt 39 triệu
đồng/năm.
Nói về những giải pháp, hướng đi trong việc duy trì, phát huy hiệu quả
hoạt động của các HTX, thúc đẩy kinh tế tập thể phát triển, đồng chí Lò Thị Mỷ,
Chủ tịch Liên minh HTX tỉnh cho biết thêm: Dựa trên tình hình và điều kiện cụ
thể của tỉnh, Liên minh HTX sẽ tiếp tục chỉ đạo phát triển kinh tế tập thể theo
Nghị quyết đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XVII, nhiệm kỳ 2020 - 2025 đề ra;
tham mưu cho tỉnh ban hành thêm chính sách, cơ chế mới và vận dụng, lồng
ghép các chính sách của T.Ư, tỉnh hiện có đễ hỗ trợ các HTX, giúp các HTX tiếp
18


cận các nguồn vốn vay, xây dựng thương hiệu, tìm kiếm mở rộng thị trường tiêu
thụ sản phẩm. Đó cũng là cách nhằm nâng tầm cho các HTX vững tin hơn trong
quá trình hoạt động, phát triển thực chất hơn.

19



×