Tải bản đầy đủ (.docx) (115 trang)

Tu HanViet va viec su dung o THCS

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (308.34 KB, 115 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span>TỪ HÁN VIỆTVÀ VIỆC GIẢNG DẠY TỪ HÁN VIỆT THONG SÁCH GIÁO KHOA NGỮ VĂN TRUNG HỌC CƠ SỞ LÊ XUÂN THẠI. NHÀ XUẤT BẢN GIÁO DỤC. MỤC LỤC TỪ HÁN VIỆT VÀ VIỆC GIẢNG DẠY TỪ HÁN VIỆT................................................1 THONG SÁCH GIÁO KHOA NGỮ VĂN.................................................................1 TRUNG HỌC CƠ SỞ........................................................................................1 Lời nói đầu.................................................................................................1 I –SỰ HỈNH THÀNH TỪ NGỮ HÁN VIỆT TRONG TỪ VỰNG TIẾNG VIỆT.................2 II - YỂU TỐ HÁN VIỆT..................................................................................8 III - CẤU TẠO CỦA TỪ HÁN VIỆT.................................................................14 IV - THÀNH NGỮ, TỤC NGỮ HÁN VIỆT..........................................................18 V - GIÁ TRỊ PHONG CÁCH CỦA TỪ NGỮ HÁN VIỆT.........................................22 VI - TỪ NGỮ HÁN VIỆT VÀ VIỆC GIỮ GÌN Sự TRONG SẢNG CỦA TIẾNG VIỆT.....27 VII - VÊ VIỆC GIẢNG DẠY TỬ NGỮ HÁN VIỆT Ở TRUNG HỌC CƠ SỞ.................32 VIII - MỞ RỘNG VỐN YẾU TỐ HÁN VIỆT.......................................................36 IX - MỞ RỘNG VỐN THÀNH NGỮ, TỤC NGỮ VIỆT NAM....................................89 PHỤ LỤC.....................................................................................................99 XUNG QUANH VẤN ĐỂ DẠY VÀ HỌC TỪ NGỮ HÁN VIỆT.....................................99 NHÂN MÙA CƯỚI NÓI CHUYỆN LAI LỊCH CHỮ "SONG HỈ”.................................102 TÀI LIỆU THAN KHẢO.................................................................................102. Lời nói đầu Quyển sách này trình bày những kiến thức cơ bản về từ Hán Việt và phương pháp giảng dạy từ ngữ Hán Việt cho giáó viên Ngữ văn Trung học cơ sở. Tất.

<span class='text_page_counter'>(2)</span> nhiên, đây là sách nâng cao trình độ giáo viên, cho nên không phải mọi kiến thức trong quyển sách này đều truyền thụ cho học sinh. Nắm được những kiến thức này, việc giảng dạy của giáo viên sẽ có hiệu quả hơn. Sách trình bày 9 vấn đề của Từ Hán Việt và việc giảng dạy từ Hán Việt ở Trung học cơ sở, đó là : - Sự hình thành từ ngữ Hán Việt trong từ vựng tiếng Việt - Yếu tố Hán Việt - Cấu tạo của từ Hán Việt - Thành ngữ, tục ngữ Hán Việt - Giá trị phong cách của từ ngữ Hán Việt - Từ ngữ Hán Việt và việc giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt - Về việc giảng dạy từ ngữ Hán Việt ở Trung học cơ sở - Mở rộng vốn yếu tố Hán Việt - Mở rộng vốn thành ngữ, tục ngữ Hán Việt. Phần Phụ lục ở cuối sách là hai bài viết về một số vấn đề dạy - học và sử dụng từ ngữ Hán Việt trong thực tế hiện nay. Tôi xin chân thành cảm ơn Ban biên tập sách Tiếng Việt - Nhà xuất bản Giáo dục đã tạo điều kiện cho việc xuất bản cuốn sách này, xin chân thành cảm ơn GS. Nguyễn Khắc Phi - nguyên Tổng biên tập Nhà xuất bản Giáo dục, TS. Lương Kim Nga - chuyên viên Vụ Giáo dục Trung học Bộ Giáo dục và Đào tạo đã đóng góp cho tác giả nhiều ý kiến bổ ích. TÁC GIẢ.

<span class='text_page_counter'>(3)</span> I –SỰ HỈNH THÀNH TỪ NGỮ HÁN VIỆT TRONG TỪ VỰNG TIẾNG VIỆT 1. Bối cảnh xã hội của sự tiếp xúc ngôn ngữ Hán và Việt Trong tiếng Việt có một bộ phận rất lớn các từ ngữ Hán Việt. Muốn hiểu thế nào là từ Hán Việt cần phải tìm hiểu sự tiếp xúc ngôn ngữ Hán và Việt qua các bối cảnh xã hội trong một quá trình lịch sử hàng nghìn năm. Sự tiếp xúc ngôn ngữ Hán và Việt bắt đầu từ thời thượng cổ, lúc đầu chỉ là lẻ tẻ giữa cư dân vùng miền Bắc nước ta với cư dân vùng người Hán. Sự tiếp xúc đó trở thành quy mô, lưu lại ảnh hưởng sâu đậm kể từ khi Triệu Đà đem quân xâm lược Âu Lạc (năm 179 tr. CN) và nhất là từ lúc nhà Hán đặt nền đô hộ ở Giao Chỉ và Cửu Chân (năm 111 tr. CN) cho đến năm 938, khi Ngô Quyền đại thắng quân Nam Hán, đưa lại nền độc lập cho nước nhà. Đây là thời kì thống trị của phong kiến phương Bắc đối với nước ta. Về mặt chính trị, đây là thời kì thiết lập chính quyền phong kiến ngoại xâm. Bộ máy thống trị này trong giai đoạn trước công nguyên mới chỉ hình thành và chuầ có tác dụng chiều sâu. Về thực chất, bộ máy chính quyền người Hán lúc này chì mới nắm được một số trung tâm dùng làm nơi trị sở như Mê Linh, Tây Vu, Luy Lâu, Tư Phố v.v... Còn từ huyện trở xuống thì thực quyền vẫn trong tay người Việt. Bắt đầu từ thời Đông Hán, người Hán mới nắm bộ máy chính quyền chặt chẽ hơn trước. Mã Viện, sau khi đánh thắng cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng đã thi hành một chính sách mới: mở rộng các cứ điểm thống trị của phong kiến phươngBắc, chính quyền cấp huyện thuộc quan lại người Hán. Sau Nam Bắc Triều thì bộ máy thống trị của'người Hán càng thêm thắt chặt. Sang đến đời Đường thì bộ máy này đã đi sâu xuống tận xã. Về mặt xã hội, phải kể đến sự thâm nhập của người Hán vào các mặt hoạt động quan trọng của xã hội Việt Nam, sống trà trộn với người Việt Nam. Đó.

<span class='text_page_counter'>(4)</span> là những "kiều nhân" sang sinh cơ lập nghiệp ở Việt Nam : kẻ thì sang theo bà con ; kẻ thì sang để lánh nạn khi ở ngay chính quốc bị loạn lạc ; có kẻ lại sang vì phạm tội, nhà nước bắt-đi tù đày chuộc tội ; có kẻ lại sang chỉ vì nghe đồn Giao Châu là đất yên ổn, dễ làm ăn, sinh sống. Đó là những kiều nhân vốn là quan chức, sau khi thôi làm quan, ở lại sinh cơ lập nghiệp. Tầng lớp kiều nhân này đông đảo và giàu có, là một giai tầng có uy thế, họ dụa vào bộ máy chính quyền và cũng được bộ máy chính quyền kính nể. Đó là hàng vạn binh lính người Hán sang Việt Nam bao gồm những đội quân thường trực, những đội quân kéo sang dẹp các cuộc khỏi nghĩa, những đội quân tham gia trừng phạt, chém giết lẫn nhau trong tầng lớp thống trị. Đó là hàng vạn dân thường Trung Hoa bị đưa di dân sang Việt Nam. Tất cả các tầng lớp cư dân người Hán này ở lẫn với người Việt Nam, có quan hệ chặt chẽ với người Việt Nam trong mọi mặt hoạt động xã hội: Về mặt văn hoá, đây là thời kì truyền bá mạnh mẽ nền văn hoá Hán, làm cho văn hoá Hán thấm sâu vào xã hội Việt Nam. Lực lượng góp phần Hán hoá đắc lực nhất trước hết là bộ máy thống trị do quan lại người Hán nắm và tầng lớp các kiều nhân Hán có uy thế. Thứ đến là tầng lớp quyền quý Việt Nam cũng góp phầq đáng kể vào công việc này. Hai thái thú đầu tiên đẩy mạnh chính sách đồng hoá nhân dân Việt Nam theo nền văn hoá phong kiến Trung Quốc là Tích Quang và Nhâm Diên. Tích Quang làm thái thú Giao Chỉ, Nhâm Diên làm thái thú Cửu Chân. Mã Viện cũng là người có âm mưu làm chọ xã hội Việt Nam càng thêm "Hán hoá". Thời Đông Hán là thời việc học hành được đẩy mạnh thêm một bước với sự chủ trì của Sĩ Nhiếp, người được tôn là "Nam Giao học tổ". Qua giáo dục, Nho giáo được truyền bá. Ngoài Nho giáo, Đạo giáo và Phật giáo cũng được phổ biến ờ Việt Nam. Đến đời Tuỳ Đường đã có chế độ khoa cử thay thế cho chế độ sĩ tộc ngày trước, do đó con cái của các gia đình có thế lực nhiều người đã học hành và đỗ đạt, như Khương Công Phụ thi đỗ tiến sĩ, nhận nhiều chức cao ở Trung Nguyên, cuối.

<span class='text_page_counter'>(5)</span> cùng làm đến Tể tướng; Khương Công Phục (em của Phụ) cũng làm đến Lang trung Bộ Lễ. Qua giáo dục và khoa cử, trong giai cấp phong kiến Việt Nam đã xuất hiện một tầng lớp trí thức am hiểu Hán học và 'thông qua Hán học nắm được cả Nho giáo, Phật giáo và Đạo giáo. Do những nhân tố về chính trị, xã hội, văn hoá như trên đã nói, ờ thời kì Bắc thuộc, quan hệ giữa tiếng Hán và tiếng Việt là quan hệ bất bình đẳng. Tiếng Hán giữ địa vị chính thống trong công việc hành chính, trong giáo dục và văn hoá. Số phận của ngôn ngữ dân tộc gắn liền với số phận củadân tộc đó. Dân tộc Việt Nam bị trị thi tiếng Việt cũng không chỉ được coi trọng. Sau thời kì Bắc thuộc là thời kì độc lập và tự chủ, trải qua các triều đại phong kiến Việt Nam, trừ một số giai đoạn ngắn nước ta bị phong kiến phương Bắc xâm chiếm và đô hộ. Tuy Việt Nam độc lập và tự chủ nhưng Việt Nam và Trung Quốc xã hội vẫn có mối bang giao về chính trị, sự trao đổi về giao lưu về văn hoá. Đặc biệt là ờ thời kì này, chữ Hán vàtiếng Hán vẫn giữ vai trò chính thống trong giấy tờ hành chính của nhà nước, trong giáo dục, khoa cử và cả trong sáng tác văn chương. Mặc dù đã có những vị minh quân, những bậc sĩ phu có ý thức đề cao vai trò của tiếng Việt nhưng cái chủ đạo trong các thế hệ trí thức của thời kì này làm vẫn là Hán học. Địa vị chính thống của tiếng Hán bị lung lay khi thực dân Pháp đặt nền thống trị ờ Việt Nam. Cùng với việc củng cố bộ máy chính quyền thực dân và việc bãi bỏ chế độ thi cử truyềnthống, tiếng Pháp bắt đầu giữ địa vị chính thốngờ Việt Nam.Tầng lớp trí thức Hán học tàn lụi dần. Thời kì này, biết tiếng Hán là tầng lớp sĩ phu của chế độ cũ còn lại và những học trò của các nho sĩ đã thất thế, tuy nhiên không phải vì thếmà sự tiếp xúc ngôn ngữ Hán và Việt hoàn toàn bị cắt đứt.Đặc biệt là từ cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX, các nhà yêu nước Việt Nam qua sách báo chữ Hán đã tìm thấy những tưtưởng tiến bộ của.

<span class='text_page_counter'>(6)</span> Lương Khải Siêu, khang Hữu Vi, của TônTrung Sơn và tiếp nhận chủ nghĩa Mác - Lê-nin. Cách mang tháng Tám năm 1945 đã đem lại địa vị chính thống cho tiếng Việt trong mọi mặt của đời sống xã hội. Mối quan hệ giữa Việt Nam và Trung Hoa gần gũi và chặt chẽ hơn, do đó sự tiếp xúc ngôn ngữ Hán và Việt cũng đậm nét hơn. Tóm lại, qua hàng nghìn năm lịch sử, trải qua các biến cố xã hội, tình hình có thay đổi nhưng sự tiếp xúc ngôn ngữ Hán và Việt vẫn liên tục và đã để lại những dấu ấn, những hệ quả rõ nét trong tiếng Việt. 2. Từ Hán Việt - một hệ quả của sự tiếp xúc ngôn ngữ Hán và Việt Sự tiếp xúc ngôn ngữ Hán và Việt lâu dài và liên tục đã làm nảy sinh nhiều hiện tượng ngôn ngữ đáng chú ý, đặc biệt là sự hình thành lớp từ Hán Việt. a) Muốn hiểu thế nào là từ Hán Việt, trước hết phải hiểu thế nào là cách đọc Hán Việt. Chữ Hán đã có từ lâu đời, là thứ chữ tượng hình chứ không phải là chữ ghi âm. Loại chữ tượng hình này ở Trung Quốc có thể có nhiều cách đọc khác nhau tuỳ theo các đỊa phương. Chữ tượng hình có ưu điểm là các địa phương tuy đọc khác nhau, nói khác nhau nhưng đọc các văn bản thì có thể hiểu nhau. Cách đọc chữ Hán ở Trung Quốc qua các giai đoạn lịch sử cũng có sự thay đổi do sự thay đổi của hệ thống ngữ âm tiếng Hán. Do bối cảnh xã hội ở thời kì Bắc thuộc, tiếng Hán ờ Giao Châu có thể coi như là một phương ngữ của tiếng Hán. “Tất nhiến ở Giao Châu vì tồn tại bên cạnh tiếng Việt, chịu tác động của cách nói người Việt, tiếng Hán có “méo mó” đi ít nhiều, nhưng nhìn chung thời kì này, nó vẫn gắn liền mật thiết với tiếng Hán ở Trung Quốc, tiếng Hán ở Trung Quốc diễn biến thì ở Giao Châu nó cũng phải chuyển biến theo.” (Nguyễn Tài cẩn). Theo đà diễn tiến của tiếng Hán, đến thế kỉ VIII và IX, cách đọc chữ Hán ở Giao Châu là cách đọc theo hệ thống ngữ âm tiếng Hán giai đoạn sau của.

<span class='text_page_counter'>(7)</span> tiếng Hán trung cổ. Sang thế kỉ X, khi Việt Nam đã trở thành một quốc gia độc lập yà tự chủ, “tiếng Hán ở Việt Nam vì lí do chính trị đó, hoàn toàn đã cách li khỏi tiếng Hán ở bên kia biên giới. Sau thế kỉ X, trải qua các triều đại Nguyên, Minh, Thanh, tiếng Hán ở bên kia biên giới vẫn tiếp tục diễn biến, nhưng những sự diễn biến này không còn tác động đến tiếng Hán ở Việt Nam một cách trực tiếp với vai trò quyết định như trước nữa. Từ cái mốc đầu thế kỉ X trở về sau, tiếng Hán ở Việt Nam cũng chịu sự chi phối -của tiếng Việt, nếu có diễn biến là nó diễn biến trong phạm vi, trong quỹ đạo của quy luật ngữ âm và ngữ âm lịch sử tiếng Việt” (Nguyễn Tài cẩn). Cách đọc chữ Hán dựa trên hệ thống ngữ âm tiếng Hán thời Đường dần dần biến dạng đi dưới tác động của ngữ âm và ngữ âm lịch sử tiếng Việt, tách xa hẳn cách đọc của người Hán và trở thành một cách đọc riêng của người Việt. Cách đọc đó thường được gọi là cách đọc Hán Việt. Có thể tạm định nghĩa cách đọc Hán Việt như sau : “Cách đọc Hán Việt là cách'đọc chữ Hán của người Việt bắt nguồn từ hệ thống ngữ âm tiếng Hán thời Đường, chịu sự chi phối của hệ thổng ngữ âm tiếng Việt.” Như vậy, cách đọc Hán Việt là sản phẩm lịch sử của sự tiếp xúc ngôn ngữ Hán và Việt ở thời kì thứ hai, thời kì nước nhà độc lập và tự chủ. Cách đọc Hán Việt đã hình thành, phát triển và tồn tại đến ngày nay. b)Với cách đọc Hán Việt có thể đọc tất cả các từ tiếngHán. Nhưng không phải tất cả mà chỉ một bộ phận từ tiếng Hán đọc theo âm Hán Việt được mượn vào tiếng Việt. Đọc bản phiên âm các bài thơ chữ Hán trong SGK Ngữ văn 7 tathấy rõ điều này. Chẳng hạn, trong bài Nam quốc sơn những từ như tiệt nhiên, nhữ đang không được mượn vào tiếng Việt, những từ như sơn hà, xâm phạm thì được mượn vào tiếng Việt. Những từ mượn gốc Hán đọc theo cách đọc Hán Việt như vậy được gọi là từ Hán Việt..

<span class='text_page_counter'>(8)</span> c)Cần phải phân biệt từ Hán Việt với những từ mượn gốc Hán không đọc theo cách đọc Hán Việt. Đó là những từ mượn gốc Hán được mượn vào tiếng Việt trong giai đoạn chua có sự xuất hiện cách đọc Hán Việt (từ thượng cổ đến trước thời Vãn Đường). Có người gọi lớp từ này là tiền Hán Việt hoặc cổ Hán Việt. Sau đây là một số ví dụ về từ tiền Hán Việt : Chè có cách đọc Hán Việt tương đương là trà. Chữ có cách đọc Hán Việt tương đương là tự. Cởi có cách đọc Hán Việt tương đương là giải. Căn có cách đọc Hán Việt tương đương là gian. Giếng có cách đọc Hán Việt tương đương là Tết cỏ cách đọc Hán Việt tương đương là tiết Tằm có cách đọc Hán Việt tương đương là tàm. Tuổi có cách đọc Hán Việt tương đương là tuế. Tìm có cách đọc Hán Việt tượng đương là tầm. Rồng có cách đọc Hán Việt tương đương là long. Râu có cách đọc Hán Việt tương đương là tu. Sen có cách đọc Hán Việt tương đương làliên Bùa có cách đọc Hán Việt tương đương là phù. Múa có cách đọc Hán Việt tương đương là phù. Ló có cách đọc Hán Việt tương đương làlộ Đuổi có cách đọc Hán Việt tương đương là truy. Chém có cách đọc Hán Việt tương đương là trảm.

<span class='text_page_counter'>(9)</span> Muộn có cách đọc Hán Việt tương đượng là vãn. Buồng có cách đọc Hán Việt tương đương là phòng. Ngoài từ tiền Hán Việt ra, trong tiếng Việt còn có một số ít từ mượn gốc Hán được mượn theo con đường khẩu ngữ (nói một cạch chính xác hơn là mượn theo cách phát ânvđịa phương của Trung Quốc) như mì chính, ưằn thắn, loạn xịbát nháo, xập xí xập ngầu,… cũng không phải là từ Hán Việt. d) Ngoài từ Hán Việt ra, sự tiếp xúc ngôn ngữ Hán và Việt còn có những hệ quả khác nữa như sự xuất hiện của chữ Nôm. Chữ Nôm dựa trên cơ sở chữ Hán và cách đọc Hán Việt là kí hiệu vărt tự tiếng Việt. Nhờ có chữ Nôm mà bảo tồn được nhiều áng văn thơ bất hủ như thơ Quốc âm của Nguyễn Trãi, Truyện Kiều của Nguyễn Du, bản dịch Chinh phụ ngâm của Đoàn Thị Điểm. Ngữ âm, ngữ pháp tiếng Hán cũng có ảnh hưởng đối với ngữ âm, ngữ pháp tiếng Việt. Nhưng những vấn đề đó không nằm trong phạm vi truyền thụ của tài liệu này.. II - YỂU TỐ HÁN VIỆT 1. Định nghĩa yếu tố Hán Việt Yếu tố Hán Việt là yếu tố gốc Hán, một âm tiết, phát âm theo cách đọc Hán Việt, dùng'để cấu tạo từ. Mỗi yếu tố Hán Việt tương đương với một chữ Hán. Ví dụ : Yếu tố Hán Việt thiên địa nhân sơn thuỷ. Chữ Hán. 2. Phân loại yếu tố Hán Việt. Nghĩa trời đất người núi nước.

<span class='text_page_counter'>(10)</span> Yếu tố Hán Việt có thể chia thành hai loại : a) Yếu tố Hán Việt được dùng độc lập yới cương vị từ, mỗi yếu tố lậ một từ của tiếng Việt như : hoa, quả, đông, tây, nam, bắc, bút, lợi, hại, thắng, bại, … b) Yếu tố Hán Việt không được dùng độc lập với cương vị từ mà chỉ là một thành tố cấu tạo từ như : sơn (núi), hải (biển), thiên (trời), địa (đất), mã (ngựa), hoàng (vàng), hắc (đen), độc (đọc), tiếu (cười), khán (xem), thính (nghe),... Theo thống kê, trong tiếng Việt có khoảng 3.000 yếu tố Hán Việt. Số lượng này xấp xỉ với số lượng yếu tố Hán trong tiếng Nhật và tiếng Triều Tiên. 3. Yếu tố Hán Việt và hiện tượng đồng âm Trong nội bộ yếu tố Hán Việt, hiện tượng đồng âm rất đậm nét. Đó là điều rất đáng lưu ý khi tìm hiểu các yếu tố Hán Việt. Các yếu tố đồng âm này được viết bằng các chữ Hán khác nhau, nhưng ghi bằng chữ Quốc ngữ thì chỉ có một, vì vậy rất dễ lẫn lộn. Đây là hiện tượng đồng âm trong nội bộ yếu tố Hán Việt. Ngoài ra cũng có hiện tượng đồng âm giữa yếu tố Hán Việt và yếu tố phi Hán Việt như đường (yếu tố Hán Việt, chỉ một loại, thực phẩm) với dường (yếu tố phi Hán Việt, trong con đường); ai (yếu tố Hán Việt) có nghĩa là "bụi" (trong từ trần ai), với ai (yếu tố phi Hán Việt, đại từ nghi vấn) ; xa (yếu tố Hán Việt nghĩa là "cái xe") với xạ (yếu tố phi Hán Việt, trong từ xa xôi). 4. Yếu tố Hán Việt và hiện tượng đổng nghĩa Nếu ở phạm vi đồng âm, sự đồng âm mang tính chất đậm nét trong nội bộ các yếu tố Hán Việt thì ở phạm vi đồng nghĩa, sự đồng nghĩa lại đậm nét giCte yếu tố Hán Việt và yếu tố phi Hán Việt. Sỡ dĩ nói là phi Hán Việt vì trong đó ngoài các yếu tố thuần Việt còn có các yếu tố gốc Hán mượn ở thời.

<span class='text_page_counter'>(11)</span> kì đầu hoặc mượn qua con đường khẩu ngữ. Sau đây là một số cặp đồng nghĩa giữa yếu tố Hán Việt và yếu tố phi Hán Việt : thiên - trời, địa- đất, cử cất, tồn-còn, tử - con, tôn - cháu, lục - sáu, tam - ba, gia - nhà, quốc -nước, tiền -trước, hậu -sau, ngưu - trâu, mã - ngựa,... Có người thống kê cho thấy rằng trong số lượng các yếu tố Hán Việt có khoảng 75% là có yếu tố phi Hán Việt đồng nghĩa. Vấn đề là tại sao đã có yếu tố phi Hán Việt rồi mà vẫn tiếp nhận các yếu tố Hán Việt tương ứng vào tiếng Việt. Điều này có thể do nhiều nguyên nhân : a) Khi tiếp nhận từ Hán Việt, chúng ta tiếp nhận cả chỉnh thể từ gốc Hán tức là tiếp nhận tất cả các thành tố cấu tạo từ (các yếu tố Hán Việt). Như vậy, khi trong tiếng Việt đã có sẵn yếu tố phi Hán Việt giữ cương vị từ rồi thì yếu tố Hán Việt tương úhg chỉ giữ cương vị yếu tố cấu tạo từ. b) Cũng có trường hợp trong tiếng Việt đã có sẵn yếu tố phi Hán Việt giữ cương vị từ nhưng vẫn tiếp nhận yếu tố Hán Việt đồng nghĩa với cương vị từ do nhu cầu về phong cách như: lệ (rơi lệ) - nước mắt nguyệt (bóng nguyệt) - trăng bạch (bạch sư phụ) -thưa Ngoài hiện tượng đồng nghĩà giữa yếu tố Hán Việt và yếu tố phi Hán Việt, còn có hiện tượng đồng nghĩa giữạ các yếu tố Hán Việt. Đáng chú ý là những cặp yếu tố Hán Việt đồng nghĩa do các biến thể ngữ âm của cách đọc Hán Việt đối với một chữ Hán. Các biến thể ngữ âm đó có thể do nhiều nguyên nhân khác nhau : - Do kiêng huý tên của vua chúa hoặc họ hàng thân thích vua chúa và người có thể lực như :.

<span class='text_page_counter'>(12)</span> Bình -> bằng, do kiêng tên Nguyễn Quang Bình tức Nguyễn Huệ ( công bằng, Cao Bằng, bằng trắc ) Cang —> cương, do kiêng tên chúa Trịnh Cang ( kỉ cương, cương nghị, cương quỵết) Hoàng -> huỳnh, do kiêngtên chúa Nguyễn Hoàng huỷnh, Huỳnh Thúc Kháng) Nghĩa -> ngãi, do kiêng tên Hoằng Nghĩa Vương Nguyễn Phúc Thái ( tình ngãi, Quảng Ngãi) vũ —>võ, do kiêng tên thuy (tên đặt cho người đã quá cố) của Nguyễn Phúc Khoát là Hiếu Vũ (ưõ công, văn võ toàn tài, Võ Nguyên Giáp) nhậm —> nhiệm, do kiêng tên tự của Tự Đức là Hồng Nhậm(nhiệm vụ,trách nhiệm, Ngô Thời (Thì) Nhiệm) Tục kiêng huý có khi chỉ thực hiện ở một vùng lãnh thổ nhất định hoặc trong một thời kì lịch sử nhất định, do đó đã sản sinh ra hiện tượng hai cách đọc. - Do sự phát triển của ngữ âm tiếng Việt. Ví dụ : thu ( thu phục, thu thập) -> thâu (thâu phục, thâu nhập) chu (chu sa) -> châu (châu phê) Hiện tượng diễn biến ngữ âm từ u -> âu có thể tìm thấy ở một số từ phi Hán Việt mà dấu vết hiện nay đang còn tồn tại trong các phương ngữ : tru - trâu su -sâu trù - trầu Hoặc như:.

