Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

skkn một số BIỆN PHÁP GIÚP học SINH lớp 5 làm tốt bài văn MIÊU tả

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (121.9 KB, 18 trang )

MỞ ĐẦU:
LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI:

1.

Tất cả chúng ta đều biết muốn xây được một ngôi nhà vững chắc, to, đẹp và
cao lớn thì điều trước tiên ta phải xây dựng được nền móng vững chắc. Cũng như
việc xây nhà một người muốn học lên cao thì điều đầu tiên là phải nắm vững những
kiến thức nền tảng. Tiểu học là bậc học nền tảng trong hệ thống giáo dục quốc dân.
Những kiến thức mà các em được tiếp thu ở tiểu học là cơ sở quan trọng để các em
học lên các bậc học cao hơn. Ở tiểu học các em được học rất nhiều môn học khác
nhau như: Tốn, Kĩ thuật, khoa học, Lịch sử, Địa lí...mà trong đó Tiếng Việt là một
trong hai mơn học quan trọng chiếm thời lượng dạy và học nhiều nhất.
Trường Tiểu học là nơi đầu tiên các em được học Tiếng Việt trên phương diện
chữ viết, với phương pháp học tập một cách tập trung, khoa học. Học sinh Tiểu học
chỉ có thể học tập được các mơn học khác khi có kiến thức Tiếng Việt, bởi Tiếng Việt
là phương thức giao tiếp, là công cụ trao đổi thông tin và chiếm lĩnh tri thức. Trong
môn Tiếng Việt lại bao gồm nhiều phân mơn khác nhau như: Tập đọc, Chính tả, Tập
làm văn, Luyện từ và câu, Kể chuyện... Mỗi phân môn mang lại cho người học một
kiến thức nhất định, chúng luôn bổ trợ cho nhau để giúp người học học tốt môn Tiếng
Việt. Khởi đầu học sinh sẽ được tiếp cận môn Tiếng Việt bằng cách học vần qua phân
môn Tập đọc sau đó đến Tập viết, Chính tả, Kể chuyện, Luyện từ và câu và cuối cùng
là Tập làm văn. Đối với học sinh Tiểu học biết đọc, biết viết là yêu cầu cơ bản các em
cần đạt được. Cịn biết nói đúng ý của mình, nói đủ, nói rõ nghĩa thì đã là một u
cầu khó; Nhưng để nói cho hay, nói cho cảm xúc và biết biến những lời nói của mình
thành câu văn, đoạn văn, bài văn thì lại càng khó khăn hơn gấp nhiều lần. Và chính
cái khó ấy lại là cái đích cuối cùng mà học sinh cần đạt được sau khi học Tập làm
văn.
Ở Tiểu học các em sẽ được làm quen với phân môn tập làm văn ở các khối lớp
1,2,3 qua cách trả lời các câu hỏi cho sẵn. Các em chỉ chính thức học tập làm văn,
chính thức học viết một bài văn hoàn chỉnh khi các em bước vào học lớp 4 - 5. Tập


làm văn ở Tiểu học bao gồm nhiều thể loại như: trao đổi ý kiến, kể chuyện, viết đơn,


miêu tả... nhưng chiếm thời lượng cao nhất là văn miêu tả. Mục đích của việc dạy văn
miêu tả là giúp học sinh có thói quen quan sát, biết phát hiện những điều mới mẻ, thú
vị về thế giới xung quanh, biết truyền những rung cảm của mình vào đối tượng miêu
tả, biết sử dụng những từ ngữ có giá trị biểu cảm, những câu văn sáng rõ về nội dung,
chân thật về tình cảm. Một bài văn miêu tả hay là những bài văn mà người đọc thấy
hiện ra trước mắt mình con người, cảnh vật...cụ thể, sống động như nó vẫn tồn tại
trong thực tế cuộc sống. Như vậy có thể xem văn miêu tả là một bức tranh về sự vật
và ngơn từ. Qua đó bồi dưỡng cho các em tình yêu quê hương, đất nước, vốn sống,
vốn ngôn ngữ, khả năng giao tiếp. Song để tả đúng thực tế, để có bài văn hay, học
sinh phải viết dược đoạn văn hay, để có đoạn văn hay thì phải có câu văn hay. Để viết
được những câu văn hay học sinh cần phải rèn luyện thành thạo các kĩ năng dùng từ,
dùng các biện pháp tu từ và kĩ thuật đặt câu. Bởi vậy việc dạy Tập làm văn miêu tả
cho học sinh làm hay, sinh động là một việc làm rất khó đối với người giáo viên ở các
khối lớp 4 – 5.
Là giáo viên giảng dạy lớp 5, tơi có mong muốn học sinh trường mình sau khi
học xong lớp 5 có thể viết được một bài văn miêu tả súc tích, sinh động. Với mong
muốn đó, bản thân tơi đã mạnh dạn nghiên cứu, đúc kết kinh nghiệm và quyết định
chọn đề tài "Một số biện pháp giúp học sinh lớp 5 làm tốt văn miêu tả" để làm đề
tài nghiên cứu của mình trong năm học này nhằm trước mắt là giúp nâng cao chất
lượng dạy và học phân môn Tập làm văn của lớp mình. Sau là có thể cùng trao đổi
kinh nghiệm giảng dạy với đồng nghiệp nhằm nâng cao chất lượng dạy và học Tập
làm văn của các em học sinh khối lớp 4 – 5.
2.

