Tải bản đầy đủ (.docx) (50 trang)

Chuyen de Noi am anh thoi gian trong tho Xuan Dieu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.73 MB, 50 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span>

<span class='text_page_counter'>(2)</span>

<span class='text_page_counter'>(3)</span> Muïc Luïc Lời mở đầâu......................................................................................................................................................................................................................................................... 3 A.Cuộc đời và sự nghiệp....................................................................................................................... 4 1. Vài nét về tiểu sử và con người............................................................................................ 4 2. Sự nghiệp văn học................................................................................................................... 4 B. Nỗi ám ảnh về thời gian trong thơ Xuân Diệu.......................................................................... 11 I. Thời gian là gì? Thời gian trong nghệ thuật là gì?.........................................................11 II. Quan niệm về thời gian trong thơ Xuân Diệu................................................................12 III. Nguyên nhân nỗi ám ảnh thời gian................................................................................... 16 IV. Biểu hiện của nỗi ám ảnh thời gian trong nội dung thơ Xuân Diệu.........................17 1. Biểu hiện nỗi ám ảnh thời gian trong nội dung thơ Xuân Diệu............................17 a) Thời gian được tác giả cảm nhận vui........................................................................ 17 b) Thời gian được tác giả cảm nhận buồn.................................................................20 c) Thời gian đượct ác gỉa cảm nhận lưu luyến, bâng khuâng..................................21 d) Thời gian được tác giả cảm nhận moat cách nhớ tiếc...................................23 e) Thời gian được tác gỉa cảm nhận moat cách mạnh mẽ...................................25 f) Thời gian được tác giả cảm nhận moat cách giục giã, vội vàng.....................26 2. Biểu hiện của nổi ám ảnh thờig ian trong nghệ thuật thơ Xuân Diệu............28 a) Hình tượng mang tính biểu trưng........................................................................... 28 b) Keát caáu trong thô...................................................................................................... 32 c) Theå thô.......................................................................................................................... 33 d) Ngôn ngữ thơ............................................................................................................... 36 V. Ý nghĩa của nỗi ám ảnh thời gian đối với Xuân Diệu..................................................38 VI.. Sự khác biệt về quan niệm thời gian của Xuân Diệu so với các nhà thơ...........38. C. Đánh giá chung............................................................................................................................... 40.

<span class='text_page_counter'>(4)</span> D. Baøi tham khaûo................................................................................................................................. 41 Caùc nguoàn tham khaûo....................................................................................................................... 48 Nhaän xeùt cuûa giaùo vieân..................................................................................................................... 49.

<span class='text_page_counter'>(5)</span> LỜI MỞ ĐẦU Trải qua hơn bốn ngàn năm văn hiến, nền văn hóa dân tộc Việt Nam ta được tô điểm bởi nhiều bậc hiền tài, đi cùng với sự phát triển ấy, chúng ta không thể quên nhắc đến sự đóng góp to lớn của nền văn học. Giá trị văn học mang đến cho văn hóa nước nhà nói riêng và văn minh nhân loại nói chung là vô tận, không thể thẩm định hết. Từ thuở trung đại, văn học nước ta đã phát triển cực thịnh với những tên tuổi nổi tiếng như Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Nguyễn Đình Chiểu, Hồ Xuân Hương,… Đến thời hiện đại, văn học vẫn không ngừng phát triển nhờ sự đóng góp của những tác giả tài ba: Nam Cao, Tô Hoài, Tố Hữu, Chế Lan Viên, Xuân Diệu, Hàn Mạc Tử,… Riêng về mảng thi ca, cây bút nổi tiếng trong thi đàn Việt Nam (đặc biệt là Thơ Mới) với nhiều tác phẩm xuất sắc chính là Xuân Diệu- người được mệnh danh là “nhà Thơ Mới nhất trong những nhà Thơ Mới” hay “ông hoàng thơ tình”.Thơ của ông mang những nét riêng, không thể lẫn với bất kì nhà thơ nào chính bởi phong cách độc đáo, đậm chất phương Tây.Thơ Xuân Diệu luôn chất chứa niềm yêu đời thiết tha, nhưng cũng đượm chút buồn, tiếc nuối vì quy luật hữu hạn của vạn vật trên đời. Đến với chuyên đề về người thi sĩ lãng mạn này, chúng tôi xin phép được trình bày về một nét đặc trưng của thơ ông: “NỖI ÁM ẢNH VỀ THỜI GIAN TRONG THƠ XUÂN DIỆU”..

<span class='text_page_counter'>(6)</span> A)- CUỘC ĐỜI – SỰ NGHIỆP 1. Vài nét về tiểu sử và con người : Xuân Diệu tên thật là Ngô Xuân Diệu; sinh ngày 02/02/1916 tại Tùng Giản, Tuy Phước, Bình Định. Quê quán: Đại Lộc, Can Lộc, Hà Tĩnh. Xuân Diệu học tiểu học ở Quy Nhơn, sau đó ra học trung học ở Hà Nội và Huế. Năm 1940, ông thi đỗ Tham tá thương chính và vào làm việc tại Mĩ Tho. Một thời gian sau ông xin thôi việc ra Hà Nội kết bạn thơ với Huy Cận. Xuân Diệu tham gia cách mạng từ năm 1944. Sau Cách mạng tháng Tám, ông là Ủy viên Ban chấp hành Hội Văn hóa cứu quốc, thư kí tòa soạn Tạp chí Tiên phong. Ông là đại biểu Quốc hội khóa I; năm 1948 là Uûy viên Ban chấp hành Hội Văn nghệ Việt Nam. Từ 1957 cho đến khi qua đời, Xuân Diệu luôn được bầu vào Ban chấp hành Hội nhà văn Việt Nam. Ông được kết nạp vào Đảng năm 1949. Năm 1983, ông được công nhận là Viện sĩ thông tấn Viện Hàn lâm nghệ thuật nước Cộng hòa dân chủ Đức. Năm 1985, Xuân Diệu lâm trọng bệnh và qua đời.. 2. Sự nghiệp văn học : Di sản văn học đồ sộ với nhiều thể loại: - Trước Cách mạng tháng Tám: Trước Cách mạng tháng Tám, ông là nhà thơ được xem là "mới nhất trong các nhà Thơ Mới” (Hoài Thanh), là “người mang đến cho Thơ Mới nhiều cái mới nhất” (Vũ Ngọc Phan), ở thời kì này ông viết cả thơ lẫn văn xuôi. Trong đó đáng chú ý là: Thơ Thơ (1938), Gửi hương cho gió (1945), Phấn thông ràng (1939), Trường ca (1945). Thơ ông giai đoạn này mang đến một cách nhìn mới, một bút pháp mới, một cảm xúc mới và bao trùm là một thứ Thơ Mới thực sự mới.Những cách tân của Xuân Diệu và phong trào Thơ Mới đã góp phần đổi mới thơ ca Việt Nam, thực sự đưa thơ ca Việt Nam chuyển sang phạm trù hiện đại. Xuân Diệu cũng là nhà thơ tình yêu với những cung bậc nồng nàn và tha thiết.. - Sau Cách mạng tháng Tám: Sau Cách mạng tháng Tám, năng lực sáng tạo của Xuân Diệu không chỉ thể hiện ở thơ ca mà còn được bộc lộ ở nhiều thể loại văn học khác như bút kí, tiểu luận phê bình... ở thời kì này ông có nhiều tập thơ tiêu biểu như Riêng chung (1960), Mũi Cà Mau - cầm tay (1962), Một khối hồng (1964), Tôi giàu đôi mắt (1970), Thanh ca (1982)... Cũng như thơ ca ta trong giai đoạn này, thơ Xuân Diệu ca ngợi nhân dân đất nước, ca ngợi Đảng, Bác Hồ. Ông viết nhiều về xây dựng chủ nghĩa xã hội, về đấu tranh thống nhất nước nhà v.v... Nếu ngày xưa thơ ông bộc lộ lòng ham sống một cách thiết tha, một tình yêu rạo rực, thì ở giai đoạn này thơ ông vẫn là “sự sống chẳng bao giờ chán nản” của một hồn thơ gắn bó với nhân dân, đất nước. Xuân Diệu cũng là người để lại nhiều công trình nghiên cứu và phê bình văn học có giá trị. Ông viết về hầu hết các nhà thơ cổ điển Việt Nam với những tiểu luận văn học đặc sắc. Ông viết về Nguyễn Trãi. Nguyễn Du, Cao Bá Quát, Hồ Xuân Hương, Nguyễn Đình Chiểu, Tú Xương, Tản Đà, Trần Tuấn Khải... Viết về ai ông cũng có cái nhìn mới, khám phá ra nhiều cái hay mà người trước chưa đề cập đến. Ông cũng viết nhiều về công việc làm thơ, về thơ của các nhà thơ trẻ, về những hiểu biết của ông về ca dao, dân ca. + Thơ : Ngọn quốc kì (1945), Hội nghị non sông (1946), Dưới vàng sao (1949), Sáng (1953), Mẹ con (1954), Ngôi sao (1955), Riêng chung (1960), Mũi.

<span class='text_page_counter'>(7)</span> Cà Mau- Cầm tay ( 1962), Khối hồng(1964), Hai đợt sóng (1967), Tôi giàu đôi mắt (1970), Hồn tôi đôi cánh (1976), Thanh ca (1982). + Văn xuôi, tiểu luận, phê bình : Tiếng thơ (1951), Những bước đường tư tưởng (1958), Ba thi hào dân tộc (1959), Phê bình giới thiệu thơ (1960), Trò chuyện với các bạn làm thơ trẻ (1961), Dao có mài mới sắc (1963), Thi hào dân tộc Nguyễn Du (1966), Đi trên đường lớn (1968), Và cây dời mãi mãi xanh tươi (1971), Mài sắt nên kim (1977), Lượng thông tin và những kĩ sư tâm hồn ấy (1978), Các nhà thơ cổ điển Việt Nam ( hai tập; 1981& 1982). + Dịch và giới thiệu thơ nước ngoài của các nhà thơ như : Targo, Puskin, Maiacốpxki, Đimitrôva,... Tóm lại: Xuân Diệu là nhà thơ lớn của dân tộc, ông luôn là tấm gương lao động nghệ thuật bền bỉ, dẻo dai, giàu sức sáng tạo, đạt được nhiều thành tựu lớn trong sáng tác. Xuân Diệu là người giới thiệu, phê bình thơ rất tinh tế và sắc bén. Ông có được những thành công lớn không chỉ ở việc giới thiệu, phê bình thơ cổ điển, thơ ca hiện đại, mà còn ở cả thơ ca nước ngoài. Ông thường chỉ ra được cái hay, sự độc đáo ở mỗi nhà thơ qua tác phẩm của họ. Cuộc đời và thơ của Xuân Diệu gắn với quê hương đất nước. Ông có khát vọng hiến dâng sức lực và trí tuệ của mình cho dân tộc, ông không ngại khó khăn, gian khổ, hăng hái, nhiệt tình, đi khắp mọi nẻo đường Tổ quốc để phục vụ nhân dân … Chính vì lẽ đó, Xuân Diệu được tất cả độc giả trong nước yêu mến, ngưỡng mộ không chỉ ở thơ, mà còn ở tấm lòng say sưa và chân thành của ông trước cuộc đời. a) Xuân Diệu và thơ Xem xét hiệu ứng của thơ trong đời sống, những ấn tượng Xuân Diệu để lại trong lòng người không ai có thể bì kịp. Thay cho công thức “gương mặt tiêu biểu” đã mòn tôi muốn nói Xuân Diệu là hiện thân của Thơ Mới. Nếu bây giờ chỉ cần gọi tên một nhà thơ trong Thơ Mới thôi thì gần như tất cả sẽ gọi Xuân Diệu. * Xuân Diệu và Thơ Mới Xuân Diệu thường nói ông mang trong mình quê hương thống nhất. “Cha đàng ngoài má ở đàng trong” - cái lý của ông thật cụ thể. Mượn cách nói ấy khi xem xét sang lĩnh vực thơ tôi cũng muốn nói rằng ông mang trong mình nền thơ Việt Nam thế kỷ XX. Nửa đầu thế kỷ thơ Việt có chuyển đổi về mặt cơ cấu từ mô hình kiểu trung đại chuyển sang một mô hình hiện đại. Khi thơ như một cơ cấu đã ổn định từ sau 1945 cái định hướng rõ nhất là chuyển đổi chức năng để phục vụ xã hội. Trong cả hai cuộc vận động người ta đều thấy Xuân Diệu là một trong những tên tuổi được nhắc nhở nhiều nhất. Trong phạm vi Thơ Mới ông không có những bài thơ coi là mở đầu như Phan Khôi. Ông không có vai trò người khai phá đầy tài năng như Thế Lữ, không có những tác phẩm chín như Huy Cận. Song nói đến thời đại này là phải nói đến ông. Qua ông thấy cả sự vận động của Thơ Mới. Tuy cùng nằm trong khuôn khổ hiện đại hóa văn học song những gì diễn ra trong thơ tiền chiến khác hẳn trong văn xuôi. Với văn xuôi các nhà văn của ta bằng lòng làm.

<span class='text_page_counter'>(8)</span> người học trò nhỏ của văn học Pháp. Thơ thì khác. Ban đầu người ta không chịu. Theo Phạm Quỳnh kể có những ông đồ tự hỏi: “Bên Tây cũng có thơ à?” Quan niệm như vậy cho nên trong thực tế đồ thị vận động cũng khác nhau. Ở văn xuôi mọi chuyện từ từ không có đột biến. Thơ cũ sau một hồi chống chọi như là xảy ra tình trạng “vỡ trận”. Kết quả là có Thơ Mới náo động một thời. Có thể tìm thấy bóng dáng cuộc vận động này trong bước đi của Xuân Diệu. Ông đến trong tư thế khẳng định. Ban đầu Thơ Mới làm cho người ta ngỡ ngàng? Thì Xuân Diệu làm cho chúng ta ngỡ ngàng. Rồi cuối cùng chúng ta thấy Thơ Mới gần với ta? Thì Xuân Diệu đã được cả một thời say đắm. Xuân Diệu là tất cả cái hay cái dở của Thơ Mới. Là sự cởi mở và tham vọng của con người đương thời. Là hào hứng đi ra với thế giới. Nhưng cũng là nông nổi cạn cợt là nhanh chóng chán chường và bế tắc. Nếu cần nói gọn một câu về vai trò của Xuân Diệu trong Thơ Mới thì nên nói gì? Hoài Thanh là người đầu tiên cho rằng “Xuân Diệu mới nhất trong các nhà Thơ Mới”. Ở Sài Gòn năm 1967 trong tập Bản lược đồ của văn học Việt Nam (Ba thế hệ của nền văn học mới) Thanh Lãng cũng viết một câu tương tự. Cho đến nay công thức đó vẫn được nhiều người nhắc lại. Giữa các phong cách của Thơ Mới Xuân Diệu là một cái gì vừa phải hợp lý ông vốn có cái dễ dàng để đến với đám đông trong văn chương cũng như trong cuộc đời. Thế Lữ hơi cổ. Trong thơ Thế Lữ người ta vẫn cảm thấy một cái gì hơi già hơi cũ mắt nhìn về cái mới chứ chân chưa đặt tới cái miền mới mẻ đó. Mong muốn kéo nhà thơ này đi tới nhưng con người ông không theo kịp. Lưu Trọng Lư cũng vậy mà lại ngả sang mơ mộng xa xôi. Huy Cận chậm rãi khoan thai đậm chất văn hóa và Huy Cận như già trước tuổi nữa. Về độ chín của thơ Xuân Diệu không bằng Huy Cận. Song sự trẻ trung làm cho Xuân Diệu có sự hấp dẫn hơn phổ biến hơn nhiều. Hàn Mặc Tử và Chế Lan Viên ăn nhiều ở sự hướng thượng suy tư độc đáo. Các ông có cái gì đó mà người bình thường khó với tới. Họ nhìn theo các ông mà ngại. Xét về ảnh hưởng với các thế hệ sau vai trò của Xuân Diệu cũng rất lớn. Như ở thế hệ những người sinh khoảng 40 của thế kỷ trước, những Bằng Việt, Xuân Quỳnh, Lưu Quang Vũ, Phạm Tiến Duật. Nếu đặt ra một hàng những Xuân Diệu, Huy Cận, Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử thì trong sự khác nhau rất rõ họ vẫn gần với Xuân Diệu hơn cả số người nằm cùng một trục dọc với Xuân Diệu khá đông đảo. Xuân Diệu như hoa hồng trong một vườn hoa loại nào cũng đẹp. Như một thứ cơm tẻ vừa với mọi người. Đi đến một tổng hợp khái quát nhất Hoài Thanh ở cuối bài tổng luận về Thơ Mới bảo Xuân Diệu là “nhà thơ đại biểu đầy đủ nhất cho thời đại”. * Hồn thơ của một con người Âu hóa và mang những mỹ cảm hiện đại Xuân Diệu trước hết đại biểu cho những con người tiếp xúc với văn hóa phương Tây ngay từ nhà trường làm nên một thứ nhân tố mới hình thành trong xã hội. Nhiều người đã nói về điều này mấy ghi nhận dưới đây chỉ là một khía cạnh nhỏ. Ông là con người của ham muốn say đắm muốn sống hết mình. Chỉ cần đọc một câu thơ:.

<span class='text_page_counter'>(9)</span> “Anh nhớ tiếng anh nhớ hình anh nhớ ảnh Anh nhớ em anh nhớ lắm em ơi” Người ta đã biết ngay nó không thể có ở nhà thơ cổ điển mà nó phải thuộc về một nhà thơ hiện đại. Mặc dù có những bài tuyệt bút song Xuân Diệu thường vẫn để lại ấn tượng có chỗ sượng chưa chín chưa đều tay. Ông là người rất có ý thức mà cũng là rất nhạy cảm khi bênh vực cho cái dang dở. So sánh ca dao Nam Trung bộ và ca dao miền Bắc ông nói rằng ca dao miền Bắc quá trau chuốt quá hoàn chỉnh trong khi ca dao Nam Trung bộ trần trụi thô mộc nên dễ gần. Có lần nhận xét về một bài thơ Xuân Diệu bảo khi người ta cảm động quá người ta có gì đó run rẩy lúng túng. Trong những trường hợp này Xuân Diệu đã biện hộ cho mình. Chính ở cái vẻ vội vàng hấp tấp dở dang chưa thành này mà Xuân Diệu gắn với con người đương thời. Nhưng không chỉ có thế. Không chỉ có hồn nhiên tuổi trẻ mà càng về sau Xuân Diệu càng tỏ ra sống hết với cái đã đầy của cuộc sống. Bài Hy mã lạp sơn là một cách ướm thử sự vượt lên cái thông thường tự làm khác mình đi và đẩy suy nghĩ của mình tới cùng tới cái tuyệt đối. Nhưng một lần tới rồi thì ông biết ngay là không bao giờ nên trở lại nữa. Biết điều tội nghiệp run rẩy thiết tha Xuân Diệu là chính mình hơn trong Lời kỹ nữ. Sự khác nhau giữa Thơ cũ và Thơ Mới bắt đầu từ sự đổi khác của tâm lý con người của cách xúc động… và điều này đã được nhiều người như Lưu Trọng Lư Hoài Thanh diễn tả sâu sắc. Mối quan hệ giữa lý trí và cảm xúc là một vấn đề lớn của con người hiện đại. Hồi 1961 nhân tuyển thơ 15 năm sau Cách mạng Chế Lan viên nói như một câu buột miệng “Xuân Diệu cần hồn nhiên hơn và Tế Hanh phải bớt tự nhiên đi”. Tôi đọc và tưởng là về già Xuân Diệu mới vậy. Sau đọc lại thấy cái cách sống và làm việc theo lý trí này có từ Xuân Diệu hồi Thơ Mới. Xét trên toàn cục Xuân Diệu đã là một con người nhất quán những năm cuối đời chỉ tô đậm những nét vốn có của ông lúc trẻ. Và đó chính là dấu hiệu làm chứng cho sự có mặt của nền văn hóa mà ông tiếp nhận từ nhỏ. Nhà tình báo Phạm Xuân Ẩn gần đây nói rằng con người ông có cả văn hóa Việt Nam lẫn văn hóa Mỹ. Trong Xuân Diệu cái yếu tố Mỹ được thay bằng văn hóa Pháp. Cố nhiên là cách kết hợp những yếu tố khác nhau ở người này không bao giờ giống như ở người khác nhưng họ đều là hiện tượng đa văn hóa. * Thơ tám chữ thơ bảy chữ Trên phương diện hình thức nghệ thuật thơ so với các nhà Thơ Mới khác Xuân Diệu càng để lại ấn tượng riêng về một cái gì vừa miệng với số đông nghĩa là rất phổ biến. Sáng tạo của Thơ Mới trên phương diện thể thơ gồm hai phần: một là đưa thể tám chữ lên mức hoàn chỉnh và thứ hai là có những cách tân mới đối với các thể cũ như thơ bảy chữ thơ lục bát. Sở dĩ đọc Thế Lữ ta cảm thấy một cái gì cũ cũ bởi vì ngoài Nhớ rừng các bài tám chữ khác của ông để lại ấn tượng nặng nề do sự xâm nhập của yếu tố văn xuôi. Ở các bài như Đi giữa đường thơm. Nhạc sầu của Huy Cận, Nhớ con sông quê hương của Tế Hanh.

<span class='text_page_counter'>(10)</span> chúng ta thấy thơ tám chữ tự nhiên như một sản phẩm thuần Việt. Mà cái đó đến sớm với Xuân Diệu. Những bài như Tương tư chiều, Vội vàng, Hoa đêm của ông cùng với Lời kỹ nữ, Hy mã lạp sơn vừa nói ở trên là những sáng tác hoàn thiện. Hoài Thanh rất tinh khi bảo thơ tám chữ của Xuân Diệu có nguồn gốc ở ca trù. Cảm giác gần gũi có được là do cái hồn thơ một cái gì thanh thoát mà lại hơi lẳng lơ tinh nghịch. Mặt khác là hơi thơ biểu hiện ở độ dài. Tính số câu của một bài thơ trong khi Tiếng địch sông Ô của Huy Thông làm chúng ta ngợp thì các bài tám chữ của Xuân Diệu và những bài vừa nhắc trên của Huy Cận Tế Hanh… cũng gần gũi hơn hẳn. Một đóng góp khác của Xuân Diệu trong thể thơ bảy chữ những bài gồm ba, bốn khổ nó là một hơi thơ mạnh đi như một lát dao sắc. Tản Đà không có bài thơ nào sử dựng tứ tuyệt như vậy. Trong số 47 bài của Mấy vần thơ của Thế Lữ chỉ thấy có một bài mang tên Yêu là cũng gồm ba khổ như thế này. Nhưng đây là một bài thơ rất ít người nhớ. Còn với Xuân Diệu chúng ta thấy hàng loạt: Nguyệt cầm, Nụ cười xuân, Trăng, Huyền Diệu, Gặp gỡ, Yêu, Tình trai, Đây mùa thu tới, Ý thu, Hẹn hò, Đơn sơ. Tôi chợt nhớ tới thể sonnet của Pháp (Từ sonnet có nguồn gốc từ tiếng Ý sonetto (từ một bài thơ Old Provençal với thể loại sonet có nguồn từ chữ bài hát son, từ gốc sonus nghĩa là âm thanh). Đến thế kỷ thứ mười ba sonnet được chuẩn hóa thành một bài thơ mười bốn dòng với một luật gieo vần nghiêm ngặt và một cấu trúc nhất định.) và muốn giả thiết rằng ở những bài thơ nói trên Xuân Diệu đã kết hợp giữa thơ Pháp và thơ dân tộc. Ông Việt hóa sonnet từ nền văn hóa mà ông mới tiếp nhận và mang lại cho nó một âm hưởng phương Đông bằng cách lai tạo nó với thất ngôn tứ tuyệt. Giờ đây loại thơ gồm ba hay bốn khổ tứ tuyệt - 12 hoặc 16 câu bảy chữ - đã là một cấu trúc cổ điển. Thơ tình của Xuân Diệu sau 1945 thường trở lại với thể này “Nguyện Hoa nở sớm Tình yêu san sẻ Ngược dòng sông Đuống” * Thơ của Xuân Diệu mang cái mới mẻ đến từ hội nhập Nhớ lại khi Xuân Diệu mới xuất hiện Hoài Thanh thú nhận: “Bây giờ khó mà nói được cái ngạc nhiên của làng thơ Việt Nam hồi Xuân Diệu đến. Người đã tới giữa chúng ta với một y phục tối tân và chúng ta đã rụt rè không muốn làm thân với con người có hình thức phương xa ấy. Nhưng rồi ta cũng quen dần vì ta thấy người cùng ta tình đồng hương vẫn nặng”. Cái tình đồng hương nói ở đây gồm hai yếu tố: Một là những yếu tố thuần Việt. Đã nhiều người nói tới cái phần thi liệu Việt ở Xuân Diệu từ “Đã nghe rét mướt luồn trong gió Đã vắng người sang những chuyến đò” tới “Hoa bưởi thơm rồi đêm đã khuya” hoặc “Con cò trên ruộng cánh phân vân”. Hai là những yếu tố mượn từ đời sống và văn hóa Trung Hoa đã được Việt hóa. Cái yếu tố này vẫn thấy ở nhiều nhà văn tiền chiến từ những ông già thả thơ đánh thơ ở Vang bóng một thời của Nguyễn Tuân tới mấy người khách ở Phố Cẩm Giàng và Chú khách bán mằn thắn của Thạch Lam....

<span class='text_page_counter'>(11)</span> Bấy lâu ta cứ ngỡ ở Xuân Diệu chỉ có Rimbaud với Verlaine hóa ra ta nhầm. Nhà nghiên cứu Phan Cự Đệ đọc lại báo Ngày nay 1938 còn dẫn ra cả một đoạn Xuân Diệu ca ngợi mùa thu “mặc dầu ở bên tây vẫn có mùa thu thiên hạ vẫn cứ thấy mùa thu là ở bên Tàu. Mùa thu cũng đồng một quê quán với Tây Thi với nàng Tây Thi quá xa nên quá đẹp”. Trong cả Thơ thơ lẫn Gửi hương cho gió cái chất Trung Hoa này xuất hiện ở nhiều dạng. Trong vốn từ ngữ. Trong cái nhịp thơ tứ tuyệt nói ở trên. Và trong thi liệu: “Tôi yêu Bao Tự mặt sầu bi Tôi yêu Ly Cơ hình mơ màng Tôi tưởng tôi là Đường Minh Hoàng Trong cung nhớ nàng Dương Quý Phi.” Có cả một bài mang tên Mơ xưa nhắc lại những Gió liễu chiều còn nhớ kẻ dương quan. Yếu tố Trung Hoa cổ điển ở đây là một bộ phận của yếu tố Việt Nam. Nước Việt Nam trong thời gian. Nước Việt Nam với cái vẻ quý tộc tinh thần... Tất cả lại hiện diện. Xin nói tiếp về Nguyệt cầm. Trăng ở đây được gọi là nguyệt đàn gọi là cầm. Nguyệt và trăng đàn và cầm cùng tồn tại song song. Cái hồn hiện đại nhập vào cảnh cũ Linh lung ánh sáng bỗng rùng mình. Nhưng trăng và đàn lại là những motip của thơ cổ phương Đông. Còn chữ linh lung với nghĩa ánh sáng chấp chới thì không biết có phải lấy từ bài Ngọc giai oán của Lý Bạch (khước há thủy tinh liêm - linh lung vọng thu nguyệt) chỉ biết sau Xuân Diệu không ai dùng nó nữa và các từ điển tiếng Việt mới in nửa sau thế kỷ XX chỉ ghi lung linh chứ không còn ghi linh lung. Với bài viết kinh điển Một thời đại trong thi ca Hoài Thanh đã sớm cảm thấy cái mới ở Xuân Diệu nói riêng và Thơ Mới nói chung là đến từ hội nhập. Gần đây nhà thơ Hoàng Hưng (bài Thơ Mới và thơ hôm nay) phát hiện thêm. Ông bảo: “thơ Pháp thế kỷ XIX đã thúc đẩy Huy Cận Xuân Diệu tìm ra những ý vị lãng mạn của thơ Đường mà suốt một thế kỷ trước đó các vị túc nho đã không cảm nhận nổi mà chỉ nhai cái bã niêm luật ”. Tức là nhờ hội nhập hôm nay mà ta phát hiện lại thành tựu của hội nhập hôm qua. Ta được làm giàu lên nhiều lần hơn là ta tưởng. Hơn thế nữa hội nhập không phải chỉ có một chiều là hướng ngoại hội nhập còn là quay trở về phát hiện lại bản thân và nhận diện lại những yếu tố nội sinh. Nói cách khác nhờ hội nhập mà cốt cách của dân tộc được phát hiện. Xuân Diệu đã làm công việc này một cách có ý thức. Ông có riêng một bài viết mang tên Tính cách An Nam trong văn chương (báo Ngày nay 28-1-1939) ở đó ông nói rằng “Trong lòng An Nam của chúng ta vẫn có những phần nhiều những ý những cảm giác mà người Tây có. Xưa kia ta không nói là vì ta không ngờ; bây giờ cái não khoa học của Âu Tây đã cho biết rằng ta có vẫn có đã lâu những của cải chôn giấu trong lòng thì sao ta không nói”. * Kết Không phải là thơ Việt Nam sau 1945 không có những đổi mới về hình thức song một sự thay đổi có tính chất bước ngoặt như hồi 1932-1941 không còn nữa. Nhu cầu của xã hội lúc này là tận dụng sự phát triển đã có từ Thơ Mới để hướng thơ vào các hoạt động.

<span class='text_page_counter'>(12)</span> tuyên truyền giáo dục quần chúng. Ngay ở Sài Gòn trước 1975 nơi sự hội nhập với thế giới còn được làm trong lặng lẽ thì thơ vẫn không tạo được những bước nhảy đáng kể. Nổi lên trên bề mặt thơ sau 1945 vẫn là sáng tác của các nhà Thơ Mới: Huy Cận, Chế Lan Viên, Lưu Trọng Lư, Tế Hanh, ấy là không kể một lớp nhà thơ trẻ mới hình thành tất cả mang lại cho Thơ Mới một sự hồi sinh một đỉnh cao thứ hai. Trên hướng phát triển này Xuân Diệu tiếp tục vị trí hàng đầu của mình. Năng lực của ông không còn hướng vào việc tìm tòi cái mới; có cảm tưởng với ông tất cả đã đủ vấn đề bây giờ chỉ là tìm cách khai thác tận dụng cái đã có. Mà về việc này thì từ bản tính “tay hay làm lụng mắt hay kiếm tìm” ông có cả từ sự thành thạo tức thói quen lao động siêng năng tới sự nhạy cảm biết tìm ra những phương án tối ưu trong lao động. Thơ Xuân Diệu những năm cuối đời gợi cho ta cảm giác một trái cây không còn được tiếp nhựa sống từ toàn thân mà chỉ tự chín thời gian chín lại kéo quá dài nên - nói như dân gian vẫn nói - chín rụ chín rị tức có cả cái phần đã đầy nát vỡ lữa ra. Nhưng ở chỗ này nữa lại càng thấy tính chất đại diện toàn quyền của Xuân Diệu với Thơ Mới. Người ta không thể đòi hỏi quá nhiều ở một người. Đặt trên cái nền chung của lịch sử thì vẫn thấy ông đứng sừng sững ở giai đoạn chuyển đổi của nền thơ Việt Nam như một thách thức và một điểm đối chiếu..

<span class='text_page_counter'>(13)</span> B)- NỖI ÁM ẢNH VỀ THỜI GIAN TRONG THƠ XUÂN DIỆU. I) Thời gian là gì? Thời gian trong nghệ thuật là như thế nào? Một số từ điển định nghĩa rằng, “thời gian” là một hình thức tồn tại cơ bản của vật chất diễn biến một chiều theo ba trạng thái là quá khứ, hiện tại và tương lai. Với các nhà Vật lý, thời gian là thứ mà có thể đo được chính xác bằng một chiếc đồng hồ. Các nhà Toán học lại quan niệm thời gian một chiều được xem là liên tục, nhưng có thể chia thành các “thời khắc” giống như từng tấm ảnh của một cuộn phim. Có thể thấy, một khái niệm chính xác về thời gian là một thách thức lớn đối với mọi lĩnh vực. Chỉ dựa vào những khái niệm trên, ta đã có thể hiểu được rằng “thời gian” là một khái niệm rất khó định nghĩa, khó hiểu, khó hình dung, và với mỗi cá thể, mỗi cách nhìn khác nhau, cảm thức về “thời gian” lại được thể hiện theo một cách khác nhau. Với Newton, “Thời gian là độc nhất, tuyệt đối và có giá trị phổ quát khắp mọi nơi.” Còn Einstein lại cho rằng: “Thời gian trôi đi chỉ là ảo ảnh mọi khác biệt giữa quá khứ, hiện tại; tương lai chỉ là những ảo ảnh dai dẳng.” Thời gian phân thành hai loại: thời gian vật lý - thời gian khách quan, và thời gian tâm lý - thời gian chủ quan, phụ thuộc vào ý thức con người. Văn chương nói riêng và thơ ca nói chung, suy cho cùng đều xuất phát từ tiếng lòng, cảm xúc, tình cảm của con người. Mà qua lăng kính tâm hồn, bất cứ khái niệm, thực thể, hiện tượng nào đều không bị bó buộc, vạn vật đều có thể biến tính, biến hình và được cảm thức theo những cách khác nhau. Thời gian cũng không nằm ngoài quy luật ấy. Thời gian qua ngòi bút nhà văn hoàn toàn có thể phá bỏ quy luật vận động vốn dĩ của nó, đảo lộn trình tự hoặc bỏ qua một hoặc hai ba chiều vận động vốn có của nó. Đó là cách một nhà văn làm ngưng đọng một khoảnh khắc, kéo dài và nới rộng nó ra; cũng như nén lại, co vào một khoảng thời gian một trăm năm đến một thế kỉ. Với thơ ca – nơi người nghệ sĩ gửi gắm vào đó tất cả tình cảm, cảm xúc của mình với khát vọng tạo dựng một thế giới chủ quan đầy hình ảnh, thì suy nghĩ trân trọng về thời gian gắn liền với cảm thụ của nhà thơ trước cuộc đời cũng như ý nghĩa chung về cuộc sống nhân sinh. Niềm rung động của nhà thơ với đời càng dạt dào, nỗi lòng với cõi đời càng thiết tha bao nhiêu, thì những sự trân trọng trước mỗi khoảnh khắc lại càng trở nên tinh tế, mãnh liệt và linh diệu bấy nhiêu. Những quan điểm về thời gian trước Xuân Diệu: “Con người là một sinh vật duy nhất biết mình phải chết”. Lời nói đó của một triết gia phản ánh nỗi ám ảnh, day dứt của con người về sự sống và cái chết, cũng là những ám ảnh, day dứt về thời gian. Thời gian trôi qua vô hình nhưng để lại dấu ấn sâu đậm trong các biến cố lịch sử, trong các thành quả của nhân loại. Nó có quan hệ gắn bó với con người, bởi con người luôn sống và tồn tại trong một khoảng thời gian nhất định của lịch sử. Trong “Bài cáo tật thị chúng” Mãn Giác Thiền sư đã lấy hình ảnh xuân đến xuân đi, hoa tàn hoa nở là một quy luật của tự nhiên, một định luật hiển nhiên của cuộc sống, biểu lộ tâm thế của nhà sư trước quy luật sinh, tử ở cõi nhân gian, cái tịch diệt và cái vĩnh hằng trong vũ trụ. Con người, có sinh tất có tử, lúc khoẻ mạnh ắt có lúc ốm đau, bệnh tật, có tuổi hoa niên trẻ tráng tất cái già sẽ đến. Quy luật cuộc sống là như thế..

<span class='text_page_counter'>(14)</span> Có những nhà thơ nắm bắt, ý thức được sự hữu hạn của đời người bên cái vô hạn của thời gian trường cửu khi buông những lời than thở: “Nhân sinh ba vạn sáu nghìn thôi Vạn sáu chơi nhăng đã hết rồi.” ( Nguyễn Công Trứ) Nhất là Xuân Diệu, ta mới thấy được ý thức sâu sắc đến cuồng nhiệt của thi nhân trước dòng thời gian chảy trôi vĩnh hằng. Xuân Diệu là nhà thơ lãng mạn tiêu sinh mạng cá nhân. Với ông, bi kịch lớn nhất của con người lãng mạn chính là thời gian. Xuân Diệu quan niệm thời gian là một đường thẳng tuyến tính, không tuần hoàn, một đi không trở lại.. II) Quan niệm về thời gian của Xuân Diệu - Thời gian là tuyến tính một đi không trở lại Quan niệm về thời gian của Xuân Diệu là quan niệm thời gian của một nhà thơ mới, khác với quan niệm thời gian của thơ cũ ( quan niệm thời gian tuần hoàn, gắn cá thể với vũ trụ làm một, chỉ khi chết, hòa vào vũ trụ thì con người mới thực sự được sống). Ông cho rằng thời gian của tuổi trẻ là quan trọng nhất nhưng rồi nó cũng sẽ trôi qua , ông thấu hiểu được quy luật nghiệt ngã của cuộc sông nên cảm thấy tiếc, thấy xót xa. Nên bởi vậy mà ông gửi đến triết lí : sống phải biết tận hưởng, biết quý trọng những giờ phút quý giá của tuổi trẻ để không phải ân hận xót xa, sông vội vàng, hối hả chạy đua với thời gian bởi thời gian tuổi trẻ một đi không trở lại. Từ thấu hiểu quy luật của thời gian, mà ông thấy lo lắng, tiếc, xót xa. để từ đó có ý thức quý trọng từng khoảnh khắc, sống một cách nhiệt tình nhất để không lãng phí quãng thời gian đẹp nhất cuộc đời mỗi người là tuổi trẻ. Thời gian vô hồi vô tận nhưng cuộc đời ocn người lại hữu hạn, vô cùng ngắn ngủi, bởi vậy, hãy tận hưởng từng khoảnh khắc quý giá của thời gian. “Xuân đang tới, nghĩa là xuân đang qua, Xuân còn non, nghĩa là xuân sẽ già,” Thông thường, người ta nắm trong tay cái gì rồi mới sợ mất, còn Xuân Diệu, dù “xuân” mới chỉ đương tới, đương đến, nhà thơ đã nghĩ ngay đến khoảnh khắc phai tàn, khoảnh khắc biến mất. Cặp từ đối lập: “tới – qua”, “non – già” càng nhận mạnh sự chảy trôi nhanh chóng, đáng sợ của của thời gian qua mắt nhìn Xuân Diệu. Trong tâm tưởng của Xuân Diệu, ngày hôm nay qua đi rồi tháng, rồi năm, rồi đời người sẽ hết, tuổi già, cái chết là nỗi ám ảnh lớn trong lòng nhà thơ: “Nhưng mà tôi sẽ chết than ôi Tóc ngời mai mốt không đen nữa Tuổi trẻ khô đi mặt xấu rồi”. Và với những vần thơ trong bài “Thanh niên” ta mới thấy hết được sự nuối tiếc thời gian của nhà thơ: “Ôi thanh niên! Người mang hết xuân thì.

<span class='text_page_counter'>(15)</span> Hình ngực nở nụ cười tươi màu tóc láng Già sẽ đến giơ tay xua ánh sáng Đuổi bướm đi làm sợ cả hương hoa. Nhà thơ dường như chú ý đến từng bước đi của thời gian từng chút một, như chính “mùa thu tới”: “Hơn một loài hoa đã rụng cành Trong vườn sắc đỏ rủa màu xanh” Thời gian chuyển động qua từng sắc lá trong vườn, và trong “Đây mùa thu tới”. Đó là tiếng gọi của thời gian, hối hả và thôi thúc bằng một điệp khúc “Đây mùa thu tới – mùa thu tới”. Thời gian là dấu hiệu của tàn phai và rơi rụng. Thời gian là sự tuôn chảy “một đi không trở lại”. Chính ý thức về thời gian một chiều chứ không phải tuần hoàn, thời gian định hướng chứ không phải định tính, đã tạo nên cái nhìn nghệ thuật trong toàn bộ sáng tác của anh. Thời gian với những bước chuyển động tàn nhẫn, sự đối lập giữa thời gian vũ trụ với thời gian của một kiếp người. - Tuồi trẻ là thước đo thời gian Tức là lấy quỹ thời gian hữu hạn của cuộc đời mình ( sinh mệnh cá thể ) ra để đo đếm thời gian trong vũ trụ. Thậm chí thi sĩ lấy quãng ngắn nhất, giàu ý nghĩa nhất trong sinh mệnh của con người là tuổi trẻ để làm thước đo: “Mà xuân hết nghĩa là tôi cũng mất Lòng tôi rộng nhưng lượng trời cứ chật Không cho dài tuổi trẻ của nhân gian Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại Còn trời đất nhưng chẳng còn tôi mãi Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời ” Chữ “Xuân” được điệp đi điệp lại cả năm đến sáu lần (trong ba câu đầu đã có tới năm lần). “Xuân” ấy vừa là xuân của đất trời vừa là “xuân” của cuộc đời, của tuổi trẻ. Mỗi lần nhắc lại là mỗi lần ta bắt gặp cái ngậm ngùi của thi nhân. Xuân của thiên nhiên thì còn mãi mà “xuân” của đời người đã “hết” thì “tôi cũng mất”. Dù lòng yêu có “rộng” đến bao nhiêu thì “lượng trời” vẫn cứ chật. Nên “tuổi trẻ nhân gian” không thể “dài” thêm mãi. Ở đây, hệ thống từ ngữ, hình ảnh được đặt trong thế tương phản đối lập cao độ (tới – qua, non –già, rộng – chật, xuân tuần hoàn, - tuổi trẻ chẳng hai lần, còn – chẳng còn) để làm nổi bật tâm trạng nuối tiếc thời gian, cuộc đời. Vũ trụ có thể vĩnh viễn, mùa xuân rồi cũng tuần hoàn nhưng tuổi xuân của con người chỉ có một lần, đã qua là qua mãi. Cho nên Xuân Diệu đã nồng nhiệt phủ định: “Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn, Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại !” Thước đo thời gian của thi sĩ là tuổi trẻ. Tuổi trẻ một đi không trở lại “chẳng hai lần thắm lại” thì làm chi có sự tuần hoàn ! Trong cái mênh mông của đất trời, cái vô tận của thời gian, sự có mặt của con người thật là ngắn ngủi, hữu hạn. Nghĩ về tính hạn chế của kiếp người, Xuân Diệu đã đem đến một nỗi ngậm ngùi thật mới mẻ:.

<span class='text_page_counter'>(16)</span> “Còn trời đất, nhưng chẳng còn tôi mãi Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời” Đọc hai câu thơ, ta cảm nghe rất rõ tiếng thở dài bất lực của thi nhân. Ta nghe rõ cả cái bâng khuâng, nuối tiếc của nhà thơ phả vào đất trời. Dường như trước mắt người đọc là cả một trời tiếc nuối. Tâm trạng ấy của Xuân Diệu ta cũng bắt gặp trong bài thơ “Giục giã”: “Đời trôi chảy lòng ta không vĩnh viễn Vừa xịch gối chăn mộng vàng tan biến Dung nhan xê động sắc đẹp tan tành Vàng son đang lộng lẫy buổi chiều xanh Vừa ngoảnh lại cả lầu chiều đã vỡ” Phải chăng vì quá yêu mến tuổi trẻ mà từ sự nuối tiếc ấy, thi nhân đã “thức nhọn giác quan” để sống “toàn tâm, toàn ý, sống toàn hồn” mà “say”, “thâu”, “hôn”, “cắn” cho kỳ hết những hương nồng của tuổi trẻ ? - Cảm nhận về thời gian của Xuân Diệu là cảm nhận đầy tính mất mát. Ví như kết thúc đoạn thơ trong bài thơ “Vội vàng” là một tiếng thốt: “Chẳng bao giờ ôi! chẳng bao giờ nữa Mau đi thôi mùa chưa ngả chiều hôm” Thi sĩ bỗng thốt lên lời than. Tiếc nuối, lo lắng và chợt tỉnh vì "mùa chưa ngả chiều hôm", nghĩa là vẫn còn trẻ trung, chưa già. Lên đường! Phải vội vàng, phải hối hả “Mau đi thôi”. Câu cảm thán với cách ngắt nhịp biến hóa làm nổi bật nỗi lòng vừa lo lắng băn khoăn vừa luống cuống tiếc rẻ, bâng khuâng. Thế đấy, không thể “buộc gió”, không thể “tắt nắng”, cũng không thể cầm giữ được thời gian, thì chỉ có cách thực tế nhất là chạy đua với thời gian, là phải tranh thủ sống . Xưa kia, Nguyễn Trãi viết trong chùm "Thơ tiếc cảnh": "Xuân xanh chưa dễ hai phen lại Thấy cảnh càng thêm tiếc thiếu niên". Những vần thơ của Nguyễn Trãi giúp ta cảm nhận sắc điệu trữ tình trong "Vội vàng" về màu thời gian, về sắc thời gian, về tuổi trẻ. Cũng qua đó để hiểu thêm về lòng ham sống đến nhiệt cuồng của nhà thơ “mới nhất trong các nhà thơ mới”. Nó là lời thở than của vạn vật, là không gian đang tiễn biệt thời gian, mà sâu xa hơn là mỗi sự vật thời gian đang ngậm ngùi tiễn biệt một phần đời của chính nó. Những phần đời của sinh mệnh cá thể đang ra đi không thể nào cưỡng lại, nó tạo nên sự trôi chảy không ngừng, tạo nên sự phôi pha, phai tàn của từng cá thể: “Con gió xinh thì thào trong lá biếc Phải chăng hờn vì nỗi phải bay đi? Chim rộn ràng bỗng đứt tiếng reo thi Phải chăng sợ độ phai tàn sắp sửa?” Gió đùa trong lá không phải là những âm thanh của thiên nhiên tươi vui của mùa xuân, mà là lời “thì thào” về nỗi hờn giận, buồn thương. Gió phải chia tay với cây lá mà.

<span class='text_page_counter'>(17)</span> bay đi; chim chóc trên cây đang ca hát rộn ràng chào xuân bỗng ngừng bặt, chẳng phải có sự đe dọa nguy hiểm nào, mà chỉ vì chúng buồn tiếc cho mùa xuân sắp trôi qua. Thế là chẳng riêng gì Xuân Diệu mà cả vạn vật trong thiên nhiên cũng thức nhận về cái quy luật nghiệt ngã, cái một đi không bao giờ trở lại của thời gian ấy. Có phải vậy mà Xuân Diệu đưa ra một quyết định hợp lí cho mình và cho tất cả mọi người “Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân”. - Thời gian được cảm nhận mới mẻ khi được miêu tả có mùi vị (từ cái vô hình thành cái hữu hình) Mỗi khoảnh khắc trôi qua là một sự mất mát lớn lao. Sự tàn phai không chỉ đến “khắp sông núi” mà còn ở từng cá thể. Và thời gian trôi đi sẽ khiến cho cái nhan sắc thiên nhiên diệu kỳ này bước vào độ tàn phai. Một sự tàn phai không thể nào tránh khỏi: “Mùi tháng năm đều rớm vị chia phôi Khắp sông núi vẫn than thầm tiễn biệt” Đây là hai câu thơ thể hiển rất rõ cách cảm nhận tinh vi về thời gian của Xuân Diệu. Cảm nhận ấy không chỉ bằng thị giác mà còn cảm nhận bằng cả khứu giác “mùi tháng năm”, cả vị giác “vị chia phôi”. Nhà thơ xúc động lắng nghe bước đi của thời gian, tiếng “than thầm tiễn biệt” của sông núi, của cảnh vật. Xuân Diệu rất nhạy cảm với thời gian trôi đi qua “mùi”, “vị” của năm tháng “chia phôi” trong dòng chảy vô tận. Một cách cảm nhận thời gian rất thơ, rất tinh tế: Đoạn thơ trên đây cho thấy vẻ đẹp trong thơ Xuân Diệu: sự trau chuốt về ngôn từ, sự tinh tế trong cảm xúc biểu hiện. Một quan niệm nhản sinh rất tiến bộ về thời gian, về mùa xuân và tuổi trẻ. Cái tôi cá nhân trữ tình được khẳng định. Ham sống và yêu đời; sống hết mình, sông trong tình vêu - đó là những ý tưởng rất đẹp, vẻ đẹp của một hồn thơ lãng mạn - “vội vàng" không nghĩa là sống gấp như ai đó đã nói.. III)- Nguyên nhân của nỗi ám ảnh về thời gian của Xuân Diệu Xuân Diệu nhận thức rõ nét đế đớn đau, khắc nghiệt giá trị của thời gian, của thời khắc tuổi trẻ. “Thời gian của Xuân Diệu mang tính trần thế. Cả hai trăm bài thơ tình cũng bị thời gian… ám ảnh.” Vậy từ đâu lại gây ra nỗi ám như vậy cho chàng thi sĩ yêu cuộc sống này như vậy? Tiếp nhận với những quan điểm mới mẻ tân kì từ Tây phương cùng niềm yêu đời yêu sống vẫn luôn âm ỉ trong tim, Xuân Diệu không nhìn nhận thời gian theo chiều vĩ mô như các nhà thơ Trung đại mà với ông, thời gian một đi không trở lại, và vũ trụ là một khách thể độc lập với con người. Thời gian như một dòng chảy vô thủy, vô chung mà mỗi khoảnh khắc qua đi là mất đi vĩnh viễn. Đã có không chỉ một mà khá nhiều bài thơ chứa đựng quan điểm ấy của Xuân Diệu. Bài thơ “Thời gian” ra đời như một tuyên ngôn về thời gian của Xuân Diệu: Dưới thuyền nước trôi Trên nước thuyên chuồi Và nước, và thuyền Xuôi dòng đi xuôi.

<span class='text_page_counter'>(18)</span> … Nước trôi vô tri Vô tình, thuyền đi Nước không biết thuyền Thuyền biết nước chi Mỗi câu thơ cất lên lại như một lời thở than đầy não nề vủa chàng trai trẻ trước cảnh nước chảy thuyền trôi không điểm dừng, chẳng hồi kết, dai dẳng và miên man. Thời gian trôi không chờ người, năm tháng qua không đợi bất kì ai. Quỹ thời gian khách quan của cuộc đời, vũ trụ có thể là vô hạn, vĩnh hằng, nhưng túi thời gian nhỏ bé khiêm tốn của con người thì luôn có giới hạn và thời gian cứ như dòng nước siết chảy thẳng xuống đáy túi, thấm vào và không thể lấy lại. Nỗi niềm ấy ám ảnh Xuân Diệu trong từng tác phẩm của mình. “ Những ngày cứ thắt đi từng phút Rồi mặt trời cao. Nắng cháy tràn Trưa đến thôi rồi. Bình đã vỡ Nửa ngày xinh đẹp đã tiêu tan” Cuôc sống vốn là một bức tranh đầy màu nhiệm với bao thứ tốt đẹp. Ấy thế mà Xuân Diệu lại cảm nhận cuộc sống như điếu thuốc sắp tàn rất nhanh, nó thắt lại khiến người ta hối tiếc, nửa ngày – từ sớm đến khi mặt trời lên đỉnh điểm, đó cả là thời gian dài nhưng Xuân Diệu cảm nhận rằng nó sẽ tiêu tan rất nhanh. Có lẽ vì đó mà nhà thơ sống hết mình, khao khát thự tại hơn bao giờ hết. Chính vì ý thứ rõ rệt được sự biến chuyển của thời gian nên Xuân Điệu đã sống vội vàng, cuống quýt. Đó là thái độ sống nôn nao, mọi sự đợi chờ thi sĩ đều sợ bỏ phí mất từng khắc của tuổi thanh xuân. Nỗi ám ảnh thời gian ở Xuân Diệu lớn hơn bao giờ hết khi mà tạo hóa tràn ngập bao cảnh sắc mê đắm con người. Dường như thi sĩ muốn đoạy quyền tạo hóa, muốn đi ngược lại sự vận động của thiên nhiên, muốn tự mình nắm giữ thời gian, muốn lưu giữ khoảnh khác của tuổi xuân, muốn thời gian ngưng đọng lại, như vậy mới có đủ thời gian để thõa mãn lòng khao khát của tâm hồn nhà thơ. Xuân Diệu đã thi vị hóa thời gian, đã chống trả quyết liệt với cái tàn phá của nó bằng một thứ thời gian rất Xuân Diệu, đó là thời gian nghệ thuật: “Thời gian nghệ thuật trong thơ Xuân Diệu mang một sắc thái riêng: thi sĩ dồn nén quá khứ, tương lai về hiện tại, và trong cái hiện tại nhà thơ chỉ chú ý đến cái bây giờ.” Đồng thời, nỗi ám ảnh về thời gian còn xuất từ “cái tôi” cá nhân của Xuân Diệu với một tâm hồn nhạy cảm và tính cách mạnh mẽ, mãnh liệt để từ đó cho nhà thơ cái nhìn tuyến tính về thời gian. “Cái tôi” ấy của nhà thơ trong những bài thơ của ông được thể hiện ở hai trạng thái đối lập mà thống nhất của tâm hồn: lúc mãnh liệt đến cuồng si, lúc lại da diết, lắng sâu.. IV)- BIỂU HIỆN CỦA NỖI ÁM ẢNH THỜI GIAN TRONG THƠ XUÂN DIỆU Nỗi ám ảnh thời gian biểu hiện trong nội dung thơ Xuân Diệu a) Thời gian được tác giả cảm nhận vui.

<span class='text_page_counter'>(19)</span> Con người ai cũng có niềm vui và nỗi buồn. Có người buồn nhiều, vui ít hay ngược lại, có người buồn ít vui nhiều. Đối với Xuân Diệu – một tâm hồn tha thiết với cuộc sống thì ông vui nhiều hơn buồn. Điều này đã chi phối những sáng tác của ông. Ông vui khi xuan đến, hạ về, thu tới hay đông qua. Ông vui khi gặp gỡ, khi được sống hết mình cho tình yêu, cho cuộc sống,… Đến với tình yêu, ông luôn thể hiện niềm vui, sự khao khát mãnh liệt của mình. Đặc biệt, khi tình yêu ấy lại được đôi cánh mùa xuân nâng đỡ thì nó lại càng trở nên thăng hoa hơn hết. Xuân trong lòng, xuân của tâm hồn, tình cảm đã hoà vào xuân của đất trời nên “Trong vườn thơm ngát của hồn tôi”: “Xuân của đất trời nay mới đến; Trong tôi, xuân đến đã lâu rồi: Từ lúc yêu nhau, hoa nở mãi Trong vườn thơm ngát của hồn tôi.” (Nguyên Đán) Trong bài “Xuân không mùa” nhà thơ cũng thể hiện rất rõ lòng náo nức, háo hức của mình khi xuân đến: “Một ít nắng, vài ba sương mỏng thắm, Mấy cành xanh, năm bảy sắc yêu yêu Thế là xuân. Tôi không hỏi chi nhiều Xuân đã sẵn trong lòng tôi lai láng.” (Xuân không mùa) Có thể nói những câu thơ trên thể hiện sự cảm nhận tinh tế của Xuân Diệu về bước đi thời gian buổi đầu mùa xuân. Mùa xuân tới khắp nơi, đến một cách nhẹ nhàng cùng với một ít nắng và vài ba hạt sương mỏng trên mấy chiếc lá xanh thắm. Trên những cành lá xanh tươi, có năm bảy sắc xanh có chồi lá mới đơm, đó cũng chính là dấu hiệu dự báo mùa xuân mà chỉ có Xuân Diệu, một thi sĩ có thể vận dụng hết các giác quan của mình một cách tinh tế mới có thể cảm nhận từng bước đi của mùa xuân chính xác đến như vậy nên ông khẳng định “xuân đã sẵn trong tôi lai láng”. Khi tình yêu đến trong lòng mỗi chúng ta cảm thấy phấn chấn và yêu đời hơn. Trong tình yêu đôi lứa, Xuân Diệu luôn rạo rực với mùa xuân, niềm rạo rực ấy thường xuất hiện rất tự nhiên: “Mùa xuân chín ửng trên đôi má Xui khiến lòng ai thấy nặng nề.” (Nụ cười xuân) Những cô gái mang trong lòng một tâm trạng rất kín đáo, các chàng trai cũng thế với một trái tim nồng cháy yêu thương khi mùa xuân tới. Niềm hạnh phúc, sung sướng của các thiếu nữ không giấu được khi những sắc màu của mùa xuân đã hiện hữu rất cụ thể trên đôi gò má hồng của khuôn mặt tuổi thanh xuân. Phải có một cảm thức thời gian tinh tế, sâu sắc thì Xuân Diệu mới thể hiện được hình ảnh “mùa xuân chín ửng trên đôi má” của những cô gái xuân..

<span class='text_page_counter'>(20)</span> Đối với Xuân Diệu mùa xuân là mùa của tuổi trẻ, là mùa của sự yêu đương, mùa của sự hăng say nông nhiệt nhất trong đời nên cái cảm giác xuân đã có sẵn trong ông lai láng, đã hình thành từ rất lâu chứ không đợi xuân tuần hoàn của đất trời, của thiên nhiên: “Giữa vườn inh ỏi tiếng chim vui Thiếu nữ nhìn sương chói mặt trời Sao buổi đầu xuân êm ái thế! Cánh hồng kết những nụ cười tươi.” (Nụ cười xuân) Mùa xuân tới, thiên nhiên bừng dậy sức sống non tơ, cành lá bắt đầu đâm chồi nảy lộc, sắc màu hoa lá đang phủ khắp muôn nơi: với nụ cười thắm được kết bằng cánh hồng, với hơi gió xuân thơm mát toả khắp không gian. Buổi đầu của mùa xuân thật êm ái, thanh tao, nhìn đâu đâu cũng là niềm vui, sự rộn ràng của hoa lá mà cũng có thể kết lại thành những nụ cười tươi tắn, hớn hở như con người đang hưởng thụ phút giây tươi đẹp của mùa xuân. Cỏ cây reo vui chào đón mùa xuân bằng những câu đậm trữ tình: “Trời xanh thế! Hàng cây thơ biết mấy! Vườn non sao! Đường cỏ mộng bao nhiêu.” (Xuân đầu) Mùa xuân đến, xanh biếc cả một bầu trời rộng lớn. Hàng cây, cành lá bỗng dưng nên thơ hơn và con đường đầy hoa lá quen thuộc hằng ngày cũng thế, khiến cho khu vườn tràn ngập sắc màu của sự sống, tươi non mơn mởn: “Hoa thứ nhất có một mùi trinh bạch; Xuân đầu mùa trong sạch vẻ ban sơ.” (Tình thứ nhẩt) Xuân Diệu yêu thích sự trẻ trung, tươi tắn, mới mẻ nên ông quan niệm những gì của buổi đầu, buổi ban sơ là đẹp nhất, tươi tắn nhất và trẻ trung nhất. Khi mùa xuân vừa mới đến những ngày đầu tiên, ông cảm nhận được không khí xuân trong lành và mát mẻ, những bông hoa đầu tiên đang hé nở trên cành, thoang thoảng một mùi tinh khiết, trắng trong làm lòng ông cũng rạo rực, xôn xao hoà vào cảnh vật mùa xuân: “Ngày trong lắm, lá êm, hoa đẹp quá Nhan sắc ơi, cây cỏ chói đầy sao. Tháng giêng cười, không e lệ chút nào, Bằng trăm cánh của bướm chim rối rắm.” (Mời yêu) Mùa xuân đến biết bao nhiêu thứ trên thế giới bừng lên sức sống mới. Xuân Diệu đã miêu tả sức sống mới ấy bằng hương vị, màu sắc, âm thanh đang ở độ nồng nàn, ngọt ngào nhất. Ngày trong xanh, những bông hoa nở biết bao màu sắc tươi đẹp. Xuân đến đã mang cho con người nhiều màu sắc, âm thanh khiến cuộc sống trở nên đầy màu sắc và ý nghĩa. Đến với mùa xuân thì hồn thơ Xuân Diệu luôn mang niềm vui rạo rực, thiết tha của sự hoà hợp giao cảm, thì khi đến mùa thu, ông ít nhiều vẫn giữ tâm thế đó. Điều này thể hiện rõ nhất trong bài Thơ duyên. Không có cảm giác háo hức xôn xao, náo nức, rạo rực như.

<span class='text_page_counter'>(21)</span> khi đứng trước mùa xuân nhưng mùa thu trong bài Thơ duyên vẫn có nét vui riêng của nó. Một tâm hồn yêu cuộc đời, mơ mộng yêu đương, khát khao giao hoà với ngoại cảnh đã hợp duyên cùng vẻ đẹp của thiên nhiên đầy hương sắc để ngân lên những tiếng huyền. Thơ duyên không hề hoang vắng, cô liêu như nhiều bài thơ viết về mùa thu được sáng tác cùng thời bởi nó diễn tả một thời điểm, một trạng thái đặc biệt ý nghĩa của cả thiên nhiên và con người. Một buổi chiều rất nhẹ, êm, tâm hồn nhân vật trữ tình đang có sự đồng điệu với cảnh vật mùa thu: “Chiều mộng hoà thơ trên nhánh duyên, Cây me ríu rít cặp chim chuyền. Đổ trời xanh ngọc qua muôn lá, Thu đến - nơi nơi động tiếng huyền.” (Thơ duyên) Xuân Diệu với một hồn thơ đa cảm đang rộng mở, đang chờ đón một cái vui tươi, trẻ trung của đời. Nhìn vào đâu trong thế giới thiên nhiên của Xuân Diệu, ta cũng thấy sự hoà hợp, quyến luyến của vạn vật. Thơ duyên là bức tranh tình nhân của các cặp đôi qua đôi mắt tâm hồn của người thi sĩ. Không gian thu vừa là khu vườn tình ái gần gũi được mở ra xa và rộng hơn. Tất cả như được nâng lên thành tầng thành lớp. Nó có cả sắc màu lẫn âm thanh, buổi chiều thu thành chiều mộng, nhánh cây thành nhánh duyên qua tâm hồn thơ mộng của thi sĩ. b) Thời gian được tác giả cảm nhận buồn Trước Xuân Diệu, các nhà thơ đã nói đến thời gian. Xưa, Nguyễn Du đã từng than: “Ngày vui ngắn chẳng tày gang”. Gần hơn, Tản Đà cũng tặc lưỡi: “Trăm năm là ngắn, một ngày dài ghê”. Nhưng chỉ với Xuân Diệu, thời gian mới trở thành nỗi ám ảnh. Cảm nhận ấy được biểu hiện rõ nét trong “ Đây mùa thu tới”. Điệp khúc “ Đây mùa thu tới – mùa thu tới “ không chỉ là tiếng reo vui báo mùa mà còn là giai điệu ngậm ngùi về sự hối thúc của thời gian. Mùa thu là thế giới của cái đẹp, mà cũng là thế giới của sự phôi pha, hao gầy và chia lìa. Sự phôi pha, hao gầy bắt đầu từ màu sắc đến hình thể : rặng liễu đìu hiu đứng buông tóc buồn như ngàn hàng lệ nhỏ. Màu xanh bị lấn dần bởi sắc đỏ úa. Cành cây hè mập mạp nay trơ xương mỏng manh. Dáng núi xa nhoè trong sương. Rồi sau đó là sự rơi rụng, chia lìa : hoa rụng cành, chim bay đi, trời hận chia li, đã vắng những chuyến đò ngang … Và cuối cùng là nỗi buồn bã ngẩn ngơ của người thiếu nữ : “Ít nhiều thiếu nữ buồn không nói Tựa cửa nhìn xa nghĩ ngợi gì” ( Đây mùa thu tới ) Như vậy, “Đây mùa thu tới” của Xuân Diệu là tiếng gọi hối hả, thôi thúc của thời gian. Thời gian là dấu hiệu của sự tàn phai rơi rụng. Thời gian là sự trôi chảy một đi không trở lại. Chính ý thức về thời gian một chiều chứ không phải tuần hoàn, cuộc đời hữu hạn chứ không phải vô hạn đã tạo nên cái nhìn nghệ thuật của Xuân Diệu trong toàn bộ sáng tác của nhà thơ. Vì thế, ở bài thơ “Vội vàng”, sau những câu thơ rạo rực vui tươi,.

<span class='text_page_counter'>(22)</span> Xuân Diệu lại viết những lời thơ như buồn bã, giận hờn, lo sợ về sự trôi qua của thời gian mang theo bao nhiêu vẻ đẹp cuộc sống, chỉ còn để lại sự biệt li, chia lìa : “Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân Xuân đương tới, nghĩa là xuân đương qua Xuân còn non, nghĩa là xuân sẽ già Mà xuân mất, nghĩa là tôi cũng mất Lòng tôi rộng nhưng lượng trời cứ chật Không cho dài thời trẻ của nhân gian Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại Còn trời đất nhưng chẳng còn tôi mãi Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời Mùi tháng năm đều rớm vị chia phôi Khắp sông núi vẫn than thầm tiễn biệt …” ( Vội vàng ) Trong thơ Việt Nam, và cả trong phong trào Thơ Mới, chưa ai có giọng thơ nuối tiếc thời gian, thương tiếc cuộc sống đến thiết tha như Xuân Diệu. Cũng những đường nét ấy, sắc màu và âm thanh ấy, đoạn trên náo nức rạo rực là thế, mà ở đoạn này thì buồn thương, ngậm ngùi, xót xa biết bao. Nỗi xót xa, tiếc nuối thời gian và sự sống khiến cho nhà thơ có một ước muốn thật táo bạo : “Tôi muốn tắt nắng đi. Cho màu đừng nhạt mất. Tôi muốn buộc gió lại. Cho hương đừng bay đi”. Thế nhưng, táo bạo mà không tưởng. Bởi qui luật thời gian và cuộc sống không thể nào cho phép nhà thơ thực hiện ước muốn ấy. Vì thế, Xuân Diệu kêu lên thất vọng trước thực tế phũ phàng : thời gian và tuổi trẻ không bao giờ trở lại : “Chẳng bao giờ, ôi! Chẳng bao giờ nữa”. Đối với Xuân Diệu, cái vô hạn của thời gian lại trở thành hữu hạn, bởi điều quí nhất là cuộc sống và tuổi trẻ lại hữu hạn và không tuần hoàn. Song, một con người ham sống, yêu đời mãnh liệt như Xuân Diệu không thể nào chấp nhận được thực tế ấy. Nhà thơ làm thay đổi qui luật của thời gian theo cách riêng của mình. Làm thế nào biến cái hữu hạn của đời người thành vô hạn cùng với thời gian, với mùa xuân bất diệt của đất trời ? Chỉ có một cách, ấy là biến “cái hữu hạn về lượng” thành “ cái vô hạn về chất” ; nghĩa là phải vội vàng, phải hối hả, phải đắm say, phải mãnh liệt. Phải sống để thu vào độ cao nhất những gì là đẹp đẽ, quí giá của cuộc sống và đời người. c) Thời gian được taùc giaû caûm nhaän bâng khuâng, lưu luyến Xuân Diệu - một nhà thơ được mệnh danh là ông hoàng của thơ tình, là “ nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới”, trong con người ông luôn sục sôi tình yêu đời, yêu người, yêu cuộc sống và khát khao cháy bỏng sống hết mình, hưởng thụ mọi thú vui nơi trần thế, theo ông con người ta chỉ có thể vui tươi, yêu đời khi còn trẻ, chỉ có tuổi trẻ mới làm nên sức sống dạt dào cho mỗi cá nhân. Vì vậy mà ông rất sợ môt ngày nào đó khi bước chân.

<span class='text_page_counter'>(23)</span> thời gian cứ ngày càng đến gần, ngày càng lấn sâu vào cuộc đời con người , lấy đi biết bao ước mơ, tuổi xuân biến con người trở thành môt thân xác phai tàn và vô nghĩa. Con người sẽ chẳng thể tìm thấy niềm vui, lòng nhiệt huyết yêu đời mà thay vào đó chỉ toàn là nỗi bi quan, tuyệt vọng. Đó cũng chính là quan điểm của Xuân Diệu, là sự ám ảnh da diết về thời gian, tuổi tác. Và phải chăng chính thời gian đã cảm thức Xuân Diệu khiến ông viết lên những tác phẩm mang nặng nỗi niềm suy tư, trăn trở khôn nguôi, một cảm xúc dạt dào mà mấy ai có thể hiểu được. Đến với thơ Xuân Diệu, ta có thể cảm nhận được sự ám ảnh, dày vò của thời gian, nó bao trùm cả không gian vũ trụ và lấn át cả thiên nhiên,cảnh vật xung quanh, điều đó được bộc lộ rõ nét qua các bài thơ như: “Vội vàng”, “Thởi gian”, “Đây mùa thu tới”,… “Và chỉ với Xuân Diệu, thời gian mới trở thành một nỗi ám ảnh” Thông qua bài thơ “Vội vàng”, môt trong những tác phẩm tiêu biểu cho đề tài thời gian mà mỗi khi nghĩ về Xuân Diệu ta đều nhớ ngay đến nó. Có lẽ cũng bởi vì “Vội vàng” đã đem đến cho tất cả những ai đã và đang đọc tác phẩm này đều cảm thấy yêu đởi và ham sống hết mình, sống say mê, cuồng nhiệt khi còn có thể . Không những thế, bài thơ còn nhấn mạnh yếu tố thởi gian, sự bâng khuâng xao xuyến mà nhà thơ cảm thức được khi nhìn thấy sự trôi qua nhanh chóng của thời gian, của đời người: “Xuân đương tới, nghĩa là xuân đương qua, Xuân còn non, nghĩa là xuân sẽ già, Mà xuân hết, nghĩa là tôi cũng mất.” Thởi gian cứ hờ hững, vô tình trôi qua để lại trong ta bao nỗi niềm xao xuyến: “Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn, Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại … Còn trời đất, nhưng chẳng còn tôi mãi, Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời.” Nói lên sự nhạy cảm, bâng khuâng vô cùng trước dòng chảy của thời gian, Xuân Diệu đã cho ta biết dòng chảy ấy làm thay đổi mọi thứ không chỉ là tháng, là năm, là ngày mà sự thay đổi diễn ra trong từng phút “một”, cái “tôi” của phút trước hẳn đã khác cái “tôi” của phút này: “Cái bay không đợi cái trôi Từ tôi phút trước sang tôi phút này.” Với khả năng quan sát tinh tế, nhạy cảm trước mọi sự đổi thay của cuộc đời, nhà thơ không khỏi lưu luyến trước cảnh sắc thiên nhiên đang ngày một tàn phai, run sợ theo thời gian: “Hơn một loài hoa đã rụng cành Trong vườn sắc đỏ rủa màu xanh Những luồng run rẫy rung rinh lá Đôi nhánh khô gầy xương mỏng manh.” (Đây mùa thu tới).

<span class='text_page_counter'>(24)</span> Hay sự chú ý từng chút một về cảnh vật thiên nhiên, chim chóc, hoa lá, mây trời g đang dần phai tàn, mệt mỏi trước sự vận động không ngừng của thời gian: “Mây biếc về đâu bay gấp gấp Con cò trên ruộng cánh phân vân Chim nghe trời rộng giang thêm cánh Hoa lạnh chiều thưa sương xuống dần (Thơ duyên) d)Thời gian được taùc giaû caûm nhaän một cách nhớ tiếc Trong thơ Xuân Diệu vui cũng nhiều, rạo rực cũng nhiều và những khoảnh khắc u buồn, nuối tiếc cũng không hề hiếm: “Mùi tháng, năm đều rớm vị chia phôi, Khắp sông, núi vẫn than thầm tiễn biệt... Cơn gió xinh thì thào trong lá biếc, Phải chăng hờn vì nỗi phải bay đi? Chim rộn ràng bỗng đứt tiếng reo thi, Phải chăng sợ độ phai tàn sắp sửa?” (Vội vàng) Dường như mọi cảnh vật đều mang nỗi sầu muôn kiếp, mọi vật đều nuối tiếc cái khoảnh khắc này, chúng hờn giận, sợ hãi vì thời gian cứ trôi mãi trôi mãi không bao giờ ngừng lại. Xuân Diệu nhìn thấy cảnh thiên nhiên càng tươi đẹp, càng lộng lẫy bao nhiêu thì sự nuối tiếc của người thi sĩ như ông lại càng lớn lên bấy nhiêu. Người ta chỉ ham sống khi cuộc sống của họ có ý nghĩa, Xuân Diệu cũng vậy càng yêu đời, càng đắm say với cảnh sắc thiên nhiên phát hiện ra biết bao cái tươi đẹp đang chờ đón, để rồi lại cay đắng nhận ra rằng thời gian trôi đi càng lúc càng vội vã. Có thể nói rằng “chưa có một nhà thơ nào luyến tiếc thời gian đến xót xa như Xuân Diệu”. Vì vậy trong niềm say sưa bồng bột trước cuộc đời, sự hiện hữu về thời gian, yêu người và đặc biệt là yêu đời đã khiến ông chưa bao giờ bình thản.” Riêng về quan niệm thời gian trong thơ Xuân Diệu , khác với những quan niệm trước đó, đối với Xuân Diệu thời gian là tuyến tính, một đi không bao giờ trở lại, vũ trụ là khách thể độc lập với con người. Thời gian của Xuân Diệu không phải tính theo chiều vĩ mô: một đời, nghìn năm, vạn năm, thiên thu như trong thơ cổ mà với sự ý thức cá nhân nhà thơ cảm nhận hơn ai hết sự thật đáng buồn “tuổi trẻ chằng hai lần thắm lại” cho dù múa xuân vẫn tuần hoàn, vũ trụ có thể vĩnh hằng thí thới gian vẫn như một dòng chảy vô thủy, vô chung mà mỗi khoảnh khắc qua đi là mất đi vĩnh viễn Nói về thời gian tuần hoàn, Nguyễn Du có viết rằng: “ Sen tàn cúc lại nở hoa Sầu dài, ngày ngắn đông đà sang xuân” Hay trong bài “ Tự tìnhII” , Hồ Xuân Hương cũng coi thời gian là vĩnh viễn bởi nó ra đi rồi quay trở lại: “Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại”.