<span class='text_page_counter'>(13)</span> tràng ( tràng giang đại hải) - trường ( trường kì,trường thành) đang (đảm dang, môn dang hộ đối) - đương (đảm đương, môn đương hộ đối) đàng (thiên đàng, lễ đàng) - đường (thiên đường, lễ đường) lạng (lạng vàng) - lượng (lượng vàng) lang(langy) - lương (lươngy). Việc tồn tại hai biến thể ngữ âm a – ươ này cũng có thểtìm thấy ở một số từ phi Hán Việt khác như : nàng - nường, chàng -chường, lả -lửa,… 5. Nghĩa của yếu tô Hán Việt a) Nói đến nghĩạ của yếu tố Hán Việt, trước hết cần phải làm sáng tổ một điều : Cố phải tất cả mọi yếu tố Hán Việt đầu có nghĩa? Có người khẳng định tất cả mọi yếu tố Hán Việt đều có nghĩa. Thực tế không phải như vậy, có một số ít yếu tố Hán Việt tự than nó không có nghĩa. Ví dụ: tì Bồ mã Bồ lưu Câu, lạc. Và và và và và và. bà đào não tát li Bộ. Trong Trong Trong Trong Trong Trong. từ từ từ từ từ từ. tì bà bồ đào mã não bồ tát lưu li câu lạc bộ. Những yếu tố như tì,bà, bồ, đào, mã, não, lưu, li nếu tra các từ điển tiếng Hán, ta sẽ không thấy giải thích nghĩa của từng yếu tố. Bồ và tát cũng đều không có nghĩa mà là những yếu tố dùng để dịch tắt bodhi-sattva trong tiếng Phạn. Các yếu tố câu, lạc, bộ trong tiếng Hán đều có nghĩa nhưng thực chất các yếu tố này dùng để phiên âm từ club trong tiếng Anh, còn nghĩa của các yếu tố thì chẳng dính dáng gì mấy đến nghĩa của từ này..

<span class='text_page_counter'>(14)</span> Dù sao thì loại yếu tố Hán Việt không có nghĩa chỉ chiếm số lượng hết sức ít ỏi. Do đó, có thể nói rằng: tuyệt đại đa số yếu tố Hán Việt đều có nghĩa. b) So sánh nghĩa của yếưtố Hán Việt và nghĩa của yếu tố Hán trong tiếng Hán, chúng ta thấy rằng có một số nghĩa của yếu tố Hán không được tiếp nhận trong yếu tố Hán Việt tương ứng. Ví dụ: - Tảo yếu tố Hán vốn cónghĩa là "sáng sớm", nghĩa này không có trong tảo yếu tố Hán Việt. Tảo yếu tố Hán Việt chỉ có nghĩa là "sớm" ( tảo hôn). - Cổ yếu tố Hán có nghĩa là "đùi", nghĩa này không có trong cổ yếu tố Hán Việt, cổ Hán Việt có nghĩa là "phần vốn" (cổ đông, cổ phồn, cổ phiếu). -Hoại yếu tố Hán có nghĩa là "xấu", nghĩa này không có ờ yếu tố Hán Việt. -Hiểu yếu tố Hán có nghĩa là "lúc rạng sáng", nghĩa này không có trong yếu tố Hán Việt. c) Cũng so sánh nghĩa của yếu tố Hán Việt với nghĩa của yếu tố Hán, chúng ta thấy rằng có một số nghĩa trong yếu tố Hán Việt không có trong yếu tố Hán tương ứng. Đó là sự phát triển nghĩa của yếu tố Hán Việt. Ví dụ : - Phi có hai nghĩa mới : + (ngựa) chạy rất nhanh : ngựa phi + phóng dao : phi dao - Tống có thêm nghĩa mới là "đuổi đi". - Thính có thêm nghĩa mới là "rất nhạy trong cảm giác âm thanh”: tai rất thính. Một số yếu tố Hán Việt nguyên chỉ tính chất, có thêm nghĩa mới chỉ mức độ cao như : hung (lớn hung), ác (diện ác), tệ (xấu tệ), kinh (đẹp kinh)..

<span class='text_page_counter'>(15)</span> Một số yếu tố Hán Việt từ nghĩa chỉ sự vật, có thêm nghĩa mới chỉ tính chất như : thánh (thánh thật), sĩ (đừngcó sĩ). Đáng chú ý là hiện tượng một số yếu tố Hán Việt được dùng với cương vị từ, mang nghĩa chuyên biệt hoá khái niệm so với nghĩa của yếu tố Hán tương ứng. Ví dụ : - Một số yếu tố Hán Việt chỉ tính chất, có thêm nghĩa chuyên biệt hoá như : Lục vốn nghĩa là “xanh”, có thêm nghĩa mới là “một loại màu xanh, xanh lá cây" (xanh lục). Hồng vốn nghĩa là “đỏ”, có thêm nghĩa mới là “màu đỏ nhạt” (đỏ hồng). III - CẤU TẠO CỦA TỪ HÁN VIỆT 1. Các kiểu loại cấu tạo từ Hán Việt Cấu tạo của từ Hán Việt có nhiều điểm giống nhưng cũng có những điểm khác với từ thuần Việt. Từ Hán Việt đứng về mặt số lượng yếu tố cấu tạo mà xét có thể chia thành hai loại : từ đơn tiết (một yếu tố) và từ đa tiết (nhiều yếu tố). Từ đơn tiết như : đầu, thân, thận, áo, hoa, bút, hổ, tỉnh, huyện, học, tập, lợi, hại, vinh, nhục, phúc, đức,... Phần lớn từ Hán Việt là đa tiết, chủ yếu là từ song tiết. Trong số các từ đa tiết Hán Việt, có một sô từ được cấu tạo bằng những yếu tố không có nghĩa như: phảng phất, linh lợi, trịnh trọng, xán lạn, bàng hoàng, đường hoàng, hồ đồ,... Thuộc loại từ đa tiết gồm các yếu tố không có nghĩa này còn có các từ Hán Việt mà lai tịch của chúng là các từ tiếng Hán mượn theo cách phiên âm các ngôn ngữ khác như : bồ đào, tì bà, thạch lựu (mượn ngôn ngữ Tây Vực cổ đại) : bồ tát, la hán, hoà thượng (mượn từ Ân Độ) v.v....

<span class='text_page_counter'>(16)</span> Phần lớn các từ Hán Việt được cấu tạo theo phương thức ghép. Từ ghép Hán Việt có ba loại : từ ghép đẳng lập, từ ghép chính phụ và từ ghép chủ vị. Hai loại đầu chiếm số lượng nhiều hơn. a) Từ ghép đẳng lập Trong từ ghép đẳng lập, các yếu tố có vai trò ngữ pháp ngang nhau. Các yếu tố hoặc là đồng nghĩa, gần nghĩa hoặc là trái nghĩa hoặc là cùng có liên quan với nhau trong một trường nghĩa nhất định. Ví dụ : Các từ có các yếu tố* đồng nghĩa, gần nghĩa hoặc cùng trường nghĩa như: - ngôn ngữ, khí huyết, thảo mộc, sự nghiệp, văn tự, tai nạn,... - sinh trưởng, tồn tại,tiêu diệt, đình chỉ, bảo vệ, chế tạo, đấu tranh,... - vĩ đại, dũng mãnh, cùng khổ, kì quái, kiên cường, phong phú, ấu trĩ,độc ác,... Các từ có các yếu tố trái nghĩa như : mâu thuẫn, lợi hại, lai vãng, hô hấp, thị phi, động tĩnh, bi hoan, sinh tử,… Trật tự của các yếu tố trong từ ghép đẳng lập là cố định, chỉ có một số từ có thể đảo trật tự các yếu tố mà nghĩa không thay đổi như : tàn bạo = bạo tàn, giản đơn =đơn giản, tranh đấu = đấu tranh, li biệt = biệt li, tổnthương = thương tổn, tổn phí = phí tổn,… b) Từ ghép chính phụ Từ ghép chính phụ gồm hai loại : - Từ có yếu tố phụ đứng trước, yếu tố chính đứng sau. Yếu tố chính có thể là yếu tố danh, yếu tố động hoặc yếu tố chỉ tính chất: + Yếu tố chính là yếu tố dành như: học jsinh; thanh niên, lương tâm, nhân loại, cổ thụ, tác phẩm, lễ dường, quảng trường, sinh vật,hải quân, hải cẩu,….

<span class='text_page_counter'>(17)</span> + Yếu tố chính là yếu tố động (chỉ hoạt động, quá trình) như: ưu đãi, ám thị,tốckí,hỗ trợ, tôn xưng, đại thắng, côlập, cao hứng, cố trì,cố hữu, hậu tạ, hoan nghênh,.. +Yếu tố chính là yếu tố chỉ tính chất như: tối tân, cực đại, đại hàn, thượng thọ, tương phản, công ích, thậm tệ, dạ hương,… - Từ có yếu tố chính đứng trước, yếu tố phụ đứng sau.Yếu tố chính có thể là yếu tố động, có thể là yếu tố chỉtính chất : + Yếu tố chính là yếu tố động như : xuất bản, vệ thương tâm, nhập ngũ, tốt nghiệp, lưu tâm, đả đảo, phóng đại, thuyết minh, đề cao,… + Yếu tố chính là yếu tố chỉ tính chất như : mãn ý, lợi tiểu, bổ huyết, yên vị,yên chí, yên tâm, tinh ý, đoản mệnh,... c) Từ ghép chủvị Ví dụ : dân chủ, nhân tạo, pháp định, niên thiếu, dânlập, nhật thực, dịa chấn,... Ngoài các phương thức trên, có một số từ Hán Việt đượccấu tạọ theo phương thức phụ gia. Ví dụ : đệ:đệ nhất, đệnhị khả:khả uý,khả ố,khả nghi , trưởng: đại đội trưởng, lí trưởng, hiệu trưởng . hoá: lí tưởng hoá, công hữu hoá, hợp tác hoá, chuẩn tiếng hoá, hợp líhoá . sở: sở trường, sở đoản, sở sở thích sĩ:thi sĩ,việnsĩ,hoạ sĩ tính:đảng tính,nhân tính,thú tính.

<span class='text_page_counter'>(18)</span> giả:học giả, độc giả, thính giả, khán giả 2. Một số điều cần lưu ý trong cấu tạo từ Hán Việt a)Phần lớn từ Hán Việt là từ ta tiếp nhận từ vốn từ của tiếng Hán. Nhưng cũng có một bộ phận do người Việt Nam sáng tạo ra {không có trong vốn từ tiếng Hán). Ví dụ: y sĩ,phi công, trung đội, đại đội, tiểu đoàn, tiểu liên, trung liên,đại liên,bộc phá, phát thanh, truyền hình,hình vị,tiền tố, cân tố, chuẩn hoá, phản b)Một số từ Hán Việt tuy có trong vốn từ tiếng Hán nhưng nghĩa khác xa tiếng Hán. Ví dụ: Tử tế trong tiếng Hán có nghĩa là "tỉ mỉ", nhưng trong tiếng Việt lại có nghĩa là "không sơ sài" hoặc "đối xử tốt": ăn mặc tử tế, đối xử tử tế. Đáo để trong tiếng Hán có nghĩa là "rốt cục, cuối cùng" nhưng trong tiếng việt lại có nghĩa chỉ tính cách. Khôi ngô trong tiếng Hán có nghĩa là "(thân thể) cường tráng to lớn" nhưng trong tiếng Việt lại có nghĩa là "(vẻ mặt) ĩáng sủa, thông minh". Khốn nạn trong tiếng Hán có nghĩa là "khó khăn", trong iếng Việt cũng có nghĩa này nhưng lại thêm một nghĩa khácxa nghĩa gốc, chỉ sự hèn mạt không còn chút nhân cách : đồ khốn nạn. c) Một số từ Hán Việt ra đời do xu thế rút gọn, nói tắt. Ví dụ : hồng huyết cầu —> hồng cẩu bạch huyết cầu -> bạch cầu.

<span class='text_page_counter'>(19)</span> vật lí học -> vật lí toán học -> toán tiểu tiện —> tiểu tuyên truyền huấn luyện -> tuyên huấn mĩ nghệ phẩm -> mĩ phẩm. IV - THÀNH NGỮ, TỤC NGỮ HÁN VIỆT 1. Cấu tạo của thành ngữ, tục ngữ Hán Việt a) Trong vốn thành ngữ, tục ngữ tiếng Việt có một khối lượng không nhỏ các thành ngữ, tục ngữ được cấu tạo bằng các từ Hán Việt, theo quy tắc ngữ pháp tiếng Hán. Thành ngữ Hán Việt phần lớn cũng gồm bốn yếu tố như thành ngữ Việt. Trong thành ngữ Hán Việt có nhiều thành ngữ ta mượn toàn vẹn thành ngữ Hán, nhưng cũng có một số thành ngữ có sự khác biệt bộ phận với thành ngữ Hán hoặc do cộng đồng người Việt sáng tạo ra, không thấy có trong vốn thành ngữ Hán. Các thành ngữ Hán Việt có sự khác biệt bộ phận so với thành ngữ Hán như : Thành ngữ Hán Việt Nhất cử lưỡng tiện Khẩu phật tâm xà An phận thủ thường Danh lam thắng cảnh Bách niên giai lão Thượng lộ bình an. Thành ngữ Hán Nhất cử lưỡng đắc Khẩu một phúc kiếm An phận thủ kỉ Danh thắng cổ tích Bạch đầu giai lão Nhất lộ bình an. Các thành ngữ do người Việt Nam tự sáng tạo ra như : sinh cơ lộp nghiệp, tài cao đức trọng, tôn sư trọng đạo, vô thưởng vô phạt, vinh thân phì gia,.

<span class='text_page_counter'>(20)</span> nam thanh nữ tú, lãonông tri điền, tràng giang đại thõng quan tiến chức, hữu sinh vô dưỡng, hữu sắc vô hương,... b) Có một số thành ngữ Hán Việt có thành ngữ Việt tương đương. Ví dụ : Thành ngữ Hán Việt Bách chiến bách thắng Bán tín bán nghi Bất cộng đái thiên Cao lương mĩ vị Dĩ độc trị độc Độc nhất vô nhị Kim chi ngọc diệp Khẩu phật tâm xà. Thành ngữ Việt Trăm trận trăm thắng Nửa tin nửa ngờ Không đội trời chung Của ngon vật lạ Lấy độc trị độc Có một không hai Lá ngọc cành vàng Miệng nam mô bụng bồ dao găm. 2. Nghĩa của thành ngữ, tục ngữ Hán Việt a) Có nhiều thành ngữ, tụcngữ được suy trực tiếp từ nghĩa của các từ tạo nên nó, nhưng cũng có nhiều thành ngữ, tục ngữ có nghĩa bóng. Ví dụ : - Hữu xạ tự nhiên hương nghĩa đen là "có chất thơm (lấy ở hạch dưới bụng một loài thú) thì tự nhiên sẽ có mùi thơm", nghĩa bóng là có tài, có đức hoặc có phẩm chất tốt đẹp thì tự khắc mọi người đều biết đến. - Bất cộng đái thiên:nghĩa đen là "không đội trời chung"; nghĩa bóng là căm thù hết sức sâu sắc. - Đồng sàng dị mộng:nghĩa đen là "cùng ngủ chung một giường mà có mộng khác nhau" ; nghĩa bóng là gần gũi nhau nhưng suy nghĩ, chí hướng, mong muốn khác nhau..

<span class='text_page_counter'>(21)</span> - Thâm căn cổ đế:nghĩa đẹn là "rễ sâu, cuống hoa rất vững bền" ; nghĩa bóng là ăn sâu, bền chắc khó long thay đổi, cải tạo. - Khuynh quốc khuynh thành :nghĩa đen là "nghiêng nước nghiêng thành" ; nghĩa bóng là có vẻ đẹp tuyệt vời. -Kim chi ngọc diệp :-nghĩa đen là “cành vàng lá ngọc”, nguyên chỉ những loài cây cỏ quỹ, nghĩa bóng chỉ con cháu hoàng tộc, các tiểu thư, công tử con nhà giàu sang. b) Nhiều thành ngữ, tục ngữ Hán Việt được hình thành trên những câu chuyện dân gian, câu chuyện lịch sử (điển tích) rất thú vị. Hiểu được những câu chuyện đó thì hiểu thành ngữ, tục ngữ sâu sắc hơn. Ví dụ : - Tái ông thất mã ( Tái ông mất ) dựa trên câu chuyện sau đây : “Thượng Tái Ông có con ngựa quý tự nhiên biến mất, nhiều người đến hổi thăm, ông nói với họ biết đâu lại là điều phúc. Quả nhiên, ít hôm sau ngựa quý quay về và kéo theo mấy con ngựa khác về cùng. Ông lại nói với mọi người biết đâu đó lại là điều hoạ. Và đúng vậy, con trai ông mải mê phi ngựa, chẳng may ngã gãy chân. Thượng Tái Ông lại nói với mọi người biết đâu đó lại là điều phúc. Ít lâu sau có giặc, trai trẻ trong làng đều phải ra trận, nhiều người chẳng bao giờ trở về nữa, riêng con trai ông vì tàn tật mà được ở lại và sống sót.” (Theo Nguyễn Như Ý - Nguyễn Văn Khang - Phan Xuân Thành, Từ điển thành ngữ Việt Nam, NXB Văn hoá, Hà Nội, 1993) Thành ngữ này có nghĩa là r: Sự may rủi không, sao lường trước được, trong cái may có thể có cái rủi, trong cái rủi có thể có cái may. - Tang bồng hồ thỉ (hoặc Hồ thỉ tang bồng) tang: dâu ; bồng:cỏ bồng ; hổ :cái cung ; thỉ:mũi tên..

<span class='text_page_counter'>(22)</span> “Tương truyền người Hán xưa, khi đẻ con trai, gia đinh đứa trẻ làm cung bằng gỗ dâu, tên bằng cổ bồng rồi bắn mũi tên đi bốn hướng bắc, nam, đông, tây, và một mũi tên lên trời, một mũi tên xuống đất, với hàm ý là đứa bé lớn lên sẽ tung hoành khắp nơi.” Thành ngữ này có nghĩa là: tỏ rõ chí khí của đấng nam nhi, tung hoành khắp mọi nơi, mọi chốn. - Khai thiên lập địa (thành ngữ Hán là Khai thiên tịch địa) dựa trên câu chuyện truyền thuyết về Bàn cổ: “Thế giới lúc đầu hỗn độn như một quả trứng, trong đó có ông Bàn cổ. 18.000 năm trước, Bàn cổ tách khối hỗn độn đó, phần trong sáng là trời, phần đục là đất.” Thành ngữ này chỉ thời quá khứ rất xa xăm. - Kinh cung chi điểu có. điển tích trong Chiến quốc sách :“Canh Luy đứng trước Nguy vương, giương cung không có tên, giả bắn một phát, một con chim nhạn rơi xuống. Canh Luy giải thích với vua rằng : sở dĩ như vậy là vì con chim .này đã bị thương, vết thương chưa lành và lòng khiếp sợ chưa tan, cho nên thấy cung giương lên là hãi.” Thành ngữ này có nghĩa là bị nạn hụt một lần thì hay e ngại, sợ sệt, hoảng hốt. - Dương dương tự dắc. “Thời Chiến quốc, Ấn Tử là thừa tướng nước Tề, do đẩy người đánh xe cho ông cũng rất kiêu ngạo. Một lần Án Tử cưỡi xe đi qua cửa nhà anh phu xe, vợ người phu xe thấy chồng ra ưẻ ta dây dương dương tự dắc. Đợi khi chồng về, chị vợ đòi li hôn. Chị vợ nói : Án Tử là thừà tướng của một nước mà ngồi xe khiêm tốn* là thế, còn anh chỉ là phu xe của ông ấy thôi mà lại dương.

<span class='text_page_counter'>(23)</span> dương tự đắc như vậy. Người phu xe sau khi nghe vợ nói liền thay đổi thái độ.” (xem sử kí Quản Án liệt truyện). Thành ngữ này dùng để chỉ thái độ vênh váo, kiêu kì, tự cho mình là ghê gớm lắm.. V - GIÁ TRỊ PHONG CÁCH CỦA TỪ NGỮ HÁN VIỆT Muốn sử dụng tốt từ ngữ Hán Việt, không những phải hiểu rõ ý nghĩa của từ ngữ mà còn phải thấu hiểu các giá trị phong cách của chúng. Vấn đề giá trị phóng cách ở đây chỉ được đặt ra khi từ ngự Hán Việt có một hoặc nhiều từ ngữ khác phi Hán Việt đồng nghĩa ‘và trong sử dụng bắt buộc phải có sự lựa chọn. Khi không có sự lựa chọn thi giá trị phong cách cũng mất : sinh viên, chính phủ, bộ trưởng, tỉnh, huyện, sinh vật, vân hoá, xã hội, học tập, lợi hại,… lànhững từ như thế. Về đại thể, từ ngữ Hán Việt có các giá trị phong cách như sau: 1. Tạo sắc thái tao nhã, tránh gây ân tượng ghê rợn Từ Hán Việt tạo sắc thái tao nhã, tránh tục tĩu, hoặc tránh gây ấn tượng ghê rỢn trước một số hiện tượng. - Tạo sắc thái tao nhã như : phân, tiểu tiện, đại tiện,hộ sinh, khoả thân,... - Để giảm bớt ấn tượng ghê rợn như : thổ huỵết, xuất huyết, thi hài, hài cốt, thương vong, hài, hoả táng,... 2. Tạo sắc thái trang trọng Từ Hán Việt tạo sắc thái trang trọng, đặc biệt phù hợp với các trường hợp giao tiếp lễ nghi. So sánh các từ Hán Việt với từ Việt tương ứng sau đây : Hán Việt phụ nữ phu nhân nhi đồng. Việt đàn bà VỢ trẻ con.

<span class='text_page_counter'>(24)</span> nông dân từ trần mai táng nhập ngũ. dân cày chết chôn đi lính. Lệ và nước mắt là hai từ đồng nghĩa. Thông thường người ta chỉ nói nước mắt nhưng trong một số trường hợp dùng lệ vẫn hay hơn, có giá trị nghệ thuật hơn do tính trang trọng của từ Hán Việt như : - Tố Như ơi, lệ chảy quanh thân Kiều ! Nghe hổn Nguyễn phiêu diêu. (TỐ Hữu). - Luận cương đến Bác Hồ Và Người đã khóc, Lệ Bác Hồ rơi trên chữ Lê-nin Bốn bức tường im nghe Bác lật từng trang sách gấp. Tưởng bên ngoài, đất nước đợi mong (Chế Lan Viên) Đo sắc thái trang trọng của từ ngữ Hán Việt mà người Việt Nam rất thích dùng từ ngữ Hán Việt để đặt tên người, tên đất. Người ta thích lấy tên là Sơn, là Hải, là Hà, là Thảo, là Diệp v.v... chứ ít ai lấy tên là là Biển, là Nước, là Sông, là cỏ, là Lá v.v... mặc dù chúng có nghĩa như nhau. (Nhưng cũng có.

<span class='text_page_counter'>(25)</span> người có tên là Tấm, là Cám, là Nụ, là Mây v.v... những cái tên nghe rất bình dị, thân thương !) Cũng do sắc thái trang trọng mà có nhiều làng Việt Nam lúc đầu tiên có tên Việt nhưng sau đó đổi thành tên Hán Việt : Kẻ Mọc đổi thành Nhân. Mục Kẻ Chữơn ( Nghệ An) đổi thành Bút Trận ;Kẻ Lũ đổi thành cổ Loa Kẻ Nguôi (ờ Nghệ An) đổi thành Đa Phúc v.v... 3. Gợi hình ảnh của thế giói khái niệm, im lìm, bât động Bên cạnh tính trang trọng, từ Hán Việt còn gợi cho ta hình ảnh của thế giới khái niệm, im lìm, bất động, trái lại, từ thuần Việt cung cấp cho ta hình ảnh sinh động của thế giới thực tế (Phan Ngọc). GS. Phan Ngọc viết : “Sự đối lập này đã được các nhà văn khai thác. Cúng tả buổi chiều, có thuyền, có nước, có tác giả bâng khuâng nhưng trong Thu diếu của Nguyễn Khuyến toàn dùng từ thuần Việt để gợi lên một mùa thu có thực và một nông thôn thực tế của quê nhà. Dùng từ Hán Việt vào đây thì cái cảm Q giác thân quen, gần gũi sẽ mất đi. Cho nên vị,Tam nguyên ^ n giỏi chữ Hán nhất nước đã tránh dùng từ Hán Việt: Ao thu lạnh lẻo nước trong ueo, Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo. Sóng biếc theo làn hơi gợn Lá vàng trước gió sẽ đưa vèo. Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt, Ngõ trúc quanh co khách vắng teo. Tựa gối ôm cần lâu-chẳng được, Cá đâu đớp động dưới chân bèo..

<span class='text_page_counter'>(26)</span> Một nông thôn bình dị, đẹp, nên thơ trong cảnh bình dị, Quan 1 nghèo, nhưng rất đỗi thân yêu. Chính các từ thuần Việt tạo nhà thi nên được cái âm hưởng ấy. Trái lại Bà Huyện Thanh Quan trong bài Chiều hôm nhớ nhà đẩy lùi bức tranh vào thế giới của tâm tưởng, của ý niệm : Chiều trời bảng lảng bóng hoàng hôn, Tiếng ốc xa đưa, vẳng trống đồn. Gác mái ngư ông về viễn phố, Gõ,sừng, mục tử lại cô thôn. Ngàn mai gió cuốn chim bay mỏi, Dặm liễu sương sa khách bước dồn. Kẻ chốn Chương Đài, người lữ thứ, Lấy ai mà kể nỗi hàn ôn. Cái cảm Các từ Hán Việt nữ thi sĩ dùng đẩy ta vào thế giới muôn đời. Trên đời chỉ có những ông chài, những thôn vắng,những kẻ chăn trâu, những bến xe, những người ở dài cao, những người khách trọ, cảnh ấm lạnh của cuộc đời. Làm gì có những ngư ông, những viễn phố, những mục những cô thôn ? Làm gì cọ những Chương Đài, người lữ thứ, nỗi hàn ôn?Không những thế, các từ Hán Việt đều đặt vào vị trí quyết định giá trị câu thơ: cuối vần để gây tiếng vọng trong tâm hồn ta, cuối nhịp để bắt người đọc dừng lại ở đây. Trong bài Thăng Long thành hoài cổ cả bài chỉ có tám chữ Hán Việt, mà cả tám chữ ấy đều ỗ cuối câu. Nghệ thuật là sự lụa chọn cực kì công phu. Bằng cách này Bà Huyện Thanh Quan kéo ta về cõi vĩnh viễn của ý niệm và nỗi u hoài của cái kiếp người không biết đến tháng năm, thời đại, không có sự cách biệt giữa tôi với anh”..

<span class='text_page_counter'>(27)</span> 4. Tạo sắc thái cổ Cũng phải kể đến giá trị phong cách của các từ ngữ Hán Việt góp phần vào việc tạo sắc thái cổ khi tái tạo hình ảnh các nhân vật và cuộc sống xã hội ngày xưa, đưa người đọc, igười nghe trở về với cái không khí của quá khứ. Số là các từ igữ Hán Việt này ngày nay không được dùng trong cuộc sống thường nhật nhưng nó đã gắn bó một thời trong lờj ăn iếng nói của người xưa. Đó lè giá trị phong cách của các từ như: hoàng thượng, hoàng hậu, trầm, khanh, hoàng tử,công chúa, xa giá, ngự triều,hạ chỉ, bái yết, bình thân, vấn an, giai nhân, thuyền quyên, tiểu thư. Ví dụ : Yết Kiêu đến kinh đô Thăng Long yết vua Trần Nhân Tông. Nhà vua:Trẫm cho nhà ngươi nhận lấy một loại binh khí. Yết Kiêu:Thần chỉ xin một chiếc dùi sắt. Nhà, vua:Để làm gì ? Yết Kiêu:Để dùi thủng chiến thuyền của giặc vì thẩn có thể lặn hàng giờ dưới nước. Nhà vua: Người 'dân thường mà phi thường. Trẫm muốn biết ai dạy ngươi ? Yết Kiêu:Dạ, tâu bệ hạ, người dó là cha thần. (Nguyễn Huy Tựởng, Chuụện hay sử củ). VI - TỪ NGỮ HÁN VIỆT VÀ VIỆC GIỮ GÌN Sự TRONG SẢNG CỦA TIẾNG VIỆT 1. Sử dụng đúng âm và nghĩa của từ ngữ Hán Việt Muốn sử dụng tốt từ ngữ Hán Việt trước hết phải hiểu đúng âm và nghĩa của chúng. Hiện nay trên sách báo hoặc trong lời nói thông thường hằng ngày vẫn thấy có hiện tượng dùng sai âm, sai nghĩa một số từ ngữ Hán Việt. Chang hạn, đáng lẽ nói gái mại dâm có người lại nồi là gái~mãi'dâm, trong.

<span class='text_page_counter'>(28)</span> lúc đó đáng lẽ nói là khuyến mãi thì người ta lại quennói là khuyến mại, bởi vì không phân biệt được mại và mãi. Mãi Hán Việt có nghĩa là “mua”, còn mại có nghĩa là “bán”. Hợp chúng quốc thì nói thành Hợp chủng quốc nhiều, chủng :loại, giống). Đáng lẽ nói thái độ bàng quan thì có người lại nói thái độ bàng quang quang là cáibọng đái). Trước đây thường hay gọi con khổng long vì nghĩ rằng khổng ở đây có nghĩa là “khổng lồ”, nhưng gần đây trên sách báo đã viết đúng cái tên gọi vốn có của nó là con khủng long (khủng có nghĩa là "đáng sợ"). Yếu điểm là điểm quan ữọng, thì nhiều người lại hiểu là "điểm yếu" ( yếu từ Hán Việt gọi là nhược điểm). Có một thanh niên dẫn bạn gái đến thăm thầy giáo và giới thiệu với thầy : “Thưa thầy, đây là hôn thê của em”. Thầy giáo hết sức ngạc nhiên, té ra anh ta đã hiểu nhầm từ uị hôn thê (có nghĩa là "vợ chưa cưới" ; uị :chute) và cứ nghĩ rằng hôn thê là vợ chưa cưới, còn uị ở đây, có nghĩa như vị trong vị đại biểu, giáo sư,… Thường thì người ta hay hiểu lầm hoặc phân biệt không rạch ròi các từ Hán Việt gần âm hoặc gần nghĩá, do chỗ các từ đó có những yếu tố chung trong cấu tạo từ. Cho nên việc phân biệt rạch ròi các từ gần âm gần nghĩa là điều rất cần thiết. Ví dụ : Bàn hoàn: nghĩ quanh, nghĩ quẩn, Bàng hoàng: ở trạng thái tinh thần không dứt ra được. Ví dụ: Nỗi riêng choáng váng, sững sờ tâm thần bất riêng những bàn hoàn. định. (Truyện Kiều). Biện bạch: trình bày lí lẽ, sự việc để. Biện bác: dừng lí lẻ để tranh cãi thanh minh Chiếm đoạt: lấy của người làm của Tiếm đoạt: người dưới chiếm của mình bằng vũ lực hay bằng quyền người trên, thần dân lấn át vua. Ví thế. Ví dụ: chiếm đoạt của công dụ: tiếm đoạt ngôi vua Biển lận: gian tham và keo kiệt Biển thủ: dùng mánh khóe gian lận (biển: hẹp hòi; lận: keo kiệt). lấy của công ( biển: gian lận; thủ:. Khinh thị: coi thường. lấy) Kì thị: phân biệt đối xử do thành.

<span class='text_page_counter'>(29)</span> kiến. ví dụ: kì thị chủng tộc ( kì: phân biệt) Tuyên truyền: giải thích rộng rãi để Quảng cáo: giới thiệu rộng rãi cho mọi người tán thành, ủng hộ, làm nhiều người biết, nhằm tranh thủ theo. Ví dụ: tuyên truyền đường lối, được nhiều khách hàng. ( có người chính sách; tuyên truyền bầu cử. nói: cuốn phim này quảng cáo cho AIDS, nói như vậy là sai. Phải nói là Cuốn phim này tuyên truyền chống bệnh AIDS). 2. Sử dụng đúng sắc thái phong cách của từ ngữ Hán Việt Ngoài việc hiểu đúng nghĩa của từ ngữ Hán Việt, trong việc sử dụng chúng còn cần phải đùng đúng sắc thái phong cách của từ ngữ Hán Việt như đã nói ở trên. Sử dụng đúng phong cách thì có hiệu quả giao tiếp tốt, không sử dụng đúngphong cách thì có hiệu quả ngược lại. Cũng không phải mọi trường hợp dùng từ Hán Việt đều là hay, cũng không phải mọi trường hợp dùng từ thuần Việt đều là tốt. Đã có một thời trên báo chí, người ta nó'r “Đại tướng Võ Nguyên Giáp và vợ” nhưng sau đó ít lâu, người ta lại trở lại với cách nói “Đại tướng Võ Nguyên Giáp và ph nhân”. Nói “Đây là ngôi mộ bà Hoàng Thị Loan - thân mẫu Chủ tịch Hồ Chí Minh” thì hay hơn “Đây là ngôi mộ bà Hoàng Thị Loan - mẹ của Chủ tịch Hồ Chí Minh”. Sử dụng từ ngữ Hán Việt có khi còn phải chú ý đến đối tượng giao tiếp. Chằng hạn, Chủ tịch Hồ Chí Minh trong bức thư gửi các vị phụ lão, đã dùng.

<span class='text_page_counter'>(30)</span> các tục ngữ Hán Việt như lão lai tài tận, lão giả yên chi là những tục ngữ mà các cụ thời ấy rất quen thuộc, có khi rất tâm đắc : ‘Thưa các cụ. Đây tôi lấy danh nghĩa là một người già, mà nói chuyện với các cụ. Tục ngữ có câu : “Lão lai tài tận”, thượng các cụ phụ lão ta cũng tin như vậy. Gặp việc gì, các cụ đều nói : “Lão giả yên chi” (người già nên ở yên) - mình tuổi hạc càng cao, không bay nhảy gì nữa. Việc deft để cho con cháu bầy trẻ làm. Chúng ta đã gần đất xa trời rồi, không cần hoạt động nữa.” Tôi không tán thành ý kiến đó. Xưa nay những người yêu nước không vì tuổi già mà chịu ngồi không. Trung Quốc có những người như Mã Phục Ba. Nước ta có những người như Lý Thường Kiệt. Cậng già càng quắc thước, càng già càng anh hùng”... 3. Xu thế Việt hoá từ ngữ Hán Việt Trong việc sử dụng từ ngữ Hán Việt không thể không chú ý đến một xu thế tịph cực và lành mạnh là xu thế Việt hoá từ ngữ Hán Việt. Việt hoá từ ngữ Hán Việt có thể theo hai cách : a)Đổi các yếu tố Hán Việt thành các yếu tố thuần Việt. b)Ví dụ : Hỏa xa Phi cơ Phi trường Ái quốc Không phận Hải phận (hội) hồng thập tự Hi hữu Văn sĩ Thi sĩ Hõa tiễn. Xe lửa Máy bay Sân bay Yêu nước Vùng trời Vùng biển (hội) chữ thập đỏ Ít cỏ Nhà văn Nhà thơ Tên lửa.

<span class='text_page_counter'>(31)</span> Hiệu triệu Thủy quân lục chiến. Kêu gọi Lính thủy đánh bộ. b) Đổi trật tự các yếu tố cấu tạo hoặc trật tự từ theo trật tự ngữ pháp tiếng Việt. Ví dụ : Dân ý Chỉ huy sở Cao xạ pháo Giao thông hào Chủ tịch đoàn Đoàn trưởng Đảng tỉnh Cộng sản đảng. Ý dân Sở chỉ huy Pháo cao xạ Hào giao thông Đoàn chủ tịch Trưởng đoàn Tỉnh đoản Đảng cộng sản. Ngày nay, những từ được Việt hoá như trên đã được sử dụng rộng rãi và các từ ngữ Hán Việt tương ứng đã trở thành từ cũ, vì vậy trong sử dụng ta không nên dùng các từ ngữ đó nữa. 4. Xu thê thay thế từ ngữ Hán Việt bằng từ ngữ gốc Âu Cũng cần phải thấy một xu thế khác nữa, đó là xu thế thay thế một số từ ngữ Hán Việt bằng từ ngữ gốc Âu để quốc tế hoá một số thuật ngữ : sinh tố vi-ta-min dưỡng khí Ô xi thán khí các-bon (dèn) huỳnh quang (đèn) nê-ông máy thu thanh ra-đi-ô Ngay một số địa danh trước đây đọc theo âm Hán Việt bây giờ cũng đổi cách phát âm để sát với nguyên ngữ hơn như : Tân Gia Ba Phi Luật Tân Mạc Tư Khoa Tân Tây Lan. Xin-ga-po Phi-líp-pin Mát-xcơ-va Niu Di-lân.

<span class='text_page_counter'>(32)</span> Tất nhiên xu thế Việt hoá, cũng như xu thế thay thế từ ngữ Hán Việt bằng từ gốc Âu trên đây không phải là tuyệt đối, phổ biến- mà nó còn' bị ràng buộc bởi. nhiều nhân tố khác. Trước đây ta thường dùng từ thiết (kiến thiết quốc gia) ngày nay kiến thiết được thay bằng xây dựng trong hầu hết trường hợp (Bộ xây dựng, xây dựng nhà cửa v.v...). Thế nhưng người ta lại nói xổ kiến thiết Thủ dô, chứ không nói x số xậy dựng Thủ dô. Cụm từ dân tộc thiểu số một thời được thay bằng dân tộc người nhưng khi cần diễn đạt khái niệm dân tộc thiểu số dông người, dân tộc thiểu số người thì rõ ràng là việc đổi dân tộc thiểu số thành dân tộc người là không ổn. Cũng vậy, ta đổi Ý thành I-ta-li-a,Mễ Tây Cơ thành Mê-hi-cô nhưng vẫn nói (nước) Anh, Pháp, Thuỵ Điển, Thuỵ Hi Lạpv.v... Điều này chứng tổ từ ngữ Hán Việt vẫn cp chỗ mạnh của nó. Cái mạnh của từ ngữ Hán Việt trước hết là ở chỗ trong một số trường hợp việc Việt hoá bằng cách thay yếu tố Hán Việt bằng yếu tố Việt hoặc thay đổi trật tự của các yếu tố như trên đã nói không thể bao quắt*được ý nghĩa và chức năng của từ ngữ Hán Việt. Chẳng hạn, dại lộ không thể đổi thành đường lớn, tối tân không thể đổi thành mới nhất ; mặt không thể bao giờ cũng thay thế được cho từ toàn diện, chấm dứt không thể bao giờ cũng thay thế được cho từ dinh chỉ, diểm cao không thể bao giờ cũng thay thế cho từ cao diểm (giờ caọ điểm), cũng vậy chủ nghĩa hội không thể bao giờ cũng thay thế được xã hội chủ nghĩa (cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa, cải tạo xã hội chủ nghĩa v.v...)..

<span class='text_page_counter'>(33)</span> VII - VÊ VIỆC GIẢNG DẠY TỬ NGỮ HÁN VIỆT Ở TRUNG HỌC CƠ SỞ 1. Mục đích và đối tượng Mục đích của việc giảng dạy từ ngữ Hán Việt ở Trung học cơ sở là cung cấp cho học sinh một vốn kiến thức bước đầu về từ ngữ Hán Việt và mở rộng vốn yếu tố, vốn từ ngữ Hán Việt. Sở dĩ nói là “mở rộng” bởi lẽ đến độ tuổi này, học sinh đã'có một vốn yếu tố, vốn từ ngữ Hán Việt nhất định, chỉ có điều là không ý thức được đó là những yếu tố, những từ ngữ Hán Việt. Như vậy, điều cần thiết đối với người soạn sách giáo khoa, đối với giáo viên trực tiếp giảng dạy phần này là phải nắm được số lượng các yếu tố, các từ ngữ Hản Việt mà học sinh đã tích luỹ được. Công việcđiều tra, khảo sát, thống kê về mặt này sẽ giúp ích rất nhiều cho việc giảng dạy phần này ở Trung học cơ sở. Tuy nhiên cũng có thể nhận định một cách khái quát như sau về mức độ khó dễ của các lớp yếu tố và từ ngữ Hán Việt. a)Các yếu tố sử dụng độc lập với tư cách là từ dễ hiểuhơn là các yếu tố không sử dụng độc lập chì làm yếu tố cấu tạo từ. Các yếu tố như hoa, bút, quả, đông, tây, nam, bắc, bút, phấn, lợi, hại, thắng, bạrất quen thuộc với học sinh, còn các yếu tố như thiên, địa, nhân, sơn, hải, khán, thính,...thì phải học mới hiểu được. b) Trong số các yếu tố không độc lập thì các yếu tố có sức sản sinh cao tức là được sử dụng để cấu tạo nên rất nhiều từ ngữ khác nhau thì dễ hiểu hơn các yếu tố có sức sản sinh thấp,chỉ có mặt trong một vài từ. Nhai (bờ nước) chỉ xuất hiện một lần trong sinh nhai, di (vui vẻ) chỉ xuất hiện trong di dưỡng, cước ị chân) chỉ xuất hiện trong cước, cước chú, cước phí, cước vận,... đều là những yếu tố khó hiểu so với các yếu tố như sơnhải, c) Đối với từ ngữ Hán Việt thỉ những từ ngữ biểu thị những sự vật, hoạt động, tính chất gần gũi với cuộc sống học sinh, phù hợp với trình độ nhận thức của học sinh thì dễ hiểu hơn các lớp từ khác..

<span class='text_page_counter'>(34)</span> Như chúng ta đã biết, trong tiếng Việt có khoảng 3.000 yếu tố Hán Việt, mỗi yếu tố lại có thể có nhiều nghĩa khác nhau, do đó ở Trung học cơ sờ không thể học hết được tất cả. Còn từ ngữ Hán Việt thí có số lượng cất lớn. Bộ môn Ngữ văn trong nhà trường chỉ có thể giúp học sinh tăng thêmvốn từ ngữ Hán Việt ở một mức độ nhất định, học sinh sẽ học tập thêm từ ngữ Hán Việt ở những môn học khác. 2. Một số vấn đề về- phương pháp Trong SGK chỉnh lí năm 2000, các yếu tố Hán Việt được dạy theo các nhóm cùng trường nghĩa : các yếu tố chỉ màu sắc, các yếu tố chỉ số lượng, các yếu tố chỉ bộ phận cơ thể,... Cách làm này có cái lợi là giúp cho học sinh nắm các yếu tố một cách có hệ thống, dễ ghi nhớ và cũng dễ tái hiện khi sử dụng. Tuy nhiên cách làm này cũng có chỗ yếu của nó : không trình bày được một lúc các nghĩa khác nhau của một yếu tố. Trong SGK Ngữ văn THCS, việc học từ ngữ Hán Việt không có bài riêng (trừ 2 tiết ở'lớp 7) mà được thực hiện chủ yếu ở phần Đọc - hiểu văn bản. Một yếu tố Hán Việt có thể có nhiều nghĩa, đối với học sinh Trung học cơ sở, không nhất .thiết phải học hết mọi nghĩa của một yếu tố mà chỉ nên dạy những nghĩa cần yếu, hợp với trình độ của học sinh. Đồng thời, khi trình bày các nghĩa của một yếu tố, tốt nhất là trình bày nghĩa gốc trước rồi trình bày các nghĩa phái sinh sau. Chẳng hạn yếu tố trọng có nghĩa gốc là "nặng" ( trọng lượng, trọng tải ) nghĩa "quan trọng" gắn liền với nghĩa "đề cao, tôn quý" ( trọng, kính trọng,...). a) Dạy yếu tố Hán Việt có thể theo hai trình tự : - Trình tự thứ nhất là nêu nghĩa của yếu tố trước rồi đưa ra một số từ ngữ có chứa yếu tố với nghĩa đó. Chẳng hạn : hương có nghĩa là "thơm", trong các từ ngữ như : hươngliệu, hương uị,dạ hương, hữu xạ tự nhiên hương,... Hữu có nghĩa là "bè bạn", trong các từ ngữ như bọn hữu, chiến hữu, giao hữu..

<span class='text_page_counter'>(35)</span> Nghênh có nghĩa là "đón" trong các từ ngữ như hoan nghênh, nghênh chiến, tống cựu nghênh tân,… - Trình tự thứ hai là trước hết giáo viên nêu ra một nhóm từ ngữ có chứa yếu tố cần dạy, rồi gợi ý cho học sinh từ nghĩa của các từ ngữ mà luận ra nghĩa của yếu tố. Chẳng hạn từ nghĩa của các từ ngữ như hải cảng, hải cẩu, hải đảo, hải đăng, hải quân, duyên hải, hàng học sinh có thểnhận ra hải ở đây có nghĩa là "biển" ; từ nghĩa của các từ ngữ chiến thắng, chiến dấu, chiến trường, chiến đình chiến, khống chiến, nội chiến,...có thể luận ra nghĩa của chiến là "đánh nhau". Trình tự thứ hai này có thể phát huy được tính tích cực của học sinh, làm cho giờ học thêm sinh động nhưng khó áp dụng khi giải nghĩa các yếu tố khó, trong trường hợp này nên áp dụng trình tự thứ nhất. Khi dạy - học yếu tố Hán Việt thường có sự liên hệ nghĩa của yếu tố Hán Việt với nghĩa của từ có chứa yếu tố đó cũng như khi dạy - học từ ngữ Hán Việt thường có sự liên hệ với nghĩa củạ các yếu tố cấu tạo nên chúng. Nhưng mối liên hệ giũa nghĩa của yếu tố và nghĩa của từ ngữ không phải bao giờ cũng đơn giản. Có trường hợp từ nghĩa của các yếu tố có thể suy ra nghĩa của từ ngữ không đến nỗi khó khăn. Chẳng hạn, biết được nghĩa của hải là "biển" và đăng là "đèn", hoc sinh có thể suy ra nghĩa của hải dăng là "ngọn đèn biển" ; cũng vậy, biết được nghĩa của hô và hấp có thể suy ra nghĩa của từ hô hấp, hiểu được nghĩa của hảo và tâm có thể suy ra nghĩa của từ hảo tâm, hiểu được nghĩa của độc, nhất, nhị thì có thể suy ra nghĩa của thành* ngữ độc nhất vô Nhưng cũng có nhiều trường hợp, hiểu nghĩa của các yếu tố mà không dễ dàng suy ra nghĩa của từ ngữ. Chẳng hạn biết được nghĩa của mẫu là "mẹ", tử là "con" mà vẫn không thể hiểu được thế nào là mẫu số, tử số nếu chưa được học toán đến phần phân số ; cũng vậy có thể hiểu độc là "một mình", lập là "đứng" mạ vẫn không hiểu được nghĩa của từ độc lập với khái niệm.

<span class='text_page_counter'>(36)</span> chính trị của nó ( nước độc lập). Sở dĩ như vậy là vì nghĩa của từ ngữ không phải là một phép cộng đơn giản nghĩa của các yếu tố cấu tạo nên nó. Lại có trường hợp, hiểu rõ nghĩa của từ ngữ mà không biết nghĩa của yếu tố. Chẳng hạn, người ta hoàn toàn có thể hiểu được nghĩa của từ hi sinh mà không cần biết hi và sinh là gì. Cũng vậy học sinh có thể hiểu được thế nào là gia đình nhưng đình ở đây nghĩa là gi thì học sinh không thể trả lời được. b) Từ tình hình phức tạp trên đây, có thể định hướng cho việc học tập từ ngữ Hán Việt ở Trung học cơ sờ như sau : - Mục tiêu cuối cùng, mục tiêu tối thượng là làm cho học sinh hiểu nghĩa và cách dùng của từ ngữ và mỏ rộng vốn từ ngữ Hán Việt. - Việc hiểu nghĩa của yếu" tố Hán Việt cp tác dụng làm cho học sinh từ một số lượng hạn chế các yếu tố có thể luậnra nghĩa của một khối lượng tương đối lớn các từ ngữ Hán Việt. Vì vậy việc dạy - học yếu tố Hán Việt là cần thiết. - Việc liên hệ nghĩa của yếu tố và nghĩa của từ ngữ chỉ có thể thực hiện trong một phạm vi nhất đính. Quá chú trọng đến vấn này sẽ là quá sức đối với học sinh.. VIII - MỞ RỘNG VỐN YẾU TỐ HÁN VIỆT Phần này có số lượng yếu tố nhiều hơn số lượng yếu tố "cần tuyển chọn cho học sinh ở Trung học cơ sờ, cốt để nâng cao trình độ cho giáo viên. Những yếu tố Hán Việt được tuyển chọn đưa vào phần này dựa trên các tiêu chí sau đây : - Chú ý nhiều hơn đến các yếu tố Hán Việt không được dùng với cương vị từ. - Chú ý nhiều đến các nghĩa chuyển khó hiểu..

<span class='text_page_counter'>(37)</span> - Chú ý phân biệt các yếu 'tố Hán Việt đồng âm. Phần này chủ yếu giải thích nghĩa của yếu tố và dẫn ra một số từ ngữ có chứa yếu tố đó làm ví dụ chứ không giải thích nghĩa của'các từ ngữ đó trừ lúc thật cần thiết. - Tuy nhiên, có một số yếu tố chúng tôi cũng không chú hết tất cả các nghĩa ; một số yếu tố chúng tôi cũng không dẫn ra hết các đồng âm. - Kí hiệu (v) : nghĩa ‘phát triển của yếu tố Hán Việt (không có trong tiếng Hán). á. 1. Thứ, thuộc bậc thứ : á á 2. Gần : á nhiệt đới 3. Một trong bốn châu : châu Nam Á. ác. 1.Xấu, không tốt, trái với thiện ác cảm, ác ỷ 2.Gây đau khổ cho người khác : ác dộc, ác ôn, độc ác, gian ác 3.Dữ dội, ghê rợn, dễ sợ : ác ác ác mộng, (sốt rét) ác tính. ái. Yêu : ái quốc, nhân ái, tương thân tương ái. Âm (1). 1.Kín, ngầm, không lộ ra : âm mưu 2.Một trong hai nguyên lí cơ bản của trời đất (đối lập với dừơng, theo quan niệm triết học thời xưa của phương Đông): thuyết ôm dương 3.Từ chỉ một trong hai mặt đối lập nhau, như : - Mặt trăng đối lập với mặt trời : âm - Cõi chết đốilập với cõi sống : âm phủ, âm hồn - Nữ đối lập với nam : âm dạo, âm hộ 4. (v) Các khoa học khác cũng có sự đối lập âmdường như : cực âm (vật lí), số âm (toán học). Âm (2). Tiếng : âm diệu, âm thanh, ngữ âm, đồng âm.

<span class='text_page_counter'>(38)</span> ẩm Ân (1). Uống : ẩm thực, độc ẩm, đối ẩm ơn : ân nghĩa, ân nhân, vong ân ( quên). Ân (2). 1. Chu đáo, quan tâm đến: ân cần 2.Băn khoăn, day dứt : ân hận. ấu. 1.NhỎ, mới sinh: ấu thơ, ấu trùng. bách. 2. Trẻ nhỏ: nam phụ lão ấu Trăm, số lượng nhiều, không xác định: bách hóa, bách. Bạch. thảo 1.Trắng, sáng: bạch cầu, bạch diện thư sinh, thanh thiên bạch nhật 2. (v) Trắng toàn một màu: trắng bạch, sáng bạch 3. Có tính chất phản động: bạch vệ. bài. 4. Bày tỏ, nói rõ: biện bạch, tự bạch 1.Gạt bỏ, trừ bỏ: bài bác, bài ngoại, bài trừ, bài xích 2. Thải ra ngoài: bài tiết. Bản. (trong tiếng Hán vốn có nghĩa là “ gốc cây”) 1.Nguồn gốc, căn nguyên ( của sự vật, sự kiện): căn bản, nhân bản, vong bản 2. Vốn: tư bản 3. thuộc về mình: bản thân, bản hiệu, bản ngã, bản quốc 4. (v) Sách, vở, tờ giấy, tập giấy có chữ, hình vẽ mang một nội dung nhất định: bản nhạc, bản nháp, kịch bản, văn bản. bán. 5. chỉ đơn vị: in nhiều bản 1.Một nửa: bán cầu, bán thân, quá bán 2.Vừa có tính chất này vừa có tính chất kia: bán sơn địa,. Bảo (1). bán thành phẩm, bán phong kiến 1.Chăm sóc, giữ gìn: bảo dưỡng, bảo mật, bảo quản, bảo.