MÔ TẢ NỘI DUNG:

Tập làm văn là một phân mơn mang tính tổng hợp và sáng tạo cao. Tổng hợp

các kiến thức, kĩ năng từ Tập đọc, Kể chuyện, Chính tả, Luyện từ và câu,... để viết
nên một bài Tập làm văn.
Theo quan điểm tích hợp, các phân môn được tập hợp lại xung quanh trục chủ
điểm và các bài đọc. Nhiệm vụ cung cấp kiến thức và rèn luyện kĩ năng gắn bó chặt
chẽ với nhau. Như vậy, muốn dạy - học có hiệu quả Tập làm văn miêu tả (tả cảnh, tả
người) nhất thiết người giáo viên phải dạy tốt Tập đọc, Kể chuyện, Chính tả, Luyện


từ và câu. Vì trong các bài đọc, trong câu chuyện, trong các bài Luyện từ và câu
thường xuất hiện các đoạn văn, khổ thơ có nội dung miêu tả rất rõ về cảnh vật, thiên
nhiên, con người....
Bài Tập làm văn nếu không sáng tạo sẽ trở thành một bài văn khơ cứng, góp
nhặt của người khác, nội dung bài văn sẽ không hồn nhiên, trong sáng, mới mẻ như
tâm hồn của các em ở lứa tuổi Tiểu học
Chất lượng Tập làm văn là chất lượng của cảm thụ văn học, của các kĩ năng
nghe, nói, đọc, viết tiếng mẹ đẻ. Cho nên, thầy và trò phải soạn giảng và học tập tích
cực, nghiêm túc mới mong nâng cao một cách bên vững chất lượng môn Tiếng Việt ở
lớp cuối cấp Tiểu học.
Dạy Tập làm văn lớp 5 phải đảm bảo mục tiêu yêu cầu cần đạt về kiến thức, kĩ
năng của Chương trình giáo dục phổ thơng cấp Tiểu học theo Chuẩn kiến thức, kĩ
năng của từng môn học.
Đặc trưng cơ bản của phân môn Tập làm văn là tính tổng hợp, thực hành sáng
tạo mang dấu ấn cá nhân học sinh, trong q trình tạo lập ngơn bản (ở cả hai dạng nói
và viết) làm văn là một hoạt động giao tiếp.Vì vậy, trong nhà trường việc dạy Tập
làm văn cho học sinh thực chất là dạy cho học sinh nắm cơ chế của việc sản sinh
ngôn bản nói và viết theo các quy tắc ngơn ngữ, quy tắc giao tiếp nhằm đạt được mục
đích giao tiếp.
Văn miêu tả là vẽ lại bằng lời những đặc điểm nổi bật của cảnh, của người, của
vật để giúp người nghe, người đọc hình dung được những đối tượng ấy.
Do đó muốn dạy và học tốt Tập làm văn bản thân tôi nhận thấy người thầy giáo

và học sinh cần thực hiện tốt các biện pháp sau:
*Biện pháp 1: Tích lũy kiến thức.
*Biện pháp 2: Quan sát và ghi chép.
*Biện pháp 3: Thực hành tốt các dạng bài tập sau: Thực hành vào những
tiết Luyện từ và câu.
Dạng 1: Hướng dẫn học sinh cách dùng từ.
Dạng 2: Hướng dẫn HS dùng cặp từ quan hệ.
Dạng 3: Hướng dẫn học sinh dùng từ thay thế để liên kết câu.


Dạng bài tập 4: Hướng dẫn học sinh cách dùng biện pháp so sánh.
Dạng 5: Hướng dẫn học sinh cách dùng biện pháp nhân hóa.
Dạng 6: Hướng dẫn HS phương pháp đảo ngữ.
*Biện pháp 4: Làm tốt giờ trả bài.
B . NỘI DUNG:
1.

THỰC TRẠNG:

1.

.Thuận lợi:
Nhà trường luôn quan tâm tạo mọi điều kiện tốt nhất về cơ sở vật chất và
chuyên môn cho việc dạy và học.
Đa số các em có ý thức học tập tốt, ngoan ngỗn, biết vâng lời.
Phụ huynh đa phần rất quan tâm đến việc học của con em mình.
Học sinh sống ở vùng nơng thơn nên có vốn hiểu biết, vốn sống khá phong phú
về các đề tài cần miêu tả.
Bản thân tôi là một giáo viên trẻ luôn cố gắng học tập kinh nghiệm giảng dạy
từ đồng nghiệp, luôn hăng say trong công việc. Khả năng tiếp thu cũng như tiếp cận

các chương trình dạy học có ứng dụng cơng nghệ khá nhanh.

1.
2.