<span class='text_page_counter'>(25)</span> Trong thời kì trước, thời gian đều được nhìn theo một tầm vĩ mô, được đo bằng những khái niệm rất lớn: Nghìn năm, vạn năm như Nguyễn Công Chứ viết: “Nhân sinh ba vạn sáu nghìn thôi Vạn sáu chơi nhăng đã hết rồi” Còn với Xuân Diệu thì: “Lòng tôi rộng, nhưng lượng trời cứ chật, Không cho dài thời trẻ của nhân gian, Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn,” Trong thơ xưa cá nhà thơ quan niệm vũ trụ và thời gian là tuần hoàn, quay tròn trở lại và con người là một phần của vũ trụ sẽ hoà nhập vào cái vĩnh hằng của trời đất. Song, với ý thức một cách sâu sắc, cuồng nhiệt về thời gian, về tuổi tác con người một đi không trở lại thì chỉ đến thơ Xuân Diệu mới có. Cũng bởi vậy mà Xuân Diệu nuối tiếc thời gian và coi nó như “thù địch với sinh mạng cá nhân”. Với những vần thơ trong bài “Thanh niên” ta mới thấy hết được sự nuối tiếc thời gian của tác giả: “Ôi Thanh Niên! Người mang hết xuân thì Hình ngực nở nụ cười tươi màu tóc láng Gìa sẽ đến giơ tay xua ánh sáng Đuổi bướm đi làm sợ cả hương hoa.” Dường như trước mắt người đọc là cả một trời tiếc nuối. Tâm trạng ấy của Xuân Diệu ta có thể bắt gặp trong bài thơ “Giục giã”: “Đời trôi chảy lòng ta không vĩnh viễn Vừa xịch gối chăn mộng vàng tan biến Dung nhan xê động sắc đẹp tan tành Vàng son đang lộng lẫy buổi chiều xanh Vừa ngoảnh lại cả lầu chiều đã vỡ” Hay thái độ sống nôn nao, mọi sự đợi chờ thi sĩ đều sợ uổng phí mất từng khắc của tuổi thanh xuân, ông nuối tiếc tuổi trẻ vì sợ thời gian làm phai tàn tất cả: “Sống toàn tâm, toàn trí, toàn hồn Sống toàn tim và thức nhọn giác quan Và thức cả trong giấc nồng ngủ Sống, tất cả sống, chưa bao giờ là đủ” Chính vì sợ hãi với bước đi của thời gian , ông sợ tuổi tác cũng sẽ phai dần theo năm tháng nên đã làm mọi thứ để chống lại sự tàn nhẫn của thời gian, níu kéo mọi hương sắc tươi xanh của cuộc đời. Chằng hạn như: “Tôi muốn tắt nắng đi Cho màu đừng nhạt mất; Tôi muốn buộc gió lại Cho hương đừng bay đi.” Thi sĩ muốn đoạt quyền tạo hóa , muốn đi ngược lại sự vận động của thiên nhiên, muốn tự mình nắm giữ điều chỉnh thời gian, Xuân Diệu muốn lưu giữ lại cái khoảnh khắc của.

<span class='text_page_counter'>(26)</span> tuổi xuân, muốn thới gian ngưng đọng lại, muốn và muốn như vậy để thỏa lòng khao khát trong tâm hồn nhà thơ, bởi thiên nhiên ở trần gian quả thật quá đẹp, quá thơ mộng và rực rỡ: “Của ong bướm này đây tuần trăng mật; Này đây hoa của đồng nội xanh rì; Này đây lá của cành tơ phơ phất; Của yến anh này đây khúc tình si. Và này đây ánh sáng chớp hàng mi; Mỗi sáng sớm, thần vui hằng gõ cửa; Tháng giêng ngon như một cặp môi gần” Đọc “Thơ thơ” và “ Gửi hương cho gió” ta dễ dàng nhận ra một Xuân Diệu đang cô đơn chống trả lại sự tán phá của thời gian. Trong “Núi xa” ông viết: “Lẫn với đời quay! Tôi cứ đi Người ngoài không thấu giữa lòng si” Và cuối cùng kết lại sự nuối tiếc trong trái tim của người nghệ sĩ ông đã thốt lên rằng: “Chẳng bao giờ ôi! chẳng bao giờ nữa Mau đi thôi mùa chưa ngả chiều hôm” Tiếc nuối, lo lắng và chợt tỉnh vì "mùa chưa ngả chiều hôm", nghĩa là vẫn còn trẻ trung, chưa già. Lên đường! Phải vội vàng, phải hối hả “Mau đi thôi”, tác giả vừa lo lắng băn khoăn vừa luống cuống tiếc rẻ, bâng khuâng. Thế đấy, không thể “buộc gió”, không thể “tắt nắng”, cũng không thể cầm giữ được thời gian, thì chỉ có cách thực tế nhất là chạy đua với thời gian, là phải tranh thủ sống. e) Thời gian được cảm thức một cách mạnh mẽ: Tác giả muốn ôm, thâu, riết và sống hết mình với cảnh sắc thiên nhiên với cuộc đời tươi đẹp này. Đó là những hành động táo bạo, mạnh mẽ đồng thời cũng là những vần thơ độc đáo mới lạ mà Xuân Diệu gửi gắm vào đó với mong muốn mọi người , mọi thanh niên hãy ham sống , hãy sống hết mình, sống thật vội vàng , biết quý trọng từng giây phút của cuộc đời mình để cuộc sống này thêm vui tươi và ngập tràn ý nghĩa. Đó cũng chính là quan niệm nhân sinh mới mẻ tích cực của Xuân Diệu dành đến cho những ai biết quý trọng cuộc sống này. “Tôi muốn tắt nắng đi Cho màu đừng nhạt mất; Tôi muốn buộc gió lại Cho hương đừng bay đi.” Và “Ta muốn ôm Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn; Ta muốn riết mây đưa và gió lượn, Ta muốn say cánh bướm với tình yêu, Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều.

<span class='text_page_counter'>(27)</span> Và non nước, và cây, và cỏ rạng, Cho chếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng Cho no nê thanh sắc của thời tươi; - Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi!” f) Thời gian được cảm thức một cách vội vàng, giục giã Các nhà thơ cùng thời với Xuân Diệu chủ yếu vẫn tuân theo ứng xử trên, tuy biểu đồ dao động của họ có biên độ lớn nhỏ khác nhau. Người này đi tìm sự xê dịch trong không gian bằng những chuyến “Giang hồ vặt” như Nguyễn Tuân, Nguyễn Bính…; kẻ khác đi vào nhảy đầm, thuốc phiện như Vũ Hoàng Chương, Vũ Bằng, Đinh Hùng…; Người thứ ba đi tìm cuộc sống ở ngoài đời bằng “Thiên Thai” hoặc mơ mộng như Thế Lữ, Lưu Trọng Lư… Chỉ có Xuân Diệu là cứ ở trong đời mà chống thời gian: “Ta ôm bó, cánh tay ta làm rắn Làm dây da quấn quýt cả mình xuân Không muốn đi ở mãi mãi trong trần Chân hoá rễ để hút mùa dưới đất” Săn tìm tốc độ, coi tốc độ là cứu cánh chẳng những là trái ngược với tư tưởng của một xã hội nông nghiệp cổ truyền là nhìn thời gian trôi đi một cách thư thái. Mà còn là một ý tưởng rất hiện đại của thơ Xuân Diệu. Thi nhân ao ước có Cặp hài vạn dặm để đi khắp không gian trong chốc lát và quan trọng hơn, đi ngang với tốc độ của ngọn gió – thời – gian : “Ta theo gió mạnh, gió nhanh, gió hung dữ, gió sát sanh, gió cuồng!”. Chỉ có chế ngự được thời gian thì mới chế ngự được sự phai tàn của đường nét, màu sắc, âm thanh, và lòng người: “Đi mau! Trốn nét ! Trốn màu ! Trốn hơi ! Trốn tiếng ! Trốn nhau ! Trốn mình!” Xuân Diệu, thực tế hơn, đã thay thế đôi giầy cổ tích bằng lối sống đóan trước để bắt kịp thời gian: “Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân”. Bởi vậy, Vội vàng là một triết lý sống, một ứng xử nghệ thuật của nhà thơ. Thế giới thơ Xuân Diệu đầy những từ ngữ giục giã, vội vàng, mau, mau lên, gấp…, bởi thi nhân e sợ lỡ làng, màng, không kịp, lỡ thì…: – “Mau với chứ, vội vàng lên với chứ, Em, em ơi, tình non đã già rồi: – “Mau với chứ! Thời gian không đứng đợi Tình thổi gió, màu yêu lên phấp phới; Nhưng đôi ngày, tình mới đã thành xưa – “Gấp đi em, anh rất sợ ngày mai. Đời trôi chảy, lòng ta không vĩnh viễn”..

<span class='text_page_counter'>(28)</span> Tiểu kết: Nói tóm lại thời gian trong thơ Xuân Diệu mở đầu được cảm thức một cách bâng khuâng xao xuyến. Đó là cảm giác vô hình nhẹ nhàng lướt qua trong tâm trí tác giả, ông nhận ra mọi sự thay đổi của biết bao cảnh vật xung quanh mình, nhận ra tuổi tác đang ngày một trôi qua. “Con mắt thời gian” của ông chợt ánh lên một nỗi buồn man mác, sâu lắng, bâng khuâng trước cuộc đời. Cũng từ đó gợi lên sự nuối tiếc của môt con người tinh tế nhạy cảm chất chứa bao nỗi ưu sầu trong ông. Xuân Diệu đã bày tỏ nỗi niềm tiếc nuối vô cùng trước bước đi nhanh chóng, gấp rút của thời gian, ông muốn sống hết sức mình, sống hăng say cuồng nhiệt vội vàng giữa dòng đời chảy trôi khi còn có thể để cho sau này lúc tuổi đời đã xế chiều chúng ta cũng không cảm thấy tiếc nuối vì những gì đã qua..

<span class='text_page_counter'>(29)</span> 2/ Nỗi ám ảnh về thời gian thể hiện trong nghệ thuật thơ Xuân Diệu: a. Hình ảnh mang tính biểu tượng trong thơ Xuân Diệu: a.1. Khái lược về biểu tượng và hành trình sáng tác của Xuân Diệu Biểu tượng là một khái niệm quen thuộc nhưng đây lại là một khái niệm vào loại phức tạp và chưa có sự đồng thuận trong cách hiểu cũng như cách sử dụng. Tổng hợp những thành tựu mĩ học, lí luận văn học Macxit, các soạn giả của cuốn Từ điển thuật ngữ văn học đã định nghĩa biểu tượng như sau: Trong nghĩa rộng biểu tượng thể hiện “đặc trưng phản ánh cuộc sống bằng hình tượng văn học nghệ thuật”. Theo nghĩa hẹp, biểu tượng là “một phương thức chuyển mã của lời nói” đặt bên cạnh ẩn dụ, hoán dụ hoặc là một loại hình tượng nghệ thuật đặc biệt” có khả năng truyền cảm lớn, vừa khái quát được bản chất của một hiện tượng nào đấy, vừa thể hiện một quan niệm, một tư tưởng hay một triết lí sâu xa về con người và cuộc đời. a.2 Các biểu tượng nghệ thuật tiêu biểu trong thơ Xuân Diệu Ngay từ buổi đầu bước chân vào làng thơ, Xuân Diệu dường như đã tự chọn cho mình một lẽ sống: sống để yêu và tôn thờ tình yêu! Phụng sự bằng trái tim yêu nồng cháy, bằng cuộc sống say mê và bằng việc "hăm hở" làm thơ tình! Những biểu tượng nghệ thuật tiêu biểu trong thơ Xuân Diệu như: Vườn, mùa xuân, trăng, con đường, hoa, gió, chim muông…thể hiện ở đề tài tình yêu, tuổi trẻ, thời gian… Ông đã có những liên tưởng khác với mọi thi sĩ. Có thể tìm thấy trong thơ Xuân Diệu mọi cung bậc, mọi trạng thái của tình yêu không bị trùng lặp, đơn điệu, trái tim nhà thơ vẫn thức đập với những bài thơ tình nồng nàn, say đắm. Thơ tình Xuân Diệu mặc dù trĩu nặng nỗi buồn và quẩn quanh trong mối nhện tơ vương nhưng vẫn đem lại cho người đọc lòng yêu cuộc sống và cảm nhận sự phong phú của tâm hồn con người. Trong bài thơ “Đi thuyền” ông ví cuộc đời này cũng giống như con thuyền đang trôi, mọi vật đổi thay đến không ngờ: “Thuyền qua, mà nước cũng trôi, Lại thêm mây bạc trên trời cũng bay; Tôi đi trên chiếc thuyền này Dòng mơ tơ tưởng cũng thay khác rồi. Cái bay không đợi cái trôi; Từ tôi phút trước, sang tôi phút này ...” Em vui đi răng nở ánh trăng rằm Anh hút nhụy của mỗi giờ tự tình. Các biểu tượng trong thơ Xuân Diệu vừa bí ẩn mà vừa lãng mạn, mang đậm phong cách và những nét đặc trưng riêng của người nghệ sĩ. Ông ví thời gian như con thuyền trôi. Dòng nước thời gian cứ trôi vô tình, không để ý đến tình cảm, ý chí của người đi trên thuyền “Nước không vội vàng, Cũng không trễ tràng, Nước trôi vô tình”. Thời gian cũng như đời người “một đi không trở lại” “Thuyền không trở về, nước cũng mất luôn”. Nhưng thời gian mất là mất số tháng ngày hữu hạn trong cái qũy “ba vạn sáu ngàn ngày là mấy” của đời người, còn thời gian khách quan thì tồn tại vĩnh viễn như trời đất. Đời người, do vậy, càng trở lên thoáng chốc và qúy giá! Tác giả đã xây dựng hình tượng.

<span class='text_page_counter'>(30)</span> chiếc thuyền để nói lên tâm sự, quan điểm của cá nhân về cuộc sống, ông mượn hình tượng để diễn tả hộ lòng mình những trăn trở của cá nhân- nỗi trăn trở về quy luật thời gian, nó như cứ ám ảnh lấy ông, quy luật nghiệt ngã mà tác giả đành chấp nhận. Dùng hình tượng dòng nước để nói thời gian không phải là một phát hiện mới mẻ gì. Trước Xuân Diệu hơn nghìn năm, Lý Bạch đã nói trong một bài thơ mời rượu (Tương tiến tửu). Cái khác của nhà thơ Việt Nam, sinh sau đẻ muộn chỉ là sự lồng vào đấy một quan niệm mới, khoa học về thời gian. Sáng tạo riêng của ông, có lẽ, ở hình tượng ngọn gió thời gian. Các cụ xưa thích dùng cụ thể, cái hữu hình (dòng nước) để tượng hình hoá cái trừu tượng, cái vô hình (thời gian). Chắc hẳn với họ, thời gian còn nằm trong khoảng mù mờ của ý thức. Xuân Diệu và thế hệ ông đã khái niệm hóa được thời gian, nên thi nhân dám dùng cái vô hình này (ngọn gió), để chỉ cái vô hình kia (thời gian). Hơn nữa, gió có tốc độ nhanh hơn, biến hoá hơn nên phù hợp với sự cảm nhận thời gian của lớp người mới. Nói vậy, không có nghĩa là hình tượng thời gian trong thơ Xuân Diệu sẽ sa vào trừu tượng. Trái lại, nó rất cụ thể. Hay đúng hơn, nó nằm trên đường biên của cụ thể và trừu tượng. Một đường biên luôn chuyển động và khó nắm bắt. Không những thế trong thơ Xuân Diệu còn gợi nhắc đến nhiều biểu tượng khác như ngọn gió, hoa, lá, chim muôn. Xuân Diệu đã từng mượn hình ảnh “hoa” làm biểu tượng trong “ phấn thông vàng”: “Trong đêm nhung, hoa trống cách vời hoa mái, gọi nhau bằngchút niềm bối rối trong không khí, chỉ gần nhau bằng mảnh phấn hương. Còn những đó hoa của môi người, ứng nhau thì được đến tầm nhau, gắn thành đoá hoa cảm giác. Thời gian đừng đi qua, đôi cặp môi người đóng dấu vào nhau để lấy một phút giây cực lạc, cùng khấn ép một quãng nhỏ không gian; và tứ ấy trong kỷ niệm trăm năm, còn mãi một điểm hồng”.Hoặc khi xây dựng nên các hình tượng nghệ thuật khác, ví như, khác với hình con nai tráng lệ và ngơ ngác của Lưu Trọng Lư, con nai của Xuân Diệu trở về với cốt cách nai – con thú hiền lành, tội nghiệp không làm hại ai, là mồi cho mọi loài thú dữ. Trong thơ Xuân Diệu, nó vẫn là con nai nạn nhân, không phải là của các loài thú mà là của hoàng hôn, của bóng chiều, của đêm về. Cả không gian và thời gian của thiên nhiên cùng giăng lưới. Và với lưới giăng này, nai không thể thoát bằng đôi chân khỏe? Nó chỉ có thể đứng yên trong màn đêm vây kín, và màn đêm, lưới đêm cũng có thể hiểu như là cả một “khối sầu”.Cái sầu và nỗi buồn lại đến với nhà thơ trong cái tôi hóa thân : “ Tôi như chiếc thuyền hư, không bến đỗ Tôi là một con chim không tổ Lòng cô đơn hơn một đứa mồ côi” ( Dối trá) Buồn gắn với cô đơn, hoặc cô đơn mà buồn, trong hình ảnh của “ thuyền không bến” và “ chim không tổ”. Chim là đối tượng được nhà thơ gửi gắm không phải chỉ một lần, từ con chim “ ngứa cổ hót chơi” đến con chim “ không tổ” và lúc này là “ con chim bơ vơ” “ Anh chỉ là con chim bơ vơ Lạnh lùng bay giữa gió, sương, mưa” ( Muộn màng).