<span class='text_page_counter'>(39)</span> vệ 2. Chịu trách nhiệm: bảo hiểm, bảo hành Bảo (2). Quý: bảo kiếm, bảo vật, gia bảo. bão. (trong tiếng Hán vốn có nghĩa là “no”). Bạo. Đủ, không thể thêm được nữa: bão hòa 1.Hung dữ, hung ác: bạo lực, bạo tàn, thô bạo; cường bạo. bát Bần Bất bí Biến. 2. Mạnh một cách đột ngột: bạo bệnh, bạo phát Tám: bát giác, lục giác, thất điên bát đảo Nghèo: bần cùng, bần hàn Không: bất đồng, bất tải Kín: bí ẩn, bí mật 1.Thay đổi khác đi: biến chất, biến chuyển, cải biến, diễn biến 2. (V) đột nhiên không thấy nữa: biến mất 3. Việc bất ngờ xảy ra, thường là không hay: biến cố,. Biệt. chính biến, tai biến 1.Chia tách ra: khu biệt, phân biệt 2. Rời, lìa ( người, nơi có quan hệ thân thiết): biệt li, tạm biệt, tiễn biệt, vĩnh biệt 3. Không để lại dấu vết, tăm tít gì: biệt tích. Biểu. 4. khác, riêng: biệt hiệu, biệt phái, cá biệt, đặc biệt 1.Bên ngoài, trái với lí ( bên trong): biểu bì 2. Bày ra, thể hiện ra bên ngoài: biểu diễn, biểu hiện, biểu thị, biểu kiến, biểu lộ, phát biểu, đại biểu 3. Bảng ghi hạng mục, số liệu: đồ biểu, niên biểu, thời gian biểu, thuế biểu 4. Dụng cụ đo: nhiệt biểu, phong vũ biểu. bình. 5. Bài văn tấu lên vua: dâng biểu 1.Bằng phẳng: bình nguyên, bình địa 2. Ngang, đều: bình đẳng, bình quyền, trung bình 3. Thường, vừa phải: bình dân, bình thường, trung bình.

<span class='text_page_counter'>(40)</span> 4. Yên ổn, không có gì xáo động: bình an, hòa bình, thái bình Bối (1). 5. Dẹp yên: bình định, bình thiên hạ, bình ổn (trong tiếng Hán vốn có nghĩa là “ lưng”) Mặt sau, phía sau: bối cảnh. Bối (2). (Trong tiếng Hán chỉ loài nhuyễn thể có vỏ cứng dưới nước như ngao, sò. Ngày xưa người ta lấy loại vỏ động vật này làm tiền). Của cải: bảo bối ( của, vật quý báu). Bối (3) cá. Lớp người: tiền bối, đồi bối Đơn độc, riêng lẻ: cá biệt, cá nhân, cá nhân, cá thể. Cá. Cải can Cán. tính Thay đổi, đổi khác: cải dạng, cải tạp, biến cải, hối cải Can: can đảm, tâm can 1.Phần chính hoặc phần quan trọng của sự vật: cán bộ, cốt cán 2. có năng lực: tài cán. canh. 3. làm: cán sự, công cán, mẫn cán 1.cày: canh tác, canh nông. Cảnh. 2. trông trọt: độc canh, đa canh, luân canh 1.canh phòng: cảnh giới, cảnh sát, cảnh vệ 2. làm cho người ta chú ý trước ( trong tình huống nghiêm. cáo. trọng): cảnh báo, cảnh cáo, cảnh giác, cảm tính 1.Cho biết: cáo phó( phó: tin người chết), báo cáo, quảng cáo, thông báo. căn. 2. tố, kiện, buộc tội: cáo giác, cáo trạng, vu cáo 1.Rễ: căn bản 2. Bộ phận dưới ( gốc) của vật thể hoặc nơi liên kết giữa hai bộ phận: căn cơ, tồn căn, não căn. Cầm (1). 3. Nguồn gốc sự vật, sự việc: căn cứ, căn nguyên, di căn Đàn: cầm kì thi họa, phong cầm, dương cầm. Cầm (2). Chim: cầm thú, gia cầm.

<span class='text_page_counter'>(41)</span> Cầm (3) Cần. Bắt giữ: giam cầm, cầm thú 1.chăm chỉ, siêng năng: cần cù, cần kiệm. Cận Cầu. 2. phục vụ, giúp: cần vụ, cần vương Gần: cận đại, cận thị, thiển cận, tiếp cận 1.xin, đòi hỏi: cầu cứu, yêu cầu. Cấu. 2.mong muốn, theo đuổi: cầu nguyên, cầu toàn Làm ra, tạo thành bằng sự liên kết các bộ phận: cấu trúc,. chân Chấp. cấu tạo, cấu kết, cơ cấu, hư cấu Thật: chân chính, chân dung, chân tướng 1.cầm nắm: chấp bút, chấp chính 2. kiên trì, một mực: cố chấp, tranh chấp. Chi (1). 3. thực hiện: chấp hành (trong tiếng Hán vốn có nghĩa là “ chống đỡ”) 1.Ủng hô: chi viện 2. Điều khiển: chi phối 3. Tiêu, dùng vào một việc nào: chi phí, chi tiêu. Chi (2) Chỉ. Một phần, một bộ phận nhỏ: chi hội, chi bộ, chi nhánh 1.ngón tay: điểm chỉ 2. làm cho người ta nhìn thấy, nhận ra cái gì đó bằng cách hướng tay hoặc vật dụng làm hiệu về phía cái ấy: chỉ đường, chỉ hướng, kim đồng hồ chỉ năm giờ 3. làm cho thấy, cho biết ( điều cần biét): chỉ dẫn, chỉ giáo, chỉ thị 4. Nêu cho biết, biểu thị: đặc chỉ, phiếm chỉ. chí Chiến Chỉnh. 5. ( Người) có vai vé. Được trọng vọng: thủ chỉ, tiên chỉ Nhất, rất, hết sức: chí lí, chí tình Đánh nhau: chiến đấu, chiến tranh 1.Hành trình xa: trường chinh 2. Đánh nhau: chinh phạt, chinh phục, viễn chinh, xất. Chỉnh. chinh 1.Trọn vẹn, đầy đủ: chỉnh thể, hoàn chỉnh 2. Ngay ngắn, có trật tự: chỉnh tề, tề chỉnh 3. Sửa lại cho ngay ngắn, cho đúng: chỉnh đốn ( đốn ở đây.

<span class='text_page_counter'>(42)</span> chính. có nghĩa là “ sắp xếp”): chấn chỉnh, tu chỉnh 1.Ngay thẳng, chuẩn mực: chính xác, bất chính 2. đúng thời điểm đó: chính ngọ 3. ( mặt) phải: chính diện 4. Quan trọng hơn cả, thuộc cái cơ bản, trái với phụ: chính khóa, chính phẩm, chính yếu 5. ngay thẳng, đúng đắn về đạo lý, đạo đức ( trái với tà): chính đáng, chính nghĩa, chính trực, chân chính. chu. 6. Biểu thị ý nhấn mạnh, đích xác như vậy: chính thể 1.Vòng tròn: chu chuyển, chu vi, chu du 2. sự lặp đi lặp lại có tính thường xuyên: chu kì, chu trình 3. trọn đủ: chu niên 4. Đầy đủ, cẩn thận, không sơ suất: chu đáo, chu tất, chu. chung. toàn 1.Kết thúc, cuối cùng: chung kết, chung thẩm, chung cuộc, chung cục, cáo chung, lâm chung. chúng. 2. Suốt cả thời gian: chung thân, chung sinh 1.Nhiều, đông, trái với quả ( đơn độc, ít): hợp chúng quốc ( chú ý: nhiều người nói hợp chủng là sai) 2. Số đông người: công chúng, dân chúng, đại chúng, xuất chúng 3. (v) Đại từ số nhiều ngôi thứ ba: bọn tay sai và quan thầy của chúng. chư Chứng cô Cổ (1). 4. (v) chỉ số nhiều: chúng tôi, chúng nó Chỉ số lượng nhiều, xác định: chư hầu, chư huynh, chư vị Bằng chứng: chứng cứ, dẫn chứng Lẻ loi: cô độc, cô đơn Xưa, thời xưa: cổ đại, cổ sơ, hoài cổ. Cổ (2). (trong tiếng Hán vốn có ý nghĩa là “ cái trống”) 1.Kích thích, làm phấn chấn: cổ động, cổ vũ. Cố (1). 2. nhô lên: cổ trướng 1.Sự việc xảy ra ( xấu, ngoài ý muốn): biến cố, sự cố.

<span class='text_page_counter'>(43)</span> 2. có chủ tâm: cố tâm, cố ý, cố tình 3. Vốn có từ trước, cũ: cố đô, cố hương, điển cố 4. Đã qua đời: cố bộ trưởng, quá cố Cố (2). 1.Bền chắc: cố định, cố kết, kiên cố 2. kiên định: cố chấp, cố thủ. Công(1). 3. vốn, nguyên là: cố hữu, cố nhiên 1.Tước thứ nhất trong bậc thang chức tước thời phong kiến: công chúa, công tử, công tước, quận công 2. Thuộc về nhà nước hoặc tập thể: công an, công lập, công khố, công lệnh 3. Thuộc về chung, cùng được thừa nhận: công lí, công nhận, công cộng, công pháp 4. Không bí mật, cho nhiều người cùng biết: công bố, công khai. Công (2). 5. Không thiên vị: công bằng, công tâm, bất công 1.Thợ: công đoàn, công nhân, công nông 2. Lao động, làm việc: công cụ, công nhật, khởi công, phân công 3. Sức lao động bỏ ra để làm việc: công sức, nhân công 4. Đơn vị tính sức lao động (bằng một ngày làm việc): làm việc này mất hai lòng 5. (v) khoản tiền hoặc của cải vật chất trả cho công lao. Công (3). động làm thuê: làm không công Đánh, tiến đánh, trái với thủ ( giữ): công kích, công phá,. Cơ (1) Cơ (2) Cơ (3). phản công, tiến công Đói: cơ cực, cơ hàn, cơ khổ Nền móng: cơ bản, cơ sở 1.Máy; tổ chức có hệ thống: cơ giới, động cơ, cơ thể. Cụ. 2. Dịp may mắn: cơ hội, thất cơ lỡ vận 1.Đồ dùng: công cụ, nhạc cụ, nông cụ, học cụ 2. có đầy đủ: củ thể.

<span class='text_page_counter'>(44)</span> Cung Nơi ở của vua chúa: hoàng cung, cung điện, cung đình, cung nữ Cuồng 1.Điên, ngông: cuồng loạn, điên cuồng 2. Mãnh liệt, dữ dội: cuồng nhiệt, cuồng phong Cư ở: cư trú, cư xử cứ 1.Chiếm: cứ điểm, cát cứ, chiếm cứ 2. Dựa vào để hành động: cứ liệu, bằng cứ, chứng cứ Cực 1.Đầu, đầu cùng, đầu mút: cùng cực, cực đoan, bắc cực, tích cực 2. Đến mức tột cùng: cực lực, cực đại, cực tả 3. (v) phải chịu nhiều điều vất vả, khổ tâm đến mức khó chịu đựng nổi: cực nhọc, cực khổ, tủi cực Cương (1) Bờ cõi: cương vực, biên cương Cương (2) (Trong tiếng Hán vốn có nghĩa là “ cái dây lớn của lưới”) Cái chính, cái chủ yếu: cương lĩnh, đại cương, đề cương, luận cương Cương (3) Cứng, rắn: cương quyết, cương trực Cường Mạnh: cường quốc, hùng cường Cừu Mối thù: cừu địch, hận cừu, oán cừu Cửu (1) Chín: cửu chương, cửu phẩm Cửu (2).

<span class='text_page_counter'>(45)</span> Lâu: trường cửu, vĩnh cửu Cựu Cũ: cựu chiến binh, thủ cựu Dã 1.Đồng nội, nơi cách dân tương đối xa: dã ngoại, điền dã, việt dã (việt ở đây nghĩa là “ vượt”), hoang dã, dã thú 2. Tàn bạo, không kể gì đến đạo lí: dã man, dã tâm Dạ Đêm: dạ hội, dạ hương Danh 1.Tên: danh bạ, bút danh, địa danh 2. tiếng tăm, nổi tiếng: doanh nhân, danh tướng Di (1) 1.Người chết để lại: di cảo, di chỉ, di chúc, di sản 2. ( tinh dịch ) tự chảy ra mà không tự chủ được: di tinh 3. Để lại về sau: di họa, di hoạn Di (2) bảo dưỡng: di dưỡng dĩ dùng, lấy: dĩ hòa vi quý, khả dĩ, sở dĩ dị khác, không bình thường: dị bản, kì dị dịch 1.Công việc lớn lao, nặng nhọc: chiến dịch, khổ dịch, phục dịch 2. người chuyên để sai bảo trong xã hội cũ: sai dịch, nha dịch 3. Sử dụng sức lao động dưới hình thức cưỡng bức, bóc lột: nô dịch, phục dịch Diện Mặt, bề mặt: diện mạo, trình diện.

<span class='text_page_counter'>(46)</span> Diệp Lá: diệp lục, khuynh diệp Doanh Làm, quản lí: doanh nghiệp, doanh lợi, kinh doanh, quốc doanh Du (trong tiếng Hán vốn có nghĩa là “ bơi”) 1.Di chuyển thường xuyên, không cố định: du canh, du cư, du kích, du mục 2. Đi xa, đi nhiều nơi, đi chơi: du hành, du học, du lịch, du ngoạn 3. Đi lại, chơi bời với nhau: giao du, du hí 4. Một khúc sông: thượng du, trung du, hạ du Dục (1) 1.Sinh đẻ: dinh dục, sản dục 2. Nuôi: dưỡng dục 3. dạy: đức dục, trí dục, thể dục, mĩ dục Dục (2) Ham muốn: dục vọng, nhục dục, tình dục Dung (1) 1.Chứa: dung lượng, dung nạp, nội dung 2. Rộng lượng trong cách cư xử: bao dung, khoan dung 3. Cho phép: dung dưỡng, dung sai 4. tha thứ: dung thứ, dung tha 5. Dáng vẻ bên ngoài: dung mạo, dung nhan, chân dung Dung (2) Làm nóng chảy: dung nham Dung (3) Hòa tan: dung dịch, dung môi Dung (4) Điều hòa: dung hòa, dung hợp Dung (5).

<span class='text_page_counter'>(47)</span> Tầm thường: dung tục Dũng Không sợ nguy hiểm, khó khăn: dũng cảm, anh dũng Dụng Dùng: dụng cụ, công dung Dự Chuẩn bị trước: từ trước: dự án, dự báo, dự định, dự đoán Dương Biển lớn: hải dương, tuần dương hạm Đa Nhiều: đa dạng, đa số Đả 1.Đánh: đả đảo, đả phá, ẩu đả 2. động chạm: đả động 3. (v) ăn uống, ngủ: đả một bữa, đả một giấc Đàm Nói chuyện, thảo luận, bàn luận: đàm luận, đàm phán, hội đàm, mạn đàm Đảm (1) Cái mật: cũng chỉ tính cách mạnh dạn: can đảm, đảm lược Đảm (2) 1.Gánh vác, nhận lấy mà làm: đảm đang, đảm nhận, đảm bảo 2. (v) giỏi gánh vác việc gia đình: người vợ đảm Đán Ngày ( nào đó): nguyên đán Đãng 1.Rộng lớn: khoáng đãng, quang đãng 2. Phóng túng, không tự kiềm chế được, không nghiêm túc: đãng trí, dâm đãng, phiêu đãng Đại (1).

<span class='text_page_counter'>(48)</span> To, lớn: đại bác, đại thắng Đại. (2). 1.Đời, phân kì lịch sử: thời đại, tứ đại đồng đường 2. Thay: đại diện, đại lí Đào Trốn: đào binh, đào ngũ Đạo (1) 1.Đường: địa đạo, xích đạo, niệu đạo ( niệu: nước đái) 2. Đường lối, nguyên tắc mà con người có bổn phận giữ và tuân theo: đạo đức, đạo lí, nhân đạo 3. Nội dung học thuật của môt học thuyết được tôn sùng ngày xưa: đắc đạo, tử vi đạo 4. nói: đàm đạo Đạo (2) Dẫn: đạo diễn, chỉ đạo, lãnh đạo Đạo (3) Ăn trộm, kẻ trộm: đạo tặc, cường đạo Đạo (4) Lúa: đạo ôn Đạo (5) Bước chân, nhảy: vũ đạo Đắc 1.Được, trái với thất ( mất ): đắc thắng, đắc thời, độc đắc, sở đắc 2. Thỏa mãn, bằng lòng: đắc ý, tự đắc Đặc Khác với bình thường: đặc biệt, đặc điểm, đặc nhiệm, đặc quyền, đặc phái Đăng Đèn: hải đăng, hoa đăng Đẳng.

<span class='text_page_counter'>(49)</span> 1.Thứ bậc, cấp: đẳng cấp, cao đẳng, siêu đẳng 2. tương đương, ngang bằng nhau: đẳng lập, đẳng thức bình đẳng, tương đẳng Đê (trong tiếng Hán vốn có nghĩa là “ thấp ”) Thấp kém về mặt tư cách, phẩm chất: đê hèn, đê tiện, đê mạt Đệ Em trai, người đàn ông ít tuổi hơn, học trò: đệ tử, huynh để Địa Đất: địa chất, địa thể Điền (1) Ruộng: điền chủ, điền trang, công điền, đồn điện Điền (2) 1.Người lĩnh canh: tả điền 2. làm ruộng: điền hộ, điền phu Điều 1.Đưa đến nơi cần: điều quân, điều động, điều kiện 2. phối hợp ( hoặc làm cho) vừa mức: điều độ, điều tiết, điều hòa, điều dưỡng 3. Khuyên các bên: điều đinh, điều giải Điệu Thương xót: truy điệu ( truy: tưởng nhớ) Đình (1) 1.Sân: gia đình, long đình 2. Nơi tòa án làm việc: pháp đình Đình (2) Nơi làm việc của vua chúa phong kiến: đình thần, cung đình, triều đình Đình (3) Ngừng, dừng lại: đình chiến, đình chỉ.

<span class='text_page_counter'>(50)</span> Đình (4) Sấm to: lôi đình Đoản (1) 1.Ngắn (trái với trường: dài): đoản kiếm, đoản mệnh 2. Non kém: sở đoản Đoản (2) 1.Đứt, làm cho đứt hoặc lìa ra: đoạn trường (trường: ruột), đoạn tuyệt, đoạn tình 2. Xong hẳn: đoạn tạng 3. (v) chỉ hành động, trạng thái vừa kết thúc: nói đoạn đi ngay Độc (1) Đọc: độc bản, độc giả Độc (2) Một, chỉ có một: độc nhất, cô độc Đối 1.Nói chuyện qua lại với nhau: đối đáp, đối thoại 2. ngược nhau, chống chọi nhau: đối chọi, đối diện, đối lập 3. Ứng xử, hướng tới: đối ngoại, đối xử 4. so sánh: đối chiếu, đối chứng, tuyệt đối 5. tương xứng: đối xứng, đổi số, cân đối Đồng Cùng nhau, giống nhau: đồng bào, đồng dạng, đồng phục Đương 1Tương xứng: tương đương 2. Hiện đang ( ở nơi đó, lúc đó): đương kim, đương đại, đương thời 3.Nhận làm ( công việc lớn, nặng nề): đương cục, đương sự, đảm đương 4. (V) chống chọi: đủ sức dương dịch 5. Nên: đương nhiên Đường.

<span class='text_page_counter'>(51)</span> 1.Nhà: học đường, lễ đường 2. Một cách chính đáng, tự tin: đường hoàng, đường bệ, đường đường chính chính Gia 1.Nhà: gia chủ, gia súc, gia sản 2. Người ( gắn với nghề nghiệp, sự nghiệp): thương gia, sử gia, triết gia Giả Người dịch giả, tác giả Giá (1) Lấy chồng: cải giá, tát giá, xuất giá, giá thú ( thú: lấy vợ) Giá (2) Xe để vua đi: ngự giá, nghênh giá, xa giá Giác Cảm nhận: giác quan, cảm giác Giảm (1): Theo dõi để kiểm tra, đôn đốc: giám đốc, giám sát, chứng giám Giám (2) Tên, nơi làm việc của các quan ngày xưa: quốc tử giám, giám sinh Giám (3) Hoạn quan” nội giám, thái giám Gian (1) 1.giữa, khoảng giữa: trung gian 2. trong một phạm vi nhất định: dương gian, dân gian, không gian, thời gian Gian (2) 1.Dối trá, lừa lọc: gian dối, gian hiểm, gian tham, gian thương 2. Kẻ dối trá, lọc lừa: giết giặc trừ gian 3. Dâm, có quan hệ xác thịt trái đạo đức: gian dâm, gian phu Giang Sông: giang hồ, giang san.

<span class='text_page_counter'>(52)</span> Giao 1.Trao sang người khác, nơi khác: giao hàng, bàn giao 2. gặp nhau hoặc cắt nhau ở một điểm” giao điểm, tương giao 3. có quan hệ qua lại: giao chiến, giao thiệp, giao lưu, giao tiếp, ngoại giao, giao ước Giáo 1.Dạy, chỉ bảo: giáo dục, giáo viên, thụ giáo, gia giáo 2. Đạo, tôn giáo: giáo chủ, giáo dân, Nho giáo, Phật giáo 3. (v) Thiên chúa giáo nói tắt, trái với lương: không phân biệt bên lương bên giáo Hà Sông: sơn hà, thiên hà Hạ (1) Rỗi rãi: nhàn hạ Hạ (2) 1.Dưới, ở phía dưới, trái với thượng ( trên, ở trên): hạ tầng, thiên hạ, hạ du, bệ hạ 2. sau: hạ hồi, hạ tuần 3. Chuyển vị trí từ cao xuống thấp: hạ thủy, sinh hạ 4. đánh chiếm: hạ đồn, hạ thành 5. đánh thắng: hạ dối phương 6. Đưa ra ( cái cần thực hiện): hạ lệnh Hải Biển: hải cảng, hải cẩu, hải đảo Hãn Ít, hiếm: hãn hữu Hành 1.Đi: hành khách, hành khuất ( khuất: ăn xin) 2. truyền, lưu thông” lưu hành, phát hành, thịnh hành, thông hành.

<span class='text_page_counter'>(53)</span> 3. làm: hành động, hành vi, thực hành Hạnh May mắn: hạnh phúc, bất hạnh Hào 1.Tài giỏi hơn người: hào kiệt, anh hào, thi hào, tự hào 2. Rộng rãi trong đối xử: hào hoa, hào phóng 3. Có thể lực đặc biệt, ngang ngược: cường hào, phú hào Hắc 1.Đen: hắc ín, hắc nô 2. rủi ro: hắc vận Hằng Luôn, liên tục, không đổi: hằng tâm, hằng tinh, hằng số, vĩnh hằng Hậu (1) Sau, trái với tiền ( trước ): hậu thế, ;lạc hậu Hậu (2) (trong tiếng Hán vốn có nghĩa là “ dày”) Có tình cảm tốt trong cư xử: hậu đãi, hiền hậu. nồng hậu, phúc hậu Hậu (3) 1.Thời tiết: khí hậu 2. chờ đợi: hậu bổ Hậu (4) Vợ vua: hoàng hậu, thái hậu Hi (1) Trông mong: hi vọng Hi (2) Ít, hiếm: hi hữu, cổ lai hi Hi (3): loại vật lông tuyền một màu dùng để cúng tế: hi sinh ( sinh: loài vật người xưa dùng để cúng tế).

<span class='text_page_counter'>(54)</span> hiếu (1) 1.lòng kính yêu, biết ơn cha mẹ: hiếu thảo, có hiếu 2. Lễ tang cha mẹ, cũng chỉ lễ tang nói chung: việc hiếu, hiếu chủ Hiếu (2) Ham thích: hiếu danh, hiếu học, thị hiếu ( thị : thích) Hình (1) Quy định của pháp luật về việc trừng phạt kẻ có tội, hình phạt, tử hình Hình (2) Khuôn mẫu: điển hình, loại hình, mô hình Hoa Đẹp: hoa lệ, hoa mĩ, anh hoa, tinh hoa Hòa Đều, vừa phải, không có xung đột: hòa bình, hòa nhã, thuận hòa Hoài 1.Nhớ, nhớ về: hoài cổ, hoài tưởng, đoái hoài 2. Mang trong bụng: hoài thai, hoài nghi, hoài bão (bão: bế) Hoan Mừng, vui: hoan hỉ, hoan hô, liên hoan Hoàn (1) 1.Vật có hình tròn: dịch hoàn, tinh hoàn, hoàn tán 2. (v) vê thuốc đông y thành viên hình tròn: hoàn thuốc theo đơn Hoàn (2) 1.Vong, cái vòng: kim hoàn, hoàn cảnh 2. chuyển động vòng quanh: tuần hoàn, hoàn lưu Hoàn (3) 1.Trở về trạng thái cũ: hoàn hồn, hoàn tục 2. Trả lại: hoàn lại, quy hoàn 3. quay trở về: khải hoàn Hoàn (4).

<span class='text_page_counter'>(55)</span> 1.Đầy đủ, trọn vẹn: hoàn chỉnh, hoàn thiện, hoàn toàn 2. xong, hết: hoàn tất, hoàn thành Hoàn (5) Vùng rộng lớn: hoàn cầu Hoàng (1) Vua: hoàng cung, hoàng hậu, hoàng tử, nữ hoàng Hoàng (2) Vàng: hoàng cúc, hoàng hôn, hoàng oanh Hoạt (1) 1.Sống, trái với tử ( chết): hoạt lực, sinh hoạt 2. Nhanh, nhạy: hoạt động, linh hoạt Hoặt (2) Gian tà: giảo hoạt Hô 1.Thở ra, trái với hấp ( hít vào): hô hấp 2. Gọi to: hô hào, hoan hô Hôn Lấy vợ, lấy chồng: hôn lễ, kết hôn Hồng 1.Đỏ: hồng cầu, hồng thập tự 2. (v) màu đỏ nhạt: đỏ hồng, má ửng hồng Hung Mạnh: hung cường, hùng vĩ Huyết Máu: huyết áp, bổ huyết Huynh Anh, bậc đàn anh: huynh đệ, huynh trưởng, đại huynh, tôn huynh Hư ( trong tiếng Hán vốn có nghĩa là “ trống rỗng”).

<span class='text_page_counter'>(56)</span> 1.giả, trái nghĩa với thực: hư danh, hư truyền, hư vô 2. suy kém, suy nhược: hư đốn, huyết hư Hương Làng, quê: cố hương, đồng hương Hữu (1) Bên phải: hữu ngạn (ngạn: bờ) Hữu (2) Có: hữu hạn, hữu ý, hữu ích Hữu (3) Bạn, thân thiết: chiến hữu, hữu bảo, hữu ái Khả Đáng, có thể: khả ái, khải thi Khai 1.Mở, làm cho thông, làm cho lộ ra, hiện ra: khai mạc ( mạc: màn), khai phá, khai quật, khai trừ 2. bắt đầu: khai bút, khai chiến, khai giảng, sơ khai 3. nói hoặc viết ra cho rõ về mình hoặc người, việc có liên quan theo yêu cầu của tổ chức, cơ quan: khai lí lịch, khai báo, khai sinh, kê khai 4. tách khỏi: li khai Khảo Điều tra, tìm tòi, nghiên cứu; đánh giá hơn kém: chung khảo, khảo cổ, khảo cứu Khẩu 1.Mồm, miệng: khẩu cung, khẩu trang, cấm khẩu, khẩu vị 2. Chỉ đơn vị riêng lẻ: khẩu pháo, khẩu sung 3. nơi ra vào, qua lại: cửa khẩu, nhập khẩu 4. Nhân khẩu nói tắt: nhà có ba nhân khẩu Khí 1.Chất khi: không khí, thán khí, khí áp.

<span class='text_page_counter'>(57)</span> 2. Hơi thở: khí công, khí quản, huyết khí 3. Hiện tượng về thời tiết: khí hậu, khí tượng 4. Trạng thái tinh thần của con người: khí khái, khí thế, khí phách, sinh khí Khinh 1.Nhẹ, trái với trọng ( nặng): khinh khí, khinh binh 2. Xem thường: khinh miệt, khinh rẻ, khinh thường Khoan Rộng, không khắt khe: khoan ái, khoan hồng ( hồng: to lớn), khoan dung Không Bầu trời: không chiến, không phận Khởi Dấy lên, bắt đầu một công việc: khởi binh, khởi xướng, đồng khởi, khởi hành Khuynh 1.Nghiêng: khuynh đảo, khuynh điệp 2. nghiêng về, có xu hướng ngả về: khuyn hướng, hữu khuynh, tả khuynh Khứ Đi: khứ hồi, quá khứ Kì Lạ: kì ảo, kì diệu, kì tài Kí Nhớ, ghi: kí hiệu, nhật kí Kiên Bền, vững: kiên cố, kiên quyết Kiến (1) Dựng, lập nên: kiến lập, kiến trúc, kiến thiết Kiến (2) 1.Nhìn thấy, thấy, xem: kiến tập, biểu kiến, chứng kiến 2. gặp: tiếp kiến, yết kiến (yết: ra mắt) 3. sự lí giải: kiến thức, cao kiến, sang kiến, ý kiến.

<span class='text_page_counter'>(58)</span> Kim (1) 1.Vàng: kim ngân, kim tinh, kim tuyến 2. Hợp kim nói chung: kim loại, kim khí 3. Tiền: kim ngạch, kim tiền Kim (2) Hiên nay, thời nay, trái nghĩa với cổ: đương kim, cổ kim Lạc (1) Vui: lạc quan, lạc thú, hoan lạc Lạc (2) 1.Nhánh ngang nối liền các đường dọc để tạo thành một mạng lưới: kinh lạc, mạch lạc 2. Quấn: liên lạc Lạc (3) 1.Rơi, rớt lại: lạc hậu, thất lạc 2. Cắm (ở một vị trí nào đó): tọa lạc 3. Nơi tập trung: bộ lạc Lai: Đến: lai vãng, tương lai Lãm Xem: du lãm, lịch lãm, triển lãm Lãnh (có biến thể ngữ âm là lĩnh, xem nghĩa ở lĩnh): lãnh thủ, lãnh địa, lãnh thổ, lãnh đạo, lãnh tụ Lão Già: lão hóa, lão tướng Lâm (1) Rừng: lâm nghiệp, sơn lâm, tiếu lâm Lâm (2) 1.Đến, tới, sa vào: lâm bệnh, lâm nạn, lâm nguy, lâm trận.

<span class='text_page_counter'>(59)</span> 2. Gần, sắp: lâm chung, lâm sang 3. ( v) ở vào tình thế gay go: lâm vào thế động Lập 1.Đứng thẳng: lập thể, lập trườn 2. tạo ra, xây dựng nên: lập công, lập luật, công lập, sang lập 3. Bắt đầu xuất hiện: lập xuân, lập động, lập thu 4. tức khắc, ngay: lập tức Lệ (1) Nước mắt: rơi lệ Lệ (2) Đẹp: diễm lệ, hoa lệ, mĩ lệ, tráng lệ Lệ (3) 1.Viên chức nhỏ hầu hạ quan lại thời phong kiến: nha lệ 2. Phụ thuộc: nô lệ Lệ (4) Gắng, cố gắng: khích lệ Li Rời, tách ra: li biệt, thoát li Lịch Trải qua, kinh qua: lịch lãm, lịch sự, lai lịch, lịch sử, bệnh lịch Liệt (1) (trong tiếng Hán vốn có nghĩa là “hàng lối”) 1.Sắp , bày ra: liệt kê, la liệt 2. các: liệt quốc, liệt truyện Liệt (2) 1.Mạnh mẽ: khốc liệt, nhiệt liệt 2. Cương trực, có khí phách: liệt nữ, liệt sĩ, oanh liệt, tiền liệt, trung liệt Liệt (3) Nứt ra: phân liệt.

<span class='text_page_counter'>(60)</span> Lĩnh (có biến thể ngữ âm là lãnh, trong tiếng Hán vốn có nghĩa là “ cổ, cổ áo”) 1.Phần quan trọng: cương lĩnh, yếu lĩnh 2. Dẫn dắt, dẫn đầu: lĩnh xướng, thủ lĩnh, tướng lĩnh Long Rồng: long nhãn, long sang Lục Sáu: lục bát, lục giác, lục phủ ngũ tạng Lực Sức, sức mạnh: lực lượng, áp lực, tâm lực Lương 1.Tốt, lành: lương tâm, lương thiện, lương trí, hoàn lương 2. (v) Người không theo đạo thiên chúa: lương giáo Lưỡng Hai, đôi: lưỡng cực, lưỡng lợi, lưỡng phân Lưu (1) 1.Dừng lại, ở lại một nơi nào đó: lưu ban, lưu tâm 2. giữ lại, để về sau: lưu danh, lưu niệm, lưu niên, lưu trữ Lưu (2) 1.(Nước) chảy: lưu vực, lưu tốc, hải lưu, hợp lưu 2. Trôi chảy, chỉ hoạt động không bị ách tắc: lưu động, lưu loát, lưu truyền Mã Ngựa: mã lực, chiến mã Mãi Mua, trái với mại (bán): mãi lộ, khuyến mãi Mại Bán: mại dâm, mại bản, thương mại Mã Mạnh, dữ: mãnh liệt, dũng mãnh.

<span class='text_page_counter'>(61)</span> Mạt 1.Cuối: mạt lộ, mạt kì 2. Ở giai đoạn suy tàn: mạt kiếp, mạt vận, tàn mạt 3. (v) kém cỏi: rẻ mạt Mật (1) Mật ( ngọt): đường mật Mật (2) 1.Dày, mau: cẩn mật, nghiêm ngặt, trù mật (trù: đặc) 2. Có quan hệ tình cảm tốt, gần gũi: than mật, mật thiết ( thiêt: gắn bó) Mẫu: Mẹ: mẫu giáo, từ mẫu Mĩ: 1.Đẹp: mĩ lệ, mĩ nữ, thẩm mĩ, tuyệt mĩ 2. Tốt, hoàn thiện: mĩ tục, mĩ vị Minh (1) 1.Sáng, trái với ám (tối): bình minh, hiển minh, thông minh 2. Rõ rang: minh bạch, minh họa, xác minh, Minh (2) 1.Thề: thệ hải minh sơn 2. Liên kết: minh chủ, đồng minh, liên minh Minh (3) Mờ tối: u u minh minh Minh (4) Kêu, bày tỏ: minh oan, cộng minh Mộc Cây than gỗ: mộc nhĩ, thảo mộc Mục 1.Mắt: mục đích, mục kích, chú mục 2. Từng phần trên sách báo, bản tin: đề mục, thư mục.

<span class='text_page_counter'>(62)</span> Năng 1.Phẩm chất có thể làm được việc gì đó: năng lực, khả năng, kĩ năng, tài năng, năng động 2. Năng lượng ( trong vật lí): điện năng, nhiệt năng Nghi (1) Ngờ: nghi vấn, hoài nghi, khả nghi Nghi (2) Thích hợp: thích nghi, tiện nghi, tùy nghi Nghi (3) 1.Dáng vẻ bên ngoài của con người: uy nghi 2. Thể thức buổi lễ: nghi lễ, nghi thức Nghị Bàn bạc, ý kiến phát biểu: nghị luậ, đề nghị, hội nghị Nghiệt Mầm của cái ác, ác độc: ác nghiệt, oan nghiệt Ngoại Ngoài, bên ngoài: ngoại giao, ngoại quốc, đối ngoại Ngộ (1) 1.Gặp: ngộ độc, cảnh ngộ, ngộ hiểm 2. Đối đãi: đãi ngộ Ngộ (2) Nhầm: ngộ nhận, ngộ sát Ngộ (3) Tỉnh, hiểu ra: giác ngộ, tỉnh ngộ Ngôn Lời nói, nói: ngôn ngữ, danh ngôn Ngũ Năm: ngũ liên, ngũ quả, ngủ quan Ngụy.

<span class='text_page_counter'>(63)</span> Gỉa, không thật, không chân chính: ngụy biện, ngụy thuyết, ngụy quyền, ngụy trang Nguyên (1) 1.Vùng đất rộng, bằng và trải dài: bình nguyên, cao nguyên, thảo nguyên 2. cái gốc, lúc ban đầu: nguyên chất, nguyên dạng, nguyên thủy Nguyên (2) 1.Đầu, đứng đầu, người đứng đầu, bắt đầu, chính: nguyên thủ, nguyên đán, trạng nguyên 2. chỉnh thể: đơn nguyên Nguyên (3) Nguồn: căn nguyên, tài nguyên, truy nguyên Nguyệt 1.Trăng: nguyệt thực, vọng nguyệt 2. tháng: nguyệt phí, nguyệt san Ngư (1) Cá: bào ngư Ngư (2) Đánh cá: ngư dân, ngư nghiệp Ngự (1) 1.Thuộc về vua: ngự bào, ngự giá, ngự sử 2. Thống trị: ngự trị 3. Ngồi bệ vệ: phật sự tòa sen Ngự (2) Ngăn ngừa, chống: ngự hàn, chế ngự, phòng ngự Nhân (1) Người: nhân loại, ân nhân, bệnh nhân Nhân (2) Long yêu thương con người: nhân đức, nhân hậu Nhân (3).

<span class='text_page_counter'>(64)</span> Lí do: nhân quả, nguyên nhân, tác nhân Nhập Vào, đưa vào: nhập khẩu, nhập ngũ, gia nhập Nhất 1.Một: nhất thời, hợp nhất 2. ở vị trí trên hết: nhất hạng, nhất nhì Nhật 1.Mặt trời: nhật thực 2. Ban ngày: bạch nhật 3. Ngày: nhật kí, cách nhật, sinh nhật Nhị (1) Hai: nhị tâm, độc nhất vô nhị Nhị (2) Tinh tế: thuần nhị, tế nhị, ý nhị Nhiên (1) Như vậy, như thế: hiển nhiên, quả nhiên, thiên nhiên Nhiên (2) Đốt: nhiên liệu Nhiếp 1.Hút lấy, bắt lấy: nhiếp ảnh 2. thay thế: nhiếp chính, nhiếp vị Nhiệt 1.Nóng: nhiệt đới, nhiệt độ 2. ở mức độ cao, mạnh mẽ: nhiệt ứng, nhiệt tình, cuồng nhiệt Nhu (1) Mềm, mềm mỏng, trái với cương ( cứng cáp, rắn): nhu nhược, nhu mì, nhu đạo Nhu (2) Cần phải có: nhu cầu, nhu yếu phẩm.

<span class='text_page_counter'>(65)</span> Nhuận 1.Làm cho không bị khô, bị táo: nhuận tràng, nhuận bút ( nghĩa bóng) 2. Tô điểm them: nhuận sắc Nhục Thịt: nhục dục, cốt nhục Niêm 1.dẻo, dính, nhầy; niêm dịch, niêm mạc 2. Dán lại: niêm phong, niêm yết 3. Quy tắc về luật bằng trắc trong thơ phú cũ theo ĐườNG luật: niêm Luật, thất niêm Niên 1.Năm: niên khóa, lưu niên, thâm niên 2. tuổi: niên thiếu, thanh niên, thiếu niên Noãn Trứng: noãn cầu, phóng noãn Nô Tôi tớ, đầy tớ: nô bộc, nô lệ Nội Trong: nội dung, nội tâm Oanh (Đánh bom, bắn phá) vang dội: oanh kích, oanh tạc, oanh liệt ( trong tiếng Hán oanh oanh liệt liệt có nghĩa là rầm rộ, trong tiếng Việt oanh liệt có nghĩa là “ tiếng tăm lừng lẫy vang dội khắp nơi”) Ô 1.Qụa: ô hợp (không có tổ chức, kỉ luật, như đàn quạ) 2. đen: ngựa ô, ô mai Phác 1.Mộc mạc: chất phác, chuẩn phác 2. (v) vạch ra nét chính: phác họa, phác thảo.

<span class='text_page_counter'>(66)</span> Phạn 1.Mộc mạc: chất phác, thuần phác 2. (v) vạch ra nét chính: phác họa, phác thảo Phạn Cơm: phạn điếm Pháp: 1.Phép tắc, luật lệ do nhà nước quy định: pháp chế, pháp lệnh, pháp lí, luật pháp, tư pháp ( tư: chủ trì, thực hiện) 2. Cách thức (làm một việc gì đó): biện pháp, bút pháp, liệu pháp 3. Đạo phật: pháp danh, pháp đài, pháp sư 4. Phép mầu của nhà phật: pháp bảo Phẩm 1.Đồ vật: dược phẩm, nông phẩm, thực phẩm 2. Đẳng cấp, chủng loại: phẩm hàm, phẩm loại 3. tính chất: phẩm chất, phẩm giá, nhân phẩm Phế Phổi: phế quản, bổ phế Phi (1) 1.Bay: phi công, phi đội 2. Có tốc độ nhanh như bay: phi báo 3. (v) (ngựa) chạy nhanh: ngựa phi 4. (v) phóng: phi dao Phi (2) Vợ lẽ của vua hay vợ của các bậc vương công thời phong kiến: cung phi, thứ phi, vương phi Phi (3) 1.không phải là: phi nghĩa, phi thường, phi vô sản 2. điều sai, điều không tốt: thị phi ( thị: điều tốt, điều phải) Phi (4).

<span class='text_page_counter'>(67)</span> 1.Mở ra: phi lộ 2. treo, đeo: hoành phi Phiếm 1.có tính chất chung chung, nói chung: phiếm chỉ, phiếm luận 2. không thiết thực, không có mục đích: nói chuyện phiếm, phù phiếm Phong (1) 1.gió: phong ba, cuồng phong 2. không có căn cứ xác thực: phong thanh 3. cái biểu hiện bên ngoài, thái độ: phong cảnh, phong độ, oai phong, tác phong 4. lề thói: phong dao, phong tục 5. Một loại bệnh: bệnh phong, phong thấp Phong (2) 1.Ban, cấp, tặng: phong danh hiệu, phong tặng 2. bịt kín, làm cho kín: phong bế, phong bì 3. gói bọc: một phong bánh khảo Phong (3) Mũi nhọn: tiền phong, tiên phong, xung phong Phong (4) Ngọn lửa báo hiệu giặc đến: phong hỏa Phong (5) Đầy đủ: phong phú, phong thịnh Phổ (1) Rộng, khắp: phổ biến, phổ cập, phổ thông Phổ (2) 1.Bảng, sách biên chép có thứ tự, đồ hình: phổ hệ, quang phổ 2. them nhạc hoặc lời để thành bài hát: phổ nhạc, phổ thơ Phu 1.Người đàn ông ở tuổi trưởng thành: đại phu, lão phu, sĩ phu.

<span class='text_page_counter'>(68)</span> 2. người lao động làm việc nặng nhọc, dưới chế độ cũ: phu xe, tiểu phu ( tiều: củi) Phù (1) 1.Nổi, trái với trầm (chìm): phù vân 2. nổi trên bề mặt: phù điêu, phù sa 3. không thực chất: phù phiếm Phù (2) 1.Bùa: phù chú, phú phép 2. cái dung làm bằng, làm dấu hiệu: phù hiệu, hổ phù 3. Hợp, tương ứng: phù hợp Phù (3) ( trong tiếng Hán vốn có nghĩa là “ dùng tay để đỡ người hoặc vật cho khỏi đổ”) Phò: phù rể, phù trợ, tôn phù Phú Giàu: phú cường, phú quý Phụ (1) 1.Cha: phụ huynh, than phụ 2. người đàn ông được tôn trọng như hàng cha: phụ lão, nhạc phụ, sư phụ Phụ (2) 1.Đàn bà: phụ nữ, sản phụ, thiếu phụ 2. vợ: quả phụ, tiết phụ Phụ (3) 1.Đảm nhận: phụ trách 2. dựa vào, nhờ cậy: tự phụ 3. thua, trái với thắng: bất phân thắng phụ 4. làm trái ngược (với điều đã hứa với lương tâm): phụ long tin, phụ tình, phụ ước Phụ (4).

<span class='text_page_counter'>(69)</span> 1.Thêm vào: phụ cấp, phụ trương 2. gần: phụ cận 3. không phải là chính: phụ phẩm, phụ tùng 4. (v) góp, giúp them: phụ một tay Phụ (5) Giúp đỡ, giúp them vào: phụ âm, phụ trợ Phục Quần áo: phục sức, đồng phục, quân phục, trang phục Phương (1) Thơm; phương thảo Phương (2) 1.Phía, hướng, nơi, bên: phương diện, phương nam, tiền phương 2. cách thức: phương pháp, phương tiện 3. bài thuốc chữa bệnh: phương thuốc Phương (3) Trở ngại, có hại: phương hại Quan (1) 1.Viên chức có quyền hành trong bộ máy nhà nước: quan lại, quan cách, vua quan 2. người có chức vụ tương đối cao trong hệ thống nhà nước ( thường là về ngoại giao, quân sự): sĩ quan, quan khách, võ quan 3. Bộ phận trong cơ thể sinh vật có chức năng nhất định: cảm quan, giác quan Quan (2) 1.Xem, nhìn: quan sát, quan điểm, bang quan ( bang: bên cạnh), bi quan 2. cảnh tượng được nhìn thấy: cảnh quan, kì quan 3. cách xem xét, nhận thức đối với sự vật: nhân sinh quan, vũ trụ quan Quan (3) (trong tiêng Hán vốn có nghĩa là “ đóng”; trái với khai: mở).

<span class='text_page_counter'>(70)</span> 1.Cửa ải: quan phòng, quan ải, bế quan tỏa cảng 2. Nơi thu thuế xuất nhập khẩu: hải quan, quan thuế 3. nơi trọng yếu, mấu chốt: quan trọng, cơ quan 4. có quan hệ với nhau: quan hệ, quan tâm, liên quan Quan (4) Hòm đựng xác người chết: quan tài, nhập quan Quán (1) 1.Nhà cho khách ở: lữ quán 2. nơi thường trú của cơ quan ngoại giao: đại sứ quán, lãnh sự quán 3. nơi sinh hoạt văn hóa: thư quán 4. Nhà nhỏ để bán hang: quán nước, tửu quán Quán (2) 1.Xuyên suốt: quán triệt, quán xuyến, nhất quán 2. nơi (sinh, ở): sinh quán, trú quán Quán (3) Quen: quán ngữ, quán tính, tập quán Quán (4) (trong tiêng Hán vốn có nghĩa là “ đội mũ ”) Đứng đầu: quán quân Quang 1.Ánh sang: quang hoc, dạ quang 2. sang sủa: quang minh 3. vẻ vang: quang vinh, đăng quang Quảng Rộng: quảng đại, quảng cáo, quảng trường Quân(1) lực lượng vũ trang: quân đội, dân quân quân (2) 1.Vua: quân chủ, mình quân.

<span class='text_page_counter'>(71)</span> 2. Từ tôn xưng người đàn ông: quân tử, táo quân Quân (3) Đều, bằng nhau: quân bình, quân phân, bình quân Quốc Nước: quốc kì, cường quốc Sản 1.Đẻ: sản phụ, hộ sản, thai sản 2. làm ra của cải: sản xuất, sản vạt, sản phẩm, 3. vật được sản xuất ra, của cái: cộng sản, nông sản, thổ sản, tài sản Sát (1) Giết: sát hại, sát trùng, ám sát, tàn sát Sát (2) Xem xét: sát hạch, khảo sát, quan sát, trinh sát Sát (3) Tiêu trừ: mạt sát (mạt: xóa bỏ) Sỉ Xấu xa: sỉ nhục, liêm sỉ, quốc sỉ Sĩ 1.Người trí thức, học trò: sĩ phu, nữ sĩ, tiến sĩ 2. người (cách gọi tôn trọng): ca sĩ, họa sĩ, nhạc sĩ, lực sĩ 3. Quân nhân nói chung: sĩ khí, dũng sĩ, tướng sĩ Sinh 1.Đẻ ra, tạo ra, trở nên: sinh thành, sinh trưởng, sơ sinh, phát sinh 2. sống, trái với tử (chết): sinh hoạt, sinh động, sinh lực, nhân sinh, trường sinh 3. học trò: chiêu sinh, học sinh, tuyển sinh Sở (1) 1.Nơi chốn, cơ quan: sở chỉ huy, sở giáo dục 2. đứng trước một yếu tố biểu thị hành động để thay thế cho sự vật tiếp.

<span class='text_page_counter'>(72)</span> nhận hành động: sở thích ( cái được thích), sở cứ ( cái được dựa vào), sở nguyện ( cái được mong muốn), sở hữu (cái được có, trong tiếng việt sở hữu còn được dung như động từ) Đứng trước yếu tố biểu thị tính chất để danh hóa tính chất đó: sở đoản ( cáo yếu, chỗ yếu), sở trường (cái mạnh, chỗ mạnh) Sở (2) Hòn đá tảng để kê cột nhà: cơ sở Sở (3) Đau khổ: khổ sở Sơn Núi: sơn hà, sơn thủy Sư 1.Thầy dạy học: danh sư, giáo sư, quân sư 2. người ở cấp bậc cao về chuyên môn: kĩ sư, trạng sư 3. đơn vị phiên chế quân đội, trên trung đoàn: sư đoàn, sư trưởng Tả Bên trái: tả ngạn, tả xung hữu đột Tác Làm, tạo ra: tác giả, canh tác Tai Điều rủi ro lớn: tai biến, tai nạn Tài (1) Khả năng đặc biệt làm một việc nào đó: thiên tài, hãm tài (hãm: ít) Tài (2) Tiền, của nói chung: tài sản, tài vụ, gia tài Tài (3) (trong tiêng Hán vốn có nghĩa là “gỗ để làm vật liệu”) 1.Nguyên liệu hoặc tư liệu: tài liệu, đề tài 2. Hòm chon người chết: quan tài.

<span class='text_page_counter'>(73)</span> Tài (4) 1.Cắt: tài giảm 2. quyết định: tài phán, độc tài, trọng tài Tái Lại một lần nữa: tái diến, tái sinh Tam Ba: tam giác, quần tam vũ trụ Tang Giấu, ẩn kín, cất giữ: tang hình, tang trữ, tiềm tàng Tao (1) Gặp: tao ngộ chiến Tao (2) Rối loạn, không yen: tao loạn Tao (3) Thơ văn, văn chương: tao đàn, tao nhã, thanh tao Tao (4) (trong tiếng Hán vốn có nghĩa là bã rượu) Tình nghĩa vợ chồng gắn bó từ thuở hàn vi: tao khang ( khang: cám) Tâm 1.Tim: tâm thất, tâm thu 2. Lòng: an tâm, hảo tâm, lương tâm 3. điểm chính giữa: tâm vòng tròn, hướng tâm 4. bụng: điểm tâm Tân (1) Khách: lễ tân, tiếp tân Tân (2) Mới: tân binh, tân thời, tân dược, tối tân Tận Hết, kết thúc, toàn bộ: tận dụng, tận số, vô tận.

<span class='text_page_counter'>(74)</span> Tập (1) 1.Họp lại: triệu tập, tập trung, tập hợp 2. Cuốn sách gồm nhiều tác phẩm: thi tập, tuyển tập 3. (v) chồng nhỏ giấy tờ, sổ sách cùng loại: tập báo Tập (2) 1.Ôn lại cho thuộc hoặc làm cho quen: học tập, bài tập, ôn tập, luyện tập 2. Thói quen: tập quán, tập lục Tập (3) Tổ chức biên soạn và sửa chữa sách báo: biên tập Tập (4) 1.Đánh úp, tấn công bất ngờ: tập hậu, tập kích 2. tiếp thu như cũ: thế tập Tẩu 1.Chạy, đi: bôn tẩu, cam tẩu mã 2. (v) chạy trốn: tẩu thoát 3. (v) giấu đi nơi khác: tẩu tán Tề (1) 1.Nơi; trong phạm vi: thực tế 2. giữa ( các bên): quốc tế, giao tế Tế (2) Cúng dâng lễ vật theo nghi thức trọng thể: tế lễ, cúng tế Tế (3) Nhỏ, vụn: tế bào, tế nhị, tinh tế Tế (4) Cứu giúp: tế bần, cứu tế. y tế, tiếp tế Thạch Đá: thạch nhũ, ngọc thạch Tham Dựa vào, nhập vào: tham dự. tham gia.

