ĐẠI HỌC LUẬT TP HỒ CHÍ MINH
KHOA LUẬT HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC
1
BÀI THẢO LUẬN THỨ BA
MÔN: LUẬT DÂN SỰ
ĐỀ TÀI: TÀI SẢN VÀ QUYỀN ĐỐI VỚI TÀI SẢN
2
3
I. Khái niệm tài sản
1.1 Thế nào là giấy tờ có giá? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời và cho ví dụ
minh họa về một vài giấy tờ có giá.
- Điều 105 Bộ luật Dân sự (BLDS) năm 2015 quy định: "Tài sản là vật, tiền,
giấy tờ có giá và quyền tài sản".
- Theo điểm 8, Điều 6 Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam năm 2010, giấy
tờ có giá là “bằng chứng xác nhận nghĩa vụ trả nợ giữa tổ chức phát hành
giấy tờ có giá với người sở hữu giấy tờ có giá trong một thời hạn nhất định,
điều kiện trả lãi và các điều kiện khác”.
Ngoài ra, các quy định khác của pháp luật hiện hành thì giấy tờ có giá bao
gồm:
- Hối phiếu địi nợ, hối phiếu nhận nợ, séc, công cụ chuyển nhượng khác
được quy định tại Điều 1 Luật Các công cụ chuyển nhượng năm 2005;
- Trái phiếu Chính phủ, trái phiếu công ty, kỳ phiếu, cổ phiếu được quy định
tại điểm c, khoản 1, Điều 4 Pháp lệnh ngoại hối năm 2005;
- Tín phiếu, hối phiếu, trái phiếu, cơng trái và các công cụ khác làm phát sinh
nghĩa vụ trả nợ được quy định tại điểm 16, Điều 3 Luật Quản lý nợ cơng
2009;
- Các loại chứng khốn (Cổ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ quỹ; Quyền mua cổ
phần, chứng quyền, quyền chọn mua, quyền chọn bán, hợp đồng tương lai,
nhóm chứng khốn hoặc chỉ số chứng khốn; Hợp đồng góp vốn đầu tư; Các
loại chứng khốn khác do Bộ Tài chính quy định) được quy định tại điểm 3
Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Chứng khoán năm 2010;
- Trái phiếu doanh nghiệp được quy định tại Khoản 1 Điều 2 Nghị định số
90/2011/NĐ-CP của Chính phủ về phát hành trái phiếu doanh nghiệp.
1.2 Trong thực tiễn xét xử, “giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy
chứng nhận sở hữu nhà” có là giấy tờ có giá khơng? Đoạn nào của quyết
định số 06 cho câu trả lời?
Trong thực tiễn xét xử, “giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng
nhận sở hữu nhà” không là giấy tờ có giá. Quyết định số 06 ghi nhận:
Theo Điều 105 Bộ luật dân sự 2015 quy định về tài sản như sau: “1. Tài sản
là vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản. 2. Tài sản bao gồm bất động sản
4
và động sản… Như vậy, Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất chỉ là văn bản
chứa đựng thông tin về Quyền sử dụng đất, là văn bản chứng quyền, không
phải là tài sản và không thể xem là loại giấy tờ có giá.
Quyết định số 06/2017/QĐ-PT có đoạn:
Theo Điều 105 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định về tài sản như sau: “1. Tài
sản là vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản. 2. Tài sản bao gồm bất động
sản và động sản. Bất động sản và động sản có thể là tài sản hiện có và tài sản
hình thành trong tương lai”; Điều 115 Bộ luật dân sự năm 2015: “Quyền tài
sản là quyền trị giá được bằng tiền, bao gồm quyền tài sản đối với đối tượng
quyền sở hữu trí tuệ, quyền sử dụng đất và các quyền tài sản khác”. Căn cứ
Khoản 16 Điều 3 Luật đất đai năm 2013: Giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất là chứng thư pháp lý
để Nhà nước xác nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở, tài sản khác
gắn quyền sở hữu tài sản khác gắn liền với đất. Như vậy, Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất chỉ là văn bản chứa đựng thông tin về Quyền sử dụng đất,
là văn bản chứng quyền, không phải là tài sản và không thể xem là loại giấy
tờ có giá.
1.3 Trong thực tiễn xét xử, “giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy
chứng nhận sở hữu nhà” có là tài sản khơng? Quyết định trên có cho câu
trả lời khơng? Vