Tải bản đầy đủ (.pdf) (68 trang)

V i lênin bảo vệ và phát triển lý luận chủ nghĩa mác về liên minh của giai cấp công nhân trong cách mạng xã hội chủ nghĩa và sự vận dụng của đảng cộng sản việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (547.71 KB, 68 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA
HỒ CHÍ MINH

HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN

ĐẶNG THỊ HỒNG

V.I.LÊNIN BẢO VỆ VÀ PHÁT TRIỂN LÝ LUẬN CHỦ

NGHĨA MÁC VỀ LIÊN MINH CỦA GIAI CẤP CÔNG NHÂN
TRONG CÁCH MẠNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VÀ SỰ VẬN
DỤNG CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP

HÀ NỘI – 2015

1


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA
HỒ CHÍ MINH

HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN

ĐẶNG THỊ HỒNG


KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC

V.I.LÊNIN BẢO VỆ VÀ PHÁT TRIỂN LÝ LUẬN CHỦ

NGHĨA MÁC VỀ LIÊN MINH CỦA GIAI CẤP CÔNG NHÂN
TRONG CÁCH MẠNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VÀ SỰ VẬN
DỤNG CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
NGÀNH
: TRIẾT HỌC
MÃ SỐ
: 60.22.85
CHUYÊN NGÀNH : CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC

GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN: PGS.TS ĐỖ CÔNG TUẤN

HÀ NỘI – 2015

2


LỜI CAM ĐOAN

Tơi cam đoan khóa luận này là do chính tơi thực hiện với sự hướng
dẫn của PGS. TS Đỗ Cơng Tuấn. Các tài liệu, số liệu và trích dẫn trong
khóa luận là hồn tồn chính xác, trung thực.

Hà Nội, ngày 28 tháng 5 năm 2015
TÁC GIẢ KHÓA LUẬN


ĐẶNG THỊ HỒNG

3


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU....................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1: QUAN NIỆM CỦA C.MÁC VÀ PH.ĂNGGHEN VỀ LIÊN
MINH CỦA GIAI CẤP CÔNG NHÂN TRONG CÁCH MẠNG XÃ HỘI
CHỦ NGHĨA ................................................................................................ 7
1.1. Quan niệm của C.Mác và Ph.Ăngghen về tính tất yếu của liên minh
giai cấp công nhân trong cách mạng xã hội chủ nghĩa................................. 7
1.2. Quan niệm của C.Mác và Ph.Ăngghen về nội dung cơ bản của liên
minh giai cấp công nhân trong cách mạng xã hội chủ nghĩa........................ 9
CHƯƠNG 2: V.I.LÊNIN PHÁT TRIỂN LÝ LUẬN CHỦ NGHĨA MÁC
VỀ LIÊN MINH CỦA GIAI CẤP CÔNG NHÂN TRONG CÁCH
MẠNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA.................................................................. 18
2.1. Tình hình chính trị Châu Âu, nước Nga và vấn đề đặt ra đối với lý luận
về liên minh giai cấp công nhân trong cách mạng xã hội chủ nghĩa .......... 18
2.2. V.I.Lênin phát triển lý luận Chủ nghĩa Mác về liên minh của giai cấp
công nhân trong cách mạng xã hội chủ nghĩa............................................ 22
CHƯƠNG 3: SỰ VẬN DỤNG LÝ LUẬN LIÊN MINH CỦA GIAI CẤP
CÔNG NHÂN TRONG CÁCH MẠNG VIỆT NAM ............................... 46
3.1. Sự vận dụng lý luận về liên minh của giai cấp công nhân trong cách
mạng dân tộc dân chủ nhân dân ................................................................ 46
3.2. Sự vận dụng lý luận về liên minh của giai cấp công nhân trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội....................................................................... 52
KẾT LUẬN................................................................................................. 61
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................... 62


4


MỞ ĐẦU
1. Lý do nghiên cứu đề tài:
Từ cuộc đời hoạt động lý luận và thực tiễn của mình, C.Mác và
Ph.Ăngghen đã nhận thấy và đánh giá đúng vị trí, vai trị của giai cấp cơng
nhân trong cách mạng xã hội chủ nghĩa. Đồng thời, hai ông cũng nêu lên sự
cần thiết và tính tất yếu của liên minh của giai cấp công nhân trong cách mạng
xã hội chủ nghĩa trong khi giành chính quyền cũng như khi giữ chính quyền.
Các ơng đã đặt nền móng cho lý luận Chủ nghĩa xã hội khoa học về liên minh
của giai cấp công nhân trong cách mạng xã hội chủ nghĩa như là điều kiện để
đảm bảo thắng lợi cho sự nghiệp cách mạng của giai cấp công nhân.
Trước những yêu cầu do lịch sử đặt ra, bởi sự phát triển của phong
trào, bởi chống lại luận điệu cơ hội, phản bội xét lại…V.I.Lênin đã vận dụng
và phát triển sáng tạo những quan điểm về liên minh của C.Mác và
Ph.Ăngghen trong giai đoạn chủ nghĩa tư bản đã phát triển cao – chủ nghĩa đế
quốc, đã tổ chức thành liên minh của giai cấp công nhân với các tầng lớp lao
động khác trong cách mạng xã hội chủ nghĩa tháng Mười Nga năm 1917.
Trong bước đầu của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, V.I.Lênin
càng mở rộng liên minh trong những hồn cảnh lịch sử mới. Liên minh khơng
chỉ có liên minh của giai cấp cơng nhân mà cịn liên minh với các tầng lớp lao
động khác. Khi phân tích về chun chính vơ sản, V.I.Lênin khẳng định rõ:
Chun chính vơ sản là một hình thức đặc biệt của liên minh giai cấp giữa
giai cấp vô sản, đội tiên phong của những người lao động, với đông đảo
những tầng lớp lao động không phải vô sản (tiểu tư sản, tiểu chủ, nơng dân, trí
thức, v.v.) hoặc với phần lớn những tầng lớp đó; liên minh nhằm chống lại tư
bản, liên minh nhằm lật đổ hoàn toàn tư bản, tiêu diệt hoàn toàn sự chống cự
của giai cấp tư sản và những mưu toan khôi phục của giai cấp ấy, nhằm thiết
lập và củng cố vĩnh viễn chủ nghĩa xã hội.


1


Lịch sử cách mạng Việt Nam cũng đã chứng minh rằng, vấn đề nơng
dân và trí thức chẳng những là nội dung cơ bản của cách mạng dân tộc dân
chủ, mà cịn là lực lượng có ý nghĩa quyết định đối với việc xác lập vai trò
lãnh đạo của Đảng ta và phương pháp cách mạng trong việc giành chính
quyền và giữ chính quyền.
Như vậy có thể khẳng định một lần nữa, liên minh của giai cấp công
nhân với các tầng lớp lao động xã hội khác trong cách mạng xã hội chủ nghĩa
là một nguyên lý cơ bản trong lý luận chủ nghĩa xã hội khoa học, là một
nguyên tắc chiến lược trong chủ nghĩa Mác – Lênin, một tất yếu phổ biến đối
với cuộc cách mạng do Đảng của giai lãnh đạo. Liên minh này có ý nghĩa
quan trọng đối với cách mạng nước ta, nhất là chặng đường đầu thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội. Chính vì thế, là một sinh viên chun ngành Chủ
nghĩa xã hội khoa học tôi xin chọn đề tài: “V.I.Lênin bảo vệ và phát triển lý
luận Chủ nghĩa Mác về liên minh của giai cấp công nhân trong cách
mạng Xã hội chủ nghĩa và sự vận dụng của Đảng Cộng sản Việt Nam” để
nhìn nhận và khẳng định hơn nữa sự thiết thực, quan trọng của vấn đề liên
minh của giai cấp công nhân trong cách mạng xã hội chủ nghĩa đối với việc
nghiên cứu chủ nghĩa Mác – Lênin nói chung và sự cần thiết cho cơng tác
giảng dạy sau này của cá nhân tơi nói riêng.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan
Những năm gần đây có nhiều tác giả đề cập nghiên cứu đến các khía
cạnh khác nhau có liên quan đến liên minh cơng nhân, nơng dân và tri thức.
Trước hết phải kể đến các công trình sau:
- Khoa Chủ nghĩa xã hội khoa học, TS Nguyễn Thọ Khang (Chủ biên)
[2013]: Giới thiệu một số tác phẩm của C.Mác và Ph.Ăngghen về chủ
nghĩa xã hội khoa học, Nxb. Chính trị - Hành chính, Hà Nội. Trình bày các

tác phẩm của C.Mác và Ph.Ăngghen, những luận điểm của hai ông về vấn

2


đề liên minh xem xét so sánh với luận điểm của V.I.Lênin về cùng vấn đề
lý luận.
- Khoa Chủ nghĩa xã hội khoa học, PGS.TS Đỗ Công Tuấn (Chủ biên)
[2013]: Giới thiệu một số tác phẩm của V.I.Lênin, Nxb.Chính trị - Hành
chính, Hà Nội. (Tập hợp một số tác phẩm kinh điển của V.I.Lênin có phần nội
dung và tham khảo phần tác phẩm cần nghiên cứu có đề cập đến vấn đề liên
minh và xem xét so sánh với luận điểm của V.I.Lênin về cùng vấn đề lý luận).
Ngoài ra cịn có:
- Khoa Chủ nghĩa xã hội khoa học, PGS.TS Đỗ Công Tuấn (Chủ biên)
[2013]: Đảng Cộng sản Việt Nam vận dụng và phát triển Chủ nghĩa xã hội
khoa học trong thời kỳ đổi mới, Báo cáo Tổng hợp kết quả nghiên cứu đề tài
cơ sở trọng điểm, Học viện Báo chí và Tuyên truyền, Hà Nội.
- Khoa Chủ nghĩa xã hội khoa học, PGS.TS Đỗ Công Tuấn (Chủ biên)
[2014]: Lịch sử học thuyết sứ mệnh lịch sử của giai cấp cơng nhân, Giáo trình
nội bộ dành cho hệ đào tạo sau đại học, Chuyên ngành Chủ nghĩa xã hội khoa
học, Học viện Báo chí và Tuyên truyền, Hà Nội.
- Giai cấp công nhân và tầng lớp tri thức trong nền “kinh tế tri thức”/
Nguyễn Đức Bách [2002]: Đề cương bài giảng – Học viện chính trị quốc gia
Hồ Chí Minh.
- Giai cấp công nhân trong sự nghiệp công nghiệp hóa – hiện đại hóa
đất nước/ GS.TS Dương Xuân Ngọc [2004]: NXB chính trị Quốc gia Hà Nội.
- Bài học kinh nghiệm từ các điển hình thực hiện liên minh công – nông
– tri thức ở nước ta hiện nay/ Bùi Thị Ngọc Lan: Thông tin chủ nghĩa xã hội
lý luận và thực tiễn – Số 16, tháng 12/2007.
- Những quan điểm cơ bản của C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin, Hồ Chí

Minh và Đảng ta về giai cấp và liên minh giai cấp trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội/ TS Phạm Ngọc Thanh [2005]: Đại học khoa học xã hội và
nhân văn.

3


- Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam: Những bài giáo dục chính trị cơ
bản trong cơng nhân lao động, NXB Lao Động, Hà Nội, 1998. Trong cơng
trình này, các tác giả đã chỉ rõ tính tất yếu khách quan của liên minh cơng –
nơng – trí thức trong sự nghiệp cơng nghiệp hóa và đưa ra những nội dung cơ
bản của liên minh này trong q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
- TS. Nguyễn Quang Du: Tăng cường khối liên minh giữa giai cấp công
nhân với giai cấp nơng dân và đội ngũ trí thức trong thời kỳ đổi mới, Tạp chí
lý luận chính trị, Số 2/2002. Trong bài viết này tác giả đã nêu lên thực trạng
của liên minh giữa công nhân với nông dân và trí thức, từ đó đưa ra một số
giải pháp để tăng cường khối liên minh giữa công nhân với nơng dân và trí
thức.
- TS. Phạm Cơng Nhất, PGS.TS Phan Thanh Khôi (đồng chủ biên): Một số
chuyên đề về những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin, NXB. Lý
luận chính trị, Hà nội, 2008, tập III, chuyên đề 3. Các tác giả đưa ra quan
niệm về liên minh, vị trí, vai trị của liên minh; tính tất yếu và nội dung của
liên minh trong thời kỳ quá độ; khái quát quá trình thực hiện liên minh, khẳng
định quan điểm của Đảng ta về xây dựng khối đại đồn kết dân tộc trên nền
tảng liên minh giữa cơng nhân với nơng dân và trí thức là động lực chủ yếu để
phát triển đất nước hiện nay. Từ đó, đưa ra một số phương hướng cơ bản
nhằm tăng cường khối liên minh ở nước ta.
- Trang web: www.dangcongsan.vn: Bài Xây dựng liên minh cơng, nơng
và trí thức trong cách mạng Việt Nam. Tác giả đã nghiên cứu quá trình thực
hiện liên minh cơng nhân với nơng dân và trí thức của Đảng ta trong thời kỳ

cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và khẳng định trong thời kỳ hiện nay,
qua đó rút ra bài học kinh nghiệm trong xây dưng và củng cố liên minh giữa
công nhân với nơng dân và trí thức.
Trong các cơng trình này đều đề cập đến vấn đề về giai cấp công nhân
và mối quan hệ của nó với giai cấp nơng dân và tầng lớp tri thức trên cơ sở lý

4


luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và thực tiễn cơng
cuộc đổi mới ở nước ta. Tác giả đi sâu nghiên cứu, phân tích góp phần làm rõ
các khái niệm, quan điểm và nội dung của vấn đề.
3. Giới hạn và phạm vi nghiên cứu
+ Khách thể nghiên cứu: Quá trình hình thành, phát triển lý luận về
liên minh của giai cấp công nhân trong cách mạng xã hội chủ nghĩa của
V.I.Lênin đối với Chủ nghĩa Mác theo cách tiếp cận logic – lịch sử.
+ Đối tượng nghiên cứu: quan điểm cơ bản của chủ nghĩa xã hội khoa
học về liên minh của giai cấp công nhân trong cách mạng xã hội chủ nghĩa
từng bước được hình thành và hồn thiện bởi các nhà kinh điển và ý nghĩa.
+ Giới hạn về đối tượng khảo sát: khảo sát qua các tác phẩm kinh điển
của C.Mác, Ph.Ăngghen và V.I.Lênin.
4. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục tiêu:
Trên cơ sở phân tích quan điểm của V.I.Lênin về liên minh của giai
cấp công nhân trong cách mạng xã hội chủ nghĩa qua một số tác phẩm tiêu
biểu, từ đó vận dụng lý luận liên minh của giai cấp cơng nhân trong cách
mạng Việt Nam.
Để có thể đạt được mục tiêu chính trên, phải hồn thành ba nhiệm vụ
dưới đây:
+ Thứ nhất, đưa ra hệ thống các tri thức là những quan điểm của C.