<span class='text_page_counter'>(75)</span> Thám Thăm dò: thám hiểm, thám thính, mật thám, trinh thám Thanh (1) 1.Âm, tiếng: âm thanh, phát thanh 2. thanh điệu nói tắt 3. Nói ra cho người khác biết: thanh minh Thanh (2) 1.Trong, sạch, thuần khiết: thanh khiết, thanh đạm 2. lặng lẽ, bình yên: thanh bình, thanh nhàn 3. Lịch sự: thanh tú, thanh nhã, thanh lịch 4. hết sạch, triệt để: thanh toán, thanh trừ Thanh (3) 1.Xanh: thanh y, thanh thiên 2. trẻ: thanh niên, thanh xuân Thảo Cỏ: thảo mộc, thảo nguyên Thắng 1.Được trong thi đấu,. trái với bại (thua): thắng lợi, chiến thắng, quyết. thắng 2. đẹp: thắng cảnh Thâm 1.Sâu, sâu sắc, sâu nặng: thâm canh, thâm tâm, tâm tình 2. (v) sâu độc và kín đáo: nó thâm lắm Thẩm (1) Xét, xem xét kĩ: thẩm định, thẩm mĩ, thẩm tra, chung thẩm Thẩm (2) Thẩm: thẩm thấu, thẩm lậu Thập Mười: đàn thập lục.

<span class='text_page_counter'>(76)</span> Thất (1) Bảy: thất điên bát đảo, thất ngôn Thất (2) Mất, trái với đắc (được): thất bại, thất học, thất vọng, tổn thất Thất (3) Phòng, buồng: cung thất, tâm thất Thi (1) Thơ: thi ca, thi sĩ, thi vị Thi (2) Làm sử dụng: thi hành, thi công Thi (3) Xác người chết: thi hài, thi thể, tử thi Thị (1) Họ: thị tộc Thị (2) 1.Chợ: thị trường, siêu thị 2. thành phố, nơi tập trung đông dân, trung tâm chính trị, văn hóa, kinh tế: thị dân, thị xã, đô thị Thị (3) Thích: thị hiếu Thị (4) Theo hầu: thị nữ, thị vệ Thị (5) Nhìn: thị giác, thị lực, cận thị Thị (6) 1.Là: đích thị, tức thị 2. Đúng, phải, trái với phi: thị phi, cầu thị, tự thị Thị (7) Biểu hiện ra (cho biết): thị phạm. biểu thị, chỉ thị.

<span class='text_page_counter'>(77)</span> Thị (8) Cậy: thị thế Thích (1) 1.Nói rõ: chú thích, giải thích 2. Thả, cho tự do: phóng thích Thích (2) Gần gũi: thân thích Thích (3) 1.Đâm: thích khách, kích thích 2.(v) Dùng mũi nhọn châm vào da để thành chữ viết: thích chữ vào cánh tay 3. (v) Thúc vào người: thích khuỷu tay vào người bạn Thích (4)’ Phù hợp: thích đáng, thích hợp, thích nghi Thiên (1) Trời, tự nhiên: thiên nhiên, thiên tai, thăng thiên Thiên (2) Dời đi: thiên di, thiên đô, biển thiên Thiên (3) Nghìn: thiên lí, thiên thu Thiên (4) Lệch, nghiêng về một bên: thiên hướng, thiên kiến, thiên vị Thiện (5) 1.Từng phần của một cuốn sách nhiều chương: thiên Xuân thu 2. Bài: thiên phóng sự, đoản thiên Thiên 1.Tốt lành, trái với ác: thiện cảm, thiện chí, lương thiện, từ thiện 2. giỏi, thành thạo: thiện chiến, thiện xạ 3. Có quan hệ tốt đẹp: cải thiện, thân thiện Thiết (1).

<span class='text_page_counter'>(78)</span> Sắt, thép: thiết giáp, thiết hạm Thiết (2) 1.Tạo ra, xây dựng nên: thiết kế, thiết lập, kiến thiết 2. đặt, bày: thiết bài vị 3. đặt ra: thiết tưởng, giả thiết Thiết (3) 1.Cắt: thiết diện 2. khắc vào: thiết cốt 3. gần gũi, gắn bó: chí thiết, thân thiết 4. Sát: thiết thực 5. Cần, gấp: bức thiết, cần thiết, khẩn thiết Thiểu: Ít: thiểu số, tối thiểu Thiếu Trẻ: thiếu niên, thiếu thời Thoại Lời nói, câu chuyện, nói chuyện: đàm thoại, đối thoại, thần thoại Thôn Làng: thôn dã, nông thôn Thông 1.Không tắc, xuyên suốt: thông hành, thông thương, giao thông, lưu thông 2. Hiểu và đồng tình: thông cảm, cảm thông 3. truyền đạt cho biết: thông báo, thông cáo, viễn thông 4. Thường, chung, phổ biến: thông dụng, thông thường, thông lệ 5. Có quan hệ với nhau: thông báo 6. (v) Nắm một cách thành thạo: thông hiểu, thông thạo, thông thuộc Thống (1) 1.Bao quát, chung: thống kê, thống trị, tổng thống 2. có quan hệ liên tục: thống nhất, hệ thống, truyền thống.

<span class='text_page_counter'>(79)</span> Thống (2) 1.Đau (bệnh): thiên đầu thống 2. Đau khổ, bị thương: thống khổ, thống thiết, bi thống Thù (1) Đặc biệt: đặc thù Thù (2) 1.Chủ rót rượu mời khách: thù tạc (tạc: khách mời lại chủ) 2. Bão đáp: thù lao Thủ (1) 1.Tay, bàn tay: thủ công, thủ thuật, thúc thủ 2. Người giỏi một nghề hoặc chuyên một việc: cầu thủ, hung thủ, xã thủ Thủ (2) 1.giữ: khả thủ, phòng thủ, thủ môn 2.(v) Mang, giấu sẵn trong người: thủ dao găm 3. (v) Đảm nhiệm một vai nào đó: thủ vai ( trong kịch) Thủ (4) 1.Cái đầu: thủ cấp 2. Đầu tiên: thủ mưu, thủ xướng 3. Đứng đầu: thủ đô, thủ tướng 4. (v) Đầu của gia súc đã giết thịt: thịt thủ Thụ Cây: cổ thụ, đại thụ Thủy (1) Nước: thủy lợi, thủy triều Thủy (2) Đầu, khởi đầu: thủy chung, nguyên thủy Thư (1) 1.Viết, ghi chép: thư pháp, thư kí 2. Sách: thư viện, thủ thư, binh thư.

<span class='text_page_counter'>(80)</span> 3. giấy tờ: chứng minh thư, văn thư Thư (2) Cảm thấy dễ chịu, không bị căng thẳng: thư nhàn, thư thái Thư (3) Chị: tiểu thư Thức Nhận biết, hiểu biết: thức thời, trí thức Thương 1.Buôn bán: thương mại, nội thương 2. Bàn bạc: thương lượng, hiệp thương 3. Kết quả của phép chia: số thương Thượng Trên, ở phía trên, thuộc bậc trên ( tôn xưng): thượng du, thượng sách, hoàng thượng Tích (1) 1.Dấu chân: phát tích 2. Dấu vết để lại: bút tích, gốc tích, vết tích 3. truyện hoặc cốt truyện đời xưa: cổ tích, điển tích Tích (2) 1.Chứa, dồn góp lại: tích trữ, tích cực, điện tích 2. Ăn không tiêu: tích trệ, cam tích 3. Kết quả của phép nhân: tích số Tích (3) Công lao: chiến tích, công tích, thành tích Tích (4) Chia tách: phân tích Tịch (1) 1.Sổ sách: thư tịch 2. Quê quán: tich quán.

<span class='text_page_counter'>(81)</span> 3. Mối quan hệ lệ thuộc (về quốc gia, tổ chức): quốc tịch, đảng tịch, hộ tịch, nhập tịch Tịch (2) 1.Chiếu: đồng tịch đông sàng (sàng: giường) 2. chỗ ngồi: chủ tịch, liên tịch Tịch (3) Yên tĩnh: tịch mịch, trầm tịch Tịch (4) 1.Chiều tối: tịch dương 2. Đêm: trừ tịch Tiên Trước: tiên đoán, tiên trì Tiền Trước, ở phía trước: tiền đạo, tiền tiến, tiền tuyển Tiện (1) 1.Thuận lợi dễ dàng: tiện lợi, tiện dụng 2. Bài tiết: đại diện, tiểu tiện Tiện (2) 1.Thấp hèn: bần tiện, đê tiện, ti tiện 2. từ dùng để khiêm xưng: tiện nữ, tiện thiếp Tiểu Nhỏ bé: tiểu đội, tiểu học Tiếu Cười: tiếu lâm, đàm tiếu Tín Tin: tín đồ, uy tín Tinh Sao: tinh tú, vệ tinh Tỉnh (1).

<span class='text_page_counter'>(82)</span> 1.Đơn vị hành chính dưới cấp trung ương, trên cấp huyện: tỉnh lị, tỉnh thành 2. tỉnh lị: ra tỉnh Tỉnh (2) Bớt đi: tỉnh giảm, tỉnh lược Tỉnh (3) Xét mình: phản tỉnh, tu tỉnh Tĩnh ở trạng thái, vị trí không thay đổi, yên lặng: tĩnh vật, yên tĩnh toại thỏa lòng, theo ý muốn: toại nguyện, công thành danh toại tòng theo: tòng quân, tùy tòng tốc nhanh: tốc độ, hỏa tốc tộc họ, cộng đồng người có tên gọi, địa vực cư trú, ngôn ngữ, văn hóa riêng: tộc danh, tộc phả, dân tộc tối nhất: tối cao, tối đa tồn còn: tồn kho, bảo tồn trách 1.Đòi hỏi: cầu toàn trách bị (bị: đầy đủ) 2. Tỏ lời không bằng lòng: oán trách, khiển trách 3. phần việc đảm nhiệm, phải làm: trách nhiệm, phụ trách, chức trách Trang (1) Tô điểm: trang điểm, trang sức, trang trí Trang (2) Nơi dân ở: trang trại, thôn trang.

<span class='text_page_counter'>(83)</span> Trang (3) Nghiêm chỉnh: trang nghiêm, trang trọng Trang (4) Đồ dùng, quần áo: trang phục, quân trang Trang (5) Lắp đặt, bố trí: trang bị, ngụy trang Trần (1) 1.Bụi: trần ai, phong trần 2. Cõi đời: trần gian, trần thế, trần tục Trần (2) 1.Bày, sắp xếp: trần thiết 2. nói, kể lại: trần thuật, phần trần Trần (3) Cũ: trần bì Trì Biết: tri thức, cố tri Trì (1) 1.giữ: chủ trì, kiên trì 2. giúp đỡ: bù trì, phù trì Trì (2) Ao hồ: thành trì Trì (3) Chậm, làm cho chậm: trì dộn, trì hoãn Triển Mở rộng ra: triển khai, phát triển, tiến triển Triết Có trí tuệ: triết gia, triết học, hiển triết Trọng (1) 1.Nặng: trọng lượng, trọng tải, tỉ trọng.

<span class='text_page_counter'>(84)</span> 2. cho là có ý nghĩa, cần chú ý, đánh giá cao: trọng dụng, kính trọng 3. Ở mức độ rất cao, rất nặng: trọng án, trọng thương Trọng (2) ở giữa, trọng tải, trọng thu Trợ Giúp đỡ: trợ cấp, cứu trợ Trung Giữa: trung bình, trung lập Trường Dài: trường ca, trưởng thành Trưởng Lớn lên, phát triển, người đứng đầu: trưởng thành, hiệu trưởng Tuấn Tài giỏi hơn người: tuấn kiệt, anh tuấn Túy (1)’ Say: túy túy, ma túy (ma: tê dại) Túy (2) 1.Thuần một thứ: thuần túy, dân túy 2. tinh hoa: quốc túy, tinh túy Tuyệt 1.Đứt, dứt, mất hết: tuyệt chủng, tuyệt giao, tuyệt vọng, đoạn tuyệt 2. Ở mức độ tột đỉnh: tuyệt đại đa số, tuyệt hảo 3. Nhấn mạnh mức độ phủ định hoàn toàn: tuyệt không để lại dấu vết, tuyệt nhiên Từ (1) 1.Đơn vị cơ bản của ngôn ngữ: từ ngữ, động từ 2. lời, bài (văn): diễn từ, đáp từ, đơn từ Từ (2) Hiền lành, có tình thương yêu: từ tâm, từ thiện, hiển từ Từ (3).

<span class='text_page_counter'>(85)</span> Hiền lành, có tình thương yêu: từ tâm, từ thiện, hiền từ Từ (4) 1.Cáo biệt: từ biệt, cáo từ, giã từ 2. Bỏ, không nhìn nhau: từ bỏ 3. Thôi, không nhận chức vụ: từ chức, chức quan 4. Không chịu nhận lấy về mình: từ chối, từ hôn, khước từ (khước: thoái lui, không nhận) 5. (v) chừa: phê bình không từ ai Tử (1) Con: thê tử Tử (2) Chết: tử sĩ. Tử vong, bất tử Tứ Bốn: tứ chi, tứ giác Tự Chữ: tự dạng, văn tự Tương (1) Nhau, lẫn nhau: tương đẳng, tương hỗ, tương phản, tương tự Tương (2) 1.Sắp: tương lai 2. Đem: tương kế tựu kế Tương (3) Chất lỏng: huyết tương, nhũ tương Tưởng Nghĩ, nhớ, muốn: tưởng niệm, tưởng tượng, ảo tưởng Tựu 1.Đến, tới gần, ở: tựu trường, kế tựu 2. Đạt: thành tựu ủy.

<span class='text_page_counter'>(86)</span> 1.Giao phó cho: ủy nhiệm, ủy thác, ủy viên 2. cuối, chỗ cuối: nguyên thủy Văn (1) 1.Ngôn ngữ: anh văn, nga văn 2. Hình thức ngôn ngữ trao chuốt: văn chương, luận văn, văn học, hành văn 3. Trang thái phát triển xã hội: văn hóa, văn minh, văn vật 4. Phi quân sự, đối lập với võ: quan văn, văn thân 5. Tri thức về một lĩnh vực: nhân văn, thiên văn, thủy văn Vấn Hỏi: vấn đáp, nghi vấn Vệ Giữ, giữ gìn: vệ sĩ, hậu vệ, vệ sinh Vi (1) 1.Rất nhỏ: vi khuẩn, vi mô, kính hiển vi 2. Kín đáo: vi hành 3. Hèn kém: hành vi, suy vi Vi (2) Vây quanh: chu vi, phạm vi Vi (3) Làm: hành vi, vô vi Vi (4) Phản, chống lại: vi phạm, vi cảnh Vĩ 1.Rất nhỏ: vi khuẩn, vi mô, kình hiển vi 2. kín đáo: vi hành 3. Hèn kém: hành vi, suy vi Vi (2) Vây quanh: chu vi, phạm vi Vi (3).

<span class='text_page_counter'>(87)</span> Làm: hành vi, vô vi Vi (4) Phản, chống lại: vi phạm, vi cảnh Vĩ Rất to, rất lớn: vĩ đại, vĩ mô, vĩ nhân, hùng vĩ Vị (1) Dạ dày: dịch vị, môn vị, thượng vị Vị (2) 1.Chỗ: vị trí, hoán vị, việt vị 2. chức vụ, ngôi thứ: danh vị, học vị 3. Loại từ chỉ người mang ý nghĩa kính trọng: quý vị, vô vị, chư vị Vị (3) 1.Thuộc tính mà người ta nếm được: khẩu vị, mùi vị, vô vị, gia vị 2. Mùi: hương vị 3. Thứ (nói về thành phần trong tổng thể): bát vị, ngũ vị 4. lí thú: thú vị, ý vị, phong vị Vị (4) Vì: vị hôn thê, vị lai, vị thành niên Vị (5) Chưa: vị hôn thê, vị lai, vị thành niên Vị (6) Nói: vị chi, vị ngữ Vị (7) Tập hợp: tử vị, tự vị Viễn Xa: viễn cảnh, vĩnh viễn Vĩnh Lâu dài, mãi mãi: vĩnh biệt, vĩnh cửu Vong (1).

<span class='text_page_counter'>(88)</span> 1.Trốn chạy: lưu vong 2. Chết: vong linh, tử vong, trận vong 3. mất, bị tiêu diệt: vong quốc, diệt vong Vong (2) Quên: vong ân, vong bản, bị vong lực (bị: đề phòng) Vọng (1) 1.Nhìn ra xa: vọng nguyệt, viễn vọng 2. Nhìn, hướng về nơi đang tưởng nhớ, mong chờ: vọng cổ, ngưỡng vọng 3. Mong mỏi: khát vọng, vọng phu, hi vọng 4. Danh tiếng: vọng tộc, danh vọng Vọng (2) Viển vông: vọng tưởng Vô Không: vô lễ, vô tận Vũ Mưa: vũ bão, phong vũ biểu Vương: Vua: vương quốc, quốc vương Xã 1.Một tổ chức có nhiều người làm việc, sinh sống: xã hội, xã luận, hợp tác xã, thị xã 2. Đơn vị hành chính nông thôn gồm một số thôn: xã đội, chủ tịch xã Xuất 1.Ra, trái với nhập (vào): xuất huyết, xuất trận, xuất xứ, đề xuất, sản xuất 2. Lộ ra: xuất hiện 3. Vượt lên: xuất sắc, kiệt xuất 4. Đưa ra: xuất quỹ, xuất trình, xuất khẩu Xúc Chạm phải: xúc động, tiếp xúc.

<span class='text_page_counter'>(89)</span> Yếu Quan trọng, chính: yếu điểm, yếu nhăn, chủ yếu, trích yếu. IX - MỞ RỘNG VỐN THÀNH NGỮ, TỤC NGỮ VIỆT NAM Phần lớn các thành ngữ, tục ngữ Hán Việt đều quen thuộc, dễ hiểu. Ớ đây chúng tôi chỉ giải thích một số thành ngữ có từ ngữ Hán Việt khó hiểu. Cần thiết thì mới cho thêm ví dụ. 1. Thành ngữ An cư ìạc nghiệp (an:yên ; ; vui ; nghiệp nghề) : sinh sống yên ổn, làm ăn vui vẻ. Ví dụ : "Nhân dân ta yêu chuộng hoà bình, chính phủ ta muốn cho dân được an cư lạc nghiệp." (Hồ Chí Minh, Tuyển tập ) Bạch diện thư sinh ( bạch :trắng ; diện :mặt; thư sinh học trò) : chỉ người học trò còn non trẻ, ít kinh nghiệm hoặc chỉ sự non trẻ, thiếu kinh nghiệm. Ví dụ : "Một cậu bạch diện thư sinh nói có hay đến đâu cũng chả ai thèm để ý." (báo Văn nghệ) Bán thân bất toại ( bán:'nửa ; thân người ; bất không ; toại :theo ý muốn) : bị liệt nửa người. Ví dụ : "Mẹ nó bị bán thân bất toại không đi lại được chỉ nằm dí một chỗ." (Nguyễn Công Hoan). Bạo hổ bằng hà ( bạo hổ :bắt hổ bằng tay không ; bằng hà :qua sông không có thuyền. Thành ngữ này có gốc từ câu nói của Khổng Tử. Đệ tử của Khổng Tử là Tử Lộ hỏi Khổng Tử : "Nếu như thầy cầm quân đi đánh trận, .thầy muốn người nào cộng sự với thầy ? "Khổng Tử nghĩ một lúc rồi trả lời : "Cái người dùng tay không đánh nhau với hổ (, hổ), cái người đi chân không vượt qua sông (bằng hà) thì không làm việc với anh ta, ta cần người cẩn thận, lo lắng công việc, suy nghĩ chín chắn hoàn thành nhiệm vụ kia"): tợn liều lĩnh làm những việc nguy hiểm. Ví dụ : "Nhưng chính phủ bỏ rồi. Nụ lùi lũi đi một.

<span class='text_page_counter'>(90)</span> mình, đường xa chứ! gụi gì cho cam, đừng bạo hổ bằng hà xông pha qi (Nguyễn Huy Tưởng) Bế quan toả cảng (bế :đóng ; quan cửa ải ở biên gi toả : khoá) : đóng cửa, không giao lưu với bên ngoài. Bình yên vô sự (sự : ở đây có nghĩa là "việc không lành"): bình yên, không có việc gì xấu xảy ra. Cao đàm khoát luận (đàm :nói chuyện ; khoát rộnỊ bàn luận những vấn đề cao siêu, rộng lớn, ít gắn bó với ử tế (hàm ý chê). Ví dụ : "Do cách nghiên cứu sai lệch đó, C đã đì vào con đường tầm chương trích cú, cao đàm khí luận.'' (tạp chí Nghiên cứu Văn học) Cao lương mĩ vị (cao :béo ; lương lương thực ; mĩ ( mùi vị thơm ngon) : các món ăn ngon, quý, sang trọng. Cầu toàn trách bị (cầu :mong muốn ; toàn :hoàn trọn vẹn ; trách: đòi hỏi ; bị đầy đủ) : yêu cầu cao, khắt khe, tuyệt đối, đòi hỏi phải đạt đến mức hoàn thiện đầy chất trọn vẹn tất cả mọi mặt. Ví dụ : "Nếu cứ cầu toàn trách thấy chỗ đó là công kích bừa đi, e rằng sau này không ai dám nghĩ đến việc trứ thuật nữa." (NgôTất Tố) Chúng khẩu đồng từ (chúng nhiều ; số đông ; khẩu miệng ; đồng :cùng ; từ:lời) : ý kiến, lời lẽ mọi người nói ra đều thống nhất, thường là chính xác, khó chối cãi. Ví dụ : "Hai anh chị đã mê nhaư thì sao chẳng sinh ra vụng trộm kia chứ. Bấy giờ chúng nói ra thì khối người nói theo. Chúng khẩu đồng từ, cãi đằng trời." (Chu Văn) Danh bất hư truyền (danh :tiếng tăm ; bất :không ; hư :không thực) : tiếng tăm, danh tiếng truyền đi không sai khác với sự thật. Danh gia vọng tộc (vọng có tiếng tăm) : gia đình, gia tộc có danh tiếng. Ví dụ : "Ông là con thứ hai trong một danh gia vọng tộc của Hà Nội." (Hà Ân).

<span class='text_page_counter'>(91)</span> Đa đa ích thiện (đa: nhiều ; ích: càng thêm ; thiện tốt): càng nhiều càng tốt. Đái tội lập công (đái :đội) : lập công chuộc tội. Điệu hổ li sơn (điệu :điều ; li rời khỏi ; sơn :núi) : tách kẻ mạnh ra khỏi hoàn cảnh có lợi để dễ bề chinh phục hoặc tiêu diệt, ví như đưâ hổ ra khỏi rừng, nơi có nhiều lợi thế với hổ để vây bắt hoặc bắn giết. Đổng bệnh tương liên (tương nhau, lẫn nhau ; hoặc lân :thương) : cùng chung cảnh ngộ nên đồng tình, thông cảm, thương nhau. Ví dụ : "Thấy ông anh vừa bị một vố đau, nhân tiện lên chơi trên này, tôi xin đến thăm ông anh, gọi là cái nghĩa quen biết cũ, và đồng bệnh tương (Chu Thiên) Hạc lập kê quần ( hạc :chim hạc ; lộp đứng ; kê :gà; quần :số đông): người tài giỏi phải chung đụng với kẻ dốt nát, ví như con hạc đứng giữa bầy gà. Hồng diệp xích thằng ( hồng: đỏ;diệp: lá; xích: đỏ; thằng:dây. Thành ngữ này dựa trên câu chuyện : "Vu Hựu đời Đường kết duyên với nàng cung nữ mà trước đây chàng đã từng đề thơ của mình vào chiếc lá thắm thả trôi theo dòng nước gửi vào cung cấm. Vi Cố kết duyên với người con gái mà trước đây chàng đã thuê người giết vì muốn chống lại duyên phận khi ông tơ cho biết chỉ hồng đã buộc chân hai người từ thủa vợ chàng là cô bé mới lên ba."): đồng nghĩa với lá thắm chỉ hồng, có nghĩa là duyên số tiền định trong tình yêu, hôn nhân. Không tiền khoáng hậu ( khoảng: trống, không có) trước đây và về sau không bao giờ có. Ví dụ : "Đây là một trận chiến đấu không tiền khoáng hậu trong lịch sử thế giới vì những phương tiện độc đáo mà người ta dùng để chiến đấu." (Thép Mới) Kinh bang tế thế ( kinh :quản lí ; bang nước ; tế cứu, giúp ; thế :đời) : cai quản, trông nom việc nước, để nhân dân sống yên vui. Ví dụ : "Cái chí lớn.

<span class='text_page_counter'>(92)</span> của nhà nho, cái chí kinh bang tế thế hoàn toàn vắng vẻ trong những con người ấy." (Đặng Thai Mai) Kính nhi viễn chi ( kính :kính trọng ; nhi mà ; viễn xa ; chi :đại từ thay thế cho đối tượng vừa nói trước đó. Thành ngữ này xuất phát từ câu nó của Khổng Tử: Kính quỷ thần nhi viễn chi, nghĩa là "Quỷ thần thì kính trọng nhưng nên xa họ") : tôn trọng, ngưỡng mộ nhưng rất xa vời, chỉ có thể đứng xa mà chiêm ngưỡng, không thể gần gũi được. Lão bạng sinh châu (lão già ; bạng con trai ở biển ; châu :ngọc trai) : người đã già mà sinh ra được đứa con trai quý. Lão dương ích tráng (đươn :nên, cần phải ; ích càng thêm ; tráng :khoẻ mạnh. Nguyên có nghĩa là : "tuổi đã già nhưng chí khí phải càng thêm mạnh mẽ", bây giờ có nghĩa hctì khác) : tuổi già mà vẫn khoẻ mạnh, làm được nhiều việc có ích cho đời. Liên chi hồ diệp (liên :liền ; chi cành ; hồ diệp :con bướm) : nối tiếp.nhau, liên tiếp, không ngừng không dứt. Ví dụ : "Gã chồng mời khách cứ liê chi hồ diệp vần vè hẳn hoi như gã chủ quán ở các tích chèo vậy." (Nguyên Hồng) Ôn cố tri tân (ôn :nhắc lại, nhớ lại, học lại ; cố : cũ ; tri :biết ; tân :mới. Thành ngữ này có gốc từ câu nói trong Luận ngữ :Ôn cố nhi trì tân, khả dĩ vi sư hĩ nghĩa là "Ôn cũ mà biết mới thì có thể làm thầy được.") : ôn lại cái cũ, cái đã qua để hiểu rõ hơn, biết cách ứng xử đúng đắn với cái mới, cái hiện tại. Quả bất dịch chúng (quả :đơn độc, một mình ; chúng số đồng) : một mình hoặc thiểu số thì không thể địch được với số đông. Sinh li tử biệt (sinh :sống ; li : rời chết ; xa cách nhau) : sống thì xa cách nhaú, chết thì không bao giờ được gặp lại nhau. Ví dụ : "Đành rằng sự mất sự còn là luật chung của tạo hoá. Nhưng gặp lúc tử biệt thì khó mà.