<span class='text_page_counter'>(31)</span> Trong hình ảnh của nai, của chim, nhà thơ cảm nhận được phận yếu đuối, nhỏ nhoi trong một thế giới mênh mông, rợn ngợp. Tất cả bị bao trùm bởi những lo toan, suy nghĩ về thời gian, thứ vô hình cứ lạnh lùng trôi khiến con tim nhà thơ phải thản thốt. Có thể nói, sự ám ảnh về thời gian trong các hình tượng là một điều dễ thấy trong các bài thơ của Xuân Diệu. Sau đây là vài ý của nhà phê bình Đỗ Thúy Lai để làm rõ hơn về cách xây dựng biểu tượng của nhà thơ đất Hà Tĩnh.“Thời gian với Xuân Diệu mang tính lưỡng trị. Một mặt, ngọn gió thời gian đem tuổi trẻ, tình yêu đến “Tình thổi gió, màu yêu lên phơi phới”. Và sự sống, tình yêu lại được gió mang đi gieo vãi khắp nơi (Gửi hương cho gió, Phấn thông vàng). Tạo vật được tiếp thêm sinh khí, sự giao cảm với đồng loại mỗi khi có gió đến thăm “ Hoa cúc dường như thôi ẩn dật, Hoa hồng có vẻ bận soi gương”. Mặt khác, gió cũng mang lại bao nhiêu sự phôi pha, úa héo. Cảnh tượng một khu vườn khi gió đi qua: Cây bên đường, trụi lá đứng tần ngần Khắp xương nhánh chuyển một luồng tê tái Và giữa vườn im, hoa run sợ hãi Bao nỗi phôi pha, khô héo rụng rời” (Tiếng gió) Trên cây đời, lá đã rụng, lìa cành; hoa tuy còn ở trên cây, nhưng đang run sợ hãi. Lá và hoa đều là những âm điệu của phôi pha, nhưng nhấn vào đâu, nốt nhạc nào, thì không chỉ tùy thuộc vào ngón tay của nhà nghệ sĩ, mà còn phụ thuộc vào cả thời đại. Nguyễn Du đã làm Văn chiêu hồn lá: “Mảnh thân chiếc lá biết là về đâu?”. Thơ Tản Đà đã ngập những lá: lá thu, lá hồng, lá vàng, bóng lá, xác lá… Biểu tượng của phôi pha ở Xuân Diệu lại không phải là lá mà là hoa. Hoa với Hương thơm và màu sắc! Các nhà thơ – nhà nho tài tử, kể cả người chót là Tản Đà, dễ cảm với lá, với tính chất phiêu linh và trải nghiệm của nó. Còn với Xuân Diệu, nhà thơ của lớp người mới, của mùa xuân, của tuổi trẻ, sự phôi pha, tàn lụi còn đang ở dự cảm, ở sự thấy trước, biết trước do nhận thức được tính khách quan của thời gian. Hoa là hiện tại, là sự sống đang sống chưa hết cái đời sống tự nhiên của nó. Sự tàn phai của một bông hoa gieo một ấn tượng mạnh hơn: “Hơn một loài hoa đã rụng cành” – Đây mùa thu tới; “Bông hoa rứt cành rơi không tiếng, Chẳng hái mà hoa cũng hết dần”. Và sau cùng, là sự ngạc nhiên, tự hỏi: “- Ừ nhỉ! Sao hoa lại phải rơi?” – Ý thu. Thi nhân ao ước có “Cặp hài vạn dặm” để đi khắp không gian trong chốc lát và quan trọng hơn, đi ngang với tốc độ của ngọn gió – thời – gian : “Ta theo gió mạnh, gió nhanh, gió hung dữ, gió sát sanh, gió cuồng!”. Chỉ có chế ngự được thời gian thì mới chế ngự được sự phai tàn của đường nét, màu sắc, âm thanh, và lòng người: “Đi mau! Trốn nét ! Trốn màu ! Trốn hơi ! Trốn tiếng ! Trốn nhau ! Trốn mình!” Ta thấy đó, Xuân Diệu đã tạo được nét riêng cho mình, so sánh với bao nhà thơ, mỗi người đều có cho mình một phong cách riêng và Xuân Diệu cũng đã tạo được dấu ấn ấy với một nỗi ám ảnh thời gian không nguôi, ông cứ lôn thao thức, băn khoăn về nó để rồi gửi cả vào trong thơ.

<span class='text_page_counter'>(32)</span> Ngoài ra trong thơ Xuân Diệu còn chưa đựng một hình tượng nghệ thuật khá độc đáo và góp phần làm nên thành công trong những tác phẩm. Đó chính là hình tượng cái “tôi” trong thơ Xuân Diệu. “Cái tôi” trong thơ Xuân Diệu là một “cái tôi” chủ động, mạnh mẽ, sôi nổi đến vồ vập trong tình yêu nhưng có khi lại cô độc, nỗi khát khao ngưng đọng thời gian để có thể tận hưởng được tất cả “Ta là Một, là Riêng, là Thứ Nhất Không ai chi bè bạn nổi cùng ta” (Hy Mã Lạp Sơn) Thơ ông thể hiện được cái tôi cá nhân và cái tôi ấy tất yếu cũng sẽ bị ảnh hưởng bởi tư tưởng về thời gian của Xuân Diệu, ông mượn quan niệm chủ quan của mình và kêu gọi mọi người hãy sống vội vàng, sống thật nhanh, thật màu bởi thời gian là thứ lạnh lùng lắm, cho dù ta có cố níu giữ nó bằng cách nào đi chăng nữa , thì nó vẫn cứ sẽ một đi không bao giờ trở lại. Hãy hưởng thụ khi ta còn có thể, ông muốn ôm trọn tất cả mọi thứ vào lòng mình “ Ta muốn ôm Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn Ta muốn riết mây đưa và gió lượn Ta muốn say cánh bướm với tình yêu Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều’ Và để cuối cùng là : “ hỡi xuân hồng ta muốn cắn vào ngươi” Cũng chính vì lẽ đó mà ông kêu gọi mọi người, giục giã mọi người, nhanh đi, gấp đi, hãy sống, sống và sống để thỏa mãn lòng qua hình tượng cái tôi cá nhân “Mau lên chứ, vội vàng lên với chứ Em, em ơi, tình non đã già rồi Con chim hồng, trái tim nhỏ của tôi Mau lên chứ thời gian không đứng đợi” ( Giục giã) Tóm lại, cách xây dựng hình tượng trong thơ Xuân Diệu có gì đó vừa mang hơi hướng của văn học phương Tây vừa mang nét đặc trưng thuần túy của dân tộc, ông bộc lộ được nỗi niềm của mình sau từng hình tượng ấy. Cách Xuân Diệu tạo dựng hình tượng cho mình là một nét độc đáo góp phần làm nên thành công của từng tác phẩm. Qua những hình tượng tinh tế ấy của tác giả, ta thấy được nỗi u uất của ông với thời gian và nỗi ám ảnh không nguôi về nó. b) Kết cấu trong thơ Xuân Diệu.

<span class='text_page_counter'>(33)</span> Ở phần này ta sẽ quan tâm hơn về kết cấu của các dấu câu được tác giả sự dụng trong bài thơ để bộc lộ nỗi ám ảnh về thời gian của cá nhân mình. Đây có thể chỉ là một phần nhỏ nhưng đóng một vai trò quan trọng tạo nên dấu ấn hoặc điểm nhấn với độc giả. Có những dấu chấm câu vô cùng độc đáo, một phần cũng thể hiện được tài năng của tác giả. Sau đây chúng ta bàn về những trường hợp mà ở đó dấu chấm câu (.) được sử dụng độc đáo. “Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa” (Vội vàng - Xuân Diệu ) Đây là một dòng thơ hay và độc đáo. Nhiều người khi tiếp cận dòng thơ này đã thường bỏ qua dấm chấm câu ở giữa dòng thơ. Không phải ngẫu nhiên mà Xuân Diệu đã dùng đến một dấu chấm để ngắt dòng thơ của mình thành 2 câu độc lập như vậy. Đọc kĩ dòng thơ và đặt chúng trong chỉnh thể toàn bài thơ, chúng tôi nhận thấy dấu chấm có ý nghĩa tách hai nội dung tư tưởng chủ đạo của toàn bài. Một thuộc về phía bên trên “Tôi sung sướng” (từ câu đầu đến câu 11) phần còn lại là “Tôi vội vàng” (từ câu 13 đến hết bài). Mở đầu bài thơ, Xuân Diệu đã vẽ ra một khung cảnh đẹp đẽ, dậy tình, như một thiên đường trên mặt đất. Đó là nơi mà thi sĩ muốn hưởng thụ, muốn tận hưởng và kêu gọi mọi người cùng tận hưởng hương sắc của thiên nhiên, thế giới, của tình yêu con người. Lời thơ nhanh mạnh, gấp gáp, giọng thơ vội vàng, thúc giục. Đó thực sự là tâm trạng sung sướng của Xuân Diệu vậy! Nhưng thế giới đẹp dường ấy cuối cùng cũng sẽ phôi pha. Vạn vật không đứng yên và lại càng không đứng chờ tuổi trẻ chỉ có duy nhất một lần của con người. Thế thì, nếu không nhanh chóng chạy đua với thời gian, để tận hưởng nó thì rồi nó cũng qua đi. Quan trọng hơn: tuổi trẻ qua đi là tất cả như vô nghĩa. Từ câu 13 đến hết bài thơ, thi sĩ dùng để biểu diễn nội dung tư tưởng này. Lời thơ vẫn nhanh mạnh và gấp gáp nhưng đã trở nên ngậm ngùi và tiếc nuối, xót xa, pha chút bâng khuâng. Thay cho tâm trạng sung sướng phía trên là tâm trạng vội vàng phía dưới. Vậy nên mới “Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa”. Dấu chấm như một khoảng lặng, dù rất ngắn ngủi để thi sĩ chiêm nghiệm về cái lẽ nhân sinh. Nó như là sự khựng lại của cõi lòng thi nhân trong việc thể hiện một niềm vui không trọn vẹn. Trật tự 2 câu trong dòng thơ không thể đảo ngược: “ Tôi vội vàng. Nhưng sung sướng một nửa “ Dòng thơ hóa ngô nghê hết sức. Còn nếu dòng thơ như thế này được chấp nhận thì tổ chức bài thơ phải thay đổi. Từ câu thứ 13 đến hết bài chuyển lên phía trên; từ câu đầu đến câu thứ 11 chuyển thành phần kết thúc. Thử đọc: Hẳn là không thể được. Dấu chấm trong dòng thơ với việc sắp xếp trật tự ý thơ như thi sĩ đã có ý nghĩa và hiệu quả nghệ thuật rất lớn. Chúng tôi cho đây là một trường hợp sử dụng dấu chấm câu. Không chỉ xét nghiêng về dấu chấm mà ta còn phải xét tới những dấu câu khác như dấu chấm than “ Trăng sáng, trăng xa, trăng rộng quá!” ( Nhị hồ) Hay.

<span class='text_page_counter'>(34)</span> “ Vội vàng chi, trăng sáng quá khách ơi!” Qua đây vừa bộc lộ nên được nỗi lòng tác giả vừa cho người đọc thấy được không gian, thời gian rợn ngợp, muốn níu giữ khoảnh khắc tươi đẹp ấy, nỗi lòng hiện diện rõ qua từng câu chữ… nhưng tất cả dường như bị bao trùm bởi một thứ vô hình… đó là thời gian. Hay khi ta xét về những câu nghi vấn trong “Vội vàng” của Xuân Diệu “Phải chăng hờn vì nỗi phải bay đi?” “ Phải chăng sợ độ phai tàn sắp sửa?” Tất cả mọi thứ như bị thời gian quản lý, tất cả dường như đều phải tuân theo thứ quy luật nghiệt ngã ấy, qua dấu câu nghi vấn vừa thể hiện được thái độ băn khoăn, có gì đó mơ hồ nhưng cũng để khẳng định, sự trôi đi nhanh chóng của thời gian. Hãy vội vàng để khỏi phải “ hờn” phải “sợ”. nhờ dấu câu mà ta thấy được, ám ảnh thời gian xuất hiện trong đời thực nhưng đồng thời cũng tồn tại trong tâm thức của nhà thơ. c) Thể thơ Các thể thơ chủ yếu của Xuân Diệu Hai đại diện tiêu biểu cho thơ Xuân Diệu đó chính là Thơ thơ và Gửi hương cho gió .Trong hai tập thơ này, ta thấy Xuân Diệu có hầu hết các thể thơ tiêu biểu của Thơ Mới. Cụ thể: Thể loại. Số lượng(bài). Tỉ lệ(%). Thơ 4 tiếng. 2. 2. Thơ 5 tiếng. 5. 5. Thơ 7 tiếng. 47. 49. Thơ 8 tiếng. 32. 33. Thơ lục bát. 7. 7. Thơ tự do. 4. 4. (Tài liệu tham khảo: Giáo trình Những cách tân nghệ thuật trong thơ Xuân Diệu giai đoạn 1932-1945, GS.Lê Tiến Dũng) - Thơ Xuân Diệu chủ yếu là những thể thơ có số chữ trong câu bằng nhau. Xuân Diệu, có tới 96% các bài thơ viết theo những thể cố định, có số chữ trong mỗi câu như nhau( bốn, năm, bảy, tám, sáu-tám) và chỉ có bốn bài theo lối tự do(chiếm 4%), có thể kể ra như: “Khí chiều chăng lưới”, “Vội vàng”, “Hoa nở để mà tàn”, “Thở than”. Nhưng cũng ngay trong bốn bài này, lại đa số là những câu đều đặn, ví dụ: Hoa nở để mà tàn; Trăng tròn để mà khuyết; Bèo hợp để chia tan; Người gần để ly biệt Hoa thu không nắng cũng phai màu, Trên mặt người kia in nét đau. (Hoa nở để mà tàn).

<span class='text_page_counter'>(35)</span> (Bài thơ có 6 câu, đã hết 4 câu 5 tiếng, 2 câu còn lại thì đều 7 tiếng.) - Thơ 7 tiếng là thể Xuân Diệu sử dụng nhiều nhất Thơ 7 tiếng của Xuân Diệu so với thể thất ngôn cổ điển có những điểm khác biệt hoàn toàn: Thất ngôn cổ điển. Thơ 7 tiếng của Xuân Diệu. -Ràng buộc bởi những niêm luật chặt -Tự do chẽ -Giới hạn về số câu: thất ngôn tứ -Không giới hạn về số câu: 4, 8, 16, tuyệt(4 câu), thất ngôn bát cú(8 câu) 20, 32, 48 ...câu -Bị ràng buộc bởi quy luật đề-thực- -Không bị ràng buộc bởi quy luật đềluận-kết thực-luận-kết - Tuy vậy, vẫn có những điểm gặp gỡ giữa hai thể loại này. Nếu để ý, dễ thấy thơ 7 tiếng của Xuân Diệu còn chịu nhiều ảnh hưởng của thể thất ngôn cổ điển, như sau: - Mỗi bài thơ 7 tiếng của ông đều được chia thành khổ, mỗi khổ có 4 câu, tựa như một bài thất ngôn tứ tuyệt vậy: Rặng liễu đìu hiu đứng chịu tang, Tóc buồn buông xuống lệ ngàn hàng; Đây mùa thu tới - mùa thu tới Với áo mơ phai dệt lá vàng. Hơn một loài hoa đã rụng cành Trong vườn sắc đỏ rũa mầu xanh; Những luồng run rẩy rung rinh lá... Đôi nhánh khô gầy xương mỏng manh. Thỉnh thoảng nàng trăng tự ngẩn ngơ... Non xa khởi sự nhạt sương mờ... Đã nghe rét mướt luồn trong gió... Đã vắng người sang những chuyến đò... Mây vẩn từng không chim bay đi, Khí trời u uất hận chia ly. ít nhiều thiếu nữ buồn không nói Tựa cửa nhìn ra, nghĩ ngợi gì.(Đây mùa thu tới) -Gieo vần theo lối thất ngôn tứ tuyệt: vần được gieo ở câu 1,2, 4: “Hết ngày, hết tháng, hết! em ôi! Kinh hãi không gian quặn tiếng còi..

<span class='text_page_counter'>(36)</span> Anh ngóng tìm em, tuy thấy đó, Sắp xa thôi cũng tựa xa rồi!” (Trích “Hết ngày hết tháng”) - Cách ngắt nhịp tương tự như thơ thất ngôn cổ điển: 4/3, 2/5, 5/2, 2/2/3, 1/6 nhưng phổ biến nhất cũng là 4/3: “Vườn cười bằng bướm,/ hót bằng chim; Dưới nhánh,/ không còn một chút đêm: Những tiếng tung hô/ bằng ánh sáng Ca đời hưng phục/ trẻ trung thêm.” (Lạc quan) - Thơ 7 tiếng của Xuân Diệu vừa cổ điển lại vừa hiện đại. Rõ ràng, những cách tân của Xuân Diệu. Ngoài ra, trong thể thơ 8 chữ cách gieo vần phỏng theo cách gieo vần của thơ Pháp: +Vần liền: Một ít nắng, vài ba sương mỏng thắm, Mấy cành xanh, năm bảy sắc yêu yêu Thế là xuân. Tôi không hỏi chi nhiều Xuân đã sẵn trong lòng tôi lai láng. Xuân không chỉ ở mùa xuân ba tháng; (Trích “Xuân không mùa”) +Vần gián cách Bóng đêm biết thở đều hơi gió mát Chung quanh ta im lặng đã buông rèm Gió xa quá, trời xuân êm bát ngát Biết lời gì nói hết được yêu em (Trích “Bóng đêm”)  Thể thơ cổ điển và cách ngắt nhịp liên tiếp rất Tây, sáng tạo làm cho việc cảm thức về thời gian trở nên xúc cảm và sinh động biểu hiện được nhiều khía cạnh của việc cảm thức thời gian một cách hiệu quả. d ) Ngôn ngữ thơ Nhắc tới Xuân Diệu, người ta nhớ đến lá cờ đầu trong cuộc cách mạng thơ ca. Bởi lẽ ông đã đưa vào thơ một hệ thống từ vựng mới và cách sử dụng mới. Đó là một hệ thống các từ mang đầy tính cá thể hóa, chứ không còn nặng về ước lệ như thơ cổ điển.Hệ thống từ vựng thơ Xuân Diệu mới mẻ đến mức nhiều người không chấp nhận được, không cảm nhận được. Chính Hoài Thanh cũng cho là: “lời văn Xuân Diệu có vẻ chơi vơi, Xuân Diệu làm văn như trẻ con học nói, hay như người ngoại quốc nói võ vẽ tiếng Nam, câu.

