ĐẠI HỌC LUẬT TP HỒ CHÍ MINH
KHOA LUẬT HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC
BÀI THẢO LUẬN THỨ HAI
MÔN:
LUẬT
ĐỀ
TÀI: GIAO
DỊCHDÂN
DÂN SỰSỰ
1
2
I. Năng lực pháp luật dân sự và chủ thể trong xác lập giao
dịch
1. So với BLDS 2005, BLDS 2015 có gì khác về điều kiện có hiệu lực của
giao dịch dân sự? Suy nghĩ của anh chị về sự thay đổi trên
- Điểm
mới :
- So với BLDS 2005, BLDS 2015 đã thay từ “người giám hộ giao dịch” bằng
từ “chủ thể”. Sự thay đổi này chỉ mang tính kỹ thuật, không kéo theo sự thay
đổi về nội dung.
- BLDS 2005 chỉ yêu cầu chủ thể tham gia giao dịch “có năng lực hành vi
dân sự”, BLDS 2015 yêu cầu thêm là phải “phù hợp với giao dịch dân sự
được xác lập”. Việc bổ sung này là hợp lý vì khơng phải tất cả giao dịch dân
sự đều có mục đích và nội dung giống nhau và yêu cầu về mức độ năng lực
hành vi dân sự cá nhân phụ thuộc vào từng giao dịch cụ thể?
- BLDS 2015 không chỉ đề cập đến năng lực hành vi dân sự mà còn đề cập
đến năng lực pháp luật. Quy định này thể hiện sự tiến bộ nhưng sẽ kéo theo
những khó khăn trong q trình áp dụng luật BLDS 2015. Bởi lẻ BLDS 2015
đưa ra yêu cầu này và khẳng định khi điều kiện này khơng được áp dụng thì
giao dịch vô hiệu (điều 122 BLDS 2015). Tuy nhiên, chúng ta vẫn chưa biết
được ai được yêu cầu tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu và yêu cầu này được
tiến hành trong thời hạn bao lâu.
- Điều 177 BLDS 2015 đưa điều kiện tự nguyện lên trước điều kiện khơng vi
phạm điều cấm. Điều này có nghĩa là BLDS 2015 đề cao yếu tố tự nguyện
trong giao dịch dân sự hơn là yếu tố vi phạm điều cấm. Đây là một điểm tiến
bộ bởi lẽ chúng ta thấy pháp luật dân sự không quyết định việc xác lập, thay
đổi hay chấm dứt các quan hệ của các chủ thể mà việc này do chính ý chí của
các chủ thể quyết định, yếu tố tự nguyện là yếu tố vô cùng quan trọng trong
quan hệ dân sự. Sự thay đổi thứ tự này là hoàn toàn phù hợp.
3
2. Đoạn nào của bản án cho thấy ông T bà bà H khơng có quyền sở hữu
nhà ở tại VN?
- Trích bản án số 32/2018/DS-DT ngày 20/12/2018 : “Ơng Ph J T và bà L Th
H người Việt nam ở nước ngoài đã nhập quốc tịch Mỹ theo quy định của Luật
đất đai 2003 và điều 121 của Luật nhà ở năm 2005 thì người Việt Nam định
cự tại nước ngoài được quyền sở hữu nhà ở Việt Nam khi thỏa mãn các điều
kiện sau: “…” do đó ơng T và bà H không được sở hữu quyền sử dụng đất ở
nông thôn và đất trồng cây lâu năm tại Việt Nam.
3. đoạn nào của bản án giao dịch của ông T và bà H với bà Đ đã bị Tịa
án tun bố vơ hiệu?
- Trích bản án số 32/2018/DS-DT ngày 20/12/2018 : “
Tuyên xử:
- Vô hiêu giấy tờ cho nền thổ cư ngày 31/5/2004, giấy nhường đất thổ cư
ngày 2/6/2004 và giấy cam kết ngày 16/3/2011 mà các bên đã xác lập do vi
phạm điều cấm của pháp luật.
- Buộc bà L K Đ hồn trả cho ơng J Ph (Ph J T) và bà A Th Ph (L Th H) số
tiền 350.000.000đ”
II. Giao dịch xác lập bởi người khơng có khả năng nhận
thức
1. Từ thời điểm nào ông Hội thực chất không còn khả năng nhận thức và
từ thời điểm nào ơng Hội bị Tịa án trun bố mất năng lực hành vi dân
sự?
- từ năm 2017 ông Hội bị tai biến nằm liệt một chỗ và khơng có khả năng
nhận thức được
- ngày 7/5/2010 ơng Hội bì Tịa án nhân dân thành phố Tuy Hịa tun bố ông
Hội mất năng lực hành vi dân sự
2. Giao dịch của ông Hội (với vợ là bà Hương) được xác lập trước hay
sau khi ông Hội bị tuyên mất năng lực hành vi dân sự?
- ngày 8/2/2010 vợ chồng ông Hội bà Hương đã bán căn nhà cho vợ chồng
ông Hùng, bà Trinh với giá 580.000.000đ. Nhưng đến ngày 7/5/2010 ông Hội
mới được tuyên mất nắng lực hành vi dân sự. Vì vậy, giao dịch của ơng Hội
và vợ là là bà Hương được xác lập trước khi ông Hội bị tuyên mất nắng lực
hành vi dân sự. (lúc đó ơng bị tai biến nằm liệt một chỗ khơng nhận thức
được nhưng toàn án chưa tuyên).
4
3. Theo tòa án nhân tối cao, phần giao dịch của ơng Hội có vơ hiệu
khơng? Vì sao? Trên cơ sở quy định nào?
- Theo bản án của Toàn án nhân dân tối cao thì phần giao dịch của ơng Hội bị
vơ hiệu:
* Vì từ năm 2007, ơng đã bị tai biến và nằm liệt một chỗ, không thể nhận
thức được.
* Cơ sở pháp lý Điều 130 BLDS 2015 có quy định “Khi giao dịch dân sự do
người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự hoặc người bị hạn
chế năng lực hành vi dân sự xác lập, thực hiện thì theo yêu cầu của người đại
diện của pháp luật giao dịch này phải do người đại diện của họ xác lập, thực
hiện.”
4. Trong thực tiễn xét xử, có việc nào giống hết hồn cảnh của ơng Hội
khơng và Tịa án đã giải quyết theo hướng nào? Cho biết tóm tắt vụ việc
mà anh/chị biết.
- Vụ Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đẩt giữa nguyên
đơn là ông Diện do chị Thu là người đại diện theo pháp luật với bị đơn là ông
Sơn. Trong đó Tịa án đưa ra hướng giải quyết là xem xét có hay khơng sự
gian dối khi hai bên ký kết hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất; tại
thời điểm giao kết hợp đồng ông Diện đã bị tâm thần thì việc chuyển nhượng
có hợp pháp hay khơng và có bị áp dụng thời hiệu về khởi kiện hay khơng?
Đồng thời hủy bản án sơ thẩm đình chỉ khi giải quyết vụ án.
• 16/01/1993, ơng Diện viết “giấy nhường tài sản” cho ông Sơn bao gồm bất
động sản và những tài sản đi kèm. Trong đó có ơng Diện, bà Hiền (vợ ông
Diện) và 1 số người khác. Bản án đã có hiệu lực pháp luật.
•24/05/1994, đơn ly hơn ông Diện của bà Hiền được Tòa án nhân dân huyện
Từ Liêm giải quyết, cho bà ly hơn. Trong đó khơng giải quyết phần tài sán
trên.
• 15/12/2009 Tịa án nhân dân huyện Từ Liêm tuyên bố ông Diện mất năng
lực hành vi dân sự.
• 02/12/2010 bà Thu là con gái và cũng là người đại diện theo pháp luật của
ông Diện có đơn khởi kiện yêu cầu hủy hợp đồng trên, đồng thời ủy quyền
cho mẹ là bà Hiền tham gia tố tụng vụ án. Trong đó bà Hiền trình bày là khi
ký giấy chuyển nhượng đất thì ơng Diện đã bị bệnh tâm thần và không là chủ
được hành vi, đồng thời ép bà ký vào giấy. Từ đó hợp đồng sai với quy định
pháp luật. Ông Sơn xác định khi chuyển nhượng ơng Diện khơng có biểu
hiện bệnh nên không đồng ý hủy hợp đồng
5
• Dựa trên thông tin cung cấp từ bệnh viện tâm thần Hà Nội và Trung tâm
giám định pháp y tâm thần Sở Y Tế Hà Nội, Tòa án xác định ông Diện cần
người giám hộ tại thời điểm ký giấy.
• Các bản án trước đó về vụ Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử
dụng đất giữa nguyên đơn là ông Diện do chị Thu là người đại diện theo pháp
luật với bị đơn là ông Sơn bị hủy và giao hồ sơn vụ án lại để xét xử sơ thẩm
cho đúng quy định của pháp luật.
5. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết của Tòa án nhân dân tối cao
trong vụ việc trên (liên quan đến giao dịch dân sự do ông Hội xác lập)?
Nêu cơ sở pháp lý khi đưa ra hướng xử lý.
Hướng giải quyết của Tịa án nhân dân tối cao khá thuyết phục:
• Công nhận quyền khởi kiện của chị Ánh trong giao dịch chuyển nhượng
quyền sử dụng đất giữa ông Hội, bà Hương và 2 vợ chồng ơng Hùng, bà
Trinh. Ơng Hội đã bị tuyên bố là mất năng lực hành vi dân sự từ ngày
07/05/2010 và chị Ánh là người được cử là người đại diện theo pháp luật cho
ông Hội và là người thừa kế quyền và nghĩa vụ của ông Hội theo quy định tại
Điều 130 BLDS 2005.
• Cần xác minh làm rõ phần diện tích 43,7m2 đất (chưa được cấp giấy chứng
nhận quền sử dụng đất và không có trong hợp đồng chuyển nhượng quyền sử
dụng đất ngày 08/02/2010) đã đăng ký kê khai và có đủ điều kiện được cấp
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất không. Theo biên bản định giá ngày
30/06/2011 của Tòa án nhân dân thành phố Tuy Hịa, thì ngồi diện tích
120m2 đất ông Hội, bà Hương đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất cịn có 43,7m2 đất chưa được cấpgiấy chứng nhận quyền sử dụng đất và
trên đất có nhà diện tích 56,7m2, móng đá, tường gạch, mái tơn cao 3m và
vật kiến trúc khác nhưng khơng có trong hợp đồng chuyển nhượng quyền sử
dụng đất ngày 8/2/2010 giữa vợ chồng ơng Hùng và bà Trinh.
• Hủy tồn bộ bản án dân sự phúc thẩm số 35/2012/DSPT ngày 1/7/2012 của
Tòa ánnhân dân tỉnh Phú Yên và bản án dân sự sơ thẩm số 98/2011/DSST
ngày 22/12/2011 của Tòa án nhân dân tỉnh Tuy Hòa, tỉnh Phú Yên về vụ án
“Tranh chấp hợp đồng mua bán nhà ở gắn liền với quyền sử dụng đất” giữa
nguyên đơn là chị Ánh với bị đơn là bà Hương và những người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan khác. Giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân thành phố Tuy
Hòa, tỉnh Phú Yên xét xử sơ thẩm lại theo quy định của pháp luật.
• Tịa án đã chỉ ra được thiếu sót của các bản án sơ thẩm và phúc thẩm.
6. Nếu giao dịch có tranh chấp là giao dich dịch tặng cho ơng Hội thì giao
dịch đó có bị vơ hiệu khơng? Vì sao?
6
- Dựa theo khoản 2 Điều 141 BLDS 2015, những giao dịch tặng, cho động
sản, bất động sản đều mang lại lợi ích cho ơng Hội nên người đại diện được
tồn quyền quyết định thay ơng Hội, nếu người đại diện (chị Ánh) đồng ý xác
lập giao dịch thì giao dịch đó vẫn có hiệu lực.
III. Giao dịch xác lập có lừa dối
1. Điều kiện để tuyên bố một giao dịch dân sự vơ hiệu do có lừa dối theo
BLDS 2005 và BLDS 2015 ?
- Điều 127 BLDS 2015: Giao dịch dân sự vô hiệu do bị lừa dối, đe dọa,
cưỡng ép.
- Khi một bên tham gia giao dịch dân sự do bị lừa dối hoặc bị đe dọa, cưỡng
ép thì có quyền u cầu Tịa án tun bố giao dịch dân sự đó là vơ hiệu.
- Điều 132 BLDS 2005:
- Giao dịch dân sự vô hiệu do bị lừa dối, đe dọa.
- Khi một bên tham gia giao dịch dân sự do bị lừa dối hoặc bị đe dọa thì có
quyền u cầu Tịa án tun bố giao dịch dân sự đó là vơ hiệu.
2. Đoạn nào của Quyết định số 521 cho thấy thỏa thuận hoán nhượng đã
bị tun vơ hiệu do có lừa dối ?
- Việc anh Vinh và người liên quan ( ơng Trần Bá Tồn, bà Trần Thị Phú Vânhọ hàng của anh Vinh) không thơng báo cho ơng Đỗ, bà Thu biết tình trạng
về nhà, đất mà các bên thỏa thuận hoán đổi đã có quyết định thu hồi, giải tỏa
đền bù (căn nhà đã có quyết định tháo dở do xây dựng trái phép từ năm 1998
nên không được bồi thường giá trị căn nhà; cịn thửa đất bị thu hồi thì khơng
đủ điều kiện để mua nhà tái định cư theo Quyết định số 135/QĐ-UB ngày
21/11/2002) là có sự gian dối. Mặt khác tại bản “Thỏa thuận hốn nhượng”
khơng có chữ ký của ông Đô (chồng bà Thu) trong bao lâu và là người cùng
bà Thu bán căn nhà 115/7E Nguyễn Kiệm, Quận Gò Vấp cho bà Phố (mẹ của
anh Vinh). Do vậy, giao dịch “Thỏa thuận hoán nhượng” giữa anh Vinh và bà
Thu vô hiệu nên phải áp dụng Điều 132 BLDS để giải quyết
7
3. Hướng giải quyết trên đã có tiền lệ chưa? Nếu có tiền lệ, nêu vắn tắt
tiền lệ anh/chị biết?
- Hướng giải quyết trên chưa có tiền án tiền lệ.
4. Hướng giải quyết trên có phù hợp với BLDS 2015 khơng? Vì sao?
- Hướng giải quyết trên phù hợp với BLDS 2015 vì theo điều 127 BLDS
2015 quy định :
- Khi một bên tham gia giao dịch dân sự do bị lừa dối hoặc bị đe dọa, cưỡng
ép thì có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự đó là vơ hiệu.
- Lừa dối trong giao dịch dân sự là hành vi cố ý của một bên hoặc của người
thứ ba nhằm làm cho bên kia hiểu sai lệch về chủ thể, tính chất của đối tượng
hoặc nội dung của giao dịch dân sự nên đã xác lập giao dịch đó
- Theo Điểm b, Khoản 1, Điều 132 BLDS 2015 quy định:
b) Người bị nhầm lẫn, bị lừa dối biết hoặc phải biết giao dịch được xác lập do
bị nhầm lẫn, bị lừa dối.
- Ta thấy anh Vinh đã giấu ông Đô, bà Thu quyết định cưỡng chế nhà và
khôngcho vợ chồng bà biết nhà và đất bị giải tỏa khi kí “Thỏa thuận hốn
nhượng” ngày 20/5/2004 nên ơng bà đã kí. Theo điều khoản trên thì hợp
đồng này là vơ hiệu.
- Do đó quyết định hủy bỏ bản án dân sự sơ thẩm số 15/2005/DS-ST ngày
10-14/01/2008 và bản án dân sự phúc thẩm số 810/2008/DS-PT ngày
20/7/2008
5. Trong Quyết định 210, theo Tòa án, ai được yêu cầu và ai khơng được
u cầu Tịa án tun bố hợp đồng có tranh chấp vơ hiệu?
- Theo quyết định số 210, theo Tịa án, ơng Tài được quyền u cầu Tịa án
tun bố hợp đồng vơ hiệu do bị lừa dối nếu ông Tài không biết việc ông
Dương giả mạo chữ kí của bà Nhất khi tiến hành giao kết hợp đồng chuyển
8
nhượng quyền sử dụng đất. Căn cứ vào Điều 132 BLDS 2005: “Khi một bên
tham gia giao dịch dân sự do bị lừa dối hoặc bị đe dọa thì có quyền yêu cầu
Toà án tuyên bố giao dịch dân sự đó là vơ hiệu. Lừa dối trong giao dịch là
hành vi cố ý của một bên hoặc của người thứ ba nhằm làm cho bên kia hiểu
sai lệch về chủ thể, tính chất của đối tượng hoặc nội dung của giao dịch dân
sự nên đã xác lập giao dịch đó. Đe dọa trong giao dịch là hành vi cố ý của
một bên hoặc người thứ ba làm cho bên kia buộc phải thực hiện giao dịch
nhằm tránh thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ, danh dự, uy tín, nhân phẩm, tài
sản của mình hoặc của cha, mẹ, vợ, chồng, con của mình.” Trong trường hợp
này ơng Tài chính là một bên tham gia giao dịch bị lừa dối có quyền u cầu
Tịa án tun bố giao dịch vơ hiệu cịn bà Nhất thì khơng. Bà Nhất chỉ có
quyền khởi kiện u cầu tun bố giao dịch đó vơ hiệu do vi phạm điều cấm
của pháp luật, vi phạm điều 127 BLDS 2005 “Giao dịch dân sự khơng có một
trong các điều kiện được quy định tại Điều 122 của Bộ luật này thì vơ hiệu.”
6. Trong quyết định số 210, theo Tòa án, thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên
bố hợp đồng vơ hiệu do lừa dối có cịn khơng? Vì sao?
- Trong quyết định số 210, theo Tịa án, thời hiệu u cầu Tịa án tun bố
hợp đồng vơ hiệu do lừa dối là khơng cịn. Bởi vì theo Khoản 1, Điều 136,
BLDS 2005 quy định: “1. Thời hiệu u cầu Tồ án tun bố giao dịch dân
sự vơ hiệu được quy định tại các điều từ Điều 130 đến Điều 134 của Bộ luật
này là hai năm, kể từ ngày giao dịch dân sự được xác lập.” Trong tình huống
trên thời điểm xác lập giao dịch dân sự giữa ông Tài và ông Dưỡng là 2003
tới thời điểm 2010 thì đã là 7 năm cho nên thời hiệu khởi kiện khơng cịn(nó
đã
kết
thúc
năm
2005).