<span class='text_page_counter'>(93)</span> ngăn nỗi xót thương." (Hồ Chí Minh) Sơn lam chướng khí (sơn : núi; lam: khí ở núi bốc lên; chướng khí: khí độc ở rừng) : khí độc ờ miền rừng núi bốc lên, dễ gây bệnh tật. Tả phù hữu bật (tả :bên trái ; phù nâng đỡ ; hữu bên phải ; bật :giúp đỡ) : giúp đỡ từ nhiều phía, của nhiều người xung quanh. Ví dụ : "Bao giờ lão đi cũng có anh em mình tả phù hữu bật.” (Nguyễn Tuân) Tao nhân mặc khách (tao một thể thơ đời xưa của Trung Quốc, về sau chỉ nghĩa chung là văn thơ ; mặc :mực) : người sành về sáng tác hoặc thưởng thức văn chương. Ví dụ : "Văn chương đâu chỉ là công việc của một số ít tao nhân mặc khách, tìm thú vui nhàn tản lúc trà dư tửu hậu." (Đặng Thai Mai) Tâm đầu ý hợp (tâm :lòng ; đẩu và hợp phù hợp) : tâm hồn, tình cảm và ý nghĩ, chí hướng rất hợp nhau. Tận mục sở thị (mục :mắt; sở : trợ từ ; thị nhìn thấy) : tận mắt trông thấy. Tha phương cầu thực (hoặc Tha hương cầu thực) (tha khác ; phương :nơi ; cẩu :kiếm; thực :ăn): đi kiếm ăn, kiếm kế sinh nhai ở nơi khác xa quê hương mình. Thệ hải minh sơn (thệ: thề ; hải: biển ; minh: thề ước ; sơn :núi) : thề trước, biển và núi, biểu thị lời thề rất thiêng liêng, sâu nặng. Ví dụ : "Để lời thệ hải minh sơn - Làm con trước phải đền ơn sinh thành." (Nguyễn Du) Thiên kinh địa nghĩa (thiên :trời ; kinh :mãi mãi không thay đổi ; địa :đất ; nghĩa :thích hợp, chính đáng) : đạo lí đúng đắn, rõ ràng, chắc chắn, không có gì đáng nghi ngờ và bất di bất dịch. Ví dụ : "Hủ tục không phải là một thứ thiên kinh địa nghĩa, nó có thể thay đổi nếu phái trí thức để ý đến sự khai hoá cho dân quê.".

<span class='text_page_counter'>(94)</span> Thiên la địa võng (la :lưới bắt chim ; võng :lưới đánh cá ; nghĩa đen là giăng lưới khắp cả trên trời dưới đất) : bủa vây khắp mọi nơi không thể thoát được. Thực sự cầu thị (thực :thật ; sự : việc ; cầu :tìm, theo đuổi ; thị :lẽ phải, chân lí) : xuất phát từ thực tế tìm ra chân lí, lẽ phải. Thương hải tang điền (thương :xanh ; tang :dâu ; đồng nghĩa với bãi bể nương dâu. Thành ngữ này rút trong câu nói của tiên nữ Ma Cô với Phương Vương Bình : Tiếp thị dĩ lai dĩ kiến Đông hải tam vi tang diền nghĩa là "từ khi được hầu tiếp ông đến nay đã từng thấy bể Đông ba lần biến thành ruộng dâu") : sự thay đổi lớn lao trong cuộc đời, trong xã hội. Tiên ưu hậu lạc (tiên :trước ; lo ; hậu sau ; lạc vui) : lo trước thiên hạ và vui sau thiên hạ. Tiền hô hậu ủng (ủng :vây quanh) : hộ tống rầm rộ, oai phong. Toạ hưởng kì thành (toạ ngồi. kì :đại từ chỉ định chỉ người, việc đã nói đến ; thành : thành quả) : ngồi mà hưởng kết quả. Toạ thực băng sơn (toạ: ngồi ; thực :ăn ; băng :lở ; sơn :núi) : chỉ ngồi ăn, không làm gì thêm thì bao nhiêu cũng hết. Toạ sơn quan hổ dấu (toạ :ngồi ; sơn :núi ; quan xem. Thành ngữ này có nguồn gốc từ một chuyện ở Chiến Quốc sách :"Có hai con hổ tranh nhau vồ người nên đánh nhau. Quản Trang Tử định đâm nhưng Quản Dữ ngăn lại : hổ là con vật ác, người là miếng mồi ngon, bây giờ hai con hổ đang đánh nhau vì miếng mồi, con yếu nhất đính chết con mạnh nhất định sẽ bị thương, anh đợi nó bị thương đã rồi hãy đâm, như vậy thì một lần ra tay mà được cả hai hổ") : mưu sâu, cho hai phe đánh nhau đến kiệt sức rồi nhảy vào can thiệp để đánh thắng cả hai..

<span class='text_page_counter'>(95)</span> Tống cựu nghênh (nghinh) tân ( tống: đưa, tiễn ; cựu: cũ ; nghênh:đón ; tân :mới) : tiễn người cũ đón người mới, tiễn năm cũ đón năm mới. Trà dư tửu hậu (dư :thùa ; tựu rượu ;.hậu sau ; nghĩa đen : sau khi uống trà, uống rượu) : lúc thảnh thơi, nhàn rỗi. Ví dụ : "Chắc các ông đã rõ rồi, trước đây các cụ ta thường dùng thơ ca để xướng hoạ, ngâm vịnh rồi cùng nhau nhấm nháp, thưởng thức lúc trà dư tửu hậu." Trầm tư mặc tưởng (trầm chìm, sâu kín ; tư :suy nghĩ ; mặc :im, lặng lẽ ; tưởng :suy nghi) : trầm lặng, đăm chiêu suy nghĩ. Tri kỉ tri bỉ (tri :biết ; kỉ :mình ; bỉ người khác. Thành ngữ này xuất phát từ câu nói của Tôn Tử : Tri kỉ tri bỉ bách chiến bất đãi nghĩa là "Biết được tình hình của mình, cũng biết được tình hình của địch, như vậy thì có thể đánh trận nào thắng trận ấy.") : biết người biết ta. Tứ cố uô thân (tứ :bốn ; cố : ngoảnh nhìn ; vô :không thân :thân thích) : đơn độc, trơ trọi một mình, không có anh em, bè bạn thân thích. Tứ đại đồng đường ( đại :đời ; đường :nhà) : bốn đời đều ở chung trong một nhà. Tự nhiên nhi nhiên ( nhi :mà ; nhiên như thế) : cứ tự nhiên mà thành như thế, không cần tác động gì. Ví dụ : "Làm nghề gi phải lo nghề ấy, nhà thơ có thể vô tâm trước sự xúc cảm của mình được sào ? Cứ để nó tự nhiên nhi nhiên sớm nở tối tàn hay sao ?" (Xuân Diệu) Tương kế tựu kế ( tương :đem ; tựu làm, thi hành) : lợi dụng kế của đối phương mà lập kế của mình để đối phó có hiệu quả. Ví dụ : "Chính ra vẫn tại triều đình ta kém cỏi. Nhưng cũng cần biết dã tâm mưu mô của giặc để mà tránh, hay tốt hơn là có thể tương kế tựu kế mà chông lại." (Chu Thiên).

<span class='text_page_counter'>(96)</span> Ưu thời mẫn thế (ưu :buồn phiền, lo ; thời thời cuộc ; mẫn :lo, thương xót ; thế :đời) : lo lắng việc đời, thương đời. Ví dụ : "Thánh Tông thì làm cho trăm họ yên vui, dân giàu nước mạnh, mà Chiêu Thống thì làm cho nước nhà điên đảo, dân tình điêu đứng khiến cho người ưu thời mẫn thế phải đau lòng." (Nguyễn Huy Tưởng) Vạn thọ vô cương ( cương giới hạn) : sống lâu muôn tuổi (dùng để chúc vua quan). Văn kì thanh, bất kiến kì hình (văn nghe ; kì: đại từ chỉ định ; thanh :tiếng; kiến nhìn thấy) : nghe tên, nghe tiếng mà chute thấy người, thấy mặt. Vinh thân phì gia (vinh :vẻ vang ; thân bản thân ; phì :béo ; gia :nhà, gia đình) : đạt được vinh hoa, danh vọng, sự giàu sang cho bản thân và gia đỉnh. Xuất kì bất ý ( xuất: ra; kì : đại từ ; ý : để ý, chú ý) : nhân lúc đối phương không chú ý đề phòng (để hành động). Ví dụ : "Tây nó đương thắng thế có vẻ khinh miệt ta không làm gì được nũte, ta xuất kì bất ý nó không kịp đề phòng, đó là điều lợi." (Chu Thiên) 2. Tục ngữ Bệnh tùng khẩu nhập (tụng : từ ; khẩu miệng ; nhập vào): Tục ngữ này có gốc từ câu nói của Phó Huyền đời Tấn, Trung Quốc: Bệnh tùng khẩu nhập, hoạ tùng khẩu xuất. Bệnh tùng khẩu nhập nghĩa là "bệnh tật vào từ đường miệng" tức là bệnh tật do ăn uống mà sinh ra. Còn hoạ tùng khẩu xuất là "tai hoạ từ củte miệng mà ra", tức tai hoạ là do nói năng mà sinh ra. Bĩ cực thái lai (tục ngữ này có gốc từ Ngô Việt Xuân Thu - Câu Tiễn nhập thần ngoại truyện Thời quá uu bĩ chung tắc thái. Bĩ và thải là hai quẻ trong Chu Dịch, bĩ có nghĩa là "xấu" hoặc "sự việc bất lợi", thái có nghĩa là "cái tốt".

<span class='text_page_counter'>(97)</span> hoặc "thuận lợi". Sự việc phát triển đến cực điểm thì chuyển hoá thành mặt đối lập. Bĩ có thể chuyển thành thái) tình hình xấu biến thành tốt. cẩn tắc vô ưu ( tắc: thì) : cẩn thận thì không phải lo lắng gì cả. Danh chính ngôn thuận (có gốc từ câu nói của Khổng Tử : Danh bất chính tắc ngôn bất thuận ; danh danh nghĩa, danh phận; chính: chính đáng ; thuận :hợp lí): việc gí mà danh nghĩa chính đáng thì đạo lí ắt thông. Dĩ bất biến ứng vạn biến: lấy cái bất biến để ứng phó với cối vạn biến, tức là lấy cái nguyên tắc cứng rắn để đối phó với mọi tình hình phức tạp (quan hệ giữa cái nguyên tắc và sự linh hoạt). Dục tốc tắc bất đạt ( dục :muốn ; tốc nhanh;tắc : thì ; bất :không. Tục ngữ này có -gốc từ câu nói của Khổng Tử. Học trò Khổng Tử là Tử Hạ làm. huyện lệnh ở Cử Phu, hổi Khổng Tử cách trị dân. Khổng Tử nói "Không ham nhanh, không chú ý đến lợi nhỏ. Ham nhanh, thì không đạt được mục đích'. Chú ý đến lợi nhỏ thì không làm được việc lớn.") : làm việc gì chớ có nóng vội, cần phải tuần tự mà tiến mới có thể đạt được mục đích. Dụng nhân như dụng mộc ( dùng ; mộc : gỗ) : dùng người như dùng gỗ. Đây là nói về nghệ thuật dùng người : dùng người phải khéo léo, 'biết bố trí đúng chỗ, hợp với sở trường, khả năng và hoàn cảnh của từng người. Kỉ sở bất dục vật thi ư nhân mình; dục: muốn ; vật: đừng, chớ ; thi :làm, thi hành; ư : giới từ có nghĩa là "cho, đối với"; nhân: người): điều mà mình không muốn thì đừng gây cho ngưới khác. Kính lão đắc thọ (đắc :được) : kính già thì mình được sống lâu. Kính già già để tuổi cho. Lương y như từ mẫu (lương lành nghề, giỏi ; từ mẫu mẹ hiền): thầy thuốc như mẹ hiền..

<span class='text_page_counter'>(98)</span> Ngôn dị hành nan (ngôn nói ; dị dễ ; hành :làm ; nan :khó) : nói dễ làm khó Nhân đinh thắng thiên :ý chí của con người, quyết tâm của con người có thể thắng được sức mạnh của tự nhiên. Nhập gia tuỷ tục: vào một gia đình, một nơi nào đó thì phải hoà nhập, tuân thủ nếp sống, lề thói ờ đó. Phú quý bất nâng dâm, bần tiện bất năng di, uy uũ bất năng khuất (dâm :mê muội ; di:dời ; khuất: khuất phục): chỉ phẩm đức cao đẹp và khí phách dũng cảm, giàu sang không cám dỗ được, nghèo hèn không làm di chuyển được, uy vũ không khuất phục được. Tam nhân hành, tất hữu ngã sư (có gốc từ câu nói nổi tiếng của Khổng Tử. "Ba người cùng đi, trong đó nhất định có một người có thể làm thầy ta, ta tìm ưu điểm của họ để học, khuyết điểm của họ cũng giúp ta chú ý sửa mình") : hấm nghĩa của câu này là tuỳ lúc, tuỳ nơi có thể học tập ở người khác. Thực túc binh cường ( thực :ăn, lương thực ; túc :đủ ; cường :mạnh) : lương thực đầy đủ thì quân đội mạnh. Tiên học lễ, hậu học uăn ụễ : những phép tắc phải theo để cư xử trong gia đĩnh, xã hội sao cho phải đạo người trên kẻ dưới theo tư tưởng Nho giáo) : trước hết phải học phép tắc, sau đó mới học văn chương chữ nghĩa, học kiến thức. Vạn sự khởi đầu nan ( nan khó) : mọi việc bắt đầu đều khó khăn.. PHỤ LỤC XUNG QUANH VẤN ĐỂ DẠY VÀ HỌC TỪ NGỮ HÁN VIỆT Không còn nghi ngờ gì nữa, trong tiếng Việt có một số lớn từ gốc Hán mà ta thường gọi là từ ngữ Hán Việt. Nó chiếm tỉ lệ bao nhiêu trong kho tàng tiếng.

<span class='text_page_counter'>(99)</span> Việt, cho đến nay, chưa thể biết được đích xác. Nhiều người dẫn con số 60% của Maspero thống kê nhưng đã quá cũ rồi con số đó, từ bấy đến nay tiếng Việt đã phát triển và chắc chắn là tỉ lệ đã thay đổi. Chúng tôi chỉ thống kê 2.000 mục từ của cuốn Từ tiếng Việt do Hoàng Phê chủ biên thì thấy con số không phải như vậy, từ ngữ Hán Việt chiếm khoảng 40%. Công việc thống kê để có được số lượng chính xác, khoa học còn chờ ở tương lai. Dù sao đi nữa, độ phong phú của từ ngữ Hán Việt là diều dễ thấy qua từ điển, qua các văn bản, nhất là văn bẳn khoa học, chính luận, báo chí v.v... Từ ngữ Hán Việt đến với người Việt, hay nói một cách khác, theo cách nói của các nhà ngôn ngữ học, sự thủ đắc từ ngữ Hán Việt, cũng như các lớp từ ngữ khác, do nhiều con đường : con đường tự nhiên, tự phát, tức là qua thực tiễn giao tiếp xã hội, mỗi người tự thể nghiệm, tự tìm hiểu để nắm được ý nghĩa, cách dùng của nó. Sự thực là như vậy, nếu chúng ta chú ý quan sát lời ăn tiếng nói của các em Ở lứa tuổi trước lúc đi học; cũng như trong ngôn ngữ của những người lớn tuổi không có cái may mắn được cắp sách đến trường. Chỉ có điều là họ đã hiểu một số từ Hán Việt, đã biết dùng một số từ Hán Việt mà không ý thữc được đó là từ Hán Việt. Đối với họ, những từ đó cũng là từ Việt, như tất cả những từ khác. Tất nhiên, con đường tự nhiên đó cũng có cái nhược điểm của nó: sự tiếp nhận không có hệ thống và có khi không được chính xác, do đó, cần thiết phải có con đường thứ hai : sự học tập trong nhà trường. Mấy năm gần đây việc giảng dạy từ ngữ Hán Việt đã bắt đầu được chú ý. Từ lớp 6 trong bộ môn Tiếng Việt đã có những giờ chuyên dạy từ ngữ Hán Việt. Một số tác giả như Phan Ngọc, Phan Thiều, Trương Chính, Phan Văn Các, Đặng Đức Siêu, Nguyễn Thị Tân cũng đã có phát biểu ý kiến về vấn đề này. Tuy nhiên, qua nội dung của sách giáo khoa phổ thông, cũng như qua ý kiến của các tác giả, có thể thấy rằng chúng ta chưa có một quan niệm nhất trí, một định hướng rõ ràng trong vấn đề này. Không thể phủ nhận vai trò của nhà trường trong việc nâng cao trình độ hiểu biết về từ ngữ Hán Việt cho học sinh. Tuy nhiên ở mỗi thời kì lịch sử, do.

<span class='text_page_counter'>(100)</span> hoàn cảnh chính trị, văn hoá xã hội mà cách thức tác động và hiệu quả có khác nhau. Thiết nghĩ, cũng nên nhìn lại quá khứ để xây dựng một quan niệm đúng đắn cho hiện tại. Xuyên suốt cả một thời kì lịch sử lâu dài dưới chế độ phong kiến, kể cả lúc bị ngoại bang thống trị, cũng như lúc giành được độc lập, nền giáo dục Việt Nam là một nền giáo dục Hán học. Bước chân đến nhà trường, là bước vào cửa Khổng sân Trình, học chữ Hán (ngày xưa gọi là chữ Nho), đọc văn bẳn Hán (Mạnh rồi Tứ, rồi thư, Ngũ kinh) bằng một lối phát âm độc đáo - cách đọc Hán Việt. Và cũng học tập làm văn làm thơ bằng chữ Hán. Thực chất đó là học một ngoại ngữ, duy chỉ có điều đặc biệt là cách phát âm không hoàn toàn giống với cách phát âm chính quốc. Tác dụng khách quan của nền giáo dục này là đào tạo những thế hệ học sinh song ngữ. Trong văn chương, trong giao tiếp quan phương thì dùng tiếng Hán nhưng trong đời thường thì vẫn dùng tiếng Việt. Đây là một môi trường thuận lợi cho việc tiếp xúc giữa tiếng Hán và tiếng Việt, cho việc tiếp nhận tiếng Hán vào tiếng Việt, đồng theft cũng là môi trường thuận lợi cho việc thủ đắc từ ngữ Hán Việt trong tiếng Việt. Hiểu được một từ ngữ nào đó trong tiếng Hán thì cũng hiểu được cái từ ngữ đó trong tiếng Việt. Và cũng có thể nói ngược lại, nếu như hiểu được các từ ngữ Hán Việt trong tiếng Việt thì học sinh cũng dễ dàng nắm được nghĩa của từ đó trong tiếng Hán. Thật thế, nếu học một bài ca dao trong Kinh thi: Quan quan thư cưu, . Tại hà chi châu, Yểu điệu thục nữ, Quân tử hảo cầu. Chú thích:.

<span class='text_page_counter'>(101)</span> Quan quan: tiếng nói của chim thư cưu. Thư cưu: một loài chim ở gần nước, đực, cái: không rời nhau. Không có vẻ lả lơi. Hảo cầu: xứng đôi, phải lứa. tạm dịch Tiếng Thư cưu thánh thót Rộn ràng chốn cồn sông Cô thục nữ dịu dàng Xứng đôi chàng quân tử hẳn cậu học sinh tâm đắc thích thú khi nhận chân được các từ như yêu diệu, thục nữ, quân tử trong tiếng Việt có gốc gác từ tiếng Hán. Không những hiểu được nghĩa của cả từ mà có khi còn hiểu được nghĩá của từng yếu tố cấu tạo nên nó : thục là "hiền lành", nữ là "con gái", quân là "người đàn ông đáng tôn kính", tử là "người". Và cứ thế, trình độ Hán học càng được nâng cao, càng phong phú thì trình độ hiểu biết từ ngữ Hán Việt càng thâm thuý. Nhưng từ khi thực dân Pháp thống trị nước ta và cả sau này từ Cách mạng tháng Tám cho đến ngày nay, nền giáo dục Hán học được thay thế bằng những nền giáo dục khác, những người có trình độ song ngữ Hán và Việt thưa thớt dần. Những giờ Caractere Chinois (chữ Hán) cho học sinh thời Pháp thuộc không đủ để đưa học sinh tới trình độ nắm vững tiếng Hán. Có khoảng gần một chục năm trong chương trình phổ thông ở miền Bắc có môn Trung văn nhưng nhìn chung, không đem lại hiệu quả gì. Học sinh học xong lại trả chữ cho thầy. Nắm được tiếng Hán là những người tốt nghiệp ờ các khoa Trung văn các trường Đại học Sư phạm ngoại ngữ, trường Đại học ngoại ngữ, các lớp phiên dịch và các sinh viên Việt Nam sang học ờ Trung Quốc trở về. Nhưng khác với trước là tiếng Hán mà họ học là tiếng Hán hiện đại phát âm theo hệ thống ngữ âm Bắc Kinh. Họ nói được tiếng Bắc Kinh.

<span class='text_page_counter'>(102)</span> nhưng không hoàn toàn nắm được cách đọc Hán Việt. Đó là một hạn chế của lớp người này trong sự liên hệ với các từ Hán Việt. Mặt khác còn một sự hạn chế nữa là cách học tiêng Hán ngày nay có chỗ khác các cụ ngày xuầ. Ngày xủct chú trọng việc hiểu nghĩa từng chữ (tức là từng yếu tố) còn ngày nay thì chú trọng việc hiểu nghĩa cả từ. Cho nên có thể hiểu nghĩa của từ mà không hiểu nghĩa của từng yếu tố cấu tạo nên nó. Mặc dù có những hạn chế trên đây nhưng nếu nắm được tiếng Hán hiện đại thì vẫn là một thuận lợi cho việc nắm từ ngữ Hán Việt. Rõ ràng trình độ song ngữ, hay nói theo cách nói của Đặng Đức Siêu là mô hình song ngữ Hán và Việt là điều kiện lí tưởng để nâng cao trình độ bản ngữ, nhất là việc hiểu biết mảng từ ngữ gốc Hán trong tiếng Việt, nhưng trong điều kiện lịch sử, văn hoá xã hội hiện nay chúng ta có khả năng xây dựng hay không mô hình đó qua con đường giáo dục, nhất là giáo dục phổ thông ? Chúng tôi nghĩ rằng cái thời đại “huy hoàng” của tiếng Hán, chữ Hán ở nước ta không bao giờ trở lại nuồ vì điều kiện chính trị, văn hóá, xã hội đã thay đổi. Trong xã hội ta ngày nay, nếu lấy mô hình song ntgữ Hán và Việt làm mục tiêu đào tạo của nhà trường, nhất là trường phổ thông thì đó chỉ là một ảo tưởng. Nói như vậy, không hề mâu thuẫn với việc truyền thụ kiến thức Hán học cho một số người nào đó, tuỳ theo nhu cầu. Họ là những chuyên gia và vai trò của họ là vai trò của chuyên gia. Nên phân biệt việc đào tạo chuyên gia với việc giáo dục phổ thông. Nhưng phải chăng, nhà trường không còn con đường nào khác để nâng cao ừình độ hiểu biết củạ học sinh đối với từ ngữ Hán Việt? Không phải như vậy. Quan niệm hơn cả ìà xem việc dạy và học từ ngữ Hán Việt là việc học tập bản ngữ (học tiếng mẹ đẻ, tiếng Việt) chứ không phải là học tập ngoại ngữ. Học ngoại ngữ là học một thứ tiếng mà người học chưa hề biết đến, từ chữ viết, ngữ âm, từ vựng cho đến ngữ pháp. Còn học bản ngữ là học tiếng mẹ đẻ, người học đã biết sử dụng ở một trình độ nhất địrih trước lúc cắp.

<span class='text_page_counter'>(103)</span> sách tới trường. Xuất phát điểm khác nhau nên trong việc dạy và học cũng khác nhau. Học ngoại ngữ thì phải học phát âm, học từ, học ngữ pháp và cuối cùng là phải biết cấu tạo văn bản đúng các chuẩn tắc của các thứ tiếng đó. Còn học bản ngữ mà đây là học các từ ngữ Hán Việt thì chủ yếu là phải hiểu cho được nghĩa của chúng và dùng chúng trong câu tiếng Việt. Trong Knh vực dạy và học từ ngữ, các lớp từ ngữ được lựct chọn để giảng dạy cũng khác nhau. Đối với ngoại ngữ thì lớp tự được chú ý truyền thụ trước hết là những từ thông dụng, những từ có tần số xuất hiện cao trong các văn bản. Còn dạy từ ngữ Hán Việt thì tất nhiên là cũng chú ý đến lớp từ thông dụng nhưng không phải là mọi từ thông dụng mà trước hết là bộ phận từ thông dụng còn khó hiểu đối với học sinh tuỳ từng lứa tuổi, mặc dù tần số xuất hiện của chúng không cao bằng những từ khác. Thiết nghĩ những từ như hod, bút, bạn, bảng, báo, học sinh, học tập, chú ý, học, . . .chẳng cần phải giảng giải cho các em vì ngay các em lớp một cũng có thể hiểu được những từ này, nhưng nếu dạy tiếng Việt với tư cách là một ngoại ngữ thì những từ này không thể bổ qua được. Vấn đề ở đây là phải xác đính cho được một danh sách các từ ngữ khó hiểu cần giầng giải cho học sinh theo từng năm học. Về nguyên tắc thì những từ ngữ nào có ý nghĩa cụ thể biểu thị những sự vật, hoạt động, tính chất tương đối gần gũi với học sinh thì dễ hiểu, còn những từ nào có ý nghĩa khái quát, trừu tượng, biểu thị những sự vật, hoạt động, tính chất xa lạ với học sinh thì khó hiểu. Nhưng để tránh chủ quan, có lẽ tốt hơn cả là nên tiến hành điều tra, thống kê, một công việc điều tra, thống kê rất công phu trong một số lượng hết sức đông đảo. Một bản thống kê qua điều tra sẽ là một cơ sở chắc chắn cho việc chương trình hoá đối với các lớp học sinh. Chuồ có một bản thống kê như thế thì việc chọn giảng từ ngữ Hán Việt dễ tuỳ tiện, thầy giáo này có thể chọn những từ này, thầy giáo khác lại chọn giảng những từ khác, miễn là từ Hán Việt. Liên quan đến việc lựa chọn các từ ngữ để dạy, liên quan đến dung lượng kiến thức cần truyền thụ và liên quan đến cả phương pháp giảng dạy từ ngữ.

