Tải bản đầy đủ (.pdf) (128 trang)

Báo in hà nội với vấn đề giáo dục lối sống văn minh, thanh lịch cho công dân thủ đô (khảo sát trên báo hà nội mới, phụ nữ thủ đô, tuổi trẻ thủ đô từ tháng 012014 đến tháng 122014 )

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.18 MB, 128 trang )

1

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA
HỒ CHÍ MINH

HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN

NGUYỄN THỊ BÌNH

BÁO IN HÀ NỘI VỚI VẤN ĐỀ GIÁO DỤC LỐI SỐNG
VĂN MINH, THANH LỊCH CHO CÔNG DÂN THỦ ĐÔ
(Khảo sát trên báo Hà Nội mới, Phụ nữ Thủ đô, Tuổi trẻ Thủ đô
từ tháng 01/2014 đến tháng 12/2014 )

LUẬN VĂN THẠC SĨ BÁO CHÍ HỌC

HÀ NỘI – 2015


2

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA
HỒ CHÍ MINH

HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN

NGUYỄN THỊ BÌNH



BÁO IN HÀ NỘI VỚI VẤN ĐỀ GIÁO DỤC LỐI SỐNG
VĂN MINH, THANH LỊCH CHO CÔNG DÂN THỦ ĐÔ
(Khảo sát trên báo Hà Nội mới, Phụ nữ Thủ đô, Tuổi trẻ Thủ đô
từ tháng 01/2014 đến tháng 12/2014 )
Chuyên ngành
Mã số

: Báo chí học
: 60 32 01 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ BÁO CHÍ HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC :TS. Lê Thị Nhã

HÀ NỘI – 2015


3

Luận văn đã được chỉnh sửa theo khuyến nghị của Hội đồng chấm
luận văn thạc sĩ.
CHỦ TỊCH HỘI ĐỒNG

PGS.TS Nguyễn Văn Dững


4

LỜI CAM ĐOAN

Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tơi. Luận văn
được hồn thành dưới sự hướng dẫn khoa học của TS. Lê Thị Nhã. Số liệu và
tài liệu trích dẫn trong bài là hồn toàn trung thực và đáng tin cậy. Kết quả
của luận văn khơng trùng lặp với những cơng trình nghiên cứu trước đây.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Nguyễn Thị Bình


5

LỜI CẢM ƠN
Em xin chân thành cảm ơn các Thầy, Cơ giáo của Khoa Báo chí, Học
viện Báo chí và Tuyên truyền đã tận tình truyền đạt kiến thức cho em và các
học viên trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu tại Học viện. Kiến thức
tiếp thu được trong q trình học tập khơng chỉ là nền tảng cho q trình
nghiên cứu khoa học mà cịn là hành trang quý báu giúp em trong công việc
và sự nghiệp của bản thân.
Em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến TS. Lê Thị Nhã, người hướng dẫn
khoa học đã tạo điều kiện giúp đỡ trong quá trình nghiên cứu và hoàn thành luận văn.


6

DANH MỤC BẢNG, BIỂU
Bảng 2.1: Tỷ lệ xuất hiện các tin bài về giáo dục lối sống văn minh, thanh
lịch trên các báo Hà Nội mới, Tuổi trẻ Thủ đô, Phụ nữ Thủ đô ................ 38
Bảng 2.2: Thống kê về tỷ lệ các nội dung thông tin tuyên truyền trên các
báo Hà Nội mới, Tuổi trẻ Thủ đô, Phụ nữ Thủ đô .................................... 43
Biểu đồ 2.3: Tỷ lệ các tác phẩm phổ biến văn bản pháp luật, chính sách của

Đảng, Nhà nước trên các báo Hà Nội mới, Tuổi trẻ Thủ đô, Phụ nữ Thủ đô .. 44
Biểu đồ 2.4: Tỷ lệ các tác phẩm viết về hành vi, lối sống của công dân thủ
đô trên các báo Hà Nội mới, Tuổi trẻ Thủ đô, Phụ nữ Thủ đô .................. 49
Biểu đồ 2.5: Tỷ lệ các tác phẩm viết về hành vi, lối sống của công dân thủ đô
trên các báo Hà Nội mới, Tuổi trẻ Thủ đô, Phụ nữ Thủ đô ....................... 50
Biểu đồ 2.6: Tỷ lệ các tác phẩm biểu dương gương điển hình về giáo dục lối
sống văn minh, thanh lịch của công dân thủ đô trên các báo Hà Nội mới,
Tuổi trẻ Thủ đô, Phụ nữ Thủ đô ............................................................... 57
Bảng 2.7: Tỷ lệ sử dụng hệ thống các thể loại sử dụng trên các báo Hà Nội
mới, Tuổi trẻ Thủ đô, Phụ nữ Thủ đô ...................................................... 62
Bảng 3.1: So sánh tỷ lệ các nội dung thông tin trên các báo Hà Nội mới,
Tuổi trẻ Thủ đô và Phụ nữ Thủ đô với nhu cầu của độc giả……..……...86


1

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU....................................................................................................... 1
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ VẤN ĐỀ GIÁO DỤC
LỐI SỐNG VĂN MINH, THANH LỊCH CHO CÔNG DÂN THỦ ĐÔ
TRÊN BÁO IN HÀ NỘI.............................................................................. 10
1.1. Khái niệm, đặc điểm của báo in......................................................... 10
1.2. Vai trò của báo in Hà Nội đối với giáo dục lối sống văn minh thanh
lịch cho công dân thủ đô........................................................................... 16
1.3. Giới thiệu các tờ báo in Hà Nội trong diện khảo sát........................... 32
Chương 2: THỰC TRẠNG BÁO IN HÀ NỘI VỚI VẤN ĐỀ GIÁO DỤC
LỐI SỐNG VĂN MINH, THANH LỊCH CHO CÔNG DÂN THỦ ĐÔ .... 38
2.1. Tần suất và phương thức tổ chức thông tin về vấn đề giáo dục lối sống
văn minh, thanh lịch cho công dân thủ đô trên báo in Hà Nội................... 38
2.2. Báo in Hà Nội tác động tới công chúng thủ đô qua thông tin sâu rộng

về vấn đề giáo dục lối sống văn minh, thanh lịch...................................... 42
2.3. Hình thức tác động của báo in Hà Nội về vấn đề giáo dục lối sống văn
minh, thanh lịch cho công dân thủ đô ....................................................... 61
Chương 3: MỘT SỐ KHUYẾN NGHỊ NHẰM NÂNG CAO CHẤT
LƯỢNG BÁO IN HÀ NỘI VỚI VIỆC GIÁO DỤC LỐI SỐNG VĂN
MINH, THANH LỊCH CHO CÔNG DÂN THỦ ĐÔ............................... 76
3.1. Những thành công và hạn chế của báo in Hà Nội với việc giáo dục lối
sống văn minh, thanh lịch cho công dân thủ đô ........................................ 76
3.2. Những vấn đề đặt ra.......................................................................... 80
3.3. Một số khuyến nghị nhằm nâng cao chất lượng báo in Hà Nội với vấn
đề giáo dục lối sống văn minh, thanh lịch cho công dân thủ đô...............85
KẾT LUẬN................................................................................................. 94
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................... 96
PHỤ LỤC.................................................................................................. 100


1

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Hà Nội là nơi hội tụ những tinh hoa của dân tộc Việt Nam. Năm 1999,
Hà Nội được Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên Hợp Quốc
(UNESCO) vinh danh là “Thành phố vì hịa bình” cho những đóng góp trong
cuộc đấu tranh vì hịa bình cũng như trong sự nghiệp phát triển, xây dựng
thành phố phù hợp với những tiêu chí do UNESCO đề ra về bình đẳng trong
cộng đồng, xây dựng đơ thị, giữ gìn mơi trường sống, thúc đẩy phát triển văn
hóa, giáo dục, chăm lo giáo dục công dân và thế hệ trẻ. Ngày 04­10­2000, Hà
Nội đã vinh dự đón nhận danh hiệu “Thủ đơ anh hùng” vì những cơng lao to
lớn trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Ngày 29­5­2008, Kỳ họp
thứ ba Quốc hội khóa XII thơng qua Nghị quyết về việc điều chỉnh địa giới

hành chính thành phố Hà Nội. Nghị quyết có hiệu lực thi hành từ ngày 01­8­
2008. Hà Nội thực sự trở thành trung tâm chính trị ­ hành chính quốc gia, là
trung tâm lớn về văn hóa, khoa học, giáo dục, kinh tế và giao dịch quốc tế.
Bên cạnh đó, cùng với tốc độ phát triển của một thủ đô, đô thị lớn hiện
đại, Hà Nội biến đổi mạnh mẽ về mọi mặt. Q trình tồn cầu hóa và hội nhập
quốc tế mở ra nhiều cơ hội cũng như thách thức đối với sự phát triển kinh tế ­
xã hội của Thủ đô Hà Nội. Người Hà Nội mang phong cách sống, lối ứng xử
hiện đại hơn. Những hủ tục đã giảm, những lễ nghi, tập tục, ứng xử trong gia
đình, họ hàng, xóm phố cũng đơn giản, thơng thống hơn...Tuy nhiên, mặt trái
của q trình mở rộng giao lưu, hội nhập cũng có những tác động khơng nhỏ.
Sự phai nhạt trong ứng xử văn hóa, đạo đức, nét thanh lịch truyền thống qua
nhiều biểu hiện trong cuộc sống hàng ngày. Do vậy, công tác chăm lo, đầu tư
cho sự phát triển văn hóa, xây dựng con người Hà Nội thanh lịch, văn minh là
vô cùng quan trọng và cần thiết trong thời kỳ hội nhập và phát triển.


2

Báo chí nói chung và báo in Hà Nội nói riêng đã có nhiều đóng góp tích
cực đối với thành tựu phát triển trên mọi lĩnh vực của thủ đô và đất nước. Đối
với lĩnh vực văn hóa, các cấp ủy đảng và chính quyền Hà Nội ln coi trọng
việc thực hiện nội dung xây dựng “Người Hà Nội thanh lịch, văn minh”. Tiêu
chí đặt ra dựa trên nền tảng xây dựng con người mới Việt Nam xã hội chủ
nghĩa, bổ sung những nét tinh tế, thanh lịch đặc trưng của người Hà Nội qua
các thời kỳ lịch sử. Xác định rõ điều này, các cơ quan báo chí, đặc biệt là đối
với những tịa soạn báo của thủ đơ luôn coi việc giáo dục lối sống văn minh,
thanh lịch cho công dân là việc làm cần thiết và lâu dài. Bằng việc phản ánh
các góc cạnh của vấn đề này một cách sinh động, những người làm báo đã
giúp cho đông đảo công chúng thủ đô hiểu và thực hiện theo một cách tự
nguyện, tự giác, góp phần phát triển văn hóa thủ đơ.

Tuy nhiên, trên thực tế bên cạnh những thành công mà báo in Hà Nội đã
làm được trong việc giáo dục lối sống văn minh, thanh lịch cho cơng dân thủ
đơ thì vẫn cịn tồn tại một sơ hạn chế như báo in Hà Nội cịn tập trung vào
việc biểu dương, ngợi ca mà còn hạn chế phản ánh những mặt trái hay góc
khuất trong lối sống của cơng dân thủ đơ. Đó là lý do tác giả chọn “Báo in
Hà Nội với vấn đề giáo dục lối sống văn minh, thanh lịch cho công dân
Thủ đơ” làm đề tài luận văn. Mục đích tìm ra những thành công, hạn chế
thông qua việc khảo sát, nghiên cứu thực trạng Báo in Hà Nội với vấn đề giáo
dục lối sống văn minh, thanh lịch cho công dân Thủ đơ để qua đó đề xuất một
số khuyến nghị góp phần nâng cao chất lượng của báo in Hà Nội trong tuyên
truyền về vấn đề này.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
+ Một số cơng trình nghiên cứu về lĩnh vực văn hóa:
Sở Văn hóa thơng tin Hà Nội (1974), Người Hà Nội thanh lịch, Nxb Hà
Nội. Cơng trình nghiên cứu này phân tích, đánh giá những giá trị văn hóa và


3

biểu hiện chất thanh lịch ở người Hà Nội trong lịch sử và trong cuộc sống hàng
ngày lúc đó, đặc biệt nhấn mạnh nét đẹp thanh lịch trong cuộc sống tập thể.
Vũ Khiêu, Nguyễn Vĩnh Cát (1991), Văn hóa Thủ đơ hơm nay và ngày
mai, Sở Văn hóa thơng tin Hà Nội. Thơng qua việc phân tích và đánh giá văn
hóa Thủ đơ qua 45 năm xây dựng và phát triển (1945 ­ 1990) các tác giả đã
làm rõ sự biến đổi cách thức ứng xử trong sinh hoạt vật chất, tinh thần và
cuộc vân động xây dựng nếp sống văn minh – gia đình văn hóa khi đất nước
mới bước vào thời kì đổi mới. Bên cạnh đó, các tác giả còn dự báo xu hướng
phát triển của nếp sống văn hóa tiếp theo qua các mối quan hệ ứng xử trong
gia đình, xã hội…
Nguyễn Viết Chức (2001), Nếp sống người Hà Nội, Nxb Văn hóa thơng

tin, Hà Nội. Tác giả làm rõ khái niệm nếp sống và đánh giá khái quát quá
trình phát triển nếp sống người Thăng Long – Hà Nội qua các thời kì lịch sử.
Đồng thời tác giả dự báo biến đổi nếp sống trong thời kì CNH – HĐH đất
nước. Tác giả cịn chỉ ra những vấn đề tồn tại và đưa ra một số kiến nghị xây
dựng nếp sống người Hà Nội trong thời gian tới.
Nguyễn Phú Trọng (2003), Phát huy hào khí Thăng Long - Hà Nội xây
dựng Thủ đô ngày càng giàu đẹp, văn minh, hiện đại , Nxb Hà Nội. Cuốn sách
tuyển chọn một số bài viết, bài nói của đồng chí Nguyễn Phú Trọng về Thủ đơ
Hà Nội và những quan điểm, tư tưởng chỉ đạo của các chủ trương công tác của
Đảng bộ Hà Nội, quyết tâm xây dựng thủ đô văn minh, giàu đẹp và hiện đại.
Phùng Hữu Phú, Ngô Thị Thanh Hằng, Vũ Khiêu, Kỷ yếu Hội thảo
Khoa học kỷ niệm 995 năm Thăng Long - Hà Nội, Nxb. Hà Nội. Cuốn kỷ yếu
khái quát 38 báo cáo, tham luận, nghiên cứu về con người Hà Nội từ nhiều
góc độ khác nhau cụ thể như: Văn minh, thanh lịch, văn hoá, thẩm mĩ, ứng
xử, phẩm chất và phong cách... của người Hà Nội.
Trần Thị Tuyết Mai, Nguyễn Quốc Huy, Nguyễn Thu Trang, Nguyễn
Duy Kiên (2011), Hỏi đáp về xây dựng nếp sống văn minh, Nxb Chính trị


4

Quốc gia. Nội dung cuốn sách giải đáp những nội dung cụ thể của việc xây
dựng nếp sống văn minh: việc cưới, việc tang, tổ chức lễ hội, phong trào tồn
dân đồn kết xây dựng đời sống văn hố, hành vi vi phạm nếp sống văn minh,
hình thức mức phạt và thẩm quyền xử phạt. Bên cạnh đó cịn giới thiệu một
số văn bản về thực hiện nếp sống văn hố.
+ Một số luận văn truyền thơng đại chúng với nội dung về vai trị của báo chí
với vấn đề giữ gìn, phát huy và bảo tồn các giá trị văn hóa truyền thống:
Luận văn thạc sĩ truyền thơng đại chúng, chun ngành báo chí học có
tiêu đề “Vai trị của báo chí trong việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa

Việt Nam hơm nay” của Ngơ Thị Phương Thảo năm 2001. Trên cơ sở tìm
hiểu về bản sắc văn hoá Việt Nam, mối quan hệ giữa báo chí và bản sắc văn
hố dân tộc Việt Nam, tác giả tiến hành nghiên cứu vai trị của báo chí trong
việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hố dân tộc và các hình thức thể hiện của
tác phẩm báo chí viết về bản sắc văn hố dân tộc Việt Nam.
Luận văn thạc sĩ truyền thông đại chúng, chuyên ngành báo chí học “Báo
điện tử Việt Nam và vấn đề văn hóa dân tộc” của Đỗ Minh Hồng năm 2006.
Tác giả đã nêu khái niệm và đặc điểm của báo điện tử, khái niệm văn hóa và
truyền thống văn hóa dân tộc, quan điểm của Đảng và Nhà nước về văn hóa
dân tộc. Nghiên cứu sự vận động và phát triển của báo điện tử cũng như hình
thức thể hiện nội dung truyền thống văn hóa dân tộc trên báo điện tử. Đánh
giá những đóng góp về mặt lý luận cũng như thực tiễn của 4 tờ báo điện tử:
Viet Nam Net, Thanh niên online, Nhân dân điện tử trên lĩnh vực văn hóa dân
tộc. Đưa ra những ý kiến đóng góp vào cơng tác lý luận báo chí. Cụ thể là vai
trò của báo điện tử với truyền thống văn hóa dân tộc.
Luận văn thạc sĩ truyền thơng đại chúng, chuyên ngành báo chí học của
Lê Vũ Điệp, năm 2007 với đề tài: “Vấn đề bảo tồn và phát huy di sản văn hóa
phi vật thể của Việt Nam trên báo chí”. Tác giả nghiên cứu nhận thức và quan


5

điểm trong hội nhập toàn cầu về di sản văn hóa, đặc biệt là quan điểm của
Đảng và Nhà nước Việt Nam về vấn đề bảo tồn và phát huy di sản văn hóa
phi vật thể; Nghiên cứu vai trị của UNESCO trong việc phát triển văn hóa
phi vật thể tại Việt Nam và của báo chí trong việc giữ gìn và bảo tồn các giá
trị văn hóa phi vật thể; Đưa ra những đề nghị điều chỉnh: chính sách văn hóa,
chính sách với văn hóa phi vật thể về phương hướng bảo tồn, phát huy di sản
văn hóa phi vật thể.
+ Một số luận văn truyền thông đại chúng với nội dung về vai trị của

báo chí đối với công chúng thủ đô:
Luận văn thạc sĩ truyền thông đại chúng, chuyên ngành báo chí học của
Bùi Việt Hà năm 2006 với tựa đề “Tác động của quảng cáo trên báo chí đối
với việc định hướng giá trị của cơng chúng trẻ đô thị Việt Nam hiện nay”.
Tác giả giải mã các thơng điệp quảng cáo trên truyền hình ở Việt Nam,tìm
hiểu những giá trị mà những người làm truyền thông muốn chuyển tải tới
công chúng thông qua những quảng cáo đó; Khái quát những tác động của
quảng cáo đối với việc định hướng giá trị hay sự thay đổi trong nhận thức và
hành vi của công chúng và đề xuất những giải pháp nhằm nâng cao chất
lượng quảng cáo trên các phương tiện truyền thông đại chúng và điều tiết các
khuynh hướng quảng cáo sao cho vừa đáp ứng nhu cầu thơng tin, vừa góp
phần xây dựng được định hướng giá trị đúng đắn và phù hợp với xã hội Việt
Nam hiện đại đang trên con đường xây dựng một nền văn hóa tiên tiến, đậm
đà bản sắc dân tộc.
Luận văn thạc sĩ truyền thông đại chúng, chuyên ngành báo chí học với
đề tài “Báo chí với việc hình thành và định hướng dư luận xã hội cho nhân
dân thủ đô” của Lưu Thị Thanh Hồng năm 2005. Tác giả trình bày một số
vấn đề lý luận chung về dư luận xã hội : Khái niệm, sự hình thành và phát
triển, cơ sở khoa học của nghiên cứu, nắm bắt và phân tích. Đồng thời khảo


6

sát thực tiễn hoạt động của các cơ quan làm nhiệm vụ nghiên cứu, nắm bắt dư
luận xã hội. Từ đó đề xuất một số giải pháp để nâng cao chất lượng và hiệu
quả của báo chí trong việc hình thành và định hướng dư luận nhân dân thủ đô.
Các cơng trình nghiên cứu như đã nêu trên có nội dung liên quan đến đề
tài tuy nhiên chưa có cơng trình nào nghiên cứu về vai trị của báo chí đối với
vấn đề giáo dục lối sống văn minh, thanh lịch cho cơng dân Thủ đơ. Vì vậy có
thể khẳng định rằng đề tài “Báo in Hà Nội với vấn đề giáo dục lối sống văn

minh, thanh lịch cho công dân Thủ đơ” là đề tài mới.
3. Mục đích, nhiệm vụ
3.1. Mục đích
Thơng qua việc khảo sát thực trạng báo in Hà Nội với vấn đề giáo dục lối
sống văn minh, thanh lịch cho công dân Thủ đô nhằm đánh giá những thành
cơng, hạn chế qua đó đề xuất một số khuyến nghị góp phần nâng cao chất
lượng của báo in Hà Nội trong tuyên truyền về vấn đề này.
3.2. Nhiệm vụ
Để đạt được mục đích nghiên cứu như trên luận văn cần thực hiện những
nhiệm vụ sau:
+ Hình thành cơ sở về lý luận và thực tiễn về vấn đề giáo dục lối sống
văn minh, thanh lịch cho công dân Thủ đơ trên báo chí nói chung và báo in
nói riêng.
+ Khảo sát thực trạng báo in Hà Nội với vấn đề giáo dục lối sống văn
minh, thanh lịch cho công dân Thủ đô.
+ Từ những vấn đề đặt ra đề xuất một số khuyến nghị góp phần nâng cao
chất lượng của báo in Hà Nội với vấn đề giáo dục lối sống văn minh, thanh
lịch cho công dân Thủ đô.


7

4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là: Nghiên cứu thực trạng Báo in Hà
Nội với vấn đề giáo dục lối sống văn minh, thanh lịch cho công dân Thủ đô.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu ba tờ báo in tiêu biểu của thủ đô. Đây là
ba tờ báo đi tiên phong trong việc đưa các chỉ thị, nghị quyết vào thực tế cuộc
sống. Cụ thể là đối với vấn đề giáo dục lối sống văn minh, thanh lịch cho

công dân Thủ đô các tờ báo này khai thác, cung cấp thông tin tới độc giả với
số lượng lớn tin bài. Đó là:
+ Báo Hà Nội mới
+ Báo Tuổi trẻ thủ đô
+ Báo Phụ nữ thủ đô
Thời gian khảo sát: từ tháng 01/2014 đến tháng 12/2014.
5. Phương pháp nghiên cứu
Đối với đề tài này, tác giả sử dụng một số phương pháp nghiên cứu khoa
học như:
+ Phương pháp nghiên cứu các tài liệu văn bản sẵn có liên quan đến đề
tài nhằm hình thành khung lý thuyết về vấn đề nghiên cứu.
+ Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi: Phương pháp này nhằm thu thập
các ý kiến của độc giả về tác động của báo in Hà Nội với vấn đề giáo dục lối
sống văn minh, thanh lịch cho công dân Thủ đô. Đối tượng nghiên cứu của
bảng hỏi là các công dân thủ đô đã đọc và quan tâm tới các vấn đề nghiên cứu
trên tờ báo: Hà Nội mới, Tuổi trẻ Thủ đô và Phụ nữ Thủ đô.Từ điều tra công
chúng, người nghiên cứu thu nhận được các thông tin đáp ứng các yêu cầu
của mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu.


8

+ Phương pháp phân tích nội dung: dùng để phân tích nội dung và hình
thức các bài viết về vấn đề giáo dục lối sống văn minh, thanh lịch cho công
dân thủ đô trên ba tờ báo in của thủ đơ trong thời gian khảo sát. Từ đó tìm
ra thành công cũng như hạn chế của báo in Hà Nội với vấn đề giáo dục lối
sống văn minh, thanh lịch cho công dân Thủ đô.
+ Phương pháp phỏng vấn sâu: tiến hành phỏng vấn sâu một số phóng
viên đang làm việc tại các tòa soạn báo trong diện khảo sát nhằm thu thập ý
kiến của họ về vấn đề giáo dục lối sống văn minh, thanh lịch cho công dân thủ

đơ trên các tờ báo để từ đó đưa ra một số khuyến nghị góp phần nâng cao chất
lượng thơng tin của báo in Hà Nội về vấn đề này.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Luận văn đã xây dựng một số cơ sở lý luận cơ bản về khái niệm, đặc
điểm cũng như thế mạnh và hạn chế của báo in. Bên cạnh đó, luận văn cũng
đề cập đến một số vấn đề liên quan đến vai trò của báo in Hà Nội đối với giáo
dục lối sống văn minh, thanh lịch cho công dân thủ đô hiện nay.
6.2. Nghĩa thực tiễn
Thông qua việc khảo sát thực trạng báo in Hà Nội đối với giáo dục lối
sống văn minh, thanh lịch cho công dân thủ đô, luận văn đưa ra thực trạng và
một số nhận định giúp các cơ quan báo chí, các cơ quan liên quan có cái nhìn
tồn diện hơn về vai trị của báo in Hà Nội đối với cơng tác tuyên truyền vấn
đề giáo dục lối sống văn minh, thanh lịch cho cơng dân Thủ đơ.
Luận văn cịn đưa ra những số liệu cụ thể giúp các cơ quan báo chí có thể
sử dụng làm tài liệu tham khảo hay rút ra một số kinh nghiệm trong công tác
thông tin, tuyên truyền của báo in Hà Nội đối với vấn đề giáo dục lối sống
văn minh, thanh lịch cho công dân Thủ đô.


9

7. Kết cấu
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
nội dung chính của luận văn được kết cấu 3 chương 9 tiết:
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn về vấn đề giáo dục lội sống văn
minh, thanh lịch cho công dân Thủ đô trên Báo in Hà Nội.
Chương 2: Thực trạng báo in Hà Nội với vấn đề giáo dục lối sống văn
minh, thanh lịch cho công dân Thủ đô.
Chương 3: Một số khuyến nghị nhằm nâng cao chất lượng báo in Hà Nội

với vấn đề giáo dục lối sống văn minh, thanh lịch cho công dân Thủ đô.


10

Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ VẤN ĐỀ GIÁO DỤC
LỐI SỐNG VĂN MINH, THANH LỊCH CHO CÔNG DÂN THỦ ĐÔ
TRÊN BÁO IN HÀ NỘI
1.1. Khái niệm, đặc điểm của báo in
1.1.1. Khái niệm Báo in
Báo chí là thuật ngữ dùng chỉ để chỉ một loại hình truyền thơng đại
chúng hiện đại mang tính định kỳ, thơng tin thời sự các sự kiện, vấn đề đời
sống xã hội. [44, tr. 27]
Tờ báo giấy đầu tiên xuất hiện tại thành phố Venice (Ý) vào những năm
cuối thế kỷ 16 dành cho giới quý tộc địa phương, nhưng những tờ báo đầu
tiên này đều là những tờ báo của chính phủ. Những chính phủ khác sau đó
cũng tiếp thu kế hoạch của thành phố Venice, xây dựng cho mình những tờ
công báo. Dần dần công báo phát triển thịnh hành vào những năm cuối thế kỷ
16, mở đầu cho ngành báo chí sau này. Ngày nay tại bảo tàng Magliabechian
ở Florence còn lưu trữ khoảng 30 tờ báo đầu tiên trên thế giới, và tất cả đều
được viết tay.
Nếu Ý là nơi đầu tiên khai sinh ra ý tưởng về báo giấy nhưng chỉ được
viết tay thì người Anh là những người đầu tiên cho ra đời loại báo in. Máy in
ra đời năm 1447 với công lao to lớn của Johann Gutenberg, một nhà phát
minh người Anh. Sự ra đời của công nghệ in đã đặt nền tảng cho kỷ ngun
phát triển của báo chí hiện đại.
Có rất nhiều quan niệm khác nhau về báo in:
Trong Điều 1 tại Nghị định số 51/2002/NĐ­CP ngày 26/4/2002 của Chính
Phủ quy định chi tiết thi hành Luật Báo chí, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của

Luật Báo chí giải thích: “Báo in” là tên gọi loại hình báo chí được thực hiện bằng
phương tiện in (báo, tạp chí, bản tin thời sự, bản tin thông tấn).


11

Báo in còn được hiểu là những ấn phẩm xuất bản định kỳ, đăng tải các sự
kiện vấn đề thời sự, phát hành rộng rãi nhằm phục vụ công chúng – nhóm đối
tượng nào đó với mục đích nhất định. [17, tr.152]
Báo in là thuật ngữ chỉ một loại hình báo chí định kỳ thơng tin thời sự
các sự kiện, các vấn đề trong đời sống xã hội thông qua việc sử dụng ngôn
ngữ chữ viết và kỹ thuật in ấn để chuyển tải thông tin. [39, tr.2]
Qua các quan điểm trên, ta có thể rút ra khái niệm về báo in: Báo in là một
loại hình báo chí, chuyển tải nội dung các vấn đề, sự kiện bằng văn bản, chữ
viết, ký tự, hình ảnh thơng qua trang giấy cung cấp thông tin cho độc giả”.
1.1.2. Đặc điểm của báo in
Báo in là sản phẩm mang tính định kỳ về thời gian và định kỳ về nội
dung. Tính định kỳ của báo in chính là sự xuất hiện theo chu kỳ đều đặn và cố
định của sản phẩm báo. Dù cho báo in có thơng tin về một sự kiện mới xảy ra
hay một vấn đề mới nảy sinh trong đời sống xã hội thì nội dung này chỉ đến
với độc giả vào thời gian cố định mà mỗi tờ báo quy định. Chu kỳ xuất hiện
của báo in có ý nghĩa quan trọng đối với báo in vì nó quy định thời điểm mà
cơng chúng đón nhận sản phẩm báo in. Ví dụ, cứ 6 giờ sáng hằng ngày người
ta có thể mua các tờ nhật báo buổi sáng ở bất kỳ quầy bán báo nào trong thành
phố. Nếu định kỳ của báo in bị phá vỡ thì có nghĩa là phá vỡ ln thói quen
mua (hay nhận) báo in vào giờ đó của người đọc và người đọc sẽ đi tìm
phương tiện khác để thỏa mãn nhu cầu thơng tin của mình.
Sản phẩm báo in được phát hành rộng rãi trong xã hội, từng loại báo,
từng tờ báo in đều có đối tượng riêng. Ví dụ: Báo Nhân dân dành cho cán bộ
Đảng viên, và tất cả những ai quan tâm đến vấn đề chính trị, xã hội trong và

ngoài nước; Báo Nhi đồng là chuyên trang dành cho lứa tuổi dưới 10 tuổi và
các bậc phụ huynh, các nhà giáo dục…


12

Báo in chuyển tải nội dung thông tin thông qua văn bản in gồm: chữ in, hình
vẽ, tranh ảnh, sơ đồ, biểu đồ… Toàn bộ các yếu tố thể hiện nội dung thông tin của
tác phẩm báo in xuất hiện đồng thời trước mặt người đọc hầu như ngay trên cùng
một trang báo. Sự đồng hiện của báo in được thể hiện bằng những thông tin cùng
xuất hiện đồng thời trên trang báo in, thơng qua việc trình bày tổ chức trang báo
bao gồm các phần: tên chuyên mục, tiêu đề, tít, sapơ hoặc những dịng chữ gây
chú ý, tít phụ cùng sự hỗ trợ của hình vẽ, tranh ảnh, sơ đồ, biểu đồ… Công chúng
đọc một bài báo in có thể do tít và sapơ hấp dẫn hay cũng có thể do tranh ảnh, biểu
đồ minh họa thêm gây chú ý cho họ. Cũng chính vì vậy mà có thể nói sự đồng
hiện thơng tin của các bài viết trên cùng một trang báo in là một lợi thế nhất định
của báo in. Cơng chúng có thể cùng lướt mắt trên tồn bộ bài báo và sau đó có thể
tìm những thơng tin thú vị hoặc cần thiết cho mình. Cũng chính sự đồng hiện các
yếu tố thể hiện của một bài báo trên một trang giấy cũng làm ảnh hưởng lớn đến
cơng tác biên tập nội dung, tít, sapơ và phần chính văn của một bài báo in.
1.1.2.1. Thế mạnh của báo in
Thế mạnh đầu tiên của báo in đó là người đọc hồn tồn chủ động trong
việc tiếp nhận thông tin từ báo in. Việc tiếp nhận thơng tin thơng qua việc bố
trí thời điểm đọc, cách đọc, tốc độ đọc… Tùy vào thời gian rảnh rỗi của mỗi
người mà có thể đọc báo bất cứ lúc nào, khác với phát thanh và truyền hình,
người nghe có thể nghe bất cứ lúc nào nhưng thông tin không được rõ vì có
thể nghe đoạn cuối nói nhưng khơng nghe đoạn đầu nên dễ gây hiểu nhầm
cho người nghe. Mặt khác, người đọc có thể tùy hứng, đọc chậm rãi hay lướt
qua, hoặc chú tâm vào các chi tiết, cịn với phát thanh, truyền hình tùy vào
việc đưa thơng tin và các đọc của biên tập viên, nghĩa là người nghe xem bị

phụ thuộc. Bên cạnh đó, người đọc có thể lướt nhanh để nắm bắt thơng tin và
lựa chọn thơng tin nào mình nên đọc trước và người đọc có thể đọc theo sở
thích của mình. Điều này tạo cho báo in có khả năng thơng tin những nội
dung phức tạp và sâu sắc hơn.


13

Thế mạnh thứ hai của báo in thể hiện qua khả năng lưu trữ thơng tin
trên báo in bằng trí não. “Khả năng lưu trữ sản phẩm cơ học và lưu trữ thơng
tin bằng trí não qua báo in rất bền vững. Về mặt lưu trữ cơ học, bằng chứng
do khả năng nhân bản và ý thức lưu trữ mà nhiều tờ báo in ở trên thế giới
cũng như ở Việt Nam vẫn được lưu trữ bền vững trong các thư viện, bảo tàng
hoặc cá nhân. Đây là những bằng chứng về lịch sử, pháp lý, phát minh khoa
học… vãn nguyên giá trị. Về lưu trữ bằng trí não, việc đọc và ghi nhớ thông
tin của báo in qua các ký tự, con chữ, hình ảnh tĩnh (tranh, ảnh) đã giúp cho
việc lưu trữ thông tin của các tác phẩm, sản phẩm báo in trên vỏ não con
người rất tốt. Điều này, các loại hình báo chí nghe nhìn khó có thể đạt được
như báo in”. [26, tr.35]
Thế mạnh thứ ba của báo in đó là: Báo in trở thành nguồn tài liệu quý
giá đối với người đọc vì báo in có khả năng bình giải, luận bàn sự kiện một
cách sâu sắc, hơn thế nữa so với các phương tiện truyền thông khác, các nội
dung của báo in được kiểm sốt chặt chẽ, biên tập cơng phu hơn để tránh đến
mức thấp nhất về sự sai lệch thông tin. Chính vì thế, rất nhiều các bài viết trên
báo in đã được thu thập, lưu trữ trở thành nguồn tài liệu đáng tin cậy, được sử
dụng trong cả các trích dẫn khoa học. Hiện nay, một số trang báo mạng chỉ
chạy theo tốc độ, số lượng nên dẫn đến tình trạng cẩu thả trong việc cung cấp
thông tin. Những tin bài mang tính giật gân, câu khách, khơng đúng với bản
chất sự kiện xuất hiện thường xuyên. Với cách thông tin cẩu thả, thiếu xác
thực một số trang báo, trang tin điện tử đã và đang làm mất đi niềm tin của

độc giả. Trình độ hiểu biết của bạn đọc ngày càng cao, trong thời đại công
nghệ số như hiện nay thật dễ dàng để họ tiếp nhận nhiều luồng tin tức từ các
nguồn khác nhau. Chính vì vậy họ không chỉ đơn thuần là người được cung
cấp thông tin mà họ cịn có khả năng đánh giá, so sánh, thẩm định thơng tin.
Do vậy, độc giả có thể dễ dàng phát hiện ra những thông tin sai lệch, thiếu
trung thực.


14

Thế mạnh thứ tư của báo in đó là sản phẩm dễ sử dụng: “Sản phẩm dễ
sử dụng là vì độc giả có thể mang một tờ báo đi bên người đến bất cứ không
gian, địa điểm nào để đọc mà không bị lệ thuộc vào các điều kiện ngoại cảnh.
Mặt khác, việc chủ động đọc trên từng trang chữ và thời gian đọc giúp cho
độc giả thư thái và không bị lệ thuộc như việc vào mạng, chờ thời gian để
xem các tin tức, giải trí trên mạng hoặc trên màn hình tivi, radio”. [26, tr.38]
Hiện nay nhiều tờ báo in cịn chú trọng đổi mới cách thức trình bày, sinh
động, đẹp mắt. Các bài báo khơng chỉ có phần chữ viết mà nội dung còn được
thể hiện qua nhiều hình thức khác như: biểu đồ, lược đồ, tranh, ảnh, box
thông tin sao cho phù hợp cách đọc, cách tiếp nhận của nhiều đối tượng công
chúng...giúp họ không bị mỏi mắt, có cảm giác chán vì những trang giấy dày
đặc chữ viết.
Thế mạnh thứ năm của báo in được thể hiện qua việc báo in mang lại
cảm xúc vật chất cho độc giả: “Cảm giác được cầm trên tay tờ báo thơm mùi
giấy thật sự thấy thân thiện và gần gũi hơn nhiều khi click chuột hoặc chạm
tay trên bàn phím máy tính, điện thoại di động. Hình ảnh những sạp báo,
những người bán báo dạo với tiếng rao ấn tượng mỗi sớm mai cũng tạo ra sự
thú vị, độc đáo gắn với mỗi tờ báo giấy”. [52, tr.8]
1.1.2.2. Hạn chế của báo in
Hạn chế đầu tiên của báo in là khả năng cập nhật và phát tán thông tin

chưa cao. Lý do của việc này là bởi báo in chủ xuất hiện một thời điểm cụ thể
và nhất định với nội dung thông tin đề cập đến các vấn đề, sự kiện trong cả
một chu kỳ xuất bản. Vì vậy mà tính cập nhật thời sự của báo in cịn hạn chế.
Bên cạnh đó, việc phát tán thơng tin cũng mang nhiều hạn chế: “Công tác
phát hành sản phẩm báo in chủ yếu qua hình thức trao tay và phụ thuộc rất
nhiều vào điều kiện địa lý, cơ sở hạ tầng giao thông và các vấn đề kỹ thuật cơng nghệ làm báo. Điều này, các loại hình báo chí như báo mạng điện tử,


15

phát thanh và truyền hình có khả năng thơng tin trực tiếp, trực tuyến, tương
tác đa chiều, cập nhật liên tục, do đó, đây là cơ hội đồng thời là thách thức
cạnh tranh phát triển của báo in với các loại hình báo chí khác”. [26, tr.39]
Hạn chế thứ hai của báo in chính là sự đơn điệu và khả năng giải mã
thơng tin. Điều này có thể làm cho việc đọc báo in bị giảm sự hứng thú nếu
nội dung thông tin không tạo được sự chú ý. Thêm vào đó chỉ những người
biết chữ mới có thể đọc báo, khơng giống như các loại hình khác như phát
thanh, truyền hình dù khán, thính giả khơng biết chữ thì họ vẫn có thể đón
nhận thơng tin thơng qua những âm thanh, hình ảnh mà họ nghe, nhìn được.
Hạn chế thứ ba đó là khả năng tương tác của báo in rất kém. Báo in chủ
yếu sử dụng hình thức tương tác một chiều, gián tiếp qua các hình thức như
tập hợp đơn thư phản hồi, điều tra theo đơn thư, trả lời trên mặt báo hoặc tổ
chức các chuyên đề chuyên sâu bàn về vấn đề công chúng đang quan tâm.
Việc xử lý thông tin phản hồi chậm và kém hiệu quả cũng là một trong những
lý do khiến cho báo in bị giảm dần lượng công chúng, nhất là các cơng chúng
trẻ tuổi, những người có trình độ văn hóa, tri thức cao và có ít thời gian dành
cho việc cập nhập tin tức.
Như vậy, thể loại báo chí xuất hiện lâu đời nhất, có ưu điểm là tính phổ
cập cao, nhiều vấn đề của đời sống, kinh tế, văn hóa,... được bàn giải chuyên
sâu, có chọn lọc với những bài chuyên luận sâu sắc việc kiểm duyệt, biên tập

được thực hiện chặt chẽ, kỹ lưỡng. Tuy nhiên, thông tin chậm, khả năng
tương tác hai chiều (giữa người đọc và người viết) so với các phương tiện báo
chí truyền thơng khác thì kém hơn. Giữa cuộc canh tranh khốc liệt giữa các
thể loại báo chí, một vài nhà nghiên cứu đã tiên đoán rằng báo in sẽ bị báo
phát thanh, truyền hình, báo mạng điện tử thay thế hồn tồn vào thế kỷ XX.
Tuy nhiên, tiên đốn này đã không đúng khi mà ở thế kỷ XXI, báo in vẫn tồn
tại song song với các loại hình báo chí, góp phần thúc đẩy sự phát triển của


16

nền báo chí Việt Nam nói riêng, báo chí thế giới nói chung. Bên cạnh đó, báo
in cũng là một nhân tố thúc đẩy sự phát triển kinh tế toàn cầu và thế giới tri
thức của con người. Cùng với sự phát triển vượt bậc của khoa học kỹ thuật,
công nghệ tiên tiến, báo in đang phát huy những điểm mạnh của mình và cố
gắng khắc phục những hạn chế để tương lai xa hơn, báo in vẫn bắt kịp với xu
thế báo chí hiện đại, đáp ứng sự nhanh nhạy về thông tin và đứng vững được
trên nền thị trường báo chí.
1.2. Vai trị của báo in Hà Nội đối với giáo dục lối sống văn minh
thanh lịch cho công dân thủ đô
1.2.1. Khái niệm về giáo dục lối sống văn minh, thanh lịch cho công
dân thủ đô
1.2.1.1. Giáo dục
“Giáo dục” theo nghĩa chung là hình thức học tập những kiến thức, kỹ
năng và thói quen của một nhóm người được trao truyền từ thế hệ này sang
thế hệ khác thông qua giảng dạy, đào tạo, hay nghiên cứu. [44, tr.236]. Bất cứ
trải nghiệm nào có ảnh hưởng đáng kể lên cách mà người ta suy nghĩ, cảm
nhận, hay hành động đều có thể được xem là có tính giáo dục.
“Về bản chất, giáo dục là quá trình truyền đạt và tiếp thu những kinh
nghiệm lịch sử xã hội của các thế hệ lồi người”. [18, tr.21]

Giải thích theo bộ mơn Giáo dục học thì có 2 cách hiểu:
“Giáo dục (theo nghĩa rộng) là sự hình thành nhân cách được tổ chức
một cách có mục đích, có tổ chức thông qua các hoạt động và các quan hệ
giữa nhà Giáo dục với người được giáo dục nhằm giúp người được giáo dục
chiếm lĩnh những kinh nghiệm xã hội của loài người”.
“Giáo dục (theo nghĩa hẹp) là một bộ phận của quá trình sư phạm, là
quá trình hình thành những cơ sở khoa học của thế giới quan, niềm tin, lý


17

tưởng, động cơ, tình cảm, thái độ, những tính cách, những hành vi, thói quen
cư xử đúng đắn trong xã hội, kể cả việc phát triển và nâng cao thể lực”.
Giáo dục ban đầu được thực hiện một cách đơn giản, trực tiếp ngay trong
lao động và trong cuộc sống, ở mọi lúc, mọi nơi. Khi xã hội ngày càng phát
triển lên, kinh nghiệm xã hội được đúc kết nhiều hơn, yêu cầu của xã hội đối
với con người ngày càng cao hơn, các loại hình hoạt động xã hội ngày càng
mở rộng hơn thì giáo dục theo phương hướng trực tiếp khơng cịn phù hợp mà
địi hỏi phải có một phương thức giáo dục khác có hiệu quả hơn. Giáo dục
gián tiếp theo phương thức nhà trường, được thực hiện một cách chuyên biệt
ra đời và ngày càng phát triển đáp ứng ngày càng tốt nhu cầu của xã hội. Sự
phát triển đó là do yêu cầu tất yếu của xã hội và do những sức mạnh to lớn
của giáo dục tạo ra sự phát triển của xã hội. Chính vì vậy, vai trị của giáo dục
đối với sự phát triển về mọi mặt của xã hội ngày càng được chứng minh ở cả
bề rộng lẫn bề sâu và trong mọi lĩnh vực của đời sống.
Thông qua các khái niệm, quan niệm đã nêu trên, ta có thể hiểu “Giáo
dục là quá trình truyền tải và tiếp thu những kiến thức, kỹ năng thơng qua
hình thức giảng dạy hay đào tạo”
1.2.1.2. Lối sống
“Lối sống là toàn bộ cách thức, phép tắc, định hướng và tổ chức đời

sống cá nhân và tập thể của một cộng đồng xã hội”. [29, tr.36]
“Lối sống là một tổng thể, một hệ thống những đặc điểm chủ yếu nói lên
hoạt động của các dân tộc, các giai cấp các nhóm xã hội, các cá nhân, trong
những điều kiện của một hình thức kinh tế xã hội nhất định.” [ 30, tr.120]
“Lối sống là một phạm trù xã hội học. Nó là một tổng thể những hình
thái hoạt động của con người, phản ảnh các đặc điểm sinh hoạt vật chất, tinh
thần của cộng đồng người đã tạo ra lối sống đó”. [29, tr.45]


18

Lối sống là tiêu chí đầu tiên, tiêu chí tổng hợp nhất, thể hiện chất lượng
văn hố và trí tuệ của một con người. Lối sống không chỉ là hành vi như cách
đi lại, ăn nói, nó là hành vi hiểu theo nghĩa rộng, bao gồm tư duy, làm việc và
phương cách xử lý các mối quan hệ. Lối sống bao gồm nhiều yếu tố cấu thành
như: cách thức làm ăn, kinh doanh, các phong tục tập quán, cách thức giao
tiếp ứng xử với nhau, quan niệm về đạo đức và nhân cách…
Trên lý thuyết, người ta phân biệt giữa lối sống cộng đồng và lối sống cá
nhân. Tuy nhiên, trong thời đại tồn cầu hố, khái niệm này là tương đối.
Chúng ta đang sống trong một thời đại mà khơng ai có thể đứng ngồi mối
quan tâm và lợi ích chung, khơng quốc gia nào có thể đứng ngồi các các mối
quan tâm và quyền lợi của cộng đồng thế giới. Để tạo ra cuộc sống người ta
phải đi lại, va chạm, gia nhập vào cộng đồng thế giới. Trong xã hội hiện đại,
nhờ những phương tiện kỹ thuật tiên tiến, sự giao lưu của con người không
chỉ khắc phục được những hạn chế cố hữu về thời gian và khơng gian trước
đây mà cịn diễn ra với sự đổi mới cơ bản về chất, nghĩa là khoảng cách giữa
lối sống cá nhân và lối sống cộng đồng càng ngày càng bị thu hẹp lại.
Cũng như hành vi cá nhân, lối sống cá nhân không tuyệt đối. Lối sống cá
nhân bị lệ thuộc rất nhiều vào lối sống cộng đồng. Cộng đồng sống, với cá
nhân đó, được định nghĩa như là một thói quen, một tiêu chuẩn được chấp

nhận bởi cộng đồng sống thường xuyên mà người ta gọi là lưu trú, cư trú. Mật
độ thời gian đi lại, giao lưu với các cộng đồng khác ngày càng lớn hơn do nhu
cầu làm ăn phát triển, hội nhập, giao lưu... Như vậy các cá nhân không những
va chạm với cộng đồng mình mà cịn va chạm với cộng đồng khác và các
cộng đồng cũng va chạm với nhau. Điều này tạo ra sự hình thành các tiêu
chuẩn về lối sống, về giao lưu rất đặc biệt trong thời đại của chúng ta.
Như vậy, chúng ta có thể hiểu: “Lối sống là tổng thể những hoạt động cả
về vật chất và tinh thần của con người.


×