Mác và Ph.Ăngghen về liên minh của giai cấp công nhân trong cách mạng xã
hội chủ nghĩa, định nghĩa, đặc trưng cơ bản của liên minh của giai cấp công
nhân trong cách mạng xã hội chủ nghĩa, nội dung liên minh của giai cấp công
nhân trong cách mạng xã hội chủ nghĩa.
+ Thứ hai, phân tích, sử dụng các tri thức nói trên vào đánh giá so sánh
để thấy được sự phát triển lý luận của V.I.Lênin về liên minh của giai cấp
công nhân trong cách mạng xã hội chủ nghĩa và những vấn đề đặt ra.

5


+ Thứ ba, vận dụng lý luận của Đảng Cộng sản Việt Nam về liên
minh của giai cấp công nhân vào cách mạng Việt Nam, cụ thể là trong cách
mạng dân tộc dân chủ nhân dân và trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
5. Đóng góp mới
- Góp phần làm sáng tỏ hơn nữa khái niệm “liên minh của giai cấp công
nhân trong cách mạng xã hội chủ nghĩa” và sử dụng khái niệm ấy vào một
hoàn cảnh lịch sử cụ thể là trong cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân các
nước Tây Âu và Nga trong những năm đầu thế kỷ XX.
- Góp phần làm sáng tỏ những quan điểm về liên minh giai cấp của giai
cấp công nhân trong cách mạng xã hội chủ nghĩa của C.Mác và Ph.Ăngghen
được V.I.Lênin phát triển.
- Góp phầnlàm sáng tở sự vận dụng lý luận của Đảng Cộng sản Việt
Nam về liên minh của giai cấp công nhân vào cách mạng Việt Nam, cụ thể là
trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội.
6. Phương pháp nghiên cứu của đề tài
Phương pháp nghiên cứu:
+ Phương pháp luận: sử dụng cách tiếp cận duy vật lịch sử trong
nghiên cứu cơ cấu xã hội giai cấp của xã hội và vai trị của giai cấp cơng nhân

và đứng trên lập trường cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin.
+ Phương pháp chủ đạo: phân tích - tổng hợp kết hợp với phương
pháp logic - lịch sử trong nghiên cứu các tác phẩm kinh điển.
+ Phương pháp cụ thể: thu thập tài liệu, nghiên cứu tài liệu cụ thể là
lược thuật, sắp xếp, phân tích, tổng hợp tài liệu để làm sáng tỏ vấn đề.
7. Kết cấu nội dung cần triển khai
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, khóa luận
có kết cấu gồm 3 chương và 6 tiết.

6


CHƯƠNG 1
QUAN NIỆM CỦA C.MÁC VÀ PH.ĂNGGHEN
VỀ LIÊN MINH CỦA GIAI CẤP CÔNG NHÂN TRONG
CÁCH MẠNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
1.1. Quan niệm của C.Mác và Ph.Ăngghen về tính tất yếu của liên
minh giai cấp công nhân trong cách mạng xã hội chủ nghĩa
Vào những năm giữa và cuối thế kỷ XIX, phong trào công nhận trên thế
giới diễn ra mạnh mẽ nhưng hầu hết đều đi đến một kết cục là thất bại. C.Mác
và Ph.Ăngghen đã tổng kết thực tiễn các phong trào ấy ở Châu Âu, nhất là ở
Anh và ở Pháp, từ đó đã khái quát thành một lý luận khoa học về cách mạng
vơ sản, trong đó có lý luận về liên minh của giai cấp cơng nhân và giai cấp
nông dân và các tầng lớp nhân dân lao động khác.
Một trong những vấn đề cốt lõi của sự thất bại đã được các ông phát
hiện ra một cách khoa học và đúng đắn. Chủ yếu là đã khơng tổ chức liên
mình với “người bạn đồng mình tự nhiên” của mình là nơng dân, cịn người
nơng dân lại mâu thuẫn với giai cấp tư sản. C.Mác viết: “Lợi ích của nơng dân
khơng cịn phù hợp với lợi ích của giai cấp tư sản, với tư bản như dưới thời
Na-pơ-lê-ơng nữa mà lại mâu thuẫn với lợi ích của giai cấp tư sản, với tư bản.

Bởi vậy, người nông dân mới nhận thấy rằng, người bạn đồng minh, người
lãnh đạo tự nhiên của họ là giai cấp vô sản thành thị, giai cấp có nhiệm vụ lật
đổ tư sản” [4; 269].
Khi phân tích những thành tựu cũng như thiếu sót khuyết điểm của
cơng xã, những bài học rút ra từ thực tiễn của công xã C.Mác viết: “Công xã
có đầy đủ lý do để nói với nơng dân rằng “thắng lợii của công xã là hy vọng
duy nhất của các anh” vì cơng nhân và nơng dân là hai giai cấp có cùng chung
kẻ thù là giai cấp tư sản. Mà nơng dân thì khơng thể tự mình làm thành công

7


cuộc cách mạng thắng giai cấp tư sản vì những hạn chế giai cấp của nó. Vì
vậy nơng dân buộc phải đi với cơng nhân. Có như vậy họ mới giành được
những quyền lợi chính đáng thuộc về mình” [3; 457]. Luận điểm này C.Mác
đã đề cập tới tính tất yếu của liên minh giai cấp cơng nhân và hình thành
chính đảng của giai cấp cơng nhân.
Trong tác phẩm “Ngày 18 tháng Sương mù của Lui Bônapác” C.Mác
khẳng định: “Người nông dân mới thấy giai cấp vô sản thành thị giai cấp có
xứ mệnh lật đổ giai cấp tư sản là người đồng minh người lãnh đạo tự nhiên
của mình” [23; 521].
Sự phát triển về liên minh giai cấp còn được C.Mác thể hiện rõ trong tác
phẩm “Nội chiến ở Pháp”. Trong tác phẩm này, C.Mác đã phân tích luận giải
về công xã Pari - nhà nước vô sản đầu tiên sự trưởng thành về chính trị của
giai cấp vơ sản. Công xã Pari mãi mãi là niềm tự hào của giai cấp vô sản Pháp
và cũng là niềm tự hào của toàn thể nhân dân lao động trên toàn thế giới.
Người ca ngợi “Pari công nhân với công xã của nó sẽ mãi mãi được người đời
ngưỡng mộ coi như bậc tiên khu quang vinh của môt xã hội mới. Hình ảnh
những bậc tiên liệt thành viên của cơng xã sẽ được người đời in sâu vào trong
trái tim vĩ đại của giai cấp công nhân. Những đao phủ giết hại nó đã bị lịch sử