<span class='text_page_counter'>(104)</span> Hán Việt nữa là vấn đề vai trò của các yếu tố cấu tạo từ trong việc nhận thức nghĩa của từ Hán Việt. Về mặt lí thuyết cũng như trên thực tế, việc hiểu ý nghĩa của từ không tuỹ thuộc vào việc hiểu ý nghĩa của các yếu tố cấu tạo nên nó. Người ta' có thể hiểu ý nghĩa của một từ mà không hiểu một tí gì ý nghĩa của yếu tố cấu tạo, vì từ là một đơn vị chỉnh thể và ý nghĩa của nó là mối quan hệ trực tiếp giữa nó với hiện thực khách quan và khái niệm mà nó biểu thị. Và như vậy việc nắm vững ý nghĩa của các yếu tố cấu tạo từ là không cần thiết vì nó không tổn hại gì đến việc giao tiếp của xã hội. Cách tiếp cận này là cách tiếp cận thông thường, nó giảm nhẹ được một phần đáng kể' gánh nặng của người học mà không làm giảm sút độ phong phú về từ ngữ của họ. Gần đây có nhiều tác giả, nhất là Phan Ngọc và Phan Thiều rất coi trọng vai trò của các yếu tố cấu tạo từ đối với việc lí giải ý nghĩa của từ Hán Việt. Phan Ngọc đua ra một con số thống kê khá hấp dẵn. Theo thống kê của tác giả thì với 200 âm tiết Hán Việt không dùng độc lập như “trước” hậu “sau” cộng với trên 1000 âm tiết vẫn dùng độc lập và trở nên quen thuộc với người Việt đến nỗi không thấy nó là Hán Việt nữa, không cần phải giảng cũng hiểu (như nhung, nỉ,cô, cậu) người ta có thể cấu tạo và giải thích 2 vạn từ Hán Việt thường dùng nhất. Phan Thiều không dùng phương pháp thống kê như Phan Ngọc, mà dùng công thức toán học về khả năng lắp ráp N X (N - 1) : 2, trong đó N là số lượng các yếu tố dùng để lắp ráp, để tính toán sự tiết kiệm công sức của phương pháp đi từ nghĩa yếu tố đến nghĩa của từ. Theo công thức này thì học 100 từ tô Hán Việt, ta có thể hiểu được 100 X 99 : 2 = 4.950 từ ghép. Như vậy, theo công thức lắp ráp của Phan Thiều thì muốn hiểu 2 vạn từ Hán Việt của Phan Ngọc, người ta chỉ cần học 200 yếu tố cấu tạo từ. Quả đó là một sự tiết kiệm đến cực kì nếu đó là sự thật. Nhưng rất tiếc là sự thật không phải như kết quả tính toán của Phan Thiều mà là ở bảng thống kê của Phan Ngọc. Chúng tôi không có trong tay bản thống kê của Phan Ngọc nhưng thử làm thống kê qua quyển Từ điển từ uà ngữ Hán.

<span class='text_page_counter'>(105)</span> Việt của Nguyễn Lân, kết quả không xa thống kê của Phan Ngọc mấy. Nguyễn Lân đã giải thích tất cả 1344 tiếng (âm tiết) và số lượng từ do các yếu tố này ghép lại khoảng 17.000 từ. Tuy nhiên, đối với con số thống kê này, chúng ta cần phải có cái nhìn bình tĩnh. Bình tĩnh để tránh quá lạc quan, đê khỏi đơn giản hoá vấn đề, do không nhìn thấy cái khó khăn phức tạp trong việc dạy và học từ Hán Việt. Trước hết đứng về mặt số lượng, ta cứ tưởng là ít, trên 1 nghìn yếu tố thì có đảng là bao ! Nhưng trên thực tế thì mỗi âm tiết là một tập hợp nhiều yếu tố khác nhau, những yếu tố đồng âm khác nghĩa. Như âm tiết thiên chẳng hạn, ít ra nó cũng có 4 nghĩa rất khác nhau : "trời", "nghìn", "đời", "lệch về một bên". Đây là bốn yếu tố khác nhau, chính vì vậy mà chữ Hán đã có 4 chữ khác nhau. Như vậy, đem con số 1.344 âm tiết đó mà nhân lên 2, 3 lần thì con số yếu tố cũng đã lên đến khoảng 3 nghìn, một con số .không còn nhỏ nữa. Đó là chưa kể đến- hiện tượng một yếu tố lại có thể bao hàm nhiều nghĩa : nghĩa gốc và các nghĩa phái sinh. Như khổ vừa có nghĩa là "đắng" (trong khổ tận cam lai) lại vừa có nghĩa là "vất vả" (trong khổ cônợ, khổ dịch), "đau xót" (trong khổ não, khổ tâm) v.v... Mặt khác không nên quá nhấn mạnh, đi đến chỗ tuyệt đối hoá vai trò của các yếu tố cấu tạo đối với việc lí giải ý nghĩa của từ Hán Việt. Nói rằng với 1200 yếu tố có thể cấu tạo nên 2 vạn từ thì chẳng có gì sai, nhưng nói rằng có thể dùng 1200 yếu tố để giải thích (hay theo cách nói của Phan Thiều là để luận ra) nghĩa của 2 vạn từ thỉ lại không hoàn toàn đúng. Quả thật có nhiều từ Hán Việt nghĩa của nó dễ dàng suy ra từ nghĩa của các yếu tố như ái quốc là "yêu nước", quốc kì là "cờ tượng trựng cho một nước", hoàng 'thổ là "đất vàng", v.v... Nhưng cũng có khá nhiều từ'có thể biết rất rõ nghĩa của từng yếu tố mà không tài nào luận ra nghĩa của từ. Chẳng hạn, học sinh chUci được giảng giải thì dù có hiểu tủ là "con", mẫu là "mẹ",.số là "con số" cũng không luận ra được nghĩa của các từ tử số và mẫu số ; hiểu được thiên là "trời", hạ là "dưới" mà vẫn không luận ra được nghĩa của từ thiên hạ ;.

<span class='text_page_counter'>(106)</span> hiểu được độc là "một mình" và lập là "đứng" mà vẫn không hiểu được thế nào là độc Điều này cũng dễ hiểu, lí thuyết ngôn ngữ học đã chỉ cho chúng ta thấy rằng nghĩa của từ không phải là nghĩa của các yếu tố cộng lại một cách giản đơn, nghĩa của từ mang tính chất thành ngữ tính. Nghĩa của từ gắn bó với khái niệm, với tư duy, gắn bó với đời sống xã hội, gắn bó với cả lịch sử. Cho nên cái quan niệm chỉ cần học ít (yếu tố), để hiểu được nhiều (từ), cái cách giảng từ theo lối chiết tự có lẽ chỉ có tác dụng trong một phạm vi nhất định. Nếu như chỉ cần hiểu yếu tố mà có thể hiểu được ý nghĩa của từ thỉ hoá ra việc biên soạn những quyển từ điển tường giải lấy từ làm đơn vị giải thích là một công việc thừa. Thấy rõ những hạn chế của yếu tố cấu tạo từ đối với việc hiểu nghĩa của từ, như đã trình bày ở trên, cũng là để thấy rõ việc học tập các yếu tố Hán Việt không phải chỉ đơn thuần xuất phát từ quan điểm tiết kiệm. Có lẽ việc hiểu các yếu tố cấu tạo từ Hán Việt còn đem lạị nhiều lợi ích khác quan trọng hơn trong việc hiểu từ (việc thủ đắc từ) - chúng tôi xin nhấn mạnh là việc hiểu từ chứ không phải việc hiểu nghĩa của từ. Khái niệm hiểu từ rộng hơn khái niệm hiểu nghĩa của từ. Việc hiểu nghĩa của từ là bước thứ nhất, là yêu cầu tối thiểu trong việc hiểu từ. Có thể dừng lại ờ đây. Có thể tự thoả mãn ở bước này. Nhưng cũng có thể đí sâu thêm một bước để hiểu vì sao cái từ đó lại được cấu tạo như thế. Và ở bước này, vai trò của yêu tô cấu tạo là rất quan trọng. Từ các yêu tố ta có thể hiếu được nghĩa đen, nghĩa gốc của từ và từ đó mà hiểu được cái nghĩa bóng, nghĩa phái sinh của nó. Từ các yếu tố, trong nhiều trường hợp, ta có thể biết được một tập quán, một quan niệm triết lí nhân sinh. Thấp thoáng phía sau các yếu tố cấu tạo từ có khi là một hình ảnh sinh động, một điển tích, một câu chuyện truyền thuyết. Cho nên có thể nói rằng hiểu từ mà hiểu đến bước này là hiểu đến chân tơ kẽ tóc, hiểu được cái phong phú, cái sinh động của từ, là đạt đến sự thẩm mĩ, là tăng thêm sự kì thú đối với từ..

<span class='text_page_counter'>(107)</span> Thiên tử nghĩa là "nhà vua", và cái tên gọi "con trời" ờ đây phản ánh một cách nhìn thần thánh hoá uy quyền tuyệt đối của nhà vua. Trung Quốc cái tên gọi của nước láng giềng phía bắc nước ta xuất phát từ quan niệm ngày xưa cho rằng Trung Hoa là trung tâm của thế giới. Sự chuyển biến ý nghĩa của yếu tố ĐÔNG trong đồng phương sang ĐÔNG có nghĩa là "người chủ" trong cổ đông là do một tập quán ngày xưa của người Trung Hoa : khi tiếp khách người chủ ngồi ở phía đông. Bâng nhân nếu giở cuốn từ điển của Hoàng Phê chủ biên thì chỉ biết nghĩa "người làm mối trong cuộc hôn nhân", nhưng sao lại là bâng nhân ? Phải tìm đến một cuốn từ điển khác, chẳng hạn quyển Từ điển từ uà ngữ Hán Việt của Nguyễn Lân thì mới hiểu được, ơ đây băng có nghĩa Ịà "nước ở trạng thái rắn", nhân là "người". Từ này được hình thấnh do một truyền thuyết trong cuốn sách Tấn thư Trung Quốc, trong đó một nhân vật nằm mơ thấy mình đứng trên tảng băng và luận rằng sẽ là người làm mối cho người ta lấy nhau. Đối với từ là như vậy, 'đối với ngữ lại càng là như vậy. Trong tiếng Việt có rất nhiều thành ngữ Hán Việt, như : /ực bất tòng tâm, tứ cố vô thân, đồng sàng dị mộng, hậu khả uỷ,khổ tận cam lai. Những thành ngữ này rất hay, mang những giá trị tu từ học rất độc đáo, nhưng nếu không hiểu được các yếu tố cấu tạo của nó thì không hiểu được đầy đủ giá trị của thành ngữ. Cũng có những thành ngữ, do nghe nhiều, dùng nhiều trong giao tiếp, nhờ có ngữ cảnh, người ta có thể hiểu được ý nghĩa của nó,- nhưng sự nhận thức ở đây có phần đại khái, lại nghèo nàn, bị mất mát đi nhiều. Ngoài ra còn một lợi ích nũồ, là do hiểu biết về yếu tố Hán Việt mà tránh được sự lẫn lộn về từ, nhất là những từ về ngữ âm gần giống nhảu như bàng quan và bàng quang, bàn hoàn và bàng hoàng, v.v... Như vậy, qua. sự phân tích trên đây có thể thấy rằng chúng ta đang đứng trước những hiện tượng nhiều chiều, dường như mâu thuẫn nhau, phủ định lẫn nhau, nhưng lại bổ sung cho nhau. Một mặt thì v hiểu nghĩa của từ.

<span class='text_page_counter'>(108)</span> không cần thiết phải qua việc hiểu các yếu tố cấu tạo nhưng mặt khác việc hiểu nghĩa của các yếu tố cũng có ích nhất định cho việc hiểu nghĩa từ. Một mặt, đứng về cấu tạo mà xét thì yếu tố là cái sơ đổng đối với nhưng-mặt' khác việc hiêu các yêu tố câu tạo nên nó là một bước di sâu thêm, một bước tăng trưởng kiến thức trong việc hiểu từ. Vì lợi ích nhiều mặt như trên đã nói, nên cần thiết phải dạy cho học sinh các yếu tố Hán Việt. Trong số các yếu tố có một bộ phận được dùng trong tiếng Việt vừa với tư cách là từ vừa với tư cách là yếu tố cấu tạo từ ghép, như lợi và hại trong từ lợi hại. Loại yếu tố này thường là dễ hiểu đối với học sinh. Khó hiểu, cần phải học trước hết là những yếu tố không độc lập. Và sự lựa chọn ở đây lại có phần giống cách lựa chọn các từ khi dạy ngoại ngữ nghĩa là dí từ những yếu tố có nghĩa cụ thể đến những yếu tố có nghĩa trừu tượng, từ những yếu tố biểu thị những sự vật, hiện tượng gần gũi đến những yếu tố biểu thị những sự vật hiện tượng xa lạ. Như vậy, bảng tần số xuất hiện các yếu tố lại có giá trị tham khảo rất lớn. Căn cứ vào tiêu chuẩn này, có lẽ những yếu tố Hán Việt về số đếm như nhất, nhị,tam, tứ, ngũ, lục, thất, bát, cửu, thập, bách, thiên, những từ như thiên (trời), (đất), nhân (người), sơn (núi), hà,giang (sông), thuỷ (nước), quốc (nước), gia (nhà), tiền (trước), hậu (sau), giáo (dạy), độc (đọc), khán (xem), vô (không), hữu (có),... nên được lựa chọn trước. Đáng tiếc là cho đến nay, một danh sách các yếu tố quán triệt nguyên tắc này vẫn chưa có. Trong cải cách giáo dục, nhà trường lại bắt đầu coi trọng việc dạy và học từ ngữ Hán Việt, đó là điều đáng mừng*. Khối lượng từ Hán Việt đồ sộ thật đấy, kiến thức cần truyền thụ cũng không phậi là ít. Không nên đơn giản hoá vấn đề nhưng cũng đừng ngợp. Như trên đã nói, có nhiều môi trường, nhiều điều kiện thuận lợi cho việc thủ đắc từ ngữ. Trong nhà trường cũng không phải chỉ có phân môn Tiếng Việt là có trách nhiệm dạy từ ngữ Hán Việt. Bộ môn Văn là một trợ thủ đắc lực. Tất cả các bộ môn khác đều giảng giải các từ ngữ chuyên ngành trong số đó không ít là từ ngữ Hán Việt. Phân môn Tiếng Việt.

<span class='text_page_counter'>(109)</span> (nói đúng hơn là phân môn Ngôn ngữ học trong nhà trường) chỉ có thể truyền thụ những kiến thức khái quát, một khối lượng nhất định các yếu tố từ ngữ. Nhà trường chỉ có thể cung cấp cho các em một vốn liếng cơ bản để ra đời học sinh tiếp tục trau dồi, bổ túc thêm. Cái khó nhất hiện nay vẫn là trình độ. của giáo viên và sách giáo khoa. Giáo viên của chúng ta hiện nay nói chung không đủ trình độ để giảng dạy có kết quả lớp từ ngữ này. Sách giáo khoa cũng phạm sai sót khi giải thích và thể hiện nhiều lúng túng trong biên soạn như từ "thị xã" thì giảng thị là "chợ", xã là "đơn vị hành chính ở nông thôn". Đối với từ phong cảnh không thấy giảng nghĩa các yếu tố nhưng đến mục mở rộng lại thấy giảng phong ba, phong quang, phong cầm trong đó phong đều-có nghĩa là "gió". Phong trong phong ba, phong cầm có nghĩa là "gió" thì đúng, nhưng phong trong phong cảnh, phong quang đâu có nghĩa là "gió" ? Chúng ta chưa dạy tốt cho học sinh mà lại đòi hổi học sinh phải có trình độ tốt thì đó là một (Tiều không tưởng. Nhớ lại trước đây, trong một kì thf tốt nghiệp cấp 3 phổ thông người ta đã lấy bài thớ của Bác Hồ gửi người đã có lòng tốt biếu Bác mấy quả cam, trong đó Bác chơi chữ thành ngữ khổ tận cam lai. Có thí sinh đã giải thích cam ở đây có nghĩa là "cam lai giống". Và có người đã tỏ "nỗi đau lòng" trước cái trình độ quá ư non kém đó của học sinh. Nhưng tôi nghĩ quả cũng đau lòng thay cho cẫc em vì các em đã phải thực hiện một đề thi vượt quá trình độ học vấn của mình. Tương lai, để tránh được những sự "đau lòng" như trên, có lẽ còn bao nhiêu việc phải làm, phải nghiên cứu, thực nghiệm xung quanh vấn đề dạy và học từ ngữ Hán Việt mà bài viết này không thể bàn hết được.. NHÂN MÙA CƯỚI NÓI CHUYỆN LAI LỊCH CHỮ "SONG HỈ” ở Việt Nam cũng như ở Trung Quốc, trong các phòng cưới, người ta thường trang trí chữ song Hỉ có nghĩa là "mừng, vui". Chữ song hỉ do hai chữ hỉ ghép.

<span class='text_page_counter'>(110)</span> lại. Chữ song hỉ bắt nguồn từ một câu chuyện truyền thuyết dân gian của Trung Quốc sau đây : Vương An Thạch (Tể tướng, nhà biến pháp nổi tiếng) thời Bắc Tống, 23 tuổi, về kinh dự thi. ở Biện Kinh (vùng Khai Phong, tỉnh Hà Nam, Trung Quốc bấy giờ) đĩ qua nhà viên ngoại họ Mã thấy dán ở cổng một câu đối : Ngọc đế hành binh, phong thương vũ t kì thiềm cổ, thiên tác chứng. Câu này có nghĩa là : "Ngọc đế hành binh, giáo tên (ào ào) như gió như muici, cờ mở trống giong (ầm ầm) như sấm như sét, trời làm chứng". Vương An Thạch đọc vế câu đối liền vỗ tay : "Đối được, đối .được !". Một gia đinh viên ngoại họ Mã thấy vậy liền chắp tay mà rằng : "Câu đối ra đã mấy tháng nay mà chẳng ai đối được. Bây giờ nếu cậu đối được để tôi bẩm ông chủ cầu kiến cậu.". Vì ngày mai đã vào thi nên Vương An Thạch phải đi gấp đến nhà người cậu ruột, không chờ gia đính nhà viên ngoại trở lại. Ngày hôm sau, ở trường thi, Vương trổ tằi nhả ngọc phun châu, quan chủ khảo thấy Vương hãy còn trẻ tuổi mà tài hoa xuất chúng, liền truyền Vương đối diện khẩu thí. Chủ khảo chỉ vào một lá cờ có thêu con rồng bay rồi đọc một câu bắt Vương đối : Long vương thiết yến, nguyệt chúc tinh đăng, sơn thực hải tửu, địa vi môi. Câu này có nghĩa là : "Long vương thiết tiệc, đuốc đèn (sáng) như trăng như sao, cỗ, rượu (nhiều) như núi như biển, đất làm Ynối". Vương An Thạch nhớ đến câu đối đã ra ở nhà Mã viên ngoại, đem đối với câu này thì rất chỉnh, bèn ứng khẩu đối ngay khiến quan chủ khảo vô cùng vui sướng. Vương thi xong, trở về nhà ông cậu thì đã thấy gia đình Mã viên ngoại chờ sẵn cung kính mời Vương đến nhà. Viên ngoại gặp Vương liền mang bút mực ra mời Vương đối. -Vương vung bút viết ngay câu của quan chủ khảo để đối lại. Mã viên ngoại cả mừng, sai a hoàn chuyển vế câu đối của Vương cho con gái xem. Cô gái xem xong thấy đối rất chỉnh, chữ viết lại rồng bay phượng múa liền đỏ mặt e thẹn tỏ ý ưng thuận. Mã viên ngoại vui mừng nói với Vương An Thạch : "Câu đối này cô gái độc nhất của tôi ra để kén chồng, treo đã nửa nặm mà không ai đối được, nay Vương tướng công đối được có thể nói là trời.

<span class='text_page_counter'>(111)</span> đã tác hợp”. Mã viên ngoại lập tức chọn ngày lành tháng tốt, sau ba ngày sẽ thành hôn. Ngày thứ ba là ngày cưới, bỗng ở ngoài cổng người reo ngựa hí, có hai người bước đến báo tin vui : "Vương đại nhân quan tinh cao chiếu, kim bảng đề danh, đỗ đầu trạng nguyên. Hoàng thượng ừiệu kiến, xin mờí ngày mai vào kinh dự tiệc.". Trống kèn dậy đất, pháo mừng nổ ran, Vương An Thạch vái lạy trời đất rồi vào động phòng. Cô dâu thủ thỉ : "Vương lang tài cao học rộng, nhất cử thành danh, đêm nay lại động phòng hoa chúc, thật là đại đăng khoa'va tiểu đăng khoa,- song hỉ ĩâm môn". Vương nghe xong cả cười kể lại câu chuyện và nói : "Đây là nhờ em ra câu đối hay chứ đâu phải công của anh”. Nói đoạn, Vương cầm bút viết trên tờ giấy hồng chữ hỉ và ngâm một bài thơ : Xảo đối liên thành hồng song hỉ, thiên môi địa chứng kết ti la. Kim bảng đề danh động phòng dạ, tiểu dâng khoa dữ dại dăng khoa. Có nghĩa là : Câu đối khéo thành hổng song hỉ (hai niềm vui), trời làm mối đất làm chứng, kết tơ duyên. Bảng vàng có tên, đêm dọng phòng, tiểu dăng khoa và đại dâng khoa. Từ đó về sau hình thành tục dán chữ song hỉ ở các phòng cưới. Lai lịch chữ song hỉ là như vậy. Nhân đây xin nói thêm về cách dán chữ song hỉ lên tường. Cách đây đã lâu, tôi đến dự một đám cưới, thấy có một chữ song hỉ dán ngược. Tôi nghĩ lỗi nậy do người trang trí không biết chữ Hán gây ra. Sau này đọc sách của Trung Quốc tôi mới biết hoá ra ở Trung Quốc có những vùng như Sơn Đông người ta cố ý dán ngược chữ song hỉ lên tường. Có tập tục này là do hiện tượng đồng âm trong tiếng địa phương vùng này. Trong tiếng địa phương Sơn Đông, chữ đảo (có nghĩa là "ngược") đồng âm với chữ đáo (có nghĩa lấ "đến,- tới"). Chữ song hỉ dấn ngược tức là.

<span class='text_page_counter'>(112)</span> song hỉ dáo có nghĩa là "niềm vui to lớn (hạnh phúc) đã đến". Tập tục dán ngược này không chỉ đối với chữ song hỉ mà cả đối với những chữ khác. Ngày lễ ngày têt, người ta dán ngược chữ phúc với ý là "phúc tới nhà". Tú Xương có câu : Tối ba mươi, co cẳng đạp thảng bắn ra khỏi cửa Sáng mồng một, giơ tag bồng ông phúc vào nhà. Các nhà buôn ở vùng này thì dán ngược chữ tài (tiền của) với ý nguyện cầu mong làm ăn phát tài, tiền vào như nước. Dán ngược chữ song hỉ là một tập tục ở.một số địa phương Trung Quốc. Còn ở Việt Nam không có tập tục đó, xin đừng dán ngược chữ song hỉ !. TÀI LIỆU THAN KHẢO 1. Đào Duy Anh, Từ điển Hán NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 2001. 2. Phan Văn Các, Từ điển Hán NXB Giáo dục, Hà Nội, 1994. 3. Phan Văn Các, xử lí các yếu tố gốc Hán trong ngôn ngữ sách giáo khoa phổ thông, trong tập Những uấn đề ngôn ngữ sách giáo khoa, tập II, Hà Nội, 1983, tr. 34 - 45. 4. Nguyễn Tài cẩn, Nguồn gốc và quá trình hình thành cách đọc Hán Việt,NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 1979. 5. Trương Chính, Dạy và học tiếng Việt ở trường phổ thông, trong Tiếng Việt,số 1/1988, tr. 27 - 28. 6. Hoàng Văn Hành - Hồ Lê, Bàn về cách dùng từ ngữ "thuần Việt" thay thế cho từ ngữ Hán Việt, trong Nghiên cứu ngôn ngữ học, tập I, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 1968..

<span class='text_page_counter'>(113)</span> 7. Nguỳễn Văn Khang, Từ Hán Việt và vấn đề dạy học từ Hán Việt trong nhà trường phổ thông, trong Ngôn ngữ, số 1/1994, tr. 24 - 33. 8. Nguyễn Lân, Từ điển từ và ngữ Hán Việt, NXB Thành phố Hồ Chí Minh, 1989. 9. Phan Ngọc, Mẹo giải nghĩa Hán NXB Đà Nắng, 1991. 10.. Đặng Đức Siêu, Từ Hán Vi - nhìn từ tiếp xúc ưăn hoá, trong Tiếng. Việt,1989, tr. 94 -100. 11. Nguyễn Thị Tân, Việc giải thích các từ ngữ gốc Hán trong sách trích giảng cấp II, III,trong Ngôn ngữ, số phụ 1 / 1984, tr. 8 - 12. 12. Nguyễn Văn Thạc, Về vấn lạm dụng từ Hán trong Nghiên cứu ngôn ngữ học, tập I, NXB Khoa học xễ hội, Hà Nội, 1968. 13. Phan Thiều, Dạy cho học sinh nắm các yếu tố với các kiểu quan hệ ngữ nghĩa trong các đơn định danh, trong Tiếng Việt (số phụ của tạp chí Ngôn ngữ), SC 1/1988, tr. 27 - 28. 14. Nguyễn Như Ý - Nguyễn Văn Khang - Phan Xuân Thành, Từ điển thành ngữ Việt Nam, NXB Văn hoá, Hà Nội, 1993. 15. Viện Ngôn ngữ học, Từ điển yếu tố Hán Việt thông dụng, NXB Khoa học xằ hội, Hà Nội, 1991..

<span class='text_page_counter'>(114)</span>

×