Tải bản đầy đủ (.doc) (129 trang)

Tài liệu GIÁO TRÌNH GIẢNG DẠY QUẢN LÝ MÔI TRƯỜNG docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1013.87 KB, 129 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA TH.HCM
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC TỰ NHIÊN
  
GIÁO TRÌNH GIẢNG DẠY

TP.HCM, 2008
Quản lý môi trường
PHÂN BỐ THỜI LƯỢNG & HÌNH THỨC ĐÁNH GIÁ
1 Tên môn học: Quản lý môi trường.
2 Mã số:
3 Số đơn vị học trình: 03
4 Phân phối thời lượng:
* Lý thuyết: 70%
* Thực hành: 30%
5 Hình thức đánh giá:
* Tham gia đầy đủ giờ nghe giảng trên lớp: 10%
* Thảo luận nhóm: 10%
* Tiểu luận: 20%
* Thi (viết) 60%
6 Chủ nhiệm bộ môn:
7 Giảng viên: Ths. Nguyễn Vinh Quy.
Quản lý môi trường
MỤC LỤC
Phần 11
Khái quát về quản lý môi trường và những thách thức của môi trường đối với
nhân loại
Chương 1: Mở đầu
Chương 2: Những thách thức của môi trường đối với nhân loại
2.1 Các thách thức về môi trường
2.1.1 Vấn đề ô nhiễm, sự cố và suy thoái môi trường.
2.1.1.1 Khái niệm về ô nhiễm môi trường.


2.1.1.2 Khái niệm về sự cố môi trường
2.1.1.3 Khái niệm về suy thoái môi trường
2.1.2 Vấn đề trái đất nóng lên
2.2 Phát triển và mối quan hệ giữa môi trường và phát triển
2.2.1 Khái niệm về phát triển
2.2.2 Mối quan hệ giữa môi trường và phát triển
Chương 3: Đô thị hoá, công nghiệp hoá và ô nhiễm môi trường
3.1 Mối liên hệ giữa đô thị hoá, công nghiệp hoá và môi trường
3. 2 Ô nhiễm các thành phần môi trường và các biện pháp bảo vệ
3.2.1 Ô nhiễm nguồn nước
3.2.1.1 Khái niệm ô nhiễm nguồn nước.
3.2.1.2 Các nguồn gây ô nhiễm.
3.2.1.3 Các tác nhân gây ô nhiễm nguồn nước.
3.2.1.4 Ảnh hưởng của việc ô nhiễm nước đến môi trường sống
3.2.1.5 Một số giải pháp hạn chế ô nhiễm nguồn nước.
3.2.2 Ô nhiễm và bảo vệ khí quyển
3.2.2.1 Khí quyển và ô nhiễm khí quyển
3.2.2.2 Các nguồn gây ô nhiễm không khí
3.2.2.3 Ô nhiễm không khí do tiếng ồn
i
Quản lý môi trường
3.2.2.4 Các biện pháp giảm thiểu ô nhiễm và bảo vệ môi trường không khí
3.2.3 Ô nhiễm và bảo vệ môi trường đất
3.2.3.1 Đặc điểm của môi trường đất
3.2.3.2 Ô nhiễm môi trường đất
3.2.3.3 Các chất gây ô nhiễm môi trường đất
3.2.3.4 Các biện pháp bảo vệ môi trường đất
Phần ii
Quản lý môi trường và hệ thống quản lý môi trường
Chương 4: Khái quát về quản lý môi trường

4.1 Định nghĩa về quản lý môi trường
4.2 Mục đích, nguyên tắc và nôi dung của công tác quản lý môi trường.
4.2.1 Mục đích
4.2.2 Các nguyên tắc quản lý môi trường chủ yếu
4.2.3 Nội dung và chức năng của quản lý nhà nước về môi trường.
4.2.4 Công cụ quản lý môi trường
4.2.4.1 Khái niệm về công cụ quản lý môi trường
4.2.4.2 Phân loại công cụ quản lý môi trường
Chương 5: Hệ thống quản lý môi trường ISO 14000
5.1 Khái niệm về hệ thống quản lý môi trường
5.2 Quản lý môi trường theo hệ thống ISO 14000
5.2.1 Khái niệm ISO 14000
5.2.2 Nội dung cơ bản của ISO 14000
5.2.3 Các yếu tố và các tiêu chuẩn trong chuỗi tiêu chuẩn ISO 14000
5.2.4 Triển khai áp dụng tiêu chuẩn ISO 14000 ở nước ta.
5.3 Chương trình quản lý và kiểm toán sinh thái cộng đồng.
5.3.1 Sự giống và khác nhau giữa ISO 14001 va EMAS
Chương 6: Các tiêu chuẩn chất lượng môi trường
6.1 Khái niệm về tiêu chuẩn môi trường
6.2 Các tiêu chuẩn chất lượng môi trường
ii
Quản lý môi trường
6.2.1 Tiêu chuẩn chất lượng môi trường xung quanh.
6.2.1.1 Các tiêu chuẩn thải nước và thải khí
6.2.1.2 Các tiêu chuẩn xả thải theo sản phẩm và quy trình.
6.2.2 Các tiêu chuẩn về môi trường nước
6.2.2.1 Tiêu chuẩn nước mặt
6.2.2.2 Tiêu chuẩn nước ngầm
6.2.2.3 Tiêu chuẩn chấùt lượng nước biển ven bờ
6.2.3 Tiêu chuẩn chất lượng môi trường không khí

6.2.3.1 Tiêu chuẩn chất lượng môi trường không khí xung quanh.
6.2.3.2 Cộng tác dụng của nhiều chất ô nhiễm trong môi trường không khí.
6.2.3.3 Tiêu chuẩn cho phép nồng độ chất ô nhiễm trong khí thải đối với nguồn
khí thải tĩnh
6.2.3.4 Tiêu chuẩn nồng độ các chất ô nhiễm khí thải từ nguồn di động
6.2.3.5 Tiêu chuẩn tiếng ồn
6.2.4 Tiêu chuẩn chất lượng đất
6.2.4.1 Tiêu chuẩn quy định dư lượng tối đa hoá chất bảo vệ thực vật trong đất
(TCVN 5941-1995) .
Chương 7: Hệ thống quan trắc dùng trong quản lý môi trường
7.1 Hệ thống quan trắc môi trường và chức năng nhiệm vụ của hệ thống quan trắc
7.1.1 Khái niệm
7.1.2 Chức năng và nhiệm vụ của hệ thống quan trắc môi trường.
7.1.3 Phân loại hệ thống quan trắc.
7.1.4 Các nguyên tắc xây dựng hệ thống quan trắc quốc gia
7.1.5 Các thông số cơ bản của môi trường được các trạm quan trắc theo dõi, thu
thập.
7.1.5.1 Quan trắc chất lượng môi trường nước.
7.1.5.2 Quan trắc chất lượng môi trường không khí.
7.1.5.3 Quan trắc chất lượng môi trường đất
Phần 3
iii
Quản lý môi trường
Luật pháp về bảo vệ môi trường của Việt Nam và quốc tế
Chương 8: Tuyên bố của Hội Nghị Liên Hiệp Quốc về bảo vệ môi trường
iv
Quản lý môi trường
PHẦN 1
KHÁI QUÁT VỀ QUẢN LÝ MÔI TRƯỜNG VÀ
NHỮNG THÁCH THỨC CỦA MÔI TRƯỜNG ĐỐI

VỚI NHÂN LOẠI
CHƯƠNG 1: MỞ ĐẦU
Lịch sử hình thành và phát triển của nhân loại đã trải qua một quá trình lâu dài,
trong quá trình đó, con người vô tình hay cố ý đã có tác động (xấu hoặc tốt) đến
môi trường. Ảnh hưởng của các hoạt động của nhân loại đến môi trường càng trở
nên mạnh hơn kể từ khi con người sử dụng các ngành công nghiệp vào sản xuất và
đời sống. Không thể phủ nhận rằng sự phát triển mạnh mẽ của các ngành công
nghiệp đã góp phần nâng cao đời sống và thỏa mãn được một phần nhu cầu ngày
càng tăng của con người trên hành tinh chúng ta. Theo Ree (1990) vào những năm
50 của thế kỷ 20, tổng thu nhập quốc nội ở những nước phát triển tăng 3 lần, con
số này vượt quá 4 lần trong thập kỷ sau. Sản lượng công nghiệp tăng 4 lần trong
vòng 20 năm và tỷ lệ tăng trưởng (rate of growth) gấp 4 lần so với nửa thập kỷ
trước. Tuy vậy, đồng hành với sự phát triển của các ngành công nghiệp, các vấn đề
về môi trường cũng nảy sinh. Mức tiêu thụ các tài nguyên, khoáng sản không
ngừng leo thang, đặc biệt là nhu cầu về quặng sắt và quặng năng lượng (energy
minerals) tăng lên đáng kể: quặng sắt 7%; quặng nhôm 9,8%; plantinum 9%…
Việc tăng lượng tiêu thụ tài nguyên thiên nhiên không những dẫn đến tăng nhanh
lượng chất thải ra môi trường mà còn tăng áp lực sử dụng các loại tài nguyên có
giá trị thấp và khó khai thác. Do đó, nhiên liệu và năng lượng chi phí cho việc khai
thác các loại tài nguyên lại càng cao hơn. Hậu quả của việc sử dụng quá mức
nguồn tài nguyên thiên nhiên phục vụ cho mục đích phát triển đã được nhiều học
giả của các nước Châu Âu và Mỹ quan tâm ngay từ những năm đầu của thập kỷ
50. Theo báo cáo của chính quyền nước Mỹ tại thời điểm 1950, tài nguyên dầu mỏ
của Mỹ sẽ cạn kiệt sau 20 năm nếu người Mỹ không thay đổi “khuôn mẫu” của sự
Ths. Nguyễn Vinh Quy
1
Quản lý môi trường
tiêu thu. Tại thời điểm đó, các nước Châu Âu cũng rất lo ngại về việc sẽ cạn kiệt
các loại tài nguyên chủ yếu cho việc phục hồi nền công nghiệp bị chiến tranh thế
giới thứ 2 tàn phá. Dầu vậy, mãi cho đến những năm đầu của thập kỷ 70 vấn đề

làm thế nào để giảm suy thoái môi trường mà vẫn không ảnh hưởng đến sự phát
triển mới được cộng đồng quốc tế quan tâm đúng mức và điểm mốc đánh dấu cho
hoạt động bảo vệ môi trường trên bình diện toàn cầu là “Hôïi nghị thượng đỉnh
Stockhorm” năm 1972 tại Thụy Điển.
Ngày nay, bảo vệ môi trường đã trở thành một vấn đề trọng yếu toàn cầu và đang
dược nhiều quốc gia trên thế giới đặt thành quốc sách. Bảo vệ môi trường gắn liền
với sự phát triển bền vững đã trở thành một nội dung quan trọng của các chiến
lược và kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội của mỗi quốc gia. Nếu không đặt đúng
vị trí bảo vệ môi trường thì không thể đạt được mục tiêu phát triển và từng bước
nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân. Một thực tế dễ nhận thấy, trong
những thập kỷ gần đây môi trường đang có những thay đổi theo hướng xấu đi như:
sự thay đổi khí hậu toàn cầu; hiệu ứng nhà kính; sự suy giảm tầng ozone; đa dạng
sinh học ở nhiều vùng đang bị giảm sút một cách nhanh chóng; cháy rừng và ô
nhiễm môi trường nước, không khí, đất…Chất lượng môi trường giảm sút đã gây
ra hậu quả khôn lường. Các hiện tượng như cháy rừng, hạn hán, lụt lội ngày nay
đang xảy ra thường xuyên hơn. Sự ô nhiễm môi trường và suy thoái môi trường
mang tính không biên giới, không có giới hạn trong một quốc gia hay khu vực mà
nó xảy ra trên bình diện toàn cầu. Ô nhiễm và sự cố môi trường có thể xảy ra ở
những nước giàu cũng như nước nghèo và ngày càng ngiêm trọng hơn, nó đã trở
thành vấn đề thách thức ở nhiều quốc gia. Môi trường một khi bị biến đổi quá mức
thì khó có khả năng tự lấy lại cân bằng. Do đó, để môi trường có thể trở lại trạng
thái cân bằng đòi hỏi phải có sự can thiệp một cách có ý thức của con người. Do
mức độ quan trọng, bình diện rộng cũng như sự phức tạp của vấn đề môi trường
nên đòi hỏi các nhà nước phải nâng cao hiệu quả công tác quản lý môi trường, vì
quản lý nhà nước về môi trường cũng là một trong những lĩnh vực quản lý nhà
nước. Đòi hỏi cách “cư xử” đúng mức với môi trường được đặt ra cho tất cả các
Ths. Nguyễn Vinh Quy
2
Quản lý môi trường
quốc gia trên thế giới, bất kể sự khác nhau về hình thức chính thể, thể chế chính trị

cũng như trình độ phát triển kinh tế-xã hội của mỗi nước. Thực tế ở nhiều nước
đạt được thành tích cao trong bảo vệ môi trường như Mỹ, Úc , Singapore…cho
thấy, quản lý nhà nước về mặt môi trường là một trong những nhân tố quan trọng
bảo đảm cho việc sử dụng các nguồn tài nguyên thiên nhiên một cách hợp lý và
luôn giữ được môi trường ở trạng thái cân bằng.
Ở nước ta, vấn đề bảo vệ môi trường nhằm góp phần phát triển bền vững rất được
Đảng và Nhà nước quan tâm. Các nghị quyết của Đảng đều ghi rõ phát triển kinh
tế - xã hội phải gắn liền với bảo vệ môi trường, sử dụng hợp lý nguồn tài nguyên
thiên nhiên, cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Hệ thống quản
lý nhà nước về mặt môi trường đã được hình thành và đi vào hoạt động trên phạm
vi cả nước. Công tác kiểm soát và quản lý môi trường được tiến hành tương đối
đồng bộ và có tổ chức. Nhà nước đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách và đã
có những biện pháp tích cực để tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức và hiểu
biết về bảo vệ môi trường của người dân. Không thể phủ nhận rằng, hoạt động bảo
vệ môi trường ở nước ta trong những năm qua đã được đẩy mạnh và thu được một
số kết quả đáng khích lệ, góp phần vào những thành tựu to lớn của đất nước trong
thời kỳ đổi mới. Tuy vậy, vẫn có nhiều vấn đề cần phải được cũng cố, sửa đổi
trong việc quản lý môi trường nhằm đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh tế-xã
hội trong giai đoạn công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Nhìn tổng thể, môi
trường nước ta đang tiếp tục bị ô nhiễm và suy thoái, nhiều nơi còn rất nghiêm
trọng. Việc thi hành luật bảo vệ môi trường của các cá nhân, tập thể nhiều lúc còn
chưa được nghiêm túc, công tác quản lý còn lỏng lẻo. Nhiều sự cố môi trường và
hậu quả xấu do sử dụng không hợp lý tài nguyên thiên nhiên tồn tại từ trước chưa
được cải thiện và khắc phục, trong lúc đó nhiều vấn đề ô nhiễm môi trường lại tiếp
tục phát sinh. Ý thức tự giác bảo vệ và giữ gìn môi trường trong cộng đồng chưa
trở thành thói quen trong cách sống của đại bộ phận dân cư. Một trong những
nguyên nhân cơ bản của tồn tại trên là sự hiểu biết về môi trường trong côïng đồng
dân cư cũng như nhiều cán bộ quản lý (kể cả các cán bộ phụ trách về bảo vệ môi
Ths. Nguyễn Vinh Quy
3

Quản lý môi trường
trường) còn nhiều hạn chế và bộ máy quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường của
nước ta hiện nay còn nhiều bất cập, chưa phù hợp với điều kiện phát triển hiện tại
cũng như phục vụ cho chiến lược đi tắt, đón đầu mà Đại Hội Đảng lần thứ IX đề
ra.
Nhận thức được tầm quan trọng của công tác bảo vệ môi trường, ngày 25 tháng 6
năm 1998, Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã ban hành Chỉ thị 36-
CT/TW về “Tăng cường công tác bảo vệ môi trường trong thời kỳ công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước”. Một trong những nôi dung chính mà Chỉ thị chú trọng
là công tác quản lý môi trường. Trong số những giải pháp cơ bản nhằm thực hiện
Chỉ thị có việc nâng cấp cơ quan quản lý môi trường từ trung ương đến địa
phương, tạo điều kiện cần thiết về tổ chức nhân lực, cơ sở tổ chức kỹ thuật để cơ
quan này đủ sức thực hiện tốt chức năng quản lý môi trường, kết hợp hợp chặt chẽ
với việc tư vấn hoạch định các chủ trương, chính sách về phát triển bền vững,
đồng thời tăng cường năng lực quản lý nhà nước về môi trường. Để thực hiện
được những mục đích này, việc trang bị cho cán bộ phụ trách công tác liên quan
đến môi trường các kiến thức và sự hiểu biết về khoa học môi trường, nghệ thuật
quản lý, cơ cấu tổ chức của các cơ quan quản lý nhà nước về môi trường ở nước ta
và một số nước trên thế giới đóng vai trò rất quan trọng. Do đó môn “Quản lý môi
trường” được xây đựng nhằm trang bị cho sinh viên chuyên ngành môi trường
những kiến thức để thực hiện được những yêu cầu này.
Ths. Nguyễn Vinh Quy
4
Quản lý môi trường
CHƯƠNG 2: NHỮNG THÁCH THỨC CỦA MÔI TRƯỜNG
ĐỐI VỚI NHÂN LOẠI.
2.1 NHỮNG THÁCH THỨC VỀ MÔI TRƯỜNG.
Trong một bản báo cáo trước Hội đồng kinh tế xã hội của Liên hợp quốc năm
1969, tổng thư ký Liên hợp quốc đã nhấn mạnh: “Lần đầu tiên trong lịch sử của
nhân loại đã xảy ra một khủng khoảng thuộc quy mô quốc tế liên quan đến tất cả

các nước phát triển và đang phát triển - cuộc khủng khoảng về môi trường. Rõ
ràng là nếu chiều hướng này tiếp tục, tương lai của sự sống trên trái đất có thể bị
đe doạ”. Nhận định này chẳng những phản ánh đúng trình trạng suy thoái môi
trường tại thời kỳ đó mà còn dự đoán rất chính xác những gì đã thực sự diễn ra
trong mấy thập kỷ cuối của thế kỷ 20. Các vấn đề có liên quan đến môi trường đã
và đang trở thành thách thức đối với nhân loại trong thế kỷ 21 là làm thế nào để:
* Phát triển kinh tế và nâng cao đời sống của nhân loại, đặc biệt là nhân đân ở các
nước ngèo nhưng không ảnh hưởng xấu đến môi trường.
* Sử dụng hiệu quả nguồn tài nguyên thiên nhiên, bao gồm cả tài nguyên tái tạo
được và tài nguyên không tái tạo được.
* Giảm dần mức độ nóng lên của trái đất.
* Chống hiện tượng mỏng dần của tầng ozon.
* Chống sự suy thoái môi trường.
* Giảm các sự cố môi trường như lụt, hạn hán, mưa axit
* Giảm tốc độï sa mạc hóa.
Ths. Nguyễn Vinh Quy
5
Quản lý môi trường
* Giữ gìn đa dạng sinh học.
2.1.1 VẤN ĐỀ Ô NHIỄM, SỰ CỐ VÀ SUY THOÁI MÔI
TRƯỜNG.
2.1.1.1 Khái niệm về ô nhiễm môi trường.
Ô nhiễm môi trường là sự thay đổi trực tiếp hoặc gián tiếp các thành phần và đặc
tính vật lý, hoá học hoặc sinh học như: nhiệt độ, chất sinh học, chất hòa tan, chất
phóng xạ của bất kỳ thành phần nào của môi trường hay toàn bộ môi trường. Sự
thay đổi này vượt quá mức cho phép đã được xác định. Sự gia tăng chất lạ vào
môi trường, sự thay đổi các yếu môi trường này gây hại hoặc có tiềm năng gây tổn
hại đến sức khoẻ, sự an toàn hay sự phát triển của người và sinh vật trong môi
truờng đó. Theo định nghĩa của Tổ Chức Y Tế Thế Giới, ô nhiễm hoặc sự nhiễm
bẩn là việc chuyển các chất thải hoặc năng lượng vào môi trường đến mức có khả

năng gây tác hại đến sức khoẻ con người, đến sự phát triển của sinh vật hoặc làm
suy giảm chất luợng môi trường. Ta cũng có thể nêu một định nghĩa khác: “Ô
nhiễm môi trường là sự thay đổi chất lượng môi trường theo chiều hướng tiêu cực
đối với các mục đích sử dụng môi trường”. Ví dụ, việc gia tăng hàm lượng bụi,
các khí độc trong không khí gây ảnh hưởng đến sức khoẻ con người hoặc đời sống
sinh vật. Việc gia tăng nồng độ các chất hoá học, vi trùng hoặc các tác nhân vật
lý trong nước có thể làm ảnh hưởng tới đời sống thuỷ sinh vật hoặc khả năng cấp
nước cho cây trồng, cho con người đềâu được gọi là ô nhiễm môi trường.
2.1.1.2 Khái niệm về sự cố môi trường.
Trong điều 2 của luật bảo vệ môi trường ở Việt nam có đưa ra khái niệm về sự cố
môi trường như sau: “ Sự cố môi trường là các tai biến hoặc rủi ro xảy ra trong
quá trình hoạt động của con người hoặc do biến đổi thất thường của thiên nhiên
gây suy thoái môi trường nghiêm trọng”. Sự cố môi trường có tể xảy ra do:
* Bảo, lũ, lụt, hạn hán, nứt đất, động đất, trượt đất, núi lửa phun, mưa axit, mưa
đá, biến động khí hậu hoặc thiên tai khác;
Ths. Nguyễn Vinh Quy
6
Quản lý môi trường
* Hoả hoạn, cháy rừng, sự cố kỹ thuật gây nguy hại về môi trường của cơ sở sản
xuất, kinh doanh, công trình kinh tế, khoa học, kỹ thuật, văn hoá, xã hội, an ninh
quốc phòng;
* Sự cố trong tìm kiếm, thăm dò, khai thác và vận chuyển khoáng sản, dầu khí,
sập hầm lò, phụt dầu, tràn dầu, vỡ đường ống dẫn dầu, dẫn khí, đắm tàu, sự cố tại
cơ sở lọc dầu và các cơ sở công nghiệp khác; và
* Sự cố trong lò phản ứng hạt nhân, nhà máy điện nguyên tử, nhà máy sản xuất, tái
chế nhiên liệu hạt nhân, kho chứa chất phóng xạ,
Trên trái đất, hàng ngày hàng giờ có rất nhiều sự cố môi trường. Có khi sự cố môi
trường do con người, có khi sự cố lại do thiên nhiên và có khi do cả 2 phía. Ví dụ,
vụ cháy rừng tràm đặc dụng ở U Minh Hạ và U Minh Thượng tháng 4 năm 2002
là do yêu tố con người (Người dân vào khai thác củi, nhóm lửa dẫn đến cháy

rừng). Động đất ở Thổ Nhĩ Kỳ năm 1999 lại do yếu tố thiên nhiên, nhưng mưa
acid tuy là do nước mưa rơi xuống từ trên trời nhưng phải là hậu quả của chất thải
giàu CL, SO
2
, SO
3
, dể tạo ra acid HCL hay H
2
SO
4
do hoạt động của con người tạo
ra.
2.1.1.3 Khái niệm về suy thoái môi trường.
Suy thoái môi trường là sự giảm sút về chất lượng, số lượng thành phần vật lý
(như suy thoái đất, nước, không khí, hồ, biển ) và đa dạng sinh học của môi
trường. Quá trình suy giảm chất lượng môi trường đó đã gây hại cho đời sống sinh
vật, con người và thiên nhiên. Ví dụ, vùng đồi núi dốc miền Trung Bộ, Nam Bộ đã
và đang bị phá rừng, đất bị xói mòn và đá ong hoá, cây cối sơ xác, sông ngòi cạn
kiệt, muông thú bị mất nơi cư trú (habitat) nên số lượng cá thể của nhiều loài cũng
như nhiều chủng loaị sinh vật bị biến mất. Nguyên nhân môi trường bị suy thoái ở
nhiều nơi chủ yếu là do hành động của loài người. Do dân số và nhu của nhân loại
ngày càng tăng nên con người bắt buộc phải mở rộng sản xuất, sử dụng tài nguyên
nhiều hơn nhằm tạo ra của cải vật chất đủ để nuôi sống nhân loại, điều này là một
trong những nguyên nhân làm cho môi trường của trái đất bi suy thoái.
Ths. Nguyễn Vinh Quy
7
Quản lý môi trường
2.1.2 VẤN ĐỀ TRÁI ĐẤT NÓNG LÊN
Trên cơ sở khoa học, nhiều chuyên gia và tổ chức có uy tín trên thế giới đã ghi
nhận được rằng nhiệt độ trái đất đã nóng lên khoảng 0,5

0
C trong 100 năm qua và
họ cho rằng nhiệt độ vẫn có chiều hướng tăng trong thế kỷ 21. Theo dự đoán của
Uỷ Ban Thế Giới về Môi Trường và Phát Triển của Liên Hợp Quốc trong báo cáo
nhan đề “ Tương lai chung của chúng ta” được ấn hành năm 1986, nhiệt độ trái đất
trong thế kỷ 21 sẽ tăng từ 1,5
0
C đến 4,5
0
C. Tuy đây chỉ là dự đoán và không phải
mọi dự đoán đều là chính xác dầu rằng đó là những dự đoán dựa trên các chứng cứ
khoa học, nhưng một thực tế là hiện nay đã là năm thứ 2 của thế kỷ 21 và nhiêt độ
trái đất đang tiếp tục tăng. Một nhóm khoảng 1500 nhà khoa học có uy tín trên thế
giới do Liên Hợp Quốc mời cộng tác đã khẳng định rằng nhiêt độ trái đất nóng lên
một phần do hoạt động của con người, trong đó có việc:
* Con người sử dụng nguồn năng lượng dầu mỏ và than đá làm cho khí các-bon
tích tụ ngày càng nhiều trong khí quyển;
* Con người khai thác ngày càng triệt để các nguồn tài nguyên có tác dụng điều
hoà khí hậu như rừng, sinh vật sống…dẫn đến các tài nguyên này bị cạn kiệt;
* Ô nhiễm ngày càng nghiêm trọng trong mọi lĩnh vực môi trường như không khí,
biển, nước trên đất liền; và
* Nhiều hệ sinh vật bị mất cân bằng nghiêm trọng ở nhiều khu vực trên thế
giới,vv
Tất cả các yếu tố này đã góp phần làm cho thiên nhiên (trái đất) mất đi khả năng
tự điều chỉnh vốn có của mình. Việc trái đất nóng lên có thể mang lại một số bất
lợi sau:
1. Mực nước biển dâng cao - Dựa trên các dữ liệu khoa học, người ta tính được
rằng nếu nhiệt độ trái đất tăng lên từ 1,5
0
C đến 4,5

0
C thì mực nước biển có thể
dâng cao từ 25 đến 140 cm do băng tan. Nếu điều này xảy ra thì một vùng ven
biển rộng lớn của các quốc gia có biển sẽ bị nhấn chìm, làm mất đi nhiều vùng sản
xuất nông nghiệp dẫn đến tình trạng đói nghèo trên thế giới, đặc biệt là ở các nước
Ths. Nguyễn Vinh Quy
8
Quản lý môi trường
đang phát triển, làm trở ngại nhiều đến hoạt động kinh tế của nhiều nước trên thế
giới.
2. Thời tiết trên trái đất sẽ bị đảo lộn, thiên tai sẽ nghiêm trọng hơn, các cơn bảo
xuất hiện thường xuyên hơn và mạnh hơn. Lượng mưa sẽ tăng lên nhưng tăng
không đồng đều giữa các vùng khác nhau trên thế giới. Những khu vực thường
xuyên bị lụt sẽ bị lụt thuờng xuyên hơn và nghiêm trọng hơn, trong lúc đó các khu
vực hay bị hạn hán sẽ tiếp tục bị hạn hán thường xuyên và khốc liệt hơn, sa mạc
hoá do đó sẽ ngaỳ càng lan rộng.
Hội Nghị Liên Hợp Quốc về Môi Trường và Phát Triển năm 1992, tại Braxin
thông qua một loạt các văn kiện pháp lý quốc tế quan trọng, trong đó có Công ước
khung về khí hậu biến đổi đã chứng minh về nguy cơ trái đất nóng lên.
2.2 PHÁT TRIỂN VÀ MỐI QUAN HỆ GIỮA MÔI
TRƯỜNG VÀ PHÁT
TRIỂN
2.2.1 PHÁT TRIỂN
Hiện nay, thuật ngữ “phát triển” được dùng hết sức rộng rãi, ví dụ, phát triển
ngành giáo dục, phát triển ngành môi trường, phát triển sản xuất,…,nhưng không
phải mọi người đều hiểu đúng khái niệm phát triển. Theo Burkey (1993), “Phát
triển không chỉ có nghĩa là sự cung cấp các dich vụ xã hội và áp dụng các công
nghệ mới mà nó bao hàm cả việc thay đổi trong nhận thức, hành động và cách đối
xử của các cá nhân và trong mối quan hệ giữa các cá nhân cũng như các nhóm
người trong xã hội. Các thay đổi này nhất thiết phải được xuất phát từ bản thân

các cá nhân, các nhóm người trong xã hội đó và không bị áp đặt bởi các ngoại lực
(Development is more than the provision of social services and the introduction of
new technologies. Development involves changes in the awareness, motivations
and behaviour of individuals and in the relations between individuals as well as
between groups within a society. These changes must come from within the
individuals and groups and cannot be imposed from the outside.”. Như vậy, theo
Ths. Nguyễn Vinh Quy
9
Quản lý môi trường
định nghĩa này thì phát triển bao gồm cả sự thay đổi về công nghệ, dịch vụ (theo
chiều hướng tích cực) và thay đổi nhận thức của con người.
2.2.2 MỐI QUAN HỆ GIỮA MÔI TRƯỜNG VÀ PHÁT TRIỂN
Môi trường và phát triển không phải là 2 phạm trù tách biệt mà có quan hệ hữu cơ
với nhau. Điều này đúng với cả các nước công nghiệp phát triển và cả các nước
đang phát triển. Phát triển tất yếu dẫn đến những tác động đối với môi trường. Tuy
nhiên, các nước buộc phải phát triển để thoả mãn nhu cầu ngày càng tăng của
mình. Theo dự đoán của các nhà khoa học thì dân số thế giới đến năm 2050
khoảng gần 9 tỷ người. Do đó để nuôi sống được số lượng này, sản xuất lương
thực phải tăng gấp đôi so với sản xuất lương thực hiện nay và năng lượng sử dụng
phải tăng gấp 3 lần. Với tốc độ phát tiển như vậy rõ ràng môi trường sẽ bị một áp
lực ghê gớm và sẽ có nhiều rủi ro xảy ra cho môi trường. Việc khai thác dầu khí,
khoáng sản nếu không có những biện pháp thích hợp thì môi trường sẽ bị tác động
bất lợi do bị ô nhiễm, do mất cân bằng sinh thái và vì vậy tác động nguy hại đến
đời sống xã hội và sức khoẻ con người. Tác động đến môi trường sẽ càng nghiêm
trọng nếu chúng ta không đầu tư thích đáng cho việc bảo vệ môi trường. Vì vậy,
trong khi phát triển con người cần phải tính đến việc bảo vệ môi trường mới có thể
bảo đảm được phát triển bền vững. Tình trạng môi trường không thể tách khỏi tình
trạng kinh tế. Náếu một quốc gia nào đó, hoặc thế giới không quan tâm đến lớp
phủ thực vật đang mất dần đi, suy thoái đất đai, gia tăng diện tích hoang mạc, mất
mát các giống loài động vật thì quốc gia đó, thế giới sẽ phải gánh chiu trình trạng

kinh tế và xã hội ngày càng xấu đi. Do đó, đểâ điều hoà được việc phát triển và
bảo vê môi trường, phải tiến hành song song giữa việc đầu tư cần thiết cho các
ngành sản xuất vừa phải đầu tư thích đáng cho việc bảo vệ môi trường. Nếu chi
phí quá mức cho việc bảo vệ môi trường thì có thể ảnh hưởng đến tốc độ phát triển
kinh tế, trong lúc đó nếu không bảo vệ được môi trường thì không thể có phát
triển.
Ths. Nguyễn Vinh Quy
10
Quản lý môi trường
Nhiều hình thức phát triển kinh tế của một số nước đang phát triển dựa trên cơ sở
khai thác các nguồn tài nguyên môi trường đã dẫn đến sự xuống cấp và suy thoái
môi trường, và phá hoại sự phát triển kinh tế. Tuy vậy, hiện nay nhiều nước trên
thế giới vẫn đang khai thác triệt để nguồn tài nguyên của mình để phục vụ cho
chiến lược phát triển. Nông nghiệp, rừng, sản xuất năng lượng và khai thác khoáng
sản vẫn chiếm đến một nửa tổng sản phẩm quốc dân. Hiện nay, nhiều nước chậm
phát triển trên thế giới, kinh tế của họ vẫn phụ thuộc chủ yếu vào việc xuất khẩu
những tài nguyên thiên nhiên của mình.
Mặc dầu hiện nay cộng đồng quốc tế vẫn đang còn đuơng đầu với những thách
thức như làm thế nào để cân bằng giữa phát triển và bảo vệ môi trường và người ta
cũng biết rằng phát triển kỹ thuật mới có thể giúp giảm mức độ tiêâu thụ nguyên
nhiên vật liệu, tăng năng xuất và đa dạng hoá sản phẩm. Tuy vậy, kỹ thuật mới
cũng có thể là nguyên nhân gây ra những dạng ô nhiễm môi trường mới do nó đưa
vào môi trường những dạng mới của sự sống và làm thay đổi sự tiến hoá của sinh
vật trên hành tinh chúng ta. Nhận thức được mối quan hệ giữa môi trường và phát
triển, Hội nghị Liên Hợp Quốc về môi trường nhân văn năm 1972 ở Stockhorm
tuyên bố: “Sự phát triển kinh tế và xã hội là rất quan trọng cho việc bảo đảm một
môi trường sống và làm việc thuận lợi cho con người và cho việc tạo ra các điều
kiện trên trái đất cần thiết cho việc cải thiện chất lượng của cuộc sống”. Hội nghị
thượng đỉnh về môi trường tại Braxin năm1992 cũng đãkhẳng định laị và phát
triển nhận thức này như sau: “Để có thể phát triển vững bền, bảo vệ môi trường là

một bộ phân không thể tách rời của quá trình phát triển và không thể xem xét tách
rời với qúa trình đó”.
Ths. Nguyễn Vinh Quy
11
Quản lý môi trường
CHƯƠNG 3: ĐÔ THỊ HOÁ, CÔNG NGHIỆP HOÁ VÀ Ô NHIỄM MÔI
TRƯỜNG
3.1 MỐI LIÊN HỆ GIỮA ĐÔ THỊ HOÁ, CÔNG
NGHIỆP HOÁ VÀ MÔI TRƯỜNG
Đặc trưng chủ yếu của đô thị là nơi tập trung dân cư với mức độ cao và hoạt động
của họ là phi nông- lâm nghiệp (sản xuất công nghiệp, thủ công nghiệp, chính trị,
văn hoá, khoa học, thương mại, dịch vụ…), là nơi tiêu thụ tài nguyên thiên nhiên,
năng lượng, sản phẩm xã hội tính trên đầu người cao hơn nhiều lần so với trị số
trung bình của quốc gia. Đô thị cũng là nơi phát sinh ra nhiều chất thải nhất vàlàm
ô nhiễm các thành phần môi trường như đất, nước, không khí đối với bản thân
nó và cả một vùng rộng lớn xung quanh nó.
Khu công nghiệp là nơi nơi tập trung các doanh nghiệp chuyên sản xuất các sản
phẩm công nghiệp và thực hiện các dịch vụ cho sản xuất công nghiệp, nó có ranh
giới đất đai ngăn cách với các khu cư dân xung quanh. Quá trình công nghiệp
hoásẽ kéo theo quá trình đô thị hoá. Trong mấy thập niên qua nhân loại đã chứng
kiến một loạt các con số thống kê đáng lo ngại về tình hình tăng dân số và chiều
hướng tập trung dân số vào các đô thị trên bình diện toàn cầu, đặc biệt là ở những
nước đang phát triển. Theo tài liệu của UNEP (1999), tổng dân số thế giới sống ở
đô thị trong những năm 1950 là 750 triệu người, năm 1995 là 2500 triệu và đến
năm 2000 là 3000 triệu người, chiếm khoảng 50% dân số thế giới. Đô thị hoá,
công nghiệp hoá sẽ kéo theo nhiều vấn đề về môi trường và xã hội. Trước hết, nó
sẽ là nguyên nhân làm bùng nổ phát triển giao thông bằng phương tiện cơ giới.
Vào thời gian chiến tranh thế giới lần thứ 2 chỉ có khoảng 40 triệu xe nhưng đến
năm 1996 con số này đã lên đến 2.025 triệu xe. Hiện nay xe giao thông trên toàn
thế giới đã tiêu thụ khoảng 50% tổng năng lượng tiêu thụ của tất cả mọi ngành.

Tuy mặt tích cực của đô thị hóa và công nghiệp hoá là đã đưa đến sự tăng trưởng
Ths. Nguyễn Vinh Quy
12
Quản lý môi trường
của nhiều ngành kinh tế, phát triển xã hội và nâng cao mức sống của nhân dân
nhưng nó cũng có nhều mặt hạn chế sau:
+ Tài nguyên thiên nhiên sẽ bị khai thác đến cạn kiệt để xây dựng, tỷ lệ diện tích
cây xanh và mặt nước trong đô thị bị giảm, bề mặt đất thấm nước, thoát nước bị
suy giảm. Đất nông nghiệp và đất khác sẽ bị chiếm dụng để xây dựng các công
trình nhà ở, khu dịch vụ Nhân dân ở vùng đô thị hoá sẽ bị mất phương tiện lao
động và kế sinh nhai truyền thống và bị tác động mạnh mẽ của ô nhiễm môi
trường đô thị.
+ Các dòng vật liệu xây dựng, tài nguyên khoáng sản chuyển vào đô thị rất lớn
làm tăng nhu cầu khai thác các loại tài nguyên đó. Điều này là một trong những
nguyên nhân dẫn đến môi trường bị giảm về chất lượng.
+ Làm tăng nhu cầu khai thác tài nguyên nước phục vụ cho sinh hoạt, dịch vụ và
sản xuất, từ đó làm suy thoái nguồn tài nguyên này.
+ Dân số đô thị tăng nhanh thường gây ra quá tải đối với hệ thống hạ tầng kỹ thuât
đô thị như hệ thống cấp, thoát nước, xử lý chất tải
+ Phát triển công nghiệp sẽ tăng lượng chất thải vào môi trường: giao thông phát
thải nhiều khí độc và chì; các nhà máy sản xuất phát thải nhiều chất thải khí, chất
thải rắn bao gồm cảchất thải nguy hại; ô nhiễm tiếng ồn
+ Phát triển đô thị nhanh sẽ tạo ra nhiều khu nhà ổ chuột vì nhu cầu nhà ở sẽ vượt
quá tốc độ xây dựng và cung cấp dẫn đến môi trường ở các khu này bị ô nhiễm
nghiêm trọng.
Nói chung, đô thị hoá và công nghiệp hoá nhanh thường dẫn đến ô nhiễm các
thành phần môi trường như nước, đất vàø không khí.
Ths. Nguyễn Vinh Quy
13
Quản lý môi trường

3. 2 Ô NHIỄM CÁC THÀNH PHẦN MÔI TRƯỜNG VÀ
CÁC BIỆN
PHÁP BẢO VỆ
3.2.1 Ô NHIỄM NGUỒN NƯỚC
3.2.1.1 Khái niệm ô nhiễm nguồn nước
Nguồn nước được xem là ô nhiễm khi các thành phần và tính chất lý hoá sinh học
của nước bị thay đổi, không bảo đảm chất lượng theo yêu cầu sử dụng.
3.2.1.2 Các nguồn gây ô nhiễm
Tùy tính chất hoặc nguồn phát sinh chất gây ô nhiễm, ta có thể phân loại các
nguồn gây ô nhiễm nguồn nước như sau:
a) Nguồn thành thị: Bao gồm nước thải ra từ các khu sinh hoạt của dân cư có thể
đã được thu hồi bởi hệ thống thoát nước, qua các trạm xử lý trước khi xả ra nguồn.
Nguồn thành thị cũng bao gồm hổn hợp nước mưa và nước thải chảy trực tiếp ra
nguồn nước mà không qua xử lý.
Bảng 2.1: Thành phần đặc trưng của nước thải sinh hoạt
Nồng độ (mg/lít)
Loại mạnh Loại yếu Trung bình
Tổng chất rắn (TS)
Chất rắn lơ lững (SS)
Nitơ tổng hợp
Nhu cầu oxy sinh hoá (BOD
5
)
Nhu cầu oxy hoá học (COD)
Phốt phát tổng số
Dầu, mỡ
Nitơrit NO
2
Nitơrat NO
3

≥ 1200
≥ 350
≥ 85
≥ 300
≥ 1000
≥ 20
≥ 150
0
0
350
100
20
100
250
6
50
0
0
700
250
40
200
500
10
100
0
0
b) Nguồn gốc nông nghiệp: Các loại phân hoá học, thuốc trừ sâu và cả các phân
hữu cơ (phân chuồng) sử dụng trong nông nghiệp theo các luồng nước (nước mưa,
nước thừa sau khi tưới tiêu…) chảy vào các nguồn nước. Tổng số các chất thải

nông nghiệp thải xả vào nguồn nước là rất lớn, đặc biệt ở những vùng nông nghiệp
phát triển.
Ths. Nguyễn Vinh Quy
14
Quản lý môi trường
c) Nguồn tự nhiên: Nguồn này bao gồm nước mưa vàcác sinh vật thuỷ sinh.
+ Nước mưa mang vào nguồn nước một lượng các chất vô cơ từ các khí thải nhà
máy, xí nghiệp và các chất hửu cơ từ các quá trình phân huỷ động, thực vật, các
chất hửu cơ từ xói mòn đất…Đôi khi nước mưa còn mang các chất mùn có chứa
các chất mềm và mùn trong đất vào các nguồn nước.
+ Các sinh vật thuỷ sinh: Thông thường sự phát triển của các sinh vật thuỷ sinh
phụ thuộc rất nhiều vào yếu tố dinh dưỡng trong nước. Trong trường hợp nồng độ
các chất dinh dưỡng trong nước quá cao thì các thuỷ sinh vật phát triển quá mạnh
dẫn đến hiện tượng “phú dưỡng’. Tức là các thuỷ sinh vật phát triển quá mạnh và
khi chết sẽ gây ô nhiễm môi trường nước (hiện tượng phú dưỡng Tảo Xanh –green
algae ở Úc là một ví dụ).
Ngoài ra, căn cứ vào vị trí, bản chất và lưu lượng chất phát thải ta có thể phân
nguồn ô nhiễm thành nguồn tập trung (có điểm) hoặc nguồn không có điểm.
a) Nguồn tập trung hay còn gọi là nguồn có điểm (point source): Nguồn gây ô
nhiễm này là các nguồn có thể xác định được vị trí, bản chất, lưu lượng phát thải
các tác nhân gây ô nhiễm. Các nguồn điểm chủ yếu là ống khói nhà máy, xe hơi,
tàu hoả, điểm rò rỉ dầu, lò phản ứng hạt nhân, điểm nổ bom nguyên tử…
b) Nguồn không có điểm (non-point source): Đây là các nguồn gây ô nhiễm không
có điểm cố định, không xác định được vị trí, bản chất cũng như lưu lượng các chất
gây ô nhiễm. Thí dụ nước mưa chảy qua đồng ruộng, đường phố, đổ vào sông
rạch, ao hồ gây ô nhiễm
3.2.1.3 Các tác nhân gây ô nhiễm nguồn nước.
Tác nhân gây ô nhiễm (pollutant) nguồn nước có thể là các tác nhân vật lý (chất
rắn, màu, mùi, tia bức xạ, nhiệt độ ), tác nhân hoá học (các acid, các kim loại )
hoặc các tác nhân sinh vật (vi sinh, vi khuẩn ) ở nồng độ có thể gây tác động tiêu

cực đến sức khoẻ con người, đời sống vật chất, sức bền vật liệu nếu nước có chứa
các tác nhân đó được sử dụng. Hiện nay trong các hệ sinh thái nước, người ta đã
Ths. Nguyễn Vinh Quy
15
Quản lý môi trường
xác định được trên 1500 tác nhân gây ô nhiễm khác nhau. Các tác nhân gây ô
nhiễm nguồn nước có thể xác định theo từng nhóm sau:
+ Các chất axit và kiềm.
+ Các anion (thí dụ sulphua, sulphit, xyanua )
+ Các chất tẩy rửa.
+ Nước thải sinh hoạt, nước thải chuồng trại chăn nuôi.
+ Chất thải công nghiệp chế biến thực phẩm.
+ Các khí (clo, amoniac )
+ Các chất dinh dưỡng, đặc biệt là phosphat và nitrat.
+ Dầu, mỡ.
+ Các chất thải hữu cơ có độc tính và độ bền cao (phenol, dioxin, polyclobiphenyl
–PCB, ).
+ Các chất bảo vệ thực vật (hoá chất trừ sâu, trừ cỏ, diệt nấm )
+ Các chất phóng xạ.
+ Các tác nhân sinh học gây bệnh giun sán, động vật đơn bào, vi trùng, siêu vi
trùng
Trong môi trường nước, các chất hữu cơ bị oxy hoáthành CO
3
, H
2
O dưới tác dụng
của vi sinh vật hiếu khí. Sau đó tác dụng với NO
3
để tạo thành N
2

, CO
2
, H
2
O thực
hiện quá trình khử Nitrat dưới tác dụng của các vi khuẩn khử Nitơ. Sau đó là quá
trình phân huỷ yếm khí tạo ra CH
4
, H
2
S gây nên sự ô nhiễm.
Bảng 2.2: Tác nhân ô nhiễm điển hình trong nước thải các ngành công nghiệp
Công nghiệp Chất ô nhiễm chính Chất ô nhiễm phụ
Chế biến sữa
Chế biến đồ
hộp, rau quả.
Chế biến bia,
rượi.
Chế biến thịt
BOD, pH, SS
BOD, COD, pH, SS, TDS
BOD,pH, SS, chất rắn có thể
lắng.
BOD, pH,SS, chất rắn có thể
lắng, dầu, mỡ, độ đục
Màu, tổng P,N,TOC, độ đục, T
0
Màu, tổng P,N,TOC, T
0
TDS, màu, độ đục, bọt nổi.

NH
4
+
, TDS, P, m àu.
Ths. Nguyễn Vinh Quy
16
Quản lý môi trường
Xay bột
Luyện thép
Cơ khí
Thuộc da
Xi măng
Sản xuất k ính
Sản xuất phân
hoá học
Hoá chất hữu

Hoá dầu
Nhiệt điện
BOD, SS, T
0
Dầu mỡ, pH, NH
4
+
, CN
-
,
phenol,SS,Fe,Sn,Cr,Zn, T
0
COD, dầu mỡ, SS, CN,

Cr,Pb,Cd.
BOD, COD, SS, màu, kim
loại
nặng, NH
4
+
, dầu mỡ, phenol,
sulphua.
COD, SS, pH, T
0
COD, pH, SS.
NH
4
+
, TDS, NO
3
-
, SO
4
2-
, ur ê,
TDS, F, pH, P, SS.
BOD, COD, pH, TSS, TDS,
dầu nổi.
NH
4
+
, BOD, Cr, COD, dầu,
pH, Phenol, SS, T
0

.
NH
4
+
, BOD, Cr, COD, d ầu,
pH,
Phenol, SS, T
0
COD, pH, TOC, TDS
Clo, SO
4
2+
N,P,TDS,t ổng col iform
Cromat, P, Zn, sulphua, TDS
BOD, cromat, Zn, Cu, Cr, Fe, Sn,
NO
3
-
, TDS.
PH, PO
4
3-
, SO
4
2-
, hợp chất hữu cơ,
kẽm, Al, Fe, Hg, N, SO
4
2-
Độ đục, clo hữu cơ, P, kim

loại nặng, phenol, T
0
.
CL
-
, CN, Pb, N, P, TOC, Zn, độ
đục.
Cu, Fe, TDS, Zn.
3.2.1.4 Ảnh hưởng của việc ô nhiễm nước đến môi trường sống
a) Ảnh hưởng đến chất lượng nguồn nước cấp.
Một trong những nguồn nước cung cấp cho sinh hoạt cũng như hoạt động sản xuất
kinh doanh của nhân loại là nước ngầm. Việc tưới tiêu, thuỷ lợi trong nông nghiệp
đã làm cho các nguồn nước ngầm bị nhiễm bẩn bởi các loại phân hoá học, các
thuốc trừ sâu diệt cỏ thấm qua đất vào nước tưới. Theo Nguyễn Thị Kim Thái
(1999), toàn thế giơí có khoảng 225 x 10
6
hađất nông nghiệp được tưới và một
Ths. Nguyễn Vinh Quy
17
Quản lý môi trường
lượng lớn trong số đó được tưới bằng nước nguồn nuớc bẩn. Ngoài ra, ở các khu
vực nông thôn các nguồn rác rưởi sinh hoạt, phân người, gia súc, gia cầm không
được xử lý mà đưa thẳng ra đồng ruộng sử dụng. Do đó, các chất gây nhiễm bẩn
(gây ô nhiễm) thấm qua đất, đi vào nguồn nuớc ngầm nên chất luợng nước ngầm
bị thay đổi. Khác với nước mặt, nước ngầm không có khả năng tự làm sạch (nếu
nguồn không bi quá tải) do các dòng chảy trong nước ngầm không phải là dòng
chảy rối và rất chậm nên các chất gây ô nhiễm không bị phân tán và pha loảng.
Mặc dầu trong nước ngầm cũng có một số lượng nhỏ các vi sinh vật có khả năng
chuyển hoá các oxy sinh hoá nhưng vì số lượng và chủng loại của chúng ít hơn rất
nhiều so với trong nước mặt nên phản ứng phân huỷ diễn ra rất chậm. Vì vậy,

nguồn nước ngầm bị ô nhiễm sẽ phải mất đến hàng trăm năm mới có thể tự làm
sạch các chất gây ô nhiễm có khả năng bị phân huỷ.
Đối với nguồn nước mặt, do nguồn nước mặt có lưu lượng và số lượng dòng chảy
lớn, nước thường xuyên bị xáo trộn nên các chất gây ô nhiễm dễ bị pha loảng,
phân tán. Qúa trình phân huỷ các chất gây ô nhiễm diễn ra với sự tham gia tích
cực của các vi sinh vật hiếu khí xảy ra thường xuyên làm cho hàm lượng các chất
gây ô nhiễm giảm xuống. Các quá trình phục hồi tự nhiên này sẽ rất hiệu quả nếu
như các dòng chảy không bị quá tải bởi các chất gây ô nhiễm. Tuy vậy, do các
dòng chảy trong các ao, hồ là dòng chảy tầng nên nước ít bị xáo trộn theo phương
đứng. Do đó, oxy hoà tan trong các ao, hồ cũng thấp. Vì vậy, chất luợng nước ao,
hồ rất dễ bi suy thoái khi bị nhiễm bẩn, đặc biệt là ở các tầng sâu. Ngoài các hoá
chất rơi từ khí quyển xuống như DDT, PCBs, một số đồng phóng xạ…các chât
dinh dưỡng thực vật, dầu, phân vô cơ, các kim loại nặng (thuỷ ngân, asenic, selen,
chì…) cũng là những chất gây ô nhiễm chính cho nguồn nước mặt nói chung và
nguồn nuớc ao hồ nói riêng.
Các chất gây ô nhiễm sau khi đi vào nước sẽ bằng nhiều con đường như chuổi
thức ăn, hấp phụ…và gây ra những tác động nguy haị cho hệ động vật cũng như
thực vật và con người. Diễn tiến của quá trình ô nhiễm nguồn nước có thể hiểu
như sau: các loại động thực vật bị chết và thối rửa đi vào nguồn nước cùng với các
Ths. Nguyễn Vinh Quy
18
Quản lý môi trường
chất ô nhiễm từ các nguồn khác đi vào nguồn nước làm cho luợng oxy hoà tan
trong nước thấp. Điều này dẫn đến các quá trình oxy hoá và các quá trình sinh hoá
khác không xảy ra bình thường nên sinh vật sống sót thấp. Ở các nguồn nước có
hàm lượng N và phốt pho quá lớn sẽ gây ra hiện tượng “phú dưỡng” làm cho
nước không đáp ứng được các tính chất về chất lượng.
b) Ảnh hưởng tới sức khoẻ con người
Các nguồn nước bị ô nhiễm sẽ là đường truyền bệnh rất nguy hiểm cho con người.
Khi sử dụng các nguồn nước bị nhiễm bẩn, các chất ô nhiễm gây bệnh sẽ đi vào cơ

thể người theo các đường: thẩm thấu qua da (khi tắm, rửa…); qua đường tiêu hoá
(ăn uống, hít thở. Các chất gây bệnh có trong nước khi đã vào cơ thể có thể sẽ gây
ra các bệnh:
+ Các bệnh liên quan đến hoá học. Đây là những bệnh gây ra bởi sự vượt quá
nồng độ hoá chất đặc biệt trong nước uống. Có 2 bệnh chúng ta cần lưu ý là bệnh
Fluorosis và bệnh Methemoglobinemia ở trẻ em dưới 3 tháng tuổi. Bệnh Fluorosis
được gây ra do hàm Fluo quá cao trong nước uống và đặc biệt là trong nước uống
từ nguồn nước ngầm. Bêänh này gây tác hại hỏng men răng và chảy máu chân
răng. Các vùng ở Đông Phi như Ethiopia, Somalia, Kenya, Tanzania hay
Mozambique thường thịnh hành với bệnh này do hàm lượng Fluo > 3,0 mg/l.
Bệnh Methemoglobinemia trẻ em dưới 3 tháng tuổi gây ra bởi h àm lượng Nitrit
oxy hoá hemoglobin (l à thành phần sắc tố
mau đỏ của máu làm nhiệm vụ vận chuyển oxy) thành mophemoglobin là chất
không có khả năng vận chuyển oxy. Qúa trình oxy này dẫn đến việc thiếu oxy
ngạt thở
(anoxia) và đư ợc biểu thị như da xanh, yếu dẫn đến tử vong. Thực tế, nồng độ để
gây bệnh này là NO
3
-
> 100 mg/l.
Ngoài các bệnh đã nêu trên, nước nhiễm bẩn có thể là nguyên nhân gây các bệnh
do vi trùng, kí sinh trùng gây ra như ỉa chảy, thương hàn, lị…Các bệnh do thiếu
nước dùng cho vệ sinh cá nhân như bệnh ngoài da, bệnh ghẻ, bệnh nhiễm trùng da,
Ths. Nguyễn Vinh Quy
19

×