Tải bản đầy đủ (.docx) (9 trang)

SKKN Biện pháp rèn kĩ năng đọc diễn cảm trong phân môn Tập đọc cho học sinh lớp 4C Trường Tiểu học Bình Thuận

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (96.6 KB, 9 trang )

PHẦN I: MỞ ĐẦU
Trong hệ thống giáo dục, bậc Tiểu học được coi là bậc học nền móng.
Đây là bậc học quan trọng đối với sự phát triển của trẻ em, là thời gian hình
thành nhân cách và năng lực trí tuệ cho trẻ. Giáo dục tiểu học được thực hiện
trong năm năm học, từ lớp 1 đến lớp 5. Mục tiêu là giúp tất cả học sinh biết đọc,
biết viết và biết tính tốn với những con số ở mức độ căn bản, cũng như thiết lập
những hiểu biết căn bản về khoa học, toán, địa lý, lịch sử, và các môn khoa học
xã hội khác. Trong dạy học Tiếng Việt ở trường Tiểu học nói chung, dạy Tập đọc
nói riêng có một vị trí vơ cùng quan trọng, là nền tảng để học sinh có điều kiện
học tiếp lên các bậc cao hơn. Dạy tập đọc có vị trí then chốt để học sinh có kĩ
năng sử dụng tốt tiếng việt, trau dồi ngôn ngữ, bồi dưỡng vốn kiến thức về đời
sống, giúp các em có cơ sở để học tốt các môn học khác.
Đây là một phân mơn có vị trí đặc biệt trong chương trình vì nó đảm
nhiệm việc hình thành và phát triển cho học sinh kĩ năng chuyển chữ viết thành
ngôn ngữ, một kĩ năng quan trọng hàng đầu của học sinh ở bậc Tiểu học. Những
kinh nghiệm đời sống, những thành tựu văn hóa, khoa học, những tư tưởng, tình
cảm của thế hệ trước và của cả những người đương thời phần lớn được ghi lại
bằng chữ viết. Nếu khơng biết đọc thì con người khơng thể tiếp thu nền văn
minh của lồi người, khơng thể sống một cuộc sống bình thường…và ngược lại.
Đối với học sinh kĩ năng đọc là yêu cầu cơ bản đầu tiên. Nếu không biết đọc các
em sẽ không tham gia vào các hoạt động học của các mơn khác được. Vì vậy,
dạy đọc có ý nghĩa rất quan trọng trong chương trình Tiểu học.
Trong phân mơn Tập đọc khi học sinh biết đọc diễn cảm bài văn, bài thơ
sẽ tạo cho các em sự say mê, hứng thú trong học tập. Thông qua các bài tập đọc,
học sinh biết yêu quê hương, đất nước, lòng tự hào dân tộc, tiếp bước truyền
thống cha ông, xây dựng quê hương ngày càng giàu đẹp. Hơn thế nữa việc dạy
học sinh biết đọc diễn cảm giúp các em biết cách giao tiếp lịch sự hơn khi nói
lời cảm ơn, lời xin lỗi, lời chào hỏi, lời nhờ, lời yêu cầu…
Trong q trình dạy Tập đọc ở lớp 4C, tơi nhận thấy chất lượng đọc của
một số học sinh lớp tôi còn chưa tốt, các em đọc còn chậm, đọc chưa lưu loát,
đọc nhỏ, ngắt nghỉ câu chưa đúng, đọc sai ngữ điệu. Phần lớn học sinh chưa biết


đọc diễn cảm. Vì chưa thể hiện diễn cảm trong bài đọc nên trong quá trình giao
tiếp các em chưa thể hiện được sự giao tiếp lịch sự. Mỗi học sinh khi đã có được
kĩ năng đọc diễn cảm thì chắc chắn việc cảm thụ văn học dễ dàng hơn và sâu sắc
hơn. Để nâng cao chất lượng đọc diễn cảm cho học sinh thì: “Biện pháp rèn kĩ
năng đọc diễn cảm trong phân môn Tập đọc cho học sinh lớp 4C Trường Tiểu
học Bình Thuận” mà tơi đã áp dụng là một giải pháp rất hiệu quả.
PHẦN II. MÔ TẢ BIỆN PHÁP


2
1. Thực trạng
a. Đặc điểm tình hình của lớp 4C năm học 2020 - 2021
Năm học 2020 - 2021 tôi được nhà trường phân công chủ nhiệm lớp 4C.
Tổng số học sinh là 38 em, trong đó 20 em nam, 18 em nữ, dân tộc 10 em.
b. Khảo sát thực tế
Ngay từ đầu năm tôi đã khảo sát các em qua bài tập đọc “Dế Mèn bênh vực
kẻ yếu”, “Mẹ ốm” và thu được kết quả như sau:
Thời
gian

TS

Đọc tốt
SL

Tháng
9/2020

38


TL
(%)

4/38 10,5

Đọc không
đúng tốc độ
SL
8/38

TL
(%)

Đọc sai
cường độ

Ngắt nghỉ
hơi sai

SL

SL

TL
(%)

TL
(%)

Đọc sai ngữ

điệu
SL

TL
(%)

21,1 7/38 18,4 9/38 23,7 10/38 26,3

Qua kết quả thực tế khảo sát tôi nhận thấy rằng kĩ năng đọc của học sinh lớp
tôi chủ nhiệm mới dừng ở mức độ nhất định. Có em đọc chậm, sai từ; có những em
thực hiện khá tốt kĩ năng đọc lưu lốt, trơi chảy nhưng kĩ năng đọc diễn cảm vẫn
còn nhiều hạn chế; có em đã đọc lưu lốt nhưng chất giọng và biểu đạt giọng đọc
văn bản chưa hấp dẫn, chưa lôi cuốn đựơc người nghe, chưa thể hiện đựơc cái hay
của nội dung văn bản. Trong khi đọc các em thường đọc giọng đều đều chung
chung như nhau. Các em chưa có kĩ năng đọc biểu thị linh hoạt theo ngữ điệu từng
loại câu, những từ ngữ quan trọng trong câu, các tiếng gieo vần trong thơ các em
chưa phân biệt rõ ràng. Đặc biệt dấu hiệu chuyển đổi giọng biểu thị niềm vui, nỗi
buồn, sự nghiêm trang còn hạn chế hoặc các từ ngữ phiên âm nước ngoài các em
đọc chưa chuẩn. Khi đọc các em chưa thể hiện tính cách của nhân vật trong bài văn
hội thoại và thường mắc vào lỗi cụ thể như sau:
* Lỗi về đọc khơng đúng tốc độ: Ở những văn bản địi hỏi phải thể hiện
tốc độ đọc nhanh (Ví dụ bài: Vẽ về cuộc sống an toàn), khi yêu cầu đặt ra như
thế học sinh thường hiểu là với văn bản này phải đọc liến thoắng đọc nhanh đến
nỗi người nghe không thể nào theo dõi được hoặc đối với những văn bản yêu
cầu đặt ra là đọc chậm rãi (Ví dụ bài: Thư thăm bạn) thì học sinh lại đọc quá
chậm: đọc từng tiếng một rời rạc như có cảm giác học sinh vừa đọc vừa dừng lại
để đánh vần.
* Lỗi về đọc khơng đúng cường độ: Khi nói đến sử dụng cường độ trong
đọc diễn cảm cần phải nói đến chuyện dạy đọc to cho học sinh. Đọc phải đủ lớn
để các bạn ngồi ở vị trí xa nhất cũng có thể nghe được. Nhưng thực tế trong một

lớp học vẫn còn tồn tại một số học sinh đọc quá nhỏ thậm chí giọng đọc phát ra
khơng đủ để cho bạn ngồi cùng bàn có thể theo dõi được.
* Đọc không đúng chỗ ngắt nghỉ hơi: Học sinh thường ngắt giọng sai ở
những câu văn dài, có cấu trúc ngữ pháp phức tạp.


3
+ Ví dụ: Bài: Đơi giày ba ta màu xanh. Học sinh thường ngắt sai vị trí:
Tơi tưởng tượng nếu mang nó/ vào chắc bước đi sẽ nhẹ và nhanh hơn, tôi
sẽ chạy trên những con đường đất mịn trong làng trước/ cái nhìn thèm muốn của
các bạn tơi.
+ Trong bài thơ, ví dụ: Bài: Truyện cổ nước mình.
Với thơ lục bát các em thường ngắt nhịp 2/2/2 (6 tiếng); 4/4 (8 tiếng).
Ví dụ:

Vàng cơn/ nắng, trắng/ cơn mưa
Con sơng chảy có/ rặng dừa nghiêng soi.

* Lỗi về đọc khơng đúng ngữ điệu: Học sinh chỉ biết đọc đều đều cho tất
cả các loại câu: câu kể, câu khiến, câu cảm, câu hỏi; khơng biết cách thể hiện khi
nào thì thể hiện ngữ điệu yếu, ngữ điệu mạnh, ngữ điệu xuống, ngữ điệu lên.
+ Ngữ điệu lên xuất hiện ở các câu hỏi:
Ví dụ: Lẽ nào thóc ấy cịn mọc được? (Bài: Những hạt thóc giống) nhưng
có em lại đọc với ngữ điệu xuống.
+ Ngữ điệu yếu, nghỉ hơi dài sau chỗ có dấu chấm lửng.
Ví dụ: Đơi mơi tái nhợt, áo quần tả tơi thảm hại… (Bài: Người ăn xin)
nhưng có em lại đọc với ngữ điệu mạnh.
+ Ngữ điệu mạnh xuất hiện ở câu cảm và câu khiến như là:
Ví dụ: Câu cảm: Chao ơi ! Cảnh nghèo đói đã gặm nát con người đau khổ
kia thành xấu xí biết nhường nào! (Người ăn xin); câu khiến: Thật đáng xấu hổ!

Có phá hết vịng vây đi khơng? (Dế Mèn bênh vực kẻ yếu) nhưng có em lại đọc
với ngữ điệu yếu.
2. Những giải pháp đã áp dụng
2.1. Phân loại học sinh
Sau khi nhận lớp, tôi đã ổn định cơng tác tổ chức lớp, tìm hiểu và điều tra
để phân loại kĩ năng đọc của học sinh theo 4 nhóm:
Nhóm 1: Đọc khơng đúng tốc độ
Nhóm 2: Đọc sai cường độ
Nhóm 3: Ngắt, nghỉ hơi sai
Nhóm 4: Đọc sai ngữ điệu
Dựa vào đó, tơi đã sắp xếp chỗ ngồi cho học sinh; những học sinh đọc
khá, tốt tôi xếp ngồi cùng bàn với những học sinh đọc chưa tốt để cùng nhau tiến
bộ trong đọc nhóm. Đồng thời giúp học sinh hiểu tầm quan trọng, những yêu
cầu cơ bản về việc rèn luyện kỹ năng đọc diễn cảm giúp các em cảm thụ bài văn,
bài thơ của từng chủ đề.


4
2.2. Phân loại văn bản
* Đối với văn bản nghệ thuật
Tôi hướng dẫn học sinh đọc diễn cảm thông qua dẫn dắt, gợi mở giúp các
em thể hiện tình cảm, thái độ qua giọng đọc phù hợp với sự việc, hình ảnh, cảm
xúc, tính cách nhân vật trong bài.
Tuy nhiên học sinh đọc diễn cảm như thế nào còn phụ thuộc vào sự cảm
nhận riêng của từng em. Tôi không áp đặt cho các em một cách đọc theo một
khuôn mẫu.
* Đối với loại hình văn bản phi nghệ thuật
Giáo viên hướng dẫn học sinh xác định được ngữ điệu đọc sao cho phù
hợp với mục đích thơng báo, làm rõ những thông tin cơ bản, giúp người nghe
tiếp nhận được những vấn đề quan trọng hay nổi bật trong văn bản. Khắc phục

được những cách đọc thiên về hình thức hoặc diễn cảm tùy tiện.
Ví dụ: Bài tập đọc “Vẽ về cuộc sống an toàn”
Học sinh biết đọc đúng bản tin, đọc rõ ràng, rành mạch, vui tốc độ khá
nhanh, lưu ý ngắt nghỉ hơi đúng sau các dấu câu, nghỉ hơi tự nhiên, tách các
cụm từ trong những câu khá dài.
2.3. Tổ chức dạy đọc đúng để tiến tới đọc diễn cảm
Khi học sinh đọc sai từ có thể sai về âm, về vần hoặc sai về dấu thanh
giáo viên sửa trực tiếp cho học sinh trong khi đọc sau đó ghi từ HS đọc sai lên
bảng và sửa lại một lần nữa cho cả lớp.
Đối với những văn bản nước ngoài giáo viên hướng dẫn thật cụ thể cách
đọc những từ được phiên âm thành Tiếng việt như: Lu-i Paxtơ, Vê-rơ ki-ơ…
Giáo viên phải có sự chuẩn bị bài tốt trước khi lên lớp để ngăn ngừa các
lỗi khi đọc. Tùy đối tượng học sinh, giáo viên xác định các lỗi phát âm mà học
sinh địa phương dễ mắc phải để định ra các tiếng, từ, cụm từ, câu khó để cho
những học sinh đó luyện đọc.
2.4. Tổ chức đọc diễn cảm
Sau khi đọc đúng lưu loát giáo viên mới tiến hành cho học luyện đọc diễn
cảm. Để đọc diễn cảm thì người đọc phải làm chủ được tốc độ đọc, chỗ ngắt
giọng, biết nhấn giọng ở những từ ngữ gợi cảm, gợi tả, biết đọc đúng ngữ điệu
khi gặp câu hỏi, câu cảm…
* Biện pháp luyện đọc diễn cảm
Từ sự đọc đúng, hiểu nội dung bài học sinh cảm nhận được cái hay, cái
đẹp của bài văn, bài thơ. Từ đó học sinh thể hiện bài đọc như bộc lộ cảm xúc của
mình, nhập vai nhân vật và tái hiện bằng giọng đọc, lột tả được cái thần của bài
văn, bài thơ cho người nghe cảm nhận được nội dung. Trong giờ Tập đọc, tôi


5
hướng dẫn các em luyện tập để từng bước đạt được những yêu cầu theo các mức
độ từ thấp đến cao như sau:

- Biết ngắt nghỉ hơi hợp lí, nhấn mạnh các từ ngữ quan trọng trong câu (từ
ngữ gợi tả, gợi cảm, từ ngữ chìa khóa làm nổi bật ý chính ...)
+ Ví dụ: Trong bài: Đơi giày ba ta màu xanh. Có học sinh đọc ngắt, nghỉ
hơi và nhấn giọng chưa đúng như:
Tơi tưởng tượng nếu mang nó/ vào chắc bước đi sẽ nhẹ và nhanh hơn, tôi
sẽ chạy trên những con đường đất mịn trong làng trước/ cái nhìn thèm muốn của
các bạn tơi.
Lúc này tơi u cầu HS suy nghĩ, đọc nhẩm lại để tìm lại chỗ ngắt, nghỉ
hơi cho hợp lí rồi gọi 1 đến 2 học sinh đọc. Giáo viên tổ chức cho học sinh nhận
xét thông qua hệ thống câu hỏi gợi ý: Em nào có ý kiến khác? Bạn đọc ngắt,
nghỉ hơi như thế đã hợp lí chưa?... sau đó giáo viên thống nhất cách đọc. Trường
hợp nếu như khơng có HS nào đọc đúng thì tơi đọc cho HS lắng nghe và phát
hiện rồi thống nhất cách đọc đúng và gọi học sinh đọc lại.
Tơi tưởng tượng/ nếu mang nó vào chắc bước đi sẽ nhẹ và nhanh hơn,/ tôi
sẽ chạy trên những con đường đất mịn trong làng/ trước cái nhìn thèm muốn của
các bạn tơi.
+ Trong bài thơ, ví dụ: Bài: Truyện cổ nước mình; với thơ lục bát các em
thường quen ngắt nhịp 2/2/2 (6 tiếng); 4/4 (8 tiếng).
Vàng cơn/ nắng,/ trắng/ cơn mưa
Con sơng chảy có/ rặng dừa nghiêng soi.
Lúc này tôi yêu cầu học sinh xét xem nghĩa của từng từ, cụm từ mà các
em vừa đọc có đúng khơng? Theo em nếu ngắt ở đó có hợp lí khơng rồi u cầu
học sinh đọc lại và thống nhất lại cách đọc như sau:
Vàng cơn nắng,/ trắng cơn mưa
Con sơng chảy/ có rặng dừa nghiêng soi.
- Biết thể hiện ngữ điệu phù hợp với từng loại câu (câu kể, câu hỏi, câu
cảm, câu khiến), phù hợp với tình huống miêu tả trong văn bản hay thái độ, cảm
xúc của tác giả (vui, buồn, trang trọng, giận dữ...)
+ Với câu văn có ngữ điệu yếu: Hầu hết tất cả các bài văn xuôi hay thơ
khi được đặt dấu câu ba chấm (…) đọc đến đây chúng ta phải hạ giọng thấp hơn

so với giọng đọc ban đầu. Dấu ba chấm ở đây chỉ sự ngập ngừng chưa nói hết
thì phải đọc với ngữ điệu yếu. Ví dụ: Bố khó thở lắm... (Trong bài: Nỗi dằn vặt
của An đrây - ca).
+ Với câu văn có ngữ điệu mạnh: Giáo viên lưu ý học sinh hầu hết các
kiểu câu khiến, câu cảm thì phải đọc với ngữ điệu mạnh. Ví dụ câu cảm: Chao ơi
! Cảnh nghèo đói đã gặm nát con người đau khổ kia thành xấu xí biết nhường


6
nào! (Bài: Người ăn xin); câu khiến: Thật đáng xấu hổ! Có phá hết vịng vây đi
khơng? (Bài: Dế Mèn bênh vực kẻ yếu).
+ Với câu văn có ngữ điệu xuống (hạ xuống): Thường dùng để kết thúc
câu kể (câu thường thuật). Nếu ta không hạ giọng ở cuối mỗi câu sẽ không tạo ra
sự luân chuyển nhịp nhàng cao độ của các câu. Vì vậy khi đọc chóng bị mệt và
người nghe khó theo dõi. Ngồi ra, ngữ điệu xuống thường dùng để đọc lời tác
giả trong những văn bản xen lẫn lời tác giả và lời nhân vật, nhất là khi lời tác giả
lọt vào những lời nhân vật.
Ví dụ: Người ăn xin vẫn đợi tơi. (Bài: Người ăn xin).
+ Với câu văn có ngữ điệu lên giọng: Khi đọc câu hỏi cần phải lên giọng.
Ví dụ: Ủa, chị cũng ở đó sao? (Chị em tơi) phải cao giọng ở cuối câu. Tuy
nhiên những câu hỏi kết thúc về ngữ khí thì khơng lên giọng.
Ví dụ: Có câu hỏi nhưng khi đọc không cần lên giọng ở cuối câu. Chẳng
hạn khi đọc: Mà sao nên lũy nên thành tre ơi? (Tre Việt Nam), đây là kiểu câu
hỏi nhưng khi đọc ta không lên giọng ở cuối câu mà lại hạ giọng ở cuối câu. Vì
đây là câu hỏi thể hiện tình cảm của của tác giả với hình ảnh cây tre, một câu hỏi
khơng cần có câu trả lời. Như vậy tùy thuộc vào từng văn bản cụ thể mà hướng
dẫn học sinh thể hiện đúng ngữ điệu.
+ Về tốc độ, cường độ: Giáo viên phải tập cho tất cả học sinh trong lớp
mình có thói quen đọc đúng tốc độ nghĩa là đọc không quá nhanh, không quá
chậm, tốc độ đọc phải phù hợp với từng loại bài; đọc đúng cường độ nghĩa là

phải đọc đủ lớn để cho cả lớp và cơ giáo có thể nghe được. Giáo viên giáo dục
cho học sinh hiểu được tác hại của việc đọc q nhỏ, thì cơ và các bạn sẽ không
theo dõi được, mà không theo dõi được thì khơng thể sửa sai cách đọc cho
chúng ta được.
- Biết đọc phân biệt lời kể của tác giả và lời nhân vật.
Ví dụ: Trong bài tập đọc Dế Mèn bênh vực kẻ yếu thì lời kể của tác giải
đọc với giọng nhẹ nhàng, chậm rãi còn lời của Dế Mèn thì phải thể hiện sự
mạnh mẽ, oai phong lẫm liệt.
Ai đứng chóp bu bọn này? Ra đây ta nói chuyện.
- Biết đọc phân biệt lời của nhân vật sao cho phù hợp với đặc điểm lứa
tuổi và tính cách của từng nhân vật (người già, trẻ em, người tốt, kẻ xấu...)
Ví dụ: Bài Tập đọc: “Khuất phục tên cướp biển”. Trong bài đọc có 2 nhân
vật chính là Bác sĩ Ly - một người nhân hậu, điềm đạm nhưng nghiêm nghị,
cương quyết và tên cướp biển - chúa tàu hung hãn, dữ tợn thì phải đọc với giọng
hồn tồn khác nhau.
2.5. Cách thể hiện nét mặt, điệu bộ, cử chỉ, ánh mắt


7
Tư thế, nét mặt, cử chỉ, ánh mắt là những biểu hiện bên ngồi của người
đọc có tác dụng bổ sung cho ngữ điệu đọc diễn cảm. Nét mặt phải thể hiện được
thái độ của người đọc đối với nội dung của tác phẩm một cách tự nhiên. Đọc
một câu chuyện vui nét mặt phải tươi sáng. Đọc một câu chuyện buồn nét mặt
cũng biểu lộ sự đồng cảm. Ngoài ra việc thể hiện ánh mắt điệu bộ cử chỉ cũng
làm tăng thêm sự giao cảm giữa người đọc với người nghe. Vì vậy tơi cịn rèn
thêm cho học sinh cả về cách thể hiện nét mặt, điệu bộ, cử chỉ, ánh mắt khi đọc.
- Để dạy cho học sinh làm quen và từng bước hình thành kĩ năng đọc diễn
cảm, giáo viên thường thông qua biện pháp đọc mẫu có tính định hướng, giúp
học sinh thực hành luyện tập thể hiện sự cảm nhận về nội dung, ý nghĩa của bài
đọc qua giọng đọc. Xuất phát từ trình độ của học sinh, tôi hướng dẫn luyện đọc

diễn cảm như sau:
+ Sau khi tìm hiểu bài, tơi u cầu học sinh đọc thật tốt một đoạn, nhằm
đánh giá khả năng thể hiện sự cảm nhận nội dung bằng giọng đọc của học sinh.
+ Qua kết quả đọc của học sinh, tôi dẫn dắt, gợi ý để học sinh phát huy ưu
điểm, khắc phục nhược điểm và tự tìm ra cách đọc sao cho hợp lí (Ví dụ: Đoạn
văn vừa rồi được đọc với giọng vui hay buồn? Để nêu bật đặc điểm của nhân
vật, bạn đã nhấn giọng ở những từ ngữ nào? Lời nói của nhân vật cần đọc với
thái độ như thế nào?).
+ Tôi đọc mẫu nhằm minh họa, gợi ý tạo tình huống cho học sinh nhận
xét, giải thích, tự tìm ra cách đọc.
+ Tạo điều kiện cho từng học sinh được thực hành luyện đọc diễn cảm
(theo cặp, nhóm) để tự rút kinh nghiệm; tổ chức cho học sinh thi đọc diễn cảm
trước lớp để học tập lẫn nhau và động viên, uốn nắn.
+ Giáo viên khen, tuyên dương học sinh vì khi nhận phản hồi tích cực, các
em cảm thấy tự hào, vững tin vào bản thân, có động lực để hồn thành cơng việc
tốt hơn nữa. Ví dụ khi học sinh đọc tốt tơi khen: Em đọc rất tốt ! Cô khen em !;
Em đọc bài tốt lắm ! Cô khen !; Em đọc tốt lắm ! Cố gắng phát huy em nhé !....
Để học sinh lớp 4 từng bước hình thành kĩ năng đọc diễn cảm, việc đọc
mẫu của giáo viên rất quan trọng. Để phát huy tính sáng tạo của học sinh khi đọc
diễn cảm cách tốt nhất là tôi tổ chức cho học sinh luyện tập “Tự bộc lộ” qua đó
giáo viên điều chỉnh cách đọc cho học sinh, tránh phân tích q chi tiết về cách
đọc rồi sau đó mới chuyển sang luyện đọc và đọc theo một cách giống hệt nhau.
Khi học sinh luyện đọc giáo viên tạo được trong lớp một khơng khí thoải mái.
Trong khi rèn đọc diễn cảm tôi thường xuyên chú ý đến những học sinh
rụt rè nhút nhát, khuyến khích, khơng gắt gỏng để tránh các em bị luống cuống.
Đối với học sinh nghịch ngợm phân tán tư tưởng, không chú ý đến tiết
học, tôi thường để ý thỉnh thoảng chỉ định các em đọc tiếp.
Đối với học sinh đọc yếu, ngoài việc hướng dẫn đọc dứt khoát từng từ,
cụm từ, với câu dài cho học sinh ngắt hơi đúng chủ đề ra yêu cầu rèn đọc ở nhà,