7. Trong trường hợp hết thời hiệu u cầu Tịa án tun bố hợp đồng vơ
hiệu do lừa dối, Tịa án có cơng nhận hợp đồng khơng? Vì sao?
- Trong trường hợp hết thời hạn yêu cầu Tịa án tun bố hợp đồng vơ hiệu
do lừa dối, Tịa án sẽ cơng nhận hợp đồng. Vì theo Khoản 1, Điều 137 BLDS
2005 “1. Giao dịch dân sự vô hiệu không làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt
quyền, nghĩa vụ dân sự của các bên kể từ thời điểm xác lập.” Theo đó thì khi
đã hết thời hiệu khởi kiện thì giao dịch dân sự sẽ khơng cịn tranh chấpvề
hiệu lực nữa và quyền và nghĩa vụ dân sự giữa các bên kể từ thời điểm xác
9
lập khơng chấm dứt có nghĩa là hợp đồng đã kí kết trong thời hạn này vẫn
được Tịa án cơng nhận.
8. Câu trả lời cho các câu hỏi trên có khác không nếu áp dụng các quy
định tương ứng của BLDS 2015 vào tình tiết như trong Quyết định số
210?
- Câu trả lời cho các câu hỏi trên có sự khác biệt nếu áp dụng các quy định
tương ứng của BLDS 2015 vào tình tiết như trong Quyết định số 210. Vì theo
Điểm b, Khoản 1, Điều 132, BLDS 2015 quy định thời hiệu yêu cầu Toà án
tuyên bố giao dịch vô hiệu là 2 năm kể từ khi người bị lừa dối biết hoặc phải
biết giao dịch được xác lập do bị lừa dối. Vào lúc giao dịch thì ông Tài không
biết ông Dưỡng giả chữ kí nên từ khi ông Tài biết ông Dưỡng giả mạo chữ ký
cho đến lúc khởi kiện chưa quá 2 năm nên ông tài vẫn đủ điều kiện để khởi
kiện.
IV. Hậu quả của giao dịch dân sự vô hiệu
1. Giao dịch dân sự vơ hiệu có làm phát sinh quyền và nghĩa vụ các bên
không?
- Giao dịch dân sự vô hiệu không làm phát sinh quyền và nghĩa vụ của các
bên vì:
- Theo khoản 1 điều 131 Bộ luật dân sự năm 2015 và khoản 1 điều 137 Bộ
luật dân sự 2005: “ Giao dịch dân sự vô hiệu không làm phát sinh, thay đổi,
chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của các bên kể từ thời điểm giao dịch được
xác lập.”
2. Trên cơ sở Bộ luật dân sự , khi xác định Hợp đồng dịch vụ vơ hiệu thì
cơng ty Phú Mỹ có phải thanh tốn cho cơng ty Orange phần giá trị
tương ứng với khối lượng công việc mà công ty Orange đã thực hiện
khơng? Vì sao?
10
- Trên cơ sở Bộ luật dân sự, khi xác định Hợp đồng dịch vụ vơ hiệu thì Cơng
ty Phú Mỹ phải thanh tốn cho Cơng ty Orange phần giá trị tương ứng với
khối lượng công việc mà Công ty Orange đã thực hiện vì:
- Theo khoản 2 điều 137 Bộ luật dân sự 2005: “ Khi giao dịch dân sự vơ hiệu
thì các bên khơi phục lại tình trạng ban đầu, hồn trả cho nhau những gì đã
nhận; nếu khơng hồn trả được bằng hiện vật thì phải hồn trả bằng tiền, trừ
trường hợp tài sản giao dịch, hoa lợi, lợi tức thu được bị tịch thu theo quy
định của pháp luật. Bên có lỗi gây thiệt hại phải bồi thường.” và khoản 2 điều
131 Bộ luật dân sự 2015: “Khi giao dịch dân sự vơ hiệu thì các bên khơi phục
lại tình trạng ban đầu, hồn trả cho nhau những gì đã nhận.
Trường hợp khơng thể hồn trả được bằng hiện vật thì trị giá thành tiền để
hồn trả.”
- Nhận thấy cơng ty Orange đã hồn thành hết công việc theo thỏa thuận
trong hợp đồng và đã bàn giao tồn bộ cho cơng ty Phú Mỹ. Nên nếu hợp
đồng được xác định vơ hiệu, thì cơng ty Phú Mỹ phải hồn trả lại những gì đã
nhận từ cơng ty Orange, có giá trị tương ứng với khối lượng công việc mà
công ty Orange đã thực hiện.
3. Hướng giải quyết của Hội đồng thẩm phán đối với khối lượng công
việc mà Công ty Orange đã thực hiện như thế nào?
- Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao đưa ra hướng giải quyết đối
với khối lượng công việc mà Công ty Orange đã thực hiện như sau: “Nếu xác
định Hợp đồng dịch vụ vơ hiệu thì phải buộc Cơng ty Phú Mỹ phải thanh
tốn cho Cơng ty Orange phần giá trị tương ứng với khối lượng công việc mà
Công ty Orange đã thực hiện theo thỏa thuận tại hợp đồng. Còn nếu Hợp
đồng dịch vụ là hợp pháp thì phải buộc Cơng ty Phú Mỹ phải thanh tốn cho
Cơng ty Orange phần giá trị tương ứng với khối lượng công việc mà Công ty
Orange đã thực hiện theo thỏa thuận tại hợp đồng cùng tiền lãi suất do chậm
thanh toán theo quy định của pháp luật.”
11
4. Suy nghĩ của anh chị về hướng giải quyết trên của Hội đồng thẩm
phán liên quan tới khối lượng công việc mà Công ty Orange đã thực hiện
khi xác định hợp đồng vô hiệu.
- Hướng giải quyết của Hội đồng thẩm phán liên quan tới khối lượng công
việc mà công ty Orange đã thực hiện khi xác định hợp đồng vơ hiệu là chưa
thuyết phục vì:
- Hội đồng thẩm phán cho rằng hợp đồng nói trên có thể bị vơ hiệu nhưng
khơng nói rõ vơ hiệu vì lý do gì, có phải do có một bên đã gây lỗi hay không,
hay nội dung hợp đồng đã vi phạm điều cấm của pháp luật, nếu vi phạm điều
cấm thì nội dung điều cấm đó được quy định ở văn bản pháp luật nào,...
- Bên cạnh đó, nội dung đề xuất lựa chọn làm án lệ nói bên làm dịch vụ phải
thanh tốn cho bên th dịch vụ nhưng khơng nói rõ thanh toán theo giá như
thế nào. Hội đồng thẩm phán chưa chỉ ra được đường lối để khắc phục vướng
mắc, cũng khơng giải thích rõ cái mà các bên đã nhận là cái gì trong trường
hợp này.
5. Hướng xử lý của Hội đồng thẩm phán đối với khối lượng công việc mà
Công ty Orange đã thực hiện như thế nào khi xác định Hợp đồng dịch vụ
không vô hiệu? Nội dung xử lý khác với trường hợp xác định hợp đồng
vô hiệu như thế nào? Suy nghĩ của anh/ chị về chủ đề này như thế nào?
- Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân tối cao xác định hướng giải quyết đối với
khối lượng công việc mà Công ty Orange đã thực hiện khi Hợp đồng dịch vụ
không vô hiệu như sau: “Nếu Hợp đồng dịch vụ là hợp pháp thì phải buộc
Cơng ty Phú Mỹ phải thanh tốn cho Công ty Orange phần giá trị tương ứng
với khối lượng công việc mà Công ty Orange đã thực hiện theo thỏa thuận tại
hợp đồng cùng tiền lãi suất do chậm thanh toán theo quy định của pháp luật.”
- Đối với trường hợp hợp đồng dịch vụ giữa Công ty Phú Mỹ và Công ty
Orange được xác định vô hiệu, thì phần giá trị tương ứng với khối lượng
cơng việc Công ty Orange đã thực hiện mà Công ty Phú Mỹ phải trả cho
Cơng ty Orange là để hồn trả lại những gì Cơng ty Phú Mỹ đã nhận từ Công
ty Orange , theo quy định tại khoản 2 điều 137 Bộ luật dân sự 2005: “Khi
12
giao dịch dân sự vơ hiệu thì các bên khơi phục lại tình trạng ban đầu, hồn trả
cho nhau những gì đã nhận; nếu khơng hồn trả được bằng hiện vật thì phải
hồn trả bằng tiền, trừ trường hợp tài sản giao dịch, hoa lợi, lợi tức thu được
bị tịch thu theo quy định của pháp luật. Bên có lỗi gây thiệt hại phải bồi
thường.”
- Còn với trường hợp hợp đồng dịch vụ giữa Công ty Phú Mỹ và Công ty
Orange là khơng vơ hiệu, thì hợp đồng đó được cơng nhận là hợp pháp và
tiếp tục có hiệu lực. Do đó Cơng ty Phú Mỹ phải thực hiện nghĩa vụ dân sự
của mình theo điều 283 Bộ luật dân sự 2005 quy định: “Bên có nghĩa vụ dân
sự phải thực hiện nghĩa vụ của mình một cách trung thực, theo tinh thần hợp
tác, đúng cam kết, không trái pháp luật, đạo đức xã hội.”, là phải thanh tốn
phần cịn lại cho Công ty Orange theo cam kết tại khoản 3 điều 4 trong Hợp
đồng dịch vụ: “Thanh toán lần 3 là 160.000 KRW trên cơ sở chấp nhận CD
và bản vẽ chi tiết.” Ngoài ra, khác với trường hợp xác định hợp đồng vô hiệu,
khi hợp đồng được công nhận hợp pháp, thì Cơng ty Phú Mỹ cịn phải trả tiền
lãi suất do chậm thanh toán theo khoản 2 điều 305 BLDS 2015: “Trong
trường hợp bên có nghĩa vụ chậm trả tiền thì bên đó phải trả lãi đối với số
tiền chậm trả theo lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố tương ứng
với thời gian chậm trả tại thời điểm thanh toán, trừ trường hợp có thoả thuận
khác hoặc pháp luật có quy định khác.”
- Thơng qua ví dụ trên về cơng ty Orange và cơng ty Phú Mỹ, chúng ta khơng
có đủ cơ sở để kết luận, xác định khối lượng công việc mà bên nhận cơng
việc đã ký với bên cịn lại. Ngồi ra, chúng ta cũng gặp khó khăn trong việc
xác định một cách rõ ràng hình thức, bản chất, kết quả...của sản phẩm đã đạt
được tiêu chuẩn, yêu cầu hay chưa. Vì vậy, khi bên dịch vụ phải chịu bồi
thường thì chưa thật sự hợp lý.
6. Trong quyết định số 75, vì sao Tịa dân sự Tịa án nhân dân tối cao xác
định hợp đồng vô hiệu?
- Theo quyết định số 75/2012/DS-GĐT có nói: “Ngày 25/06/2006 anh Dư,
chị Chúc đã chuyển nhượng quyền sử dụng diện tích đất trên với giá thỏa
13
thuận là 195.000.000 đồng. Hai bên có lập một giấy “chuyển nhượng đất” và
một giấy “chuyển nhượng đất thổ cư” và nhận tiền cùng ngày 25/06/2006. Cả
hai tài liệu trên đều có xác nhận của Ủy ban nhân dân xá Trung Kiên. Khi
ơng Sanh u cầu phải hồn tất hợp đồng chuyển nhượng theo quy định của
pháp luật thì vợ chồng anh Dư, chị Chúc không thực hiện.”
- Bên cạnh đó, 18/10/2010, Tịa án nhân dân huyện n Lạc cũng đã có
Quyết định số 01/TA “gia hạn để các bên thực hiện quy định về hình thức của
hợp đồng nhưng vợ chồng anh Dư, chị Chúc cũng không thực hiện.” . Như
vậy, vợ chồng anh Dư, chị Chúc đã vi phạm khoản 2 điều 122 Bộ luật dân sự
2005 về Điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự: “Hình thức giao dịch dân
sự là điều kiện có hiệu lực của giao dịch trong trường hợp pháp luật có quy
định.”
- Do đó, căn cứ theo điều 134 Bộ luật dân sự 2005 về Giao dịch dân sự vô
hiệu do khơng tn thủ quy định về hình thức: “Trong trường hợp pháp luật
quy định hình thức giao dịch dân sự là điều kiện có hiệu lực của giao dịch mà
các bên khơng tn theo thì theo u cầu của một hoặc các bên, Tồ án, cơ
quan nhà nước có thẩm quyền khác quyết định buộc các bên thực hiện quy
định về hình thức của giao dịch trong một thời hạn; q thời hạn đó mà
khơng thực hiện thì giao dịch vô hiệu.” và điều 127 Bộ luật dân sự 2005:
“Giao dịch dân sự khơng có một trong các điều kiện được quy định tại Điều
122 của Bộ luật này thì vơ hiệu.”. Tịa án dân sự Tịa án nhân dân tối cao đã
xác định hợp đồng vô hiệu.
7. Suy nghĩ của anh chị về việc Tòa án dân sự Tòa án nhân dân tối cao
xác định hợp đồng vô hiệu trong quyết định trên.
- Việc Tóa án dân sự Tịa án nhân dân tối cao xác định hợp đồng vô hiệu
trong quyết định số 75/2012/DS-GĐT là hợp lý vì:
- Theo điều 134 Bộ luật dân sự 2005 quy định về Giao dịch dân sự vô hiệu do
không tuân thủ quy định về hình thức: “Trong trường hợp pháp luật quy định
hình thức giao dịch dân sự là điều kiện có hiệu lực của giao dịch mà các bên
không tuân theo thì theo u cầu của một hoặc các bên, Tồ án, cơ quan nhà
nước có thẩm quyền khác quyết định buộc các bên thực hiện quy định về
14
hình thức của giao dịch trong một thời hạn; quá thời hạn đó mà khơng thực
hiện thì giao dịch vơ hiệu.”
- Theo hợp đồng đã được xác lập 25/06/2006 giữa ông Sanh và vợ chồng anh
Dư, chị Chúc, thì anh chị phải chuyển nhượng quyền sử dụng 100m2 đất ở tại
thửa 373, tờ bản đồ số 06 ở thôn Xuân Chiếm, xã Trung Nguyên, huyện Yên
Lạc, tỉnh Vĩnh Phúc, và ông Sanh sẽ trả cho anh chị số tiền 195.000.000đ như
đã thỏa thuận. Tuy nhiên, khi ông Sanh đã thanh tốn tồn bộ số tiền như
trong hợp đồng và lên Ủy ban nhân dân xã Trung Nguyên để làm thủ tục
chuyển nhượng quyền sử dụng đất, thì vợ chồng anh Dư, chị Chúc đã không
chịu ký vào hợp đồng. Như vậy, vợ chồng anh Dư, chị Chúc đã không tuân
thủ theo thủ tục hình thức của hợp đồng đã thoản thuận vào ngày 25/6/2006
giữa ông Sanh và anh chị.
- Ngày 18/10/2010, Tịa án nhân dân huyện n Lạc đã có quyết định số
01/TA gia hạn để anh Dư, chị Chúc thực hiện quy định về hình thức của hợp
đồng, nhưng vợ chồng anh Dư, chị Chúc vẫn tiếp tục không thực hiện không
thực hiện.
- Trường hợp này thỏa theo các điều kiện tại điều 134 Bộ luật dân sự 2005,
cho nên Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao đã xác định hợp đồng chuyển
nhượng đất giữa ông Sanh và vợ chồng anh Dư, chị Chúc là vô hiệu.
8. Với thông tin trong quyết định số 75 và pháp luật hiện hành, ông Sanh
sẽ được bồi thường thiệt hại bao nhiêu? Vì sao?
- Theo quyết định số 75/2012/DS-GĐT, ơng Sanh sẽ được bồi thường thiệt
hại tương đương với phần giá trị hợp đồng đã thanh tốn là 195.000.000đ vì:
- Việc khơng chịu hợp tác để hồn thiện thủ tục về hình thức của hợp đồng là
do lỗi của vợ chồng anh Dư, chị Chúc. Và đó là lỗi duy nhất dẫn đến hợp
đồng xác định vô hiệu, chứ ông Sanh hồn tồn khơng có lỗi gì. Do đó anh
Dư, chị Chúc phải bồi thường toàn bộ thiệt hại cho ông Sanh theo khoản 2
điều 137 Bộ luật dân sự 2005: “Khi giao dịch dân sự vơ hiệu thì các bên khơi
phục lại tình trạng ban đầu, hồn trả cho nhau những gì đã nhận; nếu khơng
hồn trả được bằng hiện vật thì phải hồn trả bằng tiền, trừ trường hợp tài sản
15
giao dịch, hoa lợi, lợi tức thu được bị tịch thu theo quy định của pháp luật.
Bên có lỗi gây thiệt hại phải bồi thường.”
9. Theo bản án số 133, Tòa án quyết định hủy giấy chứng nhận cấp cho
anh Dậu và ghi nhận cho ông Văn, bà Tằm quyền liên hệ với cơ quan có
thẩm quyền để được cấp lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất có là hệ
quả của giao dịch dân sự vô hiệu hay không? Vì sao?
- Theo bản án số 133/2017/DS-PT, Tịa án quyết định hủy giấy chứng nhận
cấp cho anh Dậu và ghi nhận cho ông Văn, bà Tằm quyền liên hệ với cơ quan
có thẩm quyền để được cấp lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là hệ quả
của giao dịch dân sự vô hiệu, cụ thể giao dịch dân sự đó là 3 “Hợp đồng tặng
cho quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất” không số giữa: Bên tặng
cho ông Bùi Tiến Văn, bà Nguyễn Thị Tằm, bên được tặng cho: ông Bùi Tiến
Dậu, ông Bùi Tiến Bình, ơng Bùi Tiến Sinh vì:
- Theo khoản 2 điều 131 Bộ luật dân sự 2015 quy định về Hậu quả pháp lý
của giao dịch dân sự vô hiệu: “Khi giao dịch dân sự vơ hiệu thì các bên khơi
phục lại tình trạng ban đầu, hồn trả cho nhau những gì đã nhận. Trường hợp
khơng thể hồn trả được bằng hiện vật thì trị giá thành tiền để hồn trả.”
Việc Tòa án quyết định hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp cho anh
Dậu và ghi nhận cho ông Văn, bà Tằm quyền liên hệ cơ quan có thẩm quyền
để được cấp lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là thực hiện theo quy
định trên của Bộ luật dân sự, trao trả lại tình trạng ban đầu trước khi hợp
đồng được xác lập, vì trước đó quyền sử dụng khu đất này là thuộc về ông
Bùi Tiến Văn và bà Nguyễn Thị Tằm.
16