mn đời nguyền rủa và tất cả những lời cầu nguyện của giáo sĩ sẽ không bao
giờ chuộc được tội cho chúng” [24; 126]. Song, công xã chỉ tồn tại được 72
ngày do mắc phải một số sai lầm to lớn. Giai cấp vô sản đã không liên minh
được với giai cấp nông dân, không được nông dân ủng hộ. Từ bài học thất bại
của công xã Pari C.Mác chỉ cho giai cấp vô sản thấy rằng: Nếu không liên
minh được với giai cấp nơng dân thì giai cấp vơ sản có dành được chính
quyền nhưng cũng khơng thể giữ được chính quyền đó. Bởi vậy, giai cấp
công nhân và công xã phải quan tâm đến lợi ích thiết thân của nơng dân để lơi
kéo và giúp đỡ nơng dân đi theo mình. Như vậy, nghiên cứu 2 sự kiện cách
mạng của giai cấp vô sản Pari tháng 6 - 1848 và công xã Pari 1871, C.Mác đã

8


chỉ ra cho giai cấp vô sản phải liên minh với giai cấp nông dân - người bạn
đồng minh chiến lược trong q trình giành chính quyền cũng như giữ chính
quyền.
Đến những năm cuối thế kỉ XIX, khi viết tác phẩm “Vấn đề nông dân ở
Pháp và ở Đức”, Ph.Ăngghen chỉ rõ vai trị của nơng dân và ý nghĩa của vấn
đề nông dân, ông cho rằng vấn đề nông dân là một vấn đề quan trọng, phức
tạp của cách mạng vô sản mà những người xã hội chủ nghĩa phải thấy rằng xu
hướng và sự thành bại của cách mạng phụ thuộc vào việc giải quyết tốt vấn đề
nông dân. Vì vậy, Ph.Ăngghen đã nhắc nhở các Đảng Cộng sản phải tăng
cường lực lượng nơng thơn, có như vậy cách mạng vô sản mới thành công.
Ph.Ăngghen viết: “Việc Đảng Xã hội chủ nghĩa giành chính quyền đã trở
thành một việc khơng xa nữa nhưng muốn dành được chính quyền thì trước
hết Đảng phải chuyển từ thành thị về nơng thôn, trở thành một thế lực ở nông
thôn”[1; 565]. Điều đó chứng tỏ rằng, Đảng của giai cấp vơ sản muốn lãnh
đạo cách mạng thành công không chỉ mạnh ở thành phố mà phải mạnh ở cả
nơng thơn. Vì nơi đó có một lực lượng to lớn của cách mạng là nơng dân. Nếu

bỏ trận địa nơng thơn thì giai cấp vô sản mất một lực lượng đồng minh chiến
lược mà sự tham gia của nó sẽ quyết định sự thành công của cách mạng.
1.2. Quan niệm của C.Mác và Ph.Ăngghen về nội dung cơ bản của
liên minh giai cấp công nhân trong cách mạng xã hội chủ nghĩa
1.2.1. Nội dung chính trị của liên minh giai cấp cơng nhân trong
cách mạng xã hội chủ nghĩa
Nếu như trong “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” C.Mác và
Ph.Ăngghen mới đưa ra nguyên tắc về sự liên minh giữa giai cấp công nhân
và các tầng lớp nhân dân lao động khác trong chủ nghĩa tư bản thì trong tác
phẩm “Đấu trang giai cấp ở Pháp”, C.Mác đã đi vào phân tích những vấn đề
cụ thể của quá trình liên minh giữa giai cấp công nhân giữa các tầng lớp, giai
cấp tiểu tư sản khác nhất là với giai cấp nông dân.

9


Để phát huy được sức mạnh của liên minh giữa giai cấp vô sản với nông
dân và với các tầng lớp tiểu tư sản khác C.Mác cũng chỉ rõ rằng, trong khối
liên minh ấy giai cấp công nhân phải là giai cấp lãnh đạo, giai cấp trung tâm
của các lực lượng cách mạng. C.Mác nhận xét: “Cũng như hồi tháng Hai, đây
là khối liên minh chung chống lại giai cấp tư sản và chính phủ. Nhưng lần này
thì giai cấp vô sản đứng đầu khối liên minh cách mạng”. C.Mác viết tiếp:
“Chúng ta đã thấy rằng nông dân, những người tiểu tư sản, các tầng lớp trung
đẳng nói chung đều dần dần đứng về phía giai cấp vơ sản… tập hợp quanh
giai cấp vô sản để làm thành lực lượng quyết định của cách mạng” [22; 123].
Đồng thời, C.Mác đã phân tích tầm quan trong của nơng dân trong q
trình liên minh, ủng hộ cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản, ông viết: “Công
nhân Pháp không thể tiến lên một bước nào”… khi đông đảo nhân dân tức là
nông dân và giai cấp tiểu tư sản… “chưa bị tiến trình của cách mạng buộc
phải đi theo những người vơ sản, coi là đội tiên phong của mình” [22; 30].

Trong tác phẩm “Vấn đề nông dân ở Pháp và ở Đức”, theo Ph.Ăngghen
trong ba tập đồn người ở nơng thơn, ông coi thái độ đối với tiểu nông là
điểm tựa trong việc giải quyết vấn đề nơng dân nói chung. Ph.Ăngghen viết:
“Nói chung tiểu nơng là tầng lớp quan trọng nhất, và quan trọng nhất không
chỉ đối với Tây Âu. Nếu chúng ta xác định được lập trường của chúng ta đối
với tiểu nơng thì chúng ta sẽ có mọi tiểu điểm để xác định được thái độ của
mình đối với những thành phần khác trong dân cư nông thôn” [1; 719].
Ph.Ăngghen đã đấu tranh chống lại một quan điểm sai lầm được ghi
trong lời cam kết của đoạn dẫn luận trong Cương lĩnh Năngtơ. Ở đoạn này,
Cương lĩnh đã đặt ra trước Đảng Xã hội chủ nghĩa nhiệm vụ: phải liên hợp tất
cả các thành phần sản xuất trong nông thôn để chống kẻ thù chung là phong
kiến. Theo Ph.Ăngghen, đây là sai lầm và rất mơ hồ về giai cấp vị: “Chúng ta
có thể hợp tác với họ trong một số vấn đề, trong một thời gian nào đó và
chúng ta có thể cùng chiến đấu sát cánh với họ để đạt được những mục đích

10


nhất định. Nhưng nếu chúng ta có thể chấp nhận cho những cá nhân ở bất cứ
giai cấp nào trong xã hội được gia nhập đảng ta thì chúng ta khơng thể chấp
nhận những nhóm có lợi ích của nhà tư bản hoặc của trung nông, hoặc của tư
sản bậc trung” [1; 730].
Khi phân tích thái độ chính trị của tiểu nông, Ph.Ăngghen cho rằng,
tiểu nông là người vô sản tương lai nên nhất định sẽ lắng nghe sự tuyên
truyền của người xã hội chủ nghĩa; nhưng, mặt khác, cái đầu tư hữu của họ lại
cố bám vào mảnh đất nhỏ một cách tuyệt vọng cho nên anh ta không nghe
người xã hội chủ nghĩa và có khi họ cịn có thành kiến với người xã hội chủ
nghĩa, và nếu động đến mảnh đất của anh ta thì anh ta cũng căm thù người xã
hội chủ nghĩa như kẻ cho vay nặng lãi và bọn thắng kiện.
Ph.Ăngghen chỉ ra rằng, trong khi thừa nhận khả năng liên minh với

tất cả những phần tử chống phong kiến ở nông thôn trong cuộc đấu tranh
nhằm đạt tới những mục đích nhất định nào đó thì Đảng xã hội chủ nghĩa của
bất cứ nước nào cũng đều không thể kết nạp vào hàng ngũ của mình cả trung
nơng, phú nơng, thậm chí cả những kẻ canh tác ruộng đất theo lối tư hữu chủ
nghĩa. Ph.Ăngghen viết: “Nếu như chúng ta có thể chấp nhận cho những cá
nhân ở bất cứ giai cấp nào trong xã hội được gia nhập đảng ta thì chúng ta lại
khơng thể chấp nhận những nhóm có những lợi ích của nhà tư bản hoặc của
trung nông hoặc của tư sản bậc trung” [1; 730].
Trong tác phẩm “Ngày 18 tháng Sương mù của Lui Bônapác” C.Mác
chỉ ra cái điều kiện tốt đẹp nhất để cho việc liên minh giữa giai cấp vô sản và
nông dân, cái đảm bảo chắc chắn cho cuộc cách mạng do giai cấp vô sản lãnh
đạo dành thắng lợi là lúc giai cấp nông dân hoàn toàn hết hi vọng vào quá
khứ, vào mảnh đất cách mạng của mình và vào cái nhà nước đang thống trị họ
“Vì tuyệt vọng về sự phục hồi đế chế Napoleong, người nơng dân Pháp cũng
mất ln lịng tin của mình ở mảnh đất của mình. Tồn bộ lâu đài xây dựng
trên mảnh đất con đó sụp đổ và như thế cách mạng mới thực hiện được bài

11


đồng ca mà nếu không thực hiện bài đồng ca này thì tất cả các quốc gia nơng
dân bài đơn ca của cách mạng vô sản sẽ trở thành bài ai điếu”[23; 150]. Tuy
nhiên, trong khối liên minh ấy thì giai cấp vô sản sẽ là người lãnh đạo “Đây là
khối liên minh chống lại giai cấp tư sản và chính phủ. Nhưng lần này giai cấp
vơ sản đứng đầu khối liên minh cách mạng” [23; 128].
1.2.2. Nội dung kinh tế của liên minh giai cấp công nhân trong cách
mạng xã hội chủ nghĩa
Mâu thuẫn cơ bản nhất của tư bản chủ nghĩa đó là mâu thuẫn giữa lực
lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, nó được biểu hiện ra trong xã hội là mâu
thuẫn giữa giai cấp vô sản với giai cấp tư sản cũng đã được C.Mác và

Ph.Ăngghen chỉ ra. Hai giai cấp này luôn đấu tranh với nhau ngay từ khi nó ra
đời. Trong cuộc đấu tranh đó, để dành thắng lợi bên nào cũng phải tìm cách
tăng cường lực lượng cho mình. Giai cấp vơ sản và giai cấp tư sản đều tranh
thủ lôi kéo tầng lớp trung gian về phía mình để tăng cường lực lượng. Trong
các tầng lớp trung gian đó thì nơng dân là lực lượng đông đảo nhất, giai cấp
nào mà lôi kéo được họ và tranh thủ sự ủng hộ của họ thì nắm chắc phần
thắng lợi trong cuộc đấu tranh. Ngược lại, bên nào không tranh thủ, không lôi
kéo được họ khơng có được sự ủng hộ của họ sẽ chắc chắn thất bại.
Trong tác phẩm “Đấu tranh giai cấp ở Pháp” khi phân tích địa vị kinh
tế xã hội trung gian của giai cấp tiểu tư sản luôn đứng ở giữa hai giai cấp đối
lập trong xã hội tư sản là tư sản và vô sản. C.Mác đã chỉ ra rằng, giai cấp tiểu
tư sản luôn bấp bênh, dao động và mâu thuẫn trong việc giải quyết lợi ích của
mình. Các giai cấp tiểu tư sản khác đều có xu hướng chống tư bản trong
khn khổ Hiến pháp tư sản và tự phát đi lên chủ nghĩa tư bản. C.Mác chỉ ra
tính chất lạc hậu, bảo thủ của nông dân biểu hiện qua cuộc bầu cử tổng thống
Pháp tháng 10 năm 1848: Nông dân đã dành cho Lui Bônapáctơ 6 triệu phiếu.
Giai cấp nông dân đã bỏ mặc cho giai cấp tư sản đàn áp đẫm máu giai cấp vô
sản ở Pari với 3000 tù binh bị sát hại trong cuộc khởi nghĩa ngày 22-6-1848.

12


Từ thực tiễn đó, C.Mác kết luận rằng, quần chúng tiểu tư sản khơng có tinh
thần cách mạng triệt để, hơn nữa, khơng có khả năng lãnh đạo cuộc đấu tranh
chống giai cấp tư bản. Họ chỉ trở thành lực lượng cách mạng khi họ liên minh
với giai cấp công nhân và thừa nhận sự lãnh đạo của giai cấp công nhân trong
cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Khi phân tích cơ sở kinh tế - xã hội của sự liên minh giữa công nhân và
nông dân, C.Mác đã chỉ rõ sự bóc lột của giai cấp tư sản đối với họ. Ơng viết:
“Rõ ràng là việc bóc lột nơng dân chỉ khác việc bóc lột giai cấp vơ sản cơng

nghiệp về hình thức mà thơi. Kẻ bóc lột vẫn là một: đó là tư bản” [22; 118].
Khi chỉ ra vai trị và vị trí của giai cấp nơng dân đồng thời khẳng định
phải có sự liên minh giữa giai cấp công nhân và nông dân, C.Mác viết: “Công
nhân Pháp không thể tiến lên một bước nào và cũng không thể đụng đến một
sợi tóc nào của chế độ tư sản, trước khi đông đảo nhân dân nằm giữa giai cấp
vô sản và giai cấp tư sản, tức là giai cấp tư sản nổi dậy chống độ tư sản, chống
lại sự thống trị của tư bản, chưa bị tiến trình của cách mạng buộc phải đi theo
những người vô sản, coi là sự tiên phong của mình. Cơng nhân chỉ có thể mua
được thắng lợi đó bằng sự thất bại ghê gớm hồi tháng sáu mà thôi” [22; 26 –
27]. C.Mác đã phân tích về người nơng dân (tiểu nơng) do phương thức sản
xuất manh mún tự cấp tự túc của họ, cộng thêm hồn cảnh địa lí và giao thơng
khó khăn nên họ khơng có điều kiện ràng buộc với nhau về nhiều mặt, trái lại
còn làm cho họ tách rời nhau. Vì thế, họ khơng có khả năng lấy danh nghĩa
mình đứng ra bảo vệ quyền lợi của giai cấp mình và khơng tự mình đại biểu
cho mình được. Do vậy, họ cần phải có người khác làm đại diện cho mình
đồng thời cũng là người lãnh đạo họ. Từ sự phân tích của C.Mác cho ta thấy
trong cuộc đấu tranh chống áp bức bóc lột, giai cấp nông dân phải đi theo một
giai cấp khác và chịu sự lãnh đạo của giai cấp khác. Lẽ ra trong cuộc đấu
tranh lúc đó giai cấp và người dân phải theo phải là giai cấp vô sản.