8
kiểm tra lại những yêu cầu đã đề ra đối với học sinh, việc này phải được tiến
hành thường xuyên khơng được ngắt qng.
Tóm lại sau mỗi giờ tập đọc tôi thường kiểm tra chất lượng đọc của học
sinh thông qua đọc thành tiếng cả 4 nhóm xem các em đã đọc diễn cảm chưa.
Không chỉ rèn đọc trong tiết tập đọc mà còn hướng dẫn các em trong giao
tiếp trong cuộc sống sinh hoạt hằng ngày giữa cô và trò, học sinh với học sinh,
với những người xung quanh. Rèn cho các em ở mọi lúc mọi nơi chứ không chỉ
riêng trong giờ tập đọc.
3. Kết quả
Sau một thời gian áp dụng những giải pháp trên, tôi đã đạt được một số
kết quả như sau:
* Đối với học sinh: Qua việc áp dụng các biện pháp trên vào việc dạy học
phân môn Tập đọc, tôi nhận thấy khả năng đọc của nhiều em có tiến bộ hơn, hạn
chế rất nhiều về tình trạng vừa đọc vừa đánh vần và khắc phục được rất nhiều lỗi
đọc sai do âm ngữ địa phương. Nhiều em biết đọc diễn cảm thể hiện nội dung
bài đọc. Học sinh hứng thú trong tiết học tập đọc hơn, kỹ năng đọc của các em
tiến bộ rõ rệt qua các tiết học tập đọc hàng ngày và thông qua một số môn học
khác như Đạo đức, Kể chuyện...Qua đó giúp các em thêm u mơn Tiếng Việt,
yêu thiên nhiên, yêu đất nước, con người. Việc học tốt phân mơn Tập đọc cịn
giúp các em học tốt các môn học khác, biết đọc diễn cảm giúp các em bồi bổ
thêm các kĩ năng trong giao tiếp, các em đã mạnh dạn và tự tin hơn khi tham gia
vào các hoạt động tập thể,... khi giao tiếp với người lớn, thầy cô, với bạn bè và
mọi người xung quanh như: nói lời chào hỏi, cảm ơn, xin lỗi, lời mời, lời đề
nghị,...
Cũng qua đó chất lượng đọc so với đầu năm của các em tăng lên rõ rệt.
Kết quả khảo sát cuối năm:
Thời
gian


TS

SL
Tháng
5/2021

38

Đọc không
đúng tốc độ

Đọc tốt
TL
(%)

27/38 71,1

Đọc sai
cường độ

Ngắt nghỉ
hơi sai

Đọc sai ngữ
điệu

SL

TL

(%)

SL

TL
(%)

SL

TL
(%)

SL

TL
(%)

3/38

7,9

2/38

5,2

3/38

7,9

3/38


7,9

Kết quả cuối năm: Tổng số học sinh: 38 em
Mơn
Tiếng việt

TSHS
38

Hồn thành tốt

Hồn thành

Chưa hồn
thành

SL

TL %

SL

TL %

SL

TL%

20/38


52,6

18/38

47,4

0

0


9
* Đối với giáo viên: Bản thân tôi khi nghiên cứu đã tìm ra một số biện
pháp và hướng đi giúp học sinh học tập tốt hơn. Đồng thời đánh giá hiệu quả đạt
được sau mỗi tiết dạy. Tạo được sự gần gũi, thân thiện giữa giáo viên với học
sinh.
III. KIẾN NGHỊ, ĐỀ XUẤT
1. Nhà trường: Tổ chức thêm nhiều hoạt động ngoại khóa như: Thi đọc
diễn cảm, thuyết trình văn học, thi kể chuyện, thi dẫn chương trình,... để các em
có điều kiện trao đổi, học hỏi lẫn nhau và phát huy năng lực sẵn có.
2. Phịng Giáo dục và Đào tạo Đại Từ: Mở thêm nhiều chuyên đề với
nội dung sinh hoạt về kĩ năng giao tiếp, kĩ năng thuyết trình, kĩ năng đọc diễn
cảm,...để giáo viên có cơ hội giao lưu, trao đổi kinh nghiệm lẫn nhau.
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Bình Thuận, ngày 20 tháng 9 năm 2021
NGƯỜI VIẾT

Lê Thị Vân




×