.Khó khăn:

Trong chương trình Tập làm văn lớp 5 văn miêu tả được dạy với hai kiểu bài :
Tả cảnh( 14 tiết), tả người( 12 tiết).
Bản thân tôi đã nhiều năm giảng dạy ở khối lớp 4 - 5 và năm học này được
phân công chủ nhiệm lớp 5/2.).Tổng số học sinh lớp tôi gồm 32 em. Đầu năm, tôi tiến
hành khảo sát khả năng làm văn của các em với đề bài:Tả một con vật mà em u
thích, tơi nhận thấy những điểm sau:
Về phía giáo viên:
Thực tế giảng dạy văn miêu tả, bản thân là người hướng dẫn đôi khi cũng cảm
thấy lúng túng, bí từ và khơng biết phải hướng dẫn thế nào để học sinh có thể viết
được bài văn hay. Bởi Tập làm văn là một phân mơn khó nó địi hỏi người học phải


biết tổng hợp kiến thức, phải thể hiện được rung cảm cá nhân, phải biết vẽ nên bức
tranh cảm xúc của bản thân mình cho người khác cảm nhận bằng hình ảnh làm từ
ngơn từ. Do đó trong q trình giảng dạy người giáo viên thường sẽ rơi vào hai
trường hợp sau:
Hướng dẫn chung chung và để học sinh tự tìm hiểu theo khả năng của bản



thân.



Dựa vào văn mẫu và hướng dẫn các em “ sao chép” lại một cách cứng ngắt.
Và cho dù giáo viên lựa chọn hướng dẫn theo cách nào trong hai cách trên thì
người chịu thiệt thịi nhất ln là học sinh. Tệ hơn nó sẽ khiến cho học sinh không
biết làm văn hoặc chán học văn dù trước đó các em có năng khiếu viết văn, và yêu
thích viết văn. Mà nguyên nhân của tình trạng trên một phần là do một bộ phận giáo
viên chưa đáp ứng được trình độ chun mơn theo yêu cầu, cũng như vốn sống còn
hạn chế, mang nặng tính bảo thủ, chậm tiến với tư tưởng “ dạy tèn tèn thưởng lương
như ai”. Nguyên nhân nữa là do “ bệnh thành tích” trong Giáo dục hiện nay. Dù bản
thân giáo viên biết các em không đáp ứng được yêu cầu cơ bản của môn học nhưng
do muốn giữ vững thành tích thi đua cá nhân mà cố ý nâng thành tích, nâng điểm của
học sinh lớp mình. Hậu quả là làm các em ảo tưởng về bản thân, làm cho các em
thiếu sự phấn đấu trong học tập.
Về phía học sinh:
Các em cịn thiếu sự trãi nghiệm thực tế.
Ví dụ như:
Học sinh nơng thơn sẽ ít được tiếp xúc với các khu vui chơi , giải
trí, cơng viên, vườn thú...
Học sinh thành thị sẽ ít có cơ hội tiếp cận với cảnh gặt lúa, cày
ruộng, ngắm trăng, chèo xuồng,...
Mặc dù hiện nay trình độ khoa học kĩ thuật rất phát triển các em có thể
xem và biết được những điều mình quan tâm qua mạng internet như những điều mà
các em biết được qua internet sẽ luôn không bằng trải nghiệm thực tế của bản thân.
Dẫn đến một số bài văn của học sinh được viết như sau:


Nhà em có ni một con gà trống rất đẹp. Con gà cao gần 1 mét và
nặng 200gam.....
Chú gà trống nhà em rất lực lưỡng. Cứ mỗi sáng sớm là chú gà trống
nhà em lại bay tót lên cây nhãn trước nhà và vươn cổ gáy vang: kéc...kéc...kéc.....
Qua đó có thể thấy khi làm bài các em thiếu quan sát, thiếu tìm hiểu cụ

thể về đặc điểm của đối tượng mà mình miêu tả. Do đó bài văn khơng thể truyền
được cảm xúc cho bản thân người đọc. Việc thiếu tập trung ở tiết học lí thuyết cũng
như khơng có phương pháp học tập một cách đúng đắn cũng ảnh hưởng nhất định đến
thành tích học tập của các em.
Hơn nữa học sinh chưa hứng thú học Tập làm văn. Các em thường hay làm
theo khuôn mẫu, giáo viên gợi mở dàn bài, gợi ý thế nào các em viết thế đó, chưa
biết cách dùng từ, đặt câu nên câu văn, bài văn thường cụt ngủn, diễn đạt không trôi
chảy. Đôi khi tả nhưng giống như trả lời câu hỏi. Từ dàn bài có sẵn cũng khơng biết
cách để chuyển thành bài văn.
Việc đọc sách của các em hiện nay cũng đang bị xem nhẹ, phần lớn các em ít
quan tâm đến việc đọc mà chủ yếu lại dành nhiều thời gian cho phim ảnh, trị chơi
điện tử. Nếu có đọc thường là truyện tranh, thậm chí có truyện khơng mang tính giáo
dục. Thời gian dành cho các em quan sát cũng như đầu tư vào Tập làm văn cũng hạn
chế nên vốn luyến về cuộc sống, về văn học của các em cũng hạn chế. Chính điều
này tác động không nhỏ đến việc học văn miêu tả ở các em.
Từ các nhận định được kiểm chứng qua thực tiễn trên tôi đã rút ra các
điểm yếu mà các em hay mắc phải ở giờ làm văn như sau:
- Bài viết cịn nhiều lỗi chính tả.
- Chưa xác định trọng tâm đề bài cần miêu tả.
- Nhiều em thường liệt kê, kể lể dài dòng, diễn đạt vụng về , lủng củng.
- Vốn từ cịn nghèo nàn, khn sáo, quan sát sự vật còn hời hợt.
- Chưa biết cách dùng các biện pháp nghệ thuật khi miêu tả.
- Chưa biết cách đặt câu, chưa biết tả những chi tiết cụ thể nổi bật.


- Mặt khác, hiện nay bày bán rất nhiều sách tham khảo, văn mẫu tạo điều kiện
cho các em chép lại văn mẫu....
- Nhiều phụ huynh và đôi khi kể cả giáo viên cũng cho rằng em nào có
khiếu thì mới học tốt phân môn này. Đây trở thành là một thách thức đối với giáo
viên Tiểu học mà nhất là với những giáo viên đang dạy lớp 4, 5.

Từ thực trạng trên, tơi tìm hiểu được một số ngun nhân dẫn đến thực
trạng đó như sau:
- Học sinh khơng được quan sát trực tiếp đối tượng miêu tả.
- Khi quan sát các em không được hướng đẫn về kĩ năng quan sát: Quan sát
những gì, quan sát từ đâu? Làm thế nào phát hiện được nét tiêu biểu của đối tượng
cần miêu tả.
- Khơng biết hình dung bằng hình ảnh, âm thanh, cảm giác về sự vật miêu tả
khi quan sát.
- Vốn từ nghèo nàn lại không biết sắp xếp như thế nào để bài viết mạch lạc,
trôi chảy, chưa diễn đạt được bằng vốn từ ngữ của mình về một sự vật, về một con
người cụ thể nào đó.
- Chưa biết phát triển dàn ý của mình thành một bài văn hoàn chỉnh.
2. GIẢI PHÁP THỰC HIỆN
Để giúp học sinh lớp mình làm tốt bài văn miêu tả thì người giáo viên cần tạo
được cho học sinh một vốn từ, vốn sống phong phú và đa dạng. Bên cạnh đó cũng
phải giúp các em sử dụng từ ngữ một cách chính xác, phù hợp với hồn cảnh. Do đó
với cương vị là một giáo viên chủ nhiệm, bản thân tôi luôn cố gắng dạy tốt và bám sát
chương trình Tiếng Việt (như Tập đọc, Kể chuyện ,Chính tả, Luyện từ và câu). Đặc
biệt là ở phân môn Tập làm văn, từng tiết học tôi cho học sinh nắm chắc bố cục, cách
tiến hành viết đoạn văn, bài văn. Để làm tốt việc này tôi đã thực hiện một số biện
pháp sau:
Biện pháp 1: Tích lũy kiến thức:
1.

Kiến thức từ các tác phẩm văn học:
Mỗi một tác phẩm văn học là một tác phẩm sáng tạo mang tính cá nhân rất cao.
Nó là tinh hoa, là kết tinh của cả một q trình quan sát, tìm tịi và sáng tạo. Cho dù


chỉ là một đoạn nhỏ trong tác phẩm thì bản thân nó cũng mang một chủ đề một ý

nghĩa riêng. Và nội dung của các tác phẩm thường xoay quanh các chủ đề sau:


Các hiện tượng thiên nhiên.



Mối quan hệ giữa con người với con người.



Mối quan hệ giữa con người với thiên nhiên.
Qua việc học tập các tác phẩm văn học các em sẽ có một lượng kiến thức
phong phú về các hiện tượng thiên nhiên, về các mối quan hệ giữa con người với các
sự vật hiện tượng và giữa con người với nhau. Bên cạnh đó các em sẽ có kiến thức về
cách sử dụng ngơn từ, cách giao tiếp... và đó chính là nguồn vốn cần thiết sau này để
các em sử dụng khi cần thiết.
Nhưng để các em có thể nắm bắt và ghi nhớ những kiến thức cần thiết ở các tác
phẩm văn học thì người thầy giáo phải là người có kiến thức phong phú về các tác
phẩm văn học. Biết cách phân tích các giá trị khác nhau của một tác phẩm văn học và
quan trọng hơn hết là người thầy giáo phải truyền được tình yêu văn học của bản thân
mình cho học sinh. Từ tình u đó các em sẽ hình thành thói quen đọc sách và đọc
sách có chọn lọc. Thông qua việc đọc các em sẽ hiểu được nội dung văn bản và biện
pháp nghệ thuật; biết tổng hợp kiến thức và áp dụng cho bản thân mình.
Do đó ở các tiết Tập đọc, học thuộc lịng, kể chuyện .. có trong chương trình
mà nhất là những bài có thể loại miêu tả. Đối với những tiết học này, bản thân tơi dạy
rất kĩ. Ngồi những nội dung cơ bản trọng tâm trong bài, tơi cịn cung cấp cho HS về
cách cảm thụ văn học, nhận thấy cái hay, cái đẹp qua cách dùng từ, viết câu, sử dụng
biện pháp tu từ, cách miêu tả của tác giả. Ngay trong cách đọc của học sinh trong các
bài tập đọc, học thuộc lịng tơi cũng chú ý nhiều đễn cách đọc diễn cảm.

2.

Từ vốn sống thực tế:

Cuộc sống của các em là những chuỗi ngày khám phá và học hỏi không ngừng
thế giới xung quanh. Một ngày mới với các em là một cuộc phiêu lưu và chinh phục
mới. Do đó muốn dạy các em miêu tả đầu tiên người giáo viên hãy dạy các em cách
quan sát, cách chiếm lĩnh kiến thức mới mỗi ngày.


Ví dụ: Hãy vận dụng vốn sống của các em qua các câu hỏi gợi mở như: dịng
sơng lúc sáng sớm và lúc giữa trưa có gì khác nhau? Hoa sẽ như thế nào khi trời
nắng gắt? Hoa sẽ như thế nào khi trời mưa? ...
3.

Từ các môn học khác:

Các mơn học khác trong chương trình học tập của các em cũng là nguồn cung
cấp vốn sống, vốn từ một cách phong phú. Ví như mơn tự nhiên xã hội,khoa học, lịch
sử, địa lí cung cấp các kiến thức về cuộc sống xung quanh các em như các hiện tượng
mưa, gió, mây.. dịng sơng, cánh rừng, con suối,.... Mơn tốn giúp các em ước lượng
một cách chính xác. Mơn Mĩ thuật giúp các em quan sát tỉ mỉ hơn...
Như vậy việc tích lũy kiến thức cho các em là một q trình lâu dài và địi hỏi
khơng chỉ cần sự nổ lực của học sinh mà còn cần sự gchung tay của giáo viên, phụ
huynh và xã hội. Hay nói rộng hơn là cần sự quan tâm giúp đỡ của nhà trường, gia
đình và xã hội để tạo cho các em có cơ hội hịa nhập với thiên nhiên, với các mối
quan hệ xã hội. Mỗi ngày học một ít, mỗi chổ biết một ít sẽ làm giàu, rộng thêm kiến
thức của các em.
Biện pháp 2: Quan sát và ghi chép
*Quan sát:

Trong văn miêu tả, quan sát rất quan trọng. Và muốn làm tốt nhất việc quan sát
thì các em phải biết cách chọn được vị trí quan sát tốt, góc quan sát phù hợp: Xa hay
gần, trong hay ngồi, ban ngày hay ban đêm, quan sát mùa xuân hay mùa hạ, ...
Khi qua sát, cần giúp các em nhận biết rằng muốn làm tốt nhất ta không chỉ
quan sát bằng mắt mà phải huy động tất cả mọi giác quan: thính giác, vị giác, xúc
giác, khứu giác. Tùy từng kiểu bài có cách quan sát khác nhau.
Ví dụ:
Đối với bài văn tả cây cối cần phải quan sát theo trình tự từ xa đến gần, từ
bao quát đến chi tiết và chọn ra đặc điểm nổi bật nhất làm cây đó khác với các cây
khác.
Đối với văn tả con vật ta quan sát ngoại hình rồi mới đến thói quen, hoạt động
hằng ngày của con vật.


Đối với tả cảnh, quan sát theo trình tự thời gian, theo đặc điểm nổi bật của
từng cảnh và theo từng góc độ của cảnh. Cũng có thể quan sát theo trình tự từ xa đến
gần hoặc ngược lại.
Đối với văn tả người cần quan sát ngoại hình rơì mới đến tính tình , hoạt
động.
Mỗi sự vật, hiện tượng trong tự nhiên ln có những đặc điểm riêng, và chỉ khi
học sinh nắm bắt được các đặc điểm đó thì mới có thể viết ra một bài văn hay.
*Ghi chép:
Quan sát luôn đi liền với ghi chép. Ghi chép là cách ghi nhớ tốt nhất, từ đó nó
giúp cho học sinh có thể lựa chọn được chi tiết miêu tả tốt nhất. Vì thế ngay từ đầu
năm học tơi đã cho mỗi em trong lớp làm riêng một quyển sổ tay văn học và hướng
các em ghi chép: Khi quan sát một cảnh hoặc một người nào đó, các em cần lựa chọn
những chi tiết, những hình ảnh đặc sắc ghi vào sổ tay. Hay thông qua các bài tập đọc,
các bài thơ, bài đọc thêm hay các tác phẩm văn học mà các em đã từng đọc các em
phát hiện 1 ý hay, 1câu văn hay thì nên ghi ngay vào số của mình.
Biện pháp 3: Thực hành tốt các dạng bài tập sau: Thực hành vào những

tiết luyện tiếng Việt
Dạng 1: Hướng dẫn học sinh cách dùng từ:
Trong suốt thời gian học Tiểu học các em luôn luôn được học tập để mở
rộng thêm vốn từ của bản thân mình. Nhưng việc dùng từ của các em đơi lúc chưa
thật hợp lí và thiếu tính chính xác. Mà việc dùng từ chính xác, dùng từ sau cho hay lại
là yêu cầu quan trọng và cấp thiết trong văn miêu tả. Để học sinh thực hiện tốt việc
dùng từ, tôi đã hướng dẫn các em thực hành dạng bài tập sau:
- Giáo viên chọn đối tượng miêu tả.
- Học sinh tìm từ tả đối tượng đó.
Qua bài tập giáo viên kết luận lại kiến thức giúp học sinh chọn ra từ ngữ chính
xác nhất để miêu tả sau đó cho học sinh thực hành viết đoạn văn miêu tả.
Ví dụ:
*Tả cảnh


Đối
tượng
Ng

Từ ngữ cần

Câu , đoạn văn

dùng
Khang trang,

Tồn bộ ngơi trường được sơn

ôi trường đỏ tươi, đồ sộ, cao màu vàng trơng thật khang trang,
vút, phần phật


sạch đẹp. Mái lợp ngói đỏ tươi. Từ
cổng vào, ngay chính giữa của ngơi
trường đồ sộ là cột cờ cao vút. Trên
đỉnh cột, lá cờ đỏ sao vàng phần
phật bay trước gió....