13


Đến tác phẩm “Nội chiến ở Pháp”, C.Mác đã phân tích cả q trình đấu
tranh cách mạng của giai cấp vô sản và nông dân Pháp từ năm 1848 đến Công
xã Pari (1871) để giúp nông dân thấy rõ hơn nữa bộ mặt phản bội của giai cấp
tư sản và vai trị cách mạng của giai cấp vơ sản, C.Mác đã phân tích rõ: “Năm
1848 bọn tư sản đã đánh vào mảnh đất của người nông dân một khoản thụ pju
45 xăng – tim cho một phrăng, nhưng chúng đã nhân danh cách mạng mà làm
việc đó. Bây giờ chúng lại gây ra một cuộc nội chiến chống cách mạng nhằm

làm cho phần lớn khoản bồi thưởng 5 tỷ mà nó buộc phải trả cho Phổ, đoor
lên đầu nơng dân. Công xã, trái lại, trong một bản tuyên cáo của nình, đã
tun bố rằng những kẻ đích danh gây ra chiến tranh phải chịu lấy gánh nặng
của chiến tranh. Công xã tất sẽ cứu nông dân ra khỏi thuế máu, đém lại cho
nơng dân một chính phủ ít tốn kém, thay thế những cơng chứng, luật sư, mõ
tịa và bọn hút máu khác trong hệ thống tòa án hiện đang hút máu họ, bằng
những nhân viên công xã ăn lương do chính bản thân họ bầu ra và chịu trách
nhiệm trước họ. Công xã tất sẽ làm cho nông dân thoát khỏi sự độc đoán của
bọn hương cảnh, hiến binh và quan lại địa phương; tất sẽ thay thế tên cha cố
làm mê muội đầu óc họ bằng người thầy giáo mở mang trí óc cho họ. Người
nơng dân Pháp, trước hết, lại là người có đầu óc tính tốn. Họ ắt phải thấy
hoàn toàn hợp lý nếu tiền trợ cấp trả cho bọn cha cố thì tùy ở long mộ đạo của
con chiên, chứ không do người thu thuế bắt họ đóng góp. Đó là những lợi ích
to lớn mà sự thống trị của Công xã – và chỉ của Công xã thôi – đã trực tiếp
hứa với nông dân Pháp. Vậy ở đây, khơng cần phải nói nhiều về những vấn đề
cụ thể phức tạp hơn và thực sự thiết thân, mà chỉ có Cơng xã mới có thể và
bắt buộc phải giải quyết vì lợi ích của nông dân: vấn đề nợ cầm cố đang đè
nặng như một cơn ác mộng lên mảnh đất của người nông dân, vấn đề
prolétariat foncier (giai cấp vô sản nông thôn) ngày càng tăng số lượng, vấn
đề bản thân nông dân bị tước đoạt một cách nhanh chóng hơn do sự phát triển
của nông nghiệp hiện đại và do sự cạnh tranh của phương thức canh tác tư

14


bản chủ nghĩa gây nên… Nông dân đi theo Bônapáctơ vì họ chon rằng cuộc
đại cách mạng và những lợi ích nó đem lại cho họ, gắn liền với tên tuổi của
Napơlêơng. Ảo tưởng đó đã tiêu tan nhanh chóng dưới đế chế thứ hai. Thiên
kiến ấy của quá khứ (về thực chất, nó cũng đối địch với những nguyện vọng
của “bọn nghị viện địa chủ”) làm sao có thể cưỡng lại nổi lời Công xã kêu gọi

bênh vực lợi ích thiết thân và nhu cầu cấp thiết của nông dân?” [24; 458459].
C.Mác đã kết luận: Cơng xã có đầy đủ lý do để nói với nơng dân rằng:
“thắng lợi của Công xã là hy vọng duy nhất của các anh!” [24; 457] bởi vì khi
liên minh với nơng dân, giai cấp vơ sản ln giữ vai trị lãnh đạo và luôn là
người đại biểu tự nhiên cho quyền lợi của họ.
Trong tác phẩm “Vấn đề nông dân ở Pháp và ở Đức”, đứng trước nguy
cơ bị phá sản của tiểu nơng, Ph.Ăngghen đặt vấn đề: Đảng có thể đem lại
được cái gì cho người tiểu nơng đang bị tiêu diệt mà khơng tự phản lại mình?
Trả lời vấn đề này, Ph.Ăngghen đã phân tích cương lĩnh ruộng đất của Đảng
Công nhân Pháp. Người đã phê phán phần lý luận của Cương lĩnh Năngtơ và
chỉ ra rằng nó mâu thuẫn với cương lĩnh chung của Đảng Công nhân được
thông qua tại Đại hội (9-1892) tại Mácxây. Nội dung cơ bản của cương lĩnh
chung của Đảng Công nhân Pháp là chuyển sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất
thành sở hữu tập thể, không chỉ trong lĩnh vực công nghiệp mà cả trong lĩnh
vực tổ nơng nghiệp nữa. Cịn Cương lĩnh Năngtơ thì lại xóa nhịa sự khác
nhau về ngun tắc hai hình thức sở hữu tư liệu sản xuất. Theo Cương lĩnh
Năngtơ thì cả hai hình thức về tư liệu sản xuất đều được xem là tiền đề cho sự
tự do của người sản xuất. Phê phán quan điểm này, Ph.Ăngghen nêu rõ: Việc
những người sản xuất riêng lẻ chiếm hữu tư liệu sản xuất hiện nay không đem
lại cho họ một thứ tự do thật sự nữa… Người tiểu nông đã không đảm bảo
được quyền sở hữu đối với mảnh đất của mình và cũng khơng cịn có quyền
tự do nữa. Ngay bản thân anh ta cũng thuộc quyền sở hữu của tên chủ cho vay