<span class='text_page_counter'>(37)</span> văn tuồng bỡ ngỡ” . Nhưng rồi chính Hoài Thanh cũng khẳng định cái ngô nghê ấy chính là chỗ Xuân Diệu hơn người. Ta muốn ôm Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn; Ta muốn riết mây đưa và gió lượn, Ta muốn say cánh bướm với tình yêu, Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều Và non nước, và cây, và cỏ rạng, Cho chếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng Cho no nê thanh sắc của thời tươi; - Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi! ( Vội Vàng) Rồi một loại cách diễn đạt rất Tây khác như: “ Hơn một loài hoa đã rụng cành Trong vườn sắc đỏ rũa màu xanh” (Đây mùa thu tới) Cũng là thể hiện sự trơ trọi, trút lá của cây cối nhưng Xuân Diệu lại đưa vào thơ một cách diễn đạt rất mới, rất Tây mà có lẽ là từ văn chương Pháp mà ông ít nhiều bị ảnh hưởng: “Hơn một”. Tuy cách sử dụng của Xuân Diệu không phải bao giờ cũng thành công, nhưng điều đáng ghi nhận là nhà thơ luôn có ý thức tìm tòi những điều mới, xa rời những lối mòn xưa nay đã quá quen thuộc tới mức giả dối, chán ngắt trong thơ xưa. Có lần Xuân Diêu đã nói: “ Chúng ta phải tạo thêm, bày đặt ra những cách dùng mới”. Nói hệ thống ngôn ngữ thơ Xuân Diệu có những đổi mới không có nghĩa là ông hoàn toàn đoạn tuyệt với hệ thống ngôn ngữ cũ. Xuân Diệu vẫn sử dụng những ngôn từ ấy, nhưng cách dùng đã được biến hóa, đổi mới rất nhiều. Trong thơ Xuân Diệu ta thấy ngôn ngữ vẫn có những từ cổ quen thuộc: buồn cô liêu, người du tử, buồn tiêu tao, ta như cô khách… Có thể nói Xuân Diệu từ nền tảng cái cũ để làm mới thơ mình. Ông mượn cái buồn tiêu tao của thơ xưa để diễn tả nỗi buồn của ngày hôm nay. Càng cao càng lạnh trao lôi, Trên cung xanh vắng lạnh thôi mấy chừng! ( Bụi mưa mờ cũ) Từ “cung xanh” vốn là từ cổ, chỉ chốn cung trăng trên thiên đường, nay Xuân Diệu đưa vào thơ để nói tới cái nỗi sầu nhân thế. Thơ xưa quan niệm càng nhiều điển cố điển tích càng hay, nhưng ở thơ Xuân Diệu, trái lại rất ít điển cố, điển tích, hoặc nếu có đều được sử dụng rất sáng tạo. Thơ ca cổ điển bị gò bó bởi niêm luật chặt chẽ nên tính nhạc bị hạn chế. Đến Thơ Mới, tính nhạc đã trở thành một đặc điểm quan trọng. Và Xuân Diệu luôn dẫn đầu trong hành trình đổi mới ấy. Lời thơ Xuân Diệu trước hết là lời thơ giàu nhạc tính. Một tâm hồn yêu đời yêu người đã tạo nên những câu thơ với nhạc điệu nồng nàn, thiết tha. Tạo nên nhạc điệu của thơ ông còn ở cách hiệp vần, phối thanh...Về cách hiệp vần, thơ Xuân.

<span class='text_page_counter'>(38)</span> Diệu chủ yếu hiệp vần chân dày đặc, về thanh điệu, ông sử dụng vần bằng nhiều hơn vần trắc, làm cho lời thơ đầy âm vang. Và nói như Hoài Thanh là “êm tai hơn”. Bữa nay lạnh, mặt trời đi ngủ sớm, Anh nhớ em, em hỡi! anh nhớ em Không gì buồn bằng những buổi chiều êm Mà ánh sáng mờ dần cùng bóng tối Có thể nói, thơ Xuân Diệu giai đoạn trước cách mạng tháng tám 1945 đã có rất nhiều cách tân sâu sắc. Trong đó, không thể không nghiên cứu đến những biến chuyển rõ rệt về ngôn ngữ thơ để có một cái nhìn toàn diện và sâu sắc về thơ ông. *Tiểu kết: Xuân Diệu là một hiện tượng nghệ thuật điển hình cho cả thế hệ thi nhân giai đoạn trước và sau Cách mạng tháng Tám. Thật vậy, cái mới của Xuân Diệu mang lại không chỉ ở cách dùng từ, đặt câu, tạo hình mới mẻ,… mà chính là ở cái cảm xúc mới, sức sống mới dạt dào, sôi nổi, trẻ trung biểu lộ một quan niệm nhân sinh, thẩm mĩ mới mẻ. Ông được xem là một hiện tượng phong phú và đa dạng, không chỉ phong phú đa dạng về loại thể sáng tác, về đề tài phản ánh mà còn về bút pháp nghệ thuật. Ông xứng đáng với danh xưng “nhà Thơ Mới nhất trong các nhà Thơ Mới”. Xuân Diệu thực sự là một tác giả tiêu biểu của nền văn học Việt Nam hiện đại thế kỉ XX, là đại biểu không chỉ xuất sắc của phong trào Thơ Mới và là một trong những nhà thơ hàng đầu của thơ ca Việt Nam cả sau cách mạng tháng Tám 1945. V)Ý NGHĨA CỦA NỖI ÁM ẢNH THỜI GIAN ĐỐI VỚI THƠ XUÂN. DIỆU: Thơ Xuân Diệu là một thế giới rộng mở, đa âm. Trong bản giao hưởng âm thanh này nổi lên những giai âm như Mùa thu: sự thức nhận thời gian; Vội vàng: một ứng xử với thời gian, một triết lý thời gian; Gửi hương cho gió: tình yêu như là sự chiến thắng thời gian; và sau cùng Thơ thơ: nghệ thuật như là vĩnh cửu hoá thời gian. Trong từng bài thơ, từng giai đoạn thơ, những âm giai này thay nhau nổi lên làm chủ âm (dominante) => Khiến cho toàn bộ sáng tác của Xuân Diệu vừa phong phú, đa dạng, vừa xuyên suốt, nhất quán.. VI) SỰ KHÁC BIỆT VỀ QUAN NIỆM THỜI GIAN CỦA XUÂN DIỆU SO VỚI CÁC NHÀ THƠ: Quan niệm về thời gian của Xuân Diệu là quan niệm thời gian của một nhà Thơ Mới, khác với quan niệm thời gian của thơ cũ ( quan niệm thời gian tuần hoàn, gắn cá thể với vũ trụ làm một, chỉ khi chết, hòa vào vũ trụ thì con người mới thực sự được sống). Thời gian trong thi ca trung đại là “thời gian tuần hoàn”, nghĩa là thời gian được hình dung như một vòng tròn liên tục tái diễn, hết một vòng lại quay về điểm xuất phát, cứ trở đi rồi trở lại mãi mãi. Mà đã là vòng tuần hoàn thì thời khắc, thời đoạn có ra đi thì cũng quay trở về. Quan niệm “thời gian tuần hoàn” xuất phát từ cái nhìn tĩnh có phần siêu hình, lấy sinh mệnh vũ trụ để làm thước đo thời gian..

<span class='text_page_counter'>(39)</span> Cách thức trình bày của Xuân Diệu là “chống đối”, “tranh cãi” lại quan niệm xưa; đồng thời bộc bạch quan niệm của mình bằng một cảm xúc sôi nổi cuồng nhiệt, nghĩa là một dạng ý thức triết học đã thấm nhuần cảm xúc. Trước Xuân Diệu, các nhà thơ đã nói đến thời gian. Xưa, Nguyễn Du đã từng than: “Ngày vui ngắn chẳng tày gang”. Gần hơn, Tản Đà cũng tặc lưỡi: “Trăm năm là ngắn, một ngày dài ghê”. Nhưng chỉ với Xuân Diệu, thời gian mới trở thành nỗi ám ảnh. Thật vậy ! Nếu cùng thời Xuân Diệu, Thế Lữ thoát lên tiên, Huy Cận giải bày nỗi sầu lên cỏ cây, sông nước, Vũ Hoàng Chương đến với thơ say để quên thực tại chán chường thì Xuân Diệu rất nhập thế. Ông luôn gắn bó, quyến luyến với cuộc sống, với cảnh và người nơi trần thế này. “Ta ôm bó, cánh tay ta làm rắn Làm dây leo quấn quýt cả mình xuân Không muốn đi, mãi mãi ở vườn trần Chân hoá rễ để hút màu dưới đất.” Có thể nói cuộc đời Xuân Diệu là mùa xuân kì diệu, là cây nến cháy bùng ngọn lửa tình yêu cuộc sống, cháy bùng với tất cả cường độ ánh sáng, cháy đến tận cùng dù chỉ trong một phút giây. Xuân Diệu không chấp nhận cuộc sống kéo dài theo thời gian mà mờ nhạt tối tăm : - “Thà một phút huy hoàng rồi chợt tắt Còn hơn buồn le lói suốt trăm năm” - “Hãy để cho tôi được giã từ Vẫy chào cõi thực để vào hư Trong hơi thở chót dâng trời đất Cũng vẫn si tình đến ngất ngư” Đối với Xuân Diệu, điều kì diệu nhất là cuộc sống, cái đẹp đầy ý nghĩa nhất là con người, tuổi trẻ và tình yêu. Nhà thơ ham sống, tha thiết với đời và khao khát tình yêu đến mê say. Xuân Diệu yêu trần thế này với tất cả vẻ bình dị, trong trẻo và nồng nhiệt nhất, bằng trái tim đắm đuối đến phút cuối cùng. Và tình yêu mê say ấy luôn gắn liền với cảm thức thời gian, nhất là hai mùa đẹp nhất trong năm : Xuân và Thu. Hãy nghe chính Xuân Diệu tâm sự: “Với lòng tôi, trời đất chỉ có hai mùa: Xuân và Thu , hai mùa đặc biệt ý nhị, hai mùa có bình minh … Từ xuân sang hè là từ ấm sang nóng, từ thu sang đông là từ mát sang lạnh, sự thay đổi làm ta bực tức mà lại không có gì thực mới cả; đông với hè chỉ là sự thái quá của thu với xuân … Xuân với thu là hai bình minh trong một năm, sự thay đổi hệ trọng nhất của tâm hồn. Và bởi vậy thu cũng là một mùa xuân. Đầu xuân là bình minh ấm của lòng tôi, đầu thu là bình minh mát của lòng tôi. Và ấm hay mát, thu hay xuân, lòng tôi cũng rạo rực những tiếng gọi mùa, ái tình ghé môi gọi lời trong gió”. (Trường ca). Xuân Diệu coi vũ trụ và con người là hai cá thể khác nhau, nên quan niệm của ông về thời gian là thời gian tuyến tính, một đi không trở lại nên mỗi phút mỗi giây đều đáng quý đáng trân trọng..

<span class='text_page_counter'>(40)</span> Ông cho rằng thời gian của tuổi trẻ là quan trọng nhất nhưng rồi nó cũng sẽ trôi qua , ông thấu hiểu được quy luật nghiệt ngã của cuộc sông nên cảm thấy tiếc, thấy xót xa. Nên bởi vậy mà ông gửi đến triết lí : “sống phải biết tận hưởng, biết quý trọng những giờ phút quý giá của tuổi trẻ để không phải ân hận xót xa, sông vội vàng, hối hả chạy đua với thời gian bởi thời gian tuổi trẻ một đi không trở lại.” => Từ thấu hiểu quy luật của thời gian, mà ông thấy lo lắng, tiếc, xót xa. để từ đó có ý thức quý trọng từng khoảnh khắc, sống một cách nhiệt tình nhất để không lãng phí quãng thời gian đẹp nhất cuộc đời mỗi người là tuổi trẻ. Thời gian vô hồi vô tận nhưng cuộc đời con người lại hữu hạn, vô cùng ngắn ngủi, bởi vậy, hãy tận hưởng từng khoảnh khắc quý giá của thời gian..

<span class='text_page_counter'>(41)</span> C) Đánh giá chung: Như vậy, qua cảm thức thời gian của Xuân Diệu, con người phải vượt lên chế ngự thời gian, làm chủ thời gian bằng sự vận động chính mình, bằng thái độ sống mãnh liệt của mình. Thái độ đó, quan niệm đó được Xuân Diệu trình bày một cách rõ ràng trong văn xuôi của mình : “Thời gian chỉ là sự cử động. Nếu tôi đứng, máu tôi ngừng … thời gian của tôi sẽ không còn nữa” ( Trường ca ). Bởi vậy, để thời gian không mất đi, con người phải không ngừng vận động. Nhưng có điều quan trọng là phải vận động ngang với tốc độ quay của cuộc đời, ngang với nhịp điệu chuyển vần của vũ trụ. Nhà thơ nhận thức về thời gian cũng là nhận thức cuộc đời ở dạng vận động, ở tiến trình không đứng yên của nó. Vì thế, nói như nhà nghiên cứu Đỗ Lai Thuý: “Thơ Xuân Diệu là thế giới mở rộng đa thanh. Trong bản giao hưởng âm thanh này nổi lên những giai âm như “Đây mùa thu tới “: sự thức nhận thời gian; “ Vội vàng”: một ứng xử với thời gian; “Gửi hương cho gió” : tình yêu như sự chiến thắng thời gian; sau cùng, “Thơ thơ” : nghệ thuật như là sự vĩnh cữu hóa thời gian..

<span class='text_page_counter'>(42)</span> D) BÀI THAM KHẢO 1) Thời gian trong thơ Xuân Diệu – Minh Ngọc Nhà thơ Thế Lữ, trong lời Tựa cho tập Thơ Thơ của Xuân Diệu, đã có nhận xét khá tinh tế: “Xuân Diệu là một người của đời, một người ở giữa loài người. Lầu thơ của ông xây dựng trên đất của một tấm lòng trần gian” . Đã hơn hai mươi năm Xuân Diệu giã từ chúng ta vào cõi hư vô, nhưng “tấm lòng trần gian” của ông dường như vẫn còn ở lại. Cứ mỗi lần xuân tới, những trái tim non trẻ của các thế hệ học sinh lại rung lên những cảm xúc mãnh liệt trước tâm tình của Xuân Diệu gửi gắm với đời trong bài thơ Vội vàng, gắn với niềm khát khao giao cảm với đất trời, con người tràn mê đắm của thi nhân, trong mùa xuân diệu kì! Làm thơ xuân vốn là một truyền thống của thi ca Việt Nam, bao nét xuân đi vào thi ca đều mang một dấu ấn cảm xúc riêng. Đặc biệt, trong thơ lãng mạn Việt Nam 1932 – 1945, mùa xuân còn gắn với cái tôi cá nhân cá thể giàu cảm xúc của các nhà Thơ Mới. Có thể kể đến một Hàn Mặc Tử với “khách xa gặp lúc mùa xuân chín…”, một Nguyễn Bính với “mùaxuân là cả một mùa xanh…”. Nhưng có lẽ Xuân Diệu chính là người đã đem vào trong cảm xúc mùa xuân tất cả cái rạo rực đắm say của tình yêu. Vội vàng là lời tâm tình với mùa xuân của trái tim thơ tuổi hai mươi căng nhựa sống. Bài thơ mở đầu bằng những ước muốn thật kì lạ: Tôi muốn tắt nắng đi Cho màu đừng nhạt mất Tôi muốn buộc gió lại Cho hương đừng bay đi Con người ở giữa không gian của “nắng” và “hương” này thật lạ! Anh ta có những ước muốn và đòi hỏi thật vô lí, muốn vượt ra khỏi qui luật bình thường của tạo hoá. Nhưng qui luật thời gian vẫn lạnh lùng nghiệt ngã, nắng vẫn chầm chậm trôi về cuối ngày, gió vẫn lang thang hoài không nghỉ, báo hiệu cho tàn phai và phôi pha sắp sửa bắt đầu. Xuất phát từ điểm nhìn của một cái tôi chủ quan, chẳng qua Xuân Diệu chỉ muốn diễn giải đầy đủ hơn sự có lí của tâm hồn: giữ trọn vẹn hơn những vẻ đẹp cuộc đời, hưởng thụ tận cùng màu sắc và hương vị của sự sống. Điều nhà thơ “muốn” trong một không gian ngập đầy nắng gió đã nói lên ý thức về thời gian trong tâm tưởng con người: nỗi lo sợ trước viễn cảnh chia li, như có lần Xuân Diệu đã từng chứng kiến: Đương lúc hoàng hôn xuống Là giờ viễn khách đi Nước đượm màu li biệt Trời vương hương biệt li (Viễn khách) Ý niệm về thời gian ấy còn là nỗi lo sợ cho tương lai “Đời trôi chảy lòng ta không vĩnh viễn” nên trái tim “giục giã” nhà thơ bày tỏ nỗi niềm tha thiết với mùa xuân. Mùa.

