Ngọc
Phụng
Trường
Thịnh
Minh Hồng
Nhóm 4
Minh
Thương
Quang Nhật
Gia Khanh
Đầu lòng hai ả tố nga
Thúy Kiều là chị em là Thúy Vân
Mai cốt cách tuyết tinh thần
Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười.
TRUYỆN KIỀU
Nguyễn Du
Nỗi niềm xưa nghĩ mà thương
Dẫu lìa ngó ý, cịn vương tơ lịng
Nhân tình, nhắm mắt, chưa xong
Biết ai hậu thế, khóc cùng Tố Như ?
- Tố Hữu -
Cuộc
đời
Sự
nghiệp
Thời đại
Quan điểm
nghệ thuật
Quê hương –
Gia đình
Hình thức sáng
tác
Bản thân
Xã hội: thế kỉ XVIII – XIX là thời kì khủng hoảng trầm trọng nhất của
Tranh
lợi sự
chém
lẫnđại:nhau
chế độ phong
kiến,giành
là thời kìquyền
diễn ra những
kiện lịchgiết
sử trọng
Những cuộc nổi dậy địi quyền sống của nhân dân
Nền kinh tế hàng hoá phát triển cho thấy
sức mạnh của đồng tiền
• Nguyễn Du đã sống qua ba thời đại: Lê – Trịnh, Tây Sơn,
Nguyễn, đã trải qua những cuộc binh biến tàn khốc của các
tập đoàn phong kiến và các cuộc khởi nghĩa địi quyền sống
của tầng lớp nơng dân.
Cuộc
đời
Sự
nghiệp
Thời đại
Quan điểm
nghệ thuật
Quê hương –
Gia đình
Hình thức sáng
tác
Bản thân
•Nguyễn Du (1765 – 1820)
• Tên chữ là Tố Như
•Hiệu là Thanh Hiên
•Nơi sinh: Phường Bích Cầu,
thành Thăng Long (Hà Nội)
- Cha là Nguyễn Nghiễm (1708 – 1775 ),
hiệu là Nghị Hiên.
- Quê: làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, Hà
Tĩnh.
- Đậu Nhị giáp tiến sĩ.
- Làm quan đến chức Đại Tư đồ ( Tể tướng )
• - Mẹ là Trần Thị Tần
(1740 – 1778 )
• Quê: làng Hoa Thiều, xã
Minh Đạo, huyện Tiêu
Du, xứ Kinh Bắc, nay
thuộc tỉnh Bắc Ninh
• Bà là vợ thứ của Nguyễn
Nghiễm
• Anh trai cùng cha khác
mẹ Nguyễn Khản
• Quê ở xã Tiên Điền,
huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà
Tĩnh
• Làm chức Tham tụng
(ngang Thừa tướng ) trong
phủ chúa Trịnh
Vợ Nguyễn Du là con gái Đoàn Nguyễn Thục
Quê ở Quỳnh Cơi, trấn Sơn Nam ( nay thuộc tỉnh
Thái Bình)
Đồn Nguyễn Thục
Cuộc
đời
Sự
nghiệp
Quan điểm
nghệ thuật
Quê hương –
Gia đình
Bản thân
Hình thức sáng
tác
Năm 1776: cha là Nguyễn
Nghiễm qua đời
Năm 1778: mẹ là Trần Thị Tần qua đời
Năm 1783: Nguyễn Du thi hương,
lấy vợ là con gái của Đoàn Nguyễn
Thục
My trung mạn hứng
Dịch nghĩa
Bình Chương di hận hà thì liễu,
Cô Trúc cao phong bất khả tầm.
Ngã hữu thốn tâm vô ngữ dữ,
Hồng Sơn sơn hạ Quế giang thâm
Mười tuần nằm trong lao tù, lòng thấp
thỏm chuyện sống chết.
Bao giờ mới hết mối hận Bình
Chương?
Khó mà có được phong cách cao
thượng của người nước Cơ Trúc.
Ta có một chút tâm sự này, không biết
bày tỏ cùng ai,
Dưới chân núi Hồng, sơng Quế Giang
sâu thẳm.
Năm
1796:
Du có
ý trốn
Gia
Chung
Tử gảy vào
đàn theo
điệuĐịnh,
Nam,
Chung Tử
viên cầmNguyễn
tháo nam âm,
Trang Tích khi ốm ngâm nga bằng
Trang Tích bệnh chung do Việt
nhưng
bị
bắt
giam
3
tháng
ở
Nghệ
An,
cho
ra
tiếng
Việt.
ngâm.
Khắp bốntù”.
bể đầy gió bụi, nghĩ tình nhà
Tứ hảitập
phong
trần“
giaCảm
quốc lệ,hứng trong
đời
thơ
việc nước mà rơi lệ,
Thập tuần lao ngục tử sinh tâm.
Năm 1802: Gia Long lên ngôi Nguyễn Du ra
làm tri huyện, sau đó thăng chức tri phủ.
Tri
phủ
Người đứng đầu
một phủ hoặc châu, có quyền cao
nhất cả về dân sự lẫn quân sự
trong địa hạt. Thời Nguyễn Tri
Phủ là chức quan văn thuộc Bộ
Lạ, trật Tòng Ngũ Phẩm.
Năm 1803: được cử lên ải Nam Quan tiếp
sứ Thanh sang phong sắc vua cho Gia Long.
• Ải Nam Quan tên mới là
Hữu Nghị Quan là một cửa
khẩu biên giới của Trung
Quốc – Việt Nam
Năm 1813: được cử làm Chánh sứ sang nhà Thanh
Tập trung
nghe Phụng
kể !
Năm1820: Gia Long
qua đời, Minh Mạng
nối ngôi. Nguyễn Du
được cử làm chánh sứ
sang nhà Thanh báo
tang và cầu phong
nhưng bị bệnh dịch
mất ngày 10-08 (1609), thọ 54 tuổi.