15


nặng lãi giống như cái nhà, cái sân và ruộng đất của anh ta vậy… khỏi bị tịch
thu, nhưng các đồng chí khơng thể nào đảm bảo cho anh ta không bị bắt buộc
phải tự nguyện đem bán gia súc của mình đi, bán cả thể xác lẫn linh hồn của
mình cho tên chủ nợ để sống thêm một khắc nữa. Các đồng chí muốn bảo hộ

cho người tiểu nơng giữ được tài sản của họ, thì lại khơng bảo hộ tự do cho
họ, mà chỉ bảo hộ được các hình thức đặc biệt của sự nơ lệ của họ mà thơi. Ý
định đó chỉ kéo dài tình trạng sống dở chết dở của họ.
Phê phán yêu sách đề ra trong Cương lĩnh Năngtơ nhằm duy trì quyền
sở hữu ruộng đất của nông dân, Ph.Ăngghen chỉ ra rằng: Những người xã hội
chủ nghĩa Pháp đã buộc chủ nghĩa xã hội làm một việc không thể thực hiện
được và đã đặt vấn đề mâu thuẫn với điều khẳng định của chính cương này
nói rằng sở hữu đó nhất định diệt vong. Ph.Ăngghen đã đặt câu hỏi: Vậy chủ
nghĩa xã hội phải dùng cách gì để bảo hộ cho người nơng dân tránh được ba
kẻ thù lớn là cơ quan thuế vụ, kẻ cho vay nặng lãi, bọn chúa đất – những công
cụ mà sản xuất tư bản chủ nghĩa dùng để thực hiện cái việc làm cho chế độ sở
hữu nhỏ của nông dân không tránh khỏi bị diệt vong.
1.2.3. Nội dung xã hội của liên minh giai cấp công nhân trong cách
mạng xã hội chủ nghĩa
Trong tác phẩm “Đấu tranh giai cấp ở Pháp”, theo C.Mác chỉ có thực
tiễn của xã hội, thực tiễn bóc lột của tư sản, sự đau khổ của nông dân trong
thời kỳ 1848 - 1850 tức là chỉ có tiến trình phát triển của chủ nghĩa tư bản,
tiến trình cách mạng của giai cấp cơng nhân mới có thể đưa nơng dân từng
bước đến gần với giai cấp vô sản và trở thành đồng minh đáng tin cậy của nó.
C.Mác viết: “Một khi giai cấp vô sản đã tạm thời bị gạt ra khỏi vũ đài và một
khi nền chuyên chính tư sản đã được chính thức thừa nhận, thì các tầng lớp
trung đẳng trong xã hội tư sản, tức là tầng lớp tiểu tư sản và nơng dân, chừng
nào mà tình cảnh của họ trở nên nặng nề và sự đối lập của họ với giai cấp tư
sản càng trở nên gay gắt, sẽ càng phải liên minh chặt chẽ với giai cấp vô sản.

16


Cũng như trước kia, các tầng lớp này chỉ coi sự phát triển của giai cấp vô sản
là nguyên nhân của sự nghèo khổ của họ thì ngày nay cũng vậy, họ tất phải

thừa nhận rằng nguyên nhân của sự nghèo khổ của họ là sự thất bại của giai
cấp vô sản” [22; 48].
Như vậy, từ cuộc đời hoạt động lý luận và thực tiễn của mình, C.Mác
và Ph.Ăngghen đã nhận thấy và đánh giá đúng vị trí, vai trị của giai cấp công
nhân đối với cách mạng vô sản. Đồng thời, hai ông cũng nêu lên sự cần thiết
và tính tất yếu của liên minh của giai cấp cơng nhân trong khi giành chính
quyền cũng như khi giữ chính quyền. Tuy nhiên cần khẳng định lý luận của
C.Mác và Ph.Ăngghen về liên minh giai cấp chưa phải là một cái gì hồn bị
mà nó mới là những tư tưởng, quan điểm lý luận cơ bản chung nhất về liên
minh giai cấp. Những tư tưởng về liên minh của giai cấp công nhân trong
cách mạng xã hội chủ nghĩa mà C.Mác và Ph.Ăngghen nêu lên được
V.I.Lênin và các Đảng Cộng sản trong đó có Đảng Cộng sản Việt Nam bảo
vệ, bổ sung, phát triển một cách sáng tạo và vận dụng thành cơng trong tiến
trình cách mạng.

17


CHƯƠNG 2
V.I.LÊNIN PHÁT TRIỂN LÝ LUẬN CHỦ NGHĨA MÁC
VỀ LIÊN MINH CỦA GIAI CẤP CÔNG NHÂN TRONG CÁCH
MẠNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA

2.1. Tình hình chính trị Châu Âu, nước Nga và vấn đề đặt ra đối
với lý luận về liên minh giai cấp công nhân trong cách mạng xã hội chủ
nghĩa
Cuối thế kỉ XIX đầu thế kỷ XX, Nga là một nước có nền kinh tế phát
triển chậm ở Châu Âu, đến giữa thế kỉ XIX mới bước vào con đường phát
triển tử bản chủ nghĩa. Năm 1861 Nga Hoàng mới công bố bãi bỏ chế độ
nông nô, song tàn dư của nó cịn lại rất nặng nề, đời sống của nông dân tăm

tối. Cuộc đấu tranh chống chế độ nông nô chống chế độ chuyên chế liên tục
diễn ra. Ở nước Nga lúc này các quan hệ kinh tế tư bản chủ nghĩa và nền sản
xuất lớn còn đang manh nha, kinh tế tiểu nơng vẫn đóng vai trị chủ đạo trong
nền kinh tế Nga. Sự đan xem và tồn tại phức tạp đa dạng ấy của quan hệ kinh
tế, sở hữu làm cho cơ cấu xã hội Nga lúc này gồm nhiều giai cấp, các quan hệ
kinh tế chính trị hết sức phức tạp. Mâu thuẫn giữa quý tộc phong kiến với
nông dân, giữ tư sản với vô sản, giữa quý tộc phong kiến với giai cấp tư sản
Nga. Trong đó mâu thuẫn chủ yếu đang chi phối tình hình chính trị nước Nga
lúc này là mâu thuẫn giữa chế độ phong kiến Nga hoàng được sự thỏa hiệp
của giai cấp tư sản Nga còn non yếu và cơ hội với giai cấp công nhân, giai
cấp nông dân và quảng đại quần chúng nhân dân lao động Nga và các thuộc
địa của Nga. Mâu thuẫn này đã tác động mạnh mẽ, chi phối phong trào đấu
tranh của giai cấp công nhân và nhân dân lao động trong xã hội Nga. Cơ cấu
giai cấp – xã hội Nga tồn tại nhiều giai cấp lại có những đặc điểm riêng, có
thái độ chính trị riêng, cụ thể như:

18


Giai cấp công nhân Nga, đây là giai cấp đã giác ngộ về chính trị, có
tính tổ chức ngày càng cao, có những cuộc bãi cơng chưa từng thấy. Do sớm
có tính tự giác trong lao động và đấu tranh cách mạng nên đây là giai cấp nắm
lấy ngọn cờ lãnh đạo của cuộc đấu tranh chóng giai cấp tư sản giành lấy
quyền thống trị về tay mình. Nhưng nhiệm vụ của giai cấp này là phải lôi kéo
được giai cấp nơng dân về phía mình tạo thành một khối vững chắc.
Là một nước nông nghiệp nên giai cấp đông đảo trong xã hội Nga lúc
này là giai cấp nông dân, đây là một lực lượng lớn trong cuộc đấu tranh cách
mạng. Ở Nga, sau khi có sắc lệnh của Nga hồng về bãi bỏ chế độ nơng nơ,
trong nền nơng nghiệp Nga cũng bắt đầu có những bước phát triển khởi sắc
theo con đường tư bản chủ nghĩa. Nhưng do những đặc thù của xã hội Nga và

cơ cấu – xã hội giai cấp ở Nga, đời sống của nơng dân Nga ngày càng lâm vào
khó khăn và bần cùng. Điều đó làm cho tư tưởng căm thù đối với chế độ
phong kiến, với giai cấp quý tộc Nga của nơng dân càng dâng cao. Bên cạnh
đó, phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân Nga ở khắp mọi miền đất
nước đã tác động và thức tỉnh mạnh mẽ tinh thần phản kháng đó của nơng dân
đối với chế chộ phong kiến chun chế Nga Hồng. Tuy có tinh thần cách
mạng nhưng do khơng có lập trường chính trị vững vàng nên giai cấp nông
dân Nga rất dễ bị kích động, đấu tranh tự phát thiếu tổ chức nên giai cấp nông
dân không thể nắm lấy ngọn cờ lãnh đạo cách mạng mà chỉ là một lực lượng
to lớn trong đấu tranh cách mạng và quan trọng hơn là người bạn “tự nhiên”
của giai cấp công nhân trong cách mạng mà thơi. Vì vậy cách mạng có thắng
lợi hay không là tùy thuộc vào việc củng cố khối lien minh vững chắc với
nông dân của giai cấp công nhân.
Trong cơ cấu xã hội – giai cấp ở Nga lúc này, không thể không kể đến
giai cấp tư sản. Giai cấp tư sản là giai cấp lệ thuộc và cấu kết chặt chẽ với giai
cấp quý tộc phong kiến trở thành kẻ thù chung không chỉ của giai cấp công
nhân, nhân dân lao động và binh sỹ Nga mà cịn là kẻ thù của giai cấp cơng

19


nhân, nhân dân lao động của các thuộc địa Nga Hoàng. Đây là giai cấp phản
động với mưu đồ nắm lấy chính quyền, để đạt được mục đích chúng có thể
dùng mọi thủ đoạn hèn hạ nhất, vì lợi ích của giai cấp mình mà có thể bỏ qua
lợi ích của dân tộc. Vì vậy đây là giai cấp cần phải đánh đổ và giai cấp công
nhân là giai cấp có sứ mệnh lịch sử thực hiện nhiệm vụ đó. Như vậy, từ hoàn
cảnh lịch sử của nước Nga cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX là một nước nông
nghiệp lạc hậu, cơ cấu xã hội giai cấp gồm nhiều giai cấp có mâu thuẫn với
nhau trong đó mâu thuẫn giữa chế độ phong kiến Nga Hoàng được thỏa hiệp
của giai cấp tư sản Nga còn non yếu và cơ hội của giai cấp công nhân, giai

cấp nông dân và quảng đại quần chúng nhân dân lao động Nga. Và nhiệm vụ
quan trọng đặt ra lúc này chính là giai cấp cơng nhân phải có một tổ chức lãnh
đạo, phải liên minh với giai cấp nông dân tạo thành một lực lượng to lớn để
có sức đánh đổ chế độ phong kiến Nga Hoàng và giai cấp tư sản.
Như vậy, tình thế cách mạng dân chủ tư sản chín muồi và nổ ra ở các
nước phong kiến lạc hậu. Từ đây đặt ra một vấn đề giai cấp công nhân có lãnh
đạo được cuộc cách mạng hay khơng? Nếu lãnh đạo thì liên minh của nó phải
liên minh với những giai cấp, tầng lớp nào? Và như vậy nội dung về chính trị
khác với thời kỳ trước Mác.
Ở Nga, cuối thế kỉ XIX khi chế độ nông nô bãi bỏ, chủ nghĩa tư bản bắt
đầu có sự phát triển mạnh, giai cấp công nhân Nga ra đời và trưởng thành
cùng cới sự phát triển kinh tế của tư bản chủ nghĩa. Giai cấp công nhân đã
thực sự thức tỉnh nổi dậy đấu tranh chống bọn tư sản, lúc đầu những cuộc đấu
tranh này mang tính tự phát như đập phá máy móc, phá cửa hang của chủ.
Nhưng sau đó những người nông dân giác ngộ đã hiểu được rằng: Muốn đấu
tranh thắng lợi cơng nhân phải có tổ chức. Vì vậy các tổ chức đầu tiên ra đời,
năm 1875 Hội Liên hiệp công nhân miền Nam nước Nga ra đởi ở Ođetxa,
năm 1878 Hội Liên hiệp công nhân miền Bắc được thành lập ở Pêtécbua. Sự
ra đời của tổ chức công nhân làm cho phong trào đấu tranh của họ có những

20


bước chuyển lớn, phong trào đấu tranh ngày càng phát triển mạnh mẽ kể từ
khi có Đảng Cơng nhân xã hội - Dân chủ Nga lãnh đạo.
Cùng với sự tác động của phong trào công nhân ở Tây Âu, phong trào
cơng nhân Nga đã có bước phát triển mạnh mẽ, các tổ chức mác xít đã ra đời.
Nhóm Mác xít đầu tiên ra đời năm 1883 với tên gọi là: “Nhóm giải phóng lao
động” do Plêkhanốp sang lập ở Giơnevơ (Thụy Sỹ). Tổ chức này đã tích cực
truyền bá Chủ nghĩa Mác vào nước Nga.

Chiến tranh thế giới thứ nhất nổ ra tạo tình thế cách mạng ở một loạt
các nước Châu Âu mà nước Nga là trung tâm bão táp của cách mạng. Cách
mạng tháng Mười Nga (1917) nổ ra và giành thắng lợi đã khẳng định sự lớn
mạnh của phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân Nga và sự trưởng
thành của Đảng Bonsevich Nga. Thắng lợi của cách mạng tháng Mười, mở ra
một thời đại mới trong thời đại loại người, là thời đại sụp đổ chủ nghĩa tư bản,
quá độ đi tới chủ nghĩa xã hội – chủ nghĩa cộng sản, thời đại mà các dân tộc
thuộc địa hướng tới chủ nghĩa xã hội, khả năng giải phóng cho tất cả những
lao động, cách mạng tháng Mười Nga là tấm gương cổ vũ, ngọn đuốc soi
đường cho phong trào giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa và phong trào
đấu tranh của phong trào công nhân quốc tế.
Từ sau cách mạng tháng mười Nga, Đảng Bơnsêvích Nga khơng ngừng
được củng cố vững chắc để đảm nhận nhiệm vụ lãnh đạo đát nước vượt qua
khó khăn, phát triển kinh tế đất nước. V.I.Lênin đã quan tâm đến việc trang bị
cho Đảng của giai cấp công nhân những hiểu biết về cách mạng xã hội chủ
nghĩa về kế hoạch xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội.
Sau Chiến tranh thế giới thứ nhất và ba năm nội chiến ở nước ngoài với sự
can thiệp quân sự nước ngoài, nước Nga rơi vào tình trạng hết sức nặng nề cả
về phương diện kinh tế, chính trị, xã hội. Chiến tranh thế giới và nội chiến đã
làm cho nền kinh tế nước Nga suy sụp nặng nề làm cho đời sống nhân dân

21


×