<span class='text_page_counter'>(43)</span> xuân đến, trong sự mong đợi của nhà thơ, cùng với hương và sắc, làm bừng lên sức sống của không gian: Của ong bướm này đây tuần tháng mật Này đây hoa của đồng nội xanh rì Này đây lá của cành tơ phơ phất Của yến anh này đây khúc tình si Và này đây ánh sáng chớp hàng mi Mỗi sáng sớm thần Vui hằng gõ cửa Chưa bao giờ, trong thi ca Việt Nam, mùa xuân lại hiện ra xôn xao như thế. Xuân không còn là bóng dáng mà đã hiện hình cụ thể đến từng chi tiết: vẻ đẹp ngọt ngào trong “tuần tháng mật” “của ong bướm”, rực rỡ trong “hoa của đồng nội xanh rì”, mơn mởn trong “lá của cành tơ phơ phất”, mê đắm trong “khúc tình si” “của yến anh” và ngây ngất niềm vui “gõ cửa” cho mọi tâm hồn bừng lên “ánh sáng”! Sức sống của mùa xuân làm vạn vật có linh hồn, quấn quít giao cảm đến độ cuồng nhiệt. Bằng những tiếng “này đây” vồ vập, linh hoạt giữa những hàng thơ, tạo nên điệp khúc, Xuân Diệu háo hức như muốn sờ tận tay, chạm mặt mùa xuân. Bước chuyển của mùa xuân nhờ vậy cũng rõ rệt hơn, bay lên cùng cái náo nức rộn rã, mê mải trong lòng tác giả, nồng nàn và tinh tế. Tuyệt đỉnh của mê say là một niềm hạnh phúc: Tháng Giêng ngon như một cặp môi gần Mùa xuân không còn riêng của đất trời vạn vật mà đã hoà vào hồn người. Mùa xuân đến với con người như một người yêu, góp hết sự sống của muôn loài lên “cặp môi gần” hiến dâng, đầy ham muốn của con người. Qua cách cảm của Xuân Diệu, cuối cùng cái đích của sự sống vẫn là con người, chuẩn mực của mọi vẻ đẹp cuộc sống vẫn là con người với tất cả khát khao về hạnh phúc. Hạnh phúc cùng mùa xuân, tận hưởng vị “ngon” của cả một không gian xuân, nhà thơ đã biểu lộ cảm xúc cực điểm của sự sung sướng. Niềm hạnh phúc trần thế ấy đồng nghĩa với sự sống! Mùa xuân đem đến cho chàng trai Xuân Diệu một niềm ham sống và men say của tình yêu. Nhưng nhịp hoan ca bỗng khựng lại giữa chừng trong một câu thơ tách ra hai thái cực: Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa Nhà thơ cắt nghĩa cái vội vàng ấy bằng những dự cảm của tâm hồn. Trước một niềm khoái lạc vô biên khiến con người như bồng bềnh chao đảo trong cảm giác ngất ngây, linh cảm về một cuộc chia li đã hiện hình rõ nét: Xuân đang tới nghĩa là xuân đang qua Xuân còn non nghĩa là xuân sẽ già Mà xuân hết, nghĩa là tôi cũng mất Những cái “nghĩa là” ấy gắn liền với triết lí về sự sống đã có tự ngàn xưa, không phải là một ý` niệm mới mẻ. Cách Xuân Diệu một ngàn năm, trong thế giớ i của thơ Đường, ta đã gặp nỗi lòng của một Trần Tử Ngang trước vũ trụ bao la: Ai người trước đã qua Ai người sau chưa lại.

<span class='text_page_counter'>(44)</span> Ngẫm trời đất thật vô cùng Riêng lòng đau mà lệ chảy (Bản dịch Đăng U Châu đài ca) Suy tư ấy có liên quan đến thân phận con người: cái hữu hạn của đời người – cái vô hạn của đất trời. Với Xuân Diệu, khi mùa xuân đồng nghĩa với tuổi trẻ, sự sống, tình yêu, gắn bó với cái tôi yêu đời của nhà thơ, thì chia li đồng nghĩa với cái chết. Trong khi đồng nhất hoá mùa xuân với con người, Xuân Diệu đã sống đến tận cùng cảm giác, yêu đến tận cùng mê say và gửi cả vào mùa xuân khát vọng của một tâm hồn muốn vươn tới cõi vô biên. Nhưng khi ý thức về thời gian đi liền với tàn phai và hủy diệt, nhà thơ đã cảm nhận sâu sắc bi kịch của con người phải chịu sự chi phối của qui luật khách quan. Đó cũng là nỗi niềm chung của con người khi chôn vùi tuổi trẻ trong một cuộc sống đã mất ý nghĩa. “Ngán nỗi xuân đi, xuân lại lại – Mảnh tình san sẻ tí con con”, Hồ Xuân Hương đã chẳng từng than thở đó sao? Điều đặc biệt là Xuân Diệu không thu gọn cảm xúc trong nỗi niềm ngao ngán cho riêng bản thân. Thi nhân đã dành hẳn một niềm “bâng khuân”, “tiếc cả đất trời” để làm nên một cuộc chia li bi tráng với mùa xuân: Mùi tháng năm đều rớm vị chia phôi Khắp sông núi đếu than thầm tiễn biệt Con gió xinh thì thào trong lá biếc Phải chăng hờn vì nỗi phải bay đi Chim rộn ràng bỗng đứt tiếng reo thi Phải chăng sợ độ phai tàn sắp sửa Chẳng bao giờ, ôi chẳng bao giờ nữa. Những cuộc chia li nổi tiếng trong lịch sử văn chương cổ kim có lẽ cũng chỉ bùi ngùi đến vậy. Nước sông Dịch lạnh theo nỗi niềm thái tử Đan đưa tiễn Kinh Kha sang sông hành thích bạo chúa, người chinh phụ đưa chồng ra chiến trận “nhủ rồi nhủ lại cầm tay- bước đi một bước giây giây lại dừng” (Chinh phụ ngâm), tất cả đều cảm động lưu luyến nhưng đó là cảnh chia li giữa người với người. Tản Đà mượn lời “thề non nước”, “tống biệt”, “cảm thu, tiễn thu” cũng chỉ là mượn cảnh nói người, cảm xúc man mác lặng lẽ. Còn Xuân Diệu đã diễn tả đầy đủ đến từng chi tiết cụ thể không khí của cuộc chia li, từ thời gian “tháng năm”, không gian “sông núi than” đến “cơn gió xinh hờn tủi”, chim “đứt tiếng”… Cảm quan lãng mạn cùng hoà với suy tư về bản thân đã khắc hoạ độc đáo cảm giác tinh tế của nhà thơ. Khung cảnh “rớm vị chia phôi” như san sẻ nỗi niềm của thi nhân, bật thành tiếng than não nuột “chẳng bao giờ, ôi, chẳng bao giờ nữa”, tiếc thương cho vẻ đẹp mùa xuân, tuổi trẻ, sự sống một đi không trở lại. Từ cảnh “trong gặp gỡ đã có mầm li biệt” này. trước nỗi lo âu, linh cảm về sự tàn phai cùng dòng chảy thời gian, có một giao điểm hội tụ tình cảm và lí trí củanhà thơ, trở thành một niềm thôi thúc cháy bỏng: Mau đi thôi! Mùa chưa ngả chiều hôm Đó là lời kêu gọi của tình yêu, của đam mê và khát khao vượt ra thực tại đáng buồn để tìm đến mùa xuân. Chính vào lúc tưởng như rợn ngợp trong sự hoang mang, nhà thơ đã vượt lên để thể hiện rõ chất Người cao đẹp – tìm về ý nghĩa của sự sống..

<span class='text_page_counter'>(45)</span> Không quay về quá khứ để hoài niệm, không tìm kiếm một ngày mai vô vọng, con người ở đây sống cùng thực tại mãnh liệt, dường như cùng với các động tác vội vàng cuống quít kia là sự cuồng nhiệt với đời: Ta muốn ôm! Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn Ta muốn riết mây đưa và gió lượn Ta muốn say cánh bướm với tình yêu Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều Và non nước và mây và cỏ rạng Cho chếnh choáng mùi hương cho đã đầy ánh sáng Cho no nê thanh sắc của thời tươi - Hỡi Xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi! Tưởng chừng những cái “ta muốn” là sự lặp lại cảm xúc đầu bài thơ. Nhưng đi liền với các cảm giác và hành động ôm, riết, say, thâu, hôn, chếnh choáng, đã đầy, no nê, cắn, cảm xúc đã phát triển đầy đủ, trẻ trung trong trạng thái ngây ngất. Từ thái độ ban đầu còn có chút e dè đến thái độ vồ vập vội vàng, có chút tham lam là cả một sự chuyển hướng của suy tư. Xuân Diệu không chờ đợi mà muốn chiếm lĩnh sự sống, thâu vào đầy đủ vẻ đẹp cuộc sống, sống thành thật với chính mình, sống hết mình. Thái độ sống ấy đã được nhà thơ tuân thủ suốt cuộc đời mình và ông đã tìm ra ý nghĩa của sự sống trước ranh giới của mất mát, tàn phai và cái chết, chiến thắng nỗi sợ hãi hư vô. Khát khao được sống, được yêu, được giao cảm cùng vũ trụ và cuộc đời, Xuân Diệu đã chiến thắng thời gian, vẫn vẹn nguyên sức sống dồi dào của tuổi hai mươi: Trong hơi thở chót dâng trời đất Cũng vẫn si tình đến ngất ngư (Không đề - 1983) Bài thơ Vội vàng đã thể hiện tinh tế những giác quan bén nhạy của hồn thơ Xuân Diệu trước mùa xuân, gắn với quan niệm sống của ông về ý nghĩa sự sống đời người. Con Người, với những tính cách và cảm xúc độc đáo hiện diện trong từng câu chữ, mang nét đặc trưng của cảm quan lãng mạn. Bài thơ còn đưa ra một quan niệm sống tích cực: phải biết tận hưởng vẻ đẹp cuộc đời. Hiểu một cách đúng đắn quan niệm này có nghĩa là mỗi người cần phải sống hết mình với cuộc sống hôm nay, sôi nổi châ nthành và thiết tha với đời. Chính vẻ đẹp của con người sẽ làm nên vẻ đẹp bất tử cho cuộc đời. Lời nhắn nhủ trong Vội vàng cũng là tâm niệm suốt đời của nhà thơ, đã làm ta hiểu hơn về “tấm lòng trần gian” của một người thơ.. 2)Hình tượng thời gian trong bài Vội vàng của Xuân Diệu (Phạm Ngọc Hiền) Thời gian là hình thức vận động và tồn tại của thế giới, tất cả vạn vật đều được sinh ra và mất đi theo dòng thời gian. Xuân Diệu rất quý thời gian và khát khao giao cảm mãnh liệt.

<span class='text_page_counter'>(46)</span> với đời nên ông muốn còn mãi thời tươi trẻ để tận hưởng thanh sắc của Nàng Xuân. Cảm thức thời gian của Xuân Diệu được bộc lộ khá rõ nét trong bài thơ Vội vàng. Trong bốn mùa xuân, hạ, thu, đông, Xuân Diệu rất thích mùa xuân vì nó đẹp nhất. Cũng như trong bốn chặng tuổi đời: trẻ thơ, thanh niên, trung niên, già lão, Xuân Diệu thích nhất tuổi thanh niên bởi nó có sức sống mạnh mẽ. Mùa xuân của thiên nhiên tương ứng với tuổi thanh niên của con người. Thật là một sự viên mãn khi tuổi thanh xuân được sống hết mình trong mùa xuân ! Không phải ngẫu nhiên mà tác giả đã chọn mùa xuân làm hình tượng chính của bài thơ. Thời gian nghệ thuật ở đây mang đậm triết lý nhân sinh của tác giả, gọi là thời gian mang tính quan niệm. Thời gian mùa xuân được nhìn qua lăng kính của chàng thi sĩ đa tình nên mang vẻ đẹp quyến rũ của một nàng thiếu nữ. Thi nhân đã tận dụng hết tất cả các giác quan để thưởng thức vẻ đẹp tuyệt vời của Nàng Xuân. Hình tượng thời gian cũng có hình hài sống động như một con người. Thời gian mùa xuân cũng có mùi, đó là "mùi tháng năm", "mùi thơm" ngan ngát, quyến rũ lòng người. Sợ gió sẽ làm vơi bớt mùi hương, thi nhân muốn "buộc gió lại / Cho hương đừng bay đi". "Tháng giêng ngon" còn có vị ngọt ngào của "mật", tha hồ hút "no nê". Mùa xuân có âm thanh quyến rũ, chim hót "khúc tình si" say đắm lòng người. Mỗi sáng sớm có âm thanh gõ cửa báo tin vui, mỗi ngày nhận một niềm vui sướng, cuộc đời thật tuyệt vời ! Thời gian mùa xuân cũng rực rỡ sắc màu. Con người được tắm mình trong một miền nắng đẹp, "đầy ánh sáng", "ánh sáng chớp hàng mi". Sợ màu nắng nhạt mất, thi nhân muốn "tắt nắng đi" để còn lưu lại mãi vẻ đẹp lung linh của nó. Ta thử hình dung một khung cảnh rất thơ mộng, một đôi uyên ương đang hưởng "tuần tháng mật", nhởn nhơ trên "đồng nội xanh rì", đầy hoa thơm "cỏ rạng", "lá biếc", "cành tơ phơ phất", "ong bướm" rập rờn tình tứ, trên trời "mây đưa", "gió lượn"... Còn gì vui sướng hơn khi được sống, được yêu trong cảnh "non nước" hữu tình như thế ! Thi nhân không chỉ dừng lại ở việc thưởng thức Nàng Xuân qua các giác quan: mũi, miệng, tai, mắt. Chàng muốn thiết thực hơn: trực tiếp cọ xát với da thịt của người đẹp. Chàng đã hôn Nàng say đắm để nhận ra rằng Nàng thật là "ngon". Nhưng chỉ dừng lại ở việc hôn nhau thôi cũng chưa đủ chiếm lĩnh toàn bộ thể xác bạn tình. Chàng tiến tới một bước nữa với những hành động mạnh mẽ hơn: "ôm", "riết", "thâu"... Và chàng đã "say", "chuếnh choáng", "đã đầy", "no nê"... Nhưng rồi, với một niềm đam mê sắc dục quá mạnh mẽ, chàng thấy vẫn chưa đủ. Trai gái làm tình khi đạt tới cao trào thì "cắn" vào nhau, chàng cũng vậy, đã "cắn" vào người tình lúc đạt đỉnh cao của sự hòa trộn thể xác. Chỉ khác là, chàng không cắn vào một hình hài cụ thể nào mà cắn vào... "xuân hồng", tức là cắn vào mùa xuân mơn mởn, hồng hào, đầy quyến rũ như thiếu nữ mới lớn. Nói cách khác, chàng trai trẻ đa tình đã chiếm đoạt hình hài của mùa xuân. Và thời gian non tươi đã dâng hiến cho thi nhân những gì đẹp nhất của mình. Thời gian sự kiện trong bài thơ là tháng giêng, khởi đầu cho một năm cho nên "Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn". Hình tượng mùa xuân không tĩnh tại mà sống động, cây cối đang đâm chồi nảy lộc, đầy sức sống, ong bướm bay rập rờn, chim thi nhau hót, mây đưa, gió lượn... Bản thân thời gian không chỉ vận động trong thời hiện tại mà nó còn tiến tới tương lai. Bởi vậy, trong khi thi sĩ tận dụng hết các giác quan hiện hữu như thị giác, thính.

<span class='text_page_counter'>(47)</span> giác, xúc giác, vị giác, khứu giác để tận hưởng thú vui địa đàng thì giác quan thứ sáu mách bảo với chàng rằng: Nàng Xuân rồi sẽ ra đi. Xuân Diệu vốn rất nhạy cảm với sự trôi chảy nhanh chóng của thời gian nên đang tháng giêng đã than tiếc sợ hết xuân. "Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân / Xuân đương tới, nghĩa là xuân đương qua / Xuân còn non, nghĩa là xuân sẽ già / Mà xuân hết, nghĩa là tôi cũng mất". Vốn có con mắt tinh đời, Xuân Diệu đã nhìn thấy tính hai mặt của thời gian. Ông vừa nhìn nàng xuân trong tay mình, đã thấy nàng tuột mất khỏi tay mình. Đang nhìn thấy nàng dậy thì đã nhìn thấy nàng già cỗi. Đang thấy xuân vui chợt đã thấy xuân buồn... Lúc vạn vật đang gặp gỡ, giao hòa thì đã mang mầm móng của sự chia ly. "Mùi tháng năm đều rớm vị chia phôi / Khắp sông núi vẫn than thầm tiễn biệt... / Con gió xinh thì thào trong lá biếc / Phải chăng hờn vì nỗi phải bay đi ? / Chim rộn ràng bỗng đứt tiếng reo thi / Phải chăng sợ độ phai tàn sắp sửa ?". Hình tượng mùa xuân trong bài thơ thật trẻ trung, xinh đẹp và sống động. Nó cho thấy giá trị đích thực của của cuộc sống thiên đường trên mặt đất. Xuân Diệu là người thiết thực, muốn vội vàng tận hưởng ngay những "thanh sắc của thời tươi" trong hiện tại. Bài thơ đã toát lên nhân sinh quan tiến bộ của tác giả: hãy quý trọng thời gian và sống hết mình trong hời tuổi rẻ..

<span class='text_page_counter'>(48)</span> NGUỒN TÀI LIỆU THAM KHẢO: 1. 2.. 123doc.org › ... › Văn học - Ngôn ngữ học. 3.. thptso2tuyphuoc.edu.vn/index.php?...gian...trong-tho.... 4. 5. 6.. “Ba đỉnh cao thơ Mới” – Trần Đình Sử. 7.. “Thi nhân Việt Nam”. 8.. 9. 10.

<span class='text_page_counter'>(49)</span> Suốt quãng đời của mình, nhà thơ tình xuất sắc đã không ngừng cống hiến tài năng văn học cộng hưởng với tình yêu cuộc sống mãnh liệt, đóng góp cho đời những tiếng thơ căng tràn sức sống. Đã yêu say tất cả vẻ đẹp của vạn vật trên đời, ắt hẳn Xuân Diệu phải cảm thấy đau đớn, dằn xé biết bao khi chứng kiến sự vật, con người tàn úa theo thời gian. Như chúng ta đã biết, những bài thơ hay thường là những bài thơ buồn. Hồn thơ Xuân Diệu tuy tươi vui, hiện đại nhưng vẫn không thiếu những từ ngữ, hình ảnh thấm đượm nỗi buồn của người thi sĩ trước quy luật của thời gian.Nếu sự vui tươi, hồn nhiên làm từ nét hiện đại, đậm chất Tây học của nhà thơ giúp khẳng định phong cách rất riêng trong thơ ông thì nỗi buồn trước quy luật tuyến tính của đời người mang đến sự lôi cuốn, hấp dẫn người đọc.Tuy nhiên, đó không phải là hồn thơ ủy mị, tiêu cực, sầu não, chính nỗi buồn ấy hối thúc con người biết trân trọng từng phút giây đang sống, không lãng phí thời gian và biết yêu quý mọi vẻ đẹp trên đời. Dù là tình yêu tha thiết với cuộc sống hay nỗi buồn trước sự hữu hạn của đời người, đó vẫn là sự sáng tạo của riêng Xuân Diệu, toát lên ngay từ chính con người, cá tính của ông. Để phát huy tối đa những thông điệp quý giá mà nhà thơ muốn truyền tải, chúng ta phải biết khai thác ý nghĩa tích cực và đánh giá khách quan hồn thơ Xuân Diệu, trân trọng, giữ gìn tất cả các tác phẩm người thi sĩ dày công sáng tạo và biết phát huy giá trị thiết thực được gửi gắm qua các bài thơ. Thời gian trôi qua, chàng thi sĩ đã không thể đi ngược quy luật của thời gian để sống mãi, nhưng vẻ đẹp của thơ ông vẫn sẽ mãi trường tồn trong lòng những người yêu thơ, yêu cái đẹp và biết quý trọng cuộc sống..

<span class='text_page_counter'>(50)</span> Điểm.

<span class='text_page_counter'>(51)</span>

×