*Tả một người mà em yêu mến

Đ

Từ ngữ cần

Câu, đoạn văn (Học sinh hình thành)

ối tượng dùng (đã được giáo
viên và học sinh
chắt lọc)
M


Cao, mảnh

Mẹ có dáng người cao, mảnh

mai, trịn đen, ngắn, mai, đơi mắt trịn đen, mái tóc ngắn.
hiền lành, dịu dàng, Mẹ hiền
nghiêm khắc
E


m gái

Trịn bầu

lành, dịu

dàng nhưng

rất nghiêm khắc.
Em có khn mặt trịn bầu bĩnh,

bĩnh,trịn xoe, ngơ

đơi mắt trịn xoe như hai hịn bi ve, đơi

ngác, hồn nhiên,

mắt ấy ln ngước nhìn với một

đậm đen tuyền,

vẻ ngơ

cao,to, phúng

nhiên, tươi vui của trẻ thơ. Điểm vào

phính,ửng hồng,

đó là cặp chân mày đậm đen tuyền.


rạng rỡ

Mũi em cao và to tôi thường dùng tay

ngác toát

lên

sự hồn

vuốt cái mũi ấy để trêu em gái. Đơi
má phúng phính ửng hồng. Cái miệng


nhỏ xinh lúc nào cũng nở một nụ
cười rạng rỡ để lộ ra mấy chiếc răng
đang thay trông thật đáng yêu.
Dạng 2: Hướng dẫn HS dùng cặp từ quan hệ
Các em ở giai đoạn này đã được học và đặt câu với các từ chỉ quan hệ
như: nhưng, mà, tuy, song,... và đến lớp 5 các em sẽ được học tiếp các cặp quan hệ
từ như: Nếu...thì; tuy... nhưng; chẳng những...mà cịn...Mà những câu văn có cặp
từ chỉ quan hệ có tác dụng nhấn mạnh ý định nói ở vế sau. Vì vậy khi học sinh sử
dụng tốt các cặp từ chỉ quan hệ cũng là một cách để các em viết tốt bài văn miêu tả.
Do đó tơi đã tiến hành cho học sinh thực hành nhiều với các dạng bài tập này. Hình
thức bài tập làm như sau:
- Giáo viên đưa ra câu văn có ý định tả.
- Học sinh dùng từ chỉ quan hệ viết lại câu văn (có thêm ý định tả) đã cho theo
ý mình.
* Ví dụ:

Câu văn GV đưa ra

Câu văn HS hồn chỉnh

- Dịng sơng q em khơng

- Dịng sơng q em tuy khơng rộng

rộng.

lớn nhưng lại chứa đầy cá tơm.
-Gió giật càng mạnh, mưa càng to
-Gió giật mạnh, mưa to cây cây cối nghiêng ngả trong màn nước

cối nghiêng ngả trong màn nước trắng xóa.
trắng xóa.
- Chị em có làn da khơng
trắng.

-Tuy chị em có làn da khơng được
trắng trẻo nhưng nó lại vô cùng mịn

màng.
Dạng 3: Hướng dẫn học sinh dùng từ thay thế để liên kết câu
Một lí do khác khiến các em không viết được một bài văn hay nữa là do các em
lặp từ quá nhiều trong bài văn, không biết cách dùng các từ thay thế. Để khắc phục


lỗi này ta có thể hướng dẫn các em sử dụng các đại từ khác nhau hoặc dùng các bộ
phận song song để liên kết các câu, các ý. Và muốn học sinh sử dụng thành thạo các

đại từ thay thế thì người thầy giáo cần hướng dẫn các em thật kĩ ở các tiết dạy Luyện
từ và câu và ở các tiết học khác có các đoạn văn có sử dụng các từ thay thế. Với hình
thức giáo viên đưa ra đoạn văn, câu văn có từ ngữ lặp lại cho học sinh thay thế để
tránh sự lặp lại đó. Người thầy giáo cũng có thể tổ chức thành trị chơi giữa các nhóm
nhầm tăng thêm hứng thú học tập cho học sinh.
Ví dụ: Tả người và tả cảnh:

Câu văn, đoạn văn mẫu

Câu văn, đoạn văn của học sinh
viết

- Chị em có vóc dáng dong

- Chị em có vóc dáng dong dỏng

dỏng cao. Chị em có mái tóc tơ cao. Chị có mái tóc tơ mịn ln cắt ngắn
mịn. Chị em có đơi mắt trong xanh . đến bờ vai. Đẹp nhất là đôi mắt trong
xanh của chị.
-Trường em là trường Tiểu

-Trường em là trường Tiểu học

học Trung An A. Trường em nằm Trung An A. Trường nằm trên một khu đất
trên một khu đất rộng và bằng rộng và bằng phẳng ở giữa cánh đồng lúa
phẳng giữa cánh đồng lúa rộng rộng lớn. Mới đây, ngôi trường được xây
lớn. Trường em mới được xây cất cất lại trông thật khang trang.
lại trông thật khang trang.
Dạng bài tập 4: Hướng dẫn học sinh cách dùng biện pháp so sánh:
Ở các lớp dưới các em đã được học là thực hành làm bài tập so sánh. Tuy

nhiên, các em chưa động não liên tưởng để tìm ra hình ảnh cần so sánh, hoặc so sánh
thiếu chính xác. Để rèn luyện dạng này, tôi tiến hành cho các em thực hiện các dạng
bài tập sau:
- Giáo viên đưa ra câu văn miêu tả.
- Học sinh tìm ra hình ảnh so sánh, từ so sánh và đặt lại câu.
* Ví dụ:


Câu văn giáo viên
đưa ra

Hình ảnh

Câu văn, đoạn văn học

so sánh (HS)

- Bàn tay em bé

Như

sinh viết

búp

măng

- bàn tay của bé Na trông
như những búp măng mới nhú.


- Cổng trường uy

- Cổng truo7ng2that65 uy

nghi

Như người nghhi như người lính cần cù
.

lính

đứng canh gác cho trường.

Dạng 5: Hướng dẫn học sinh cách dùng biện pháp nhân hóa:
Một bài văn hay khơng những phải biết tìm ra các hình ảnh so sánh đặc
sắc mà còn cần người viết phải biết sử dụng các biện pháp tu từ khác như nhân hóa
để có thể khiến sự vật hiện tượng được miêu tả trong bài văn trở nên sống động và có
tình cảm hơn, dễ đi sâu vào lòng người hơn. Tuy nhiên các em lại khơng biết hoặc có
biết thì cũng sử dụng một cách rất hạn chế các hình ảnh nhân hóa trong bài. Do vậy
để giúp các em thành thạo kĩ năng nhân hóa trong viết văn, giáo viên có thể cho học
sinh thường xuyên thực hiện dạng bài tập tìm kiếm hình ảnh nhân hóa như sau:
(giống dạng bài tập so sánh)
*Ví dụ:
Câu văn của giáo viên

Câu văn của học sinh (có nhân
hóa)

- Gió thổi qua vườn cây nghe
xào xạc.


- Chị

gió vào

vườn

cây trị

chuyện cùng hoa trái làm rơn rả cả một

- Bầy chim vành khun hót góc vườn.
líu lo.

- Bầy chim vành khuyên chụm đầu
vào nhau trò chuyện râm ran cả một khu
vườn.
Dạng 6: Hướng dẫn HS phương pháp đảo ngữ
Để nhấn mạnh ý của một bộ phận nào đó trong câu, ta có thể đảo vị trí của nó.

Đảo ngữ còn làm cho câu văn trở nên ấn tượng. Chính vì vậy để có bài văn hay,


người viết có thể cho học sinh làm quen với đảo ngữ qua bài tập như: tìm chủ ngữ, vị
ngữ của các câu văn có đảo ngữ hoặc thực hành đảo ngữ các câu văn.
*Nhưng không phải câu văn nào đảo ngữ cũng hay, do đó GV hướng dẫn HS
biết chọn lọc khi thực hành viết văn.
*Ví dụ:
Câu văn khơng có đảo ngữ


Câu văn đảo ngữ

-Trước mắt em hiện lên một

- Một cánh đồng cò bay thẳng cánh

cánh đồng cò bay thẳng cánh.

hiện lên trước mắt em.

- Bạn ấy có sở trường là đá

- Sở trường của bạn ấy là đá bóng.

bóng
Biện pháp 4: Làm tốt giờ trả bài
Thường thì giáo viên lẫn học sinh ít quan tâm đến giờ trả bài. Tuy nhiên theo
tôi việc chấm và trả bài bài tập làm văn là rất quan trọng. Chất lượng của các bài văn
cũng phụ thuộc rất nhiều vào giờ trả bài. Bởi thông qua giờ trả bài các em sẽ biết
mình viết hay chỗ nào, chưa hay chỗ nào. Viết sai chỗ nào về lỗi chính tả, cách dùng
từ, đặt câu, cách diễn đạt... Từ đó các em tự nhận ra khuyết điểm của bản thân và tự
sửa chữa, hoặc cùng các bạn sửa chữa để cùng nhau tiến bộ.
3.KẾT QUẢ THỤC HIỆN:
Qua quá trình thực hiện, hiệu quả làm văn của lớp tôi rất khả quan. Đa số
học sinh dùng từ chính xác, biết dùng từ gợi tả, viết văn giàu hình ảnh, biết vận dụng
các biện pháp tu từ trong bài văn của mình. Kết quả bài tập làm văn của lớp cụ thể
qua từng thời điểm sau:

Giai
đoạn


TS
HS

Hoàn thành
tốt
TL

L
năm

32

Chưa hoàn
thành

S
Đầu

Hoàn thành
S

TL

L
2

6,2
5%


TL

1

56,2

L
1

2

S

37,
5%

8

5%


KT

32

5

GKI

15,

6%

KTC

32

7

KI

7
21,

9%
KT

32

8

1
%
2
0

25

GKII

53

0
62,

31,4
%

5

5%
2

4

1

15,6
%

75

0

0%

%

Không riêng nội dung các bài văn miêu tả mà hầu hết phần kiến thức cơ bản
của môn tập làm văn lớp 5 học sinh lớp tôi làm bài rất đảm bảo yêu cầu.
Sau khi áp dụng kêt quả nghiên cứu vào lớp học thì chất lượng các bài văn
miêu tả (tả cảnh, tả người) của lớp tơi có sự thay đổi rõ rệt. Các em đã biết cách dùng

từ, đặt câu trong miêu tả, các em biết sử dụng ngữ nghĩa rất chính xác. Các bài tập
làm văn của các em khơng cịn mang tính liệt kê, kể lể nữa. Thực sự các bài văn đã
được thổi hồn vào trong. Một phần nào cũng đáp ứng được những gì mà người bản
thân tơi mong đợi từ các em.
TÍNH MỚI:

4.

C. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT:
1. KẾT LUẬN:
Để học sinh có kĩ năng thực hành viết văn hay, giàu hình ảnh thì việc rèn
luyện các bài tập thực hành trên là rất quan trọng và cần thiết. Nhưng vấn đề đặt ra là
thực hành vào lúc nào, mơn học nào,với hình thức gì lại càng quan trọng hơn. Tùy
theo nội dung từng bài học, đặc điểm của từng môn học, GV lựa chọn cho HS luyện
tập dưới dạng bài tập hay trị chơi ngay trong q trình cung cấp kiến thức hay luyện
tập củng cố.
Song quan trọng hơn, trong các tiết phụ đạo, các tiết luyện Tiếng Việt
trong tuần GV cho HS luyện tập kĩ hơn thì nhất định kĩ năng viết văn của HS sẽ được
nâng cao.


Với các bài tập thực hành trên, tôi đã rèn luyện thành thạo kĩ năng dùng
từ gợi tả, các biện pháp tu từ....cho HS. Từ đó, các em biết vận dụng kiến thức, vốn từ
của mình để viết văn hay hơn, giàu hình ảnh hơn.
Từ các biện pháp trên, tơi nhận ra rằng: Để hồn thành nhiệm vụ này có
hiệu quả cần làm tốt một số vấn đề sau:
1, Kiểm tra đánh giá chất lượng học sinh thật chính xác ngay từ đầu năm học
và có kế hoạch phụ đạo các em ngay từ những tuần đầu của năm học
2, kiên trì chịu khó trước sự phát triển chậm của HS, phải biết ghi nhận từng
tiến bộ của các em dù là nhỏ nhất. Đó là điều kiện cần thiết của người giáo viên.

3, Phải nghiên cứu tìm tịi nội dung bài học để tìm ra phương pháp giảng dạy
cho học sinh của mình. Khi dạy cần kểt hợp khắc sâu, mở rộng và chỉ rõ từng bước
để các em hiểu, làm theo và dần dần trở thành kĩ năng.
4, Tiếp tục nghiên cứu, tìm tịi để đề ra nhiều giải pháp nhằm nâng cao chất
lượng văn miêu tả, đặc biệt ở trường Tiểu học cho học sinh yếu kếm là vô cùng cần
thiết và phù hợp với yêu cầu thực tiễn.
Trẻ em là tương lai của đất nước, là hạnh phúc của mỗi gia đình, chúng
ta hãy trang bị cho các em một hệ thống tri thức cơ bản, vững chắc để các em tự tin
bước vào đời.
2. ĐỀ XUẤT:
* Đối với giáo viên:
- Dạy tốt các phân môn Tập đọc, Kể chuyện, Luyện từ và câu và đặc biệt
là phân môn Tập làm văn.
-Tận dụng thời gian rèn luyện cho học sinh thói quen sử dụng từ gợi tả chính
xác và dùng biện pháp tu từ khi viết văn.
- Chú ý cho học sinh biết chọn từ phù hợp với văn cảnh
- Rèn nhiều hơn các đối tượng trung bình, yếu để các em vươn lên cùng các
bạn.
*Đối với quản lí:


Thường xuyên tổ chức sinh hoạt chuyên môn về chuyên đề phân môn
Tập làm văn để giáo viên học hỏi và nắm chắc phương pháp dạy học nhất là thể loại
miêu tả đồng thời học hỏi kinh nghiệm lẫn nhau trong quá trình dạy học.
Trên đây là một số kinh nghiệm mà bản thân tôi đã thực hiện trong
những năm làm công tác giảng dạy. Đồng thời tôi cũng chia sẻ cùng đội ngũ giáo
viên của mình và đã thực hiện có hiệu quả. Tơi rất mong được sự đóng góp của tất cả
đồng nghiệp để tơi có thêm những kinh nghiệm nhằm góp phần vào cơng tác giáo
dục- đào tạo trong những năm tiếp theo đạt được hiệu quả cao hơn, Tôi xin chân
thành cảm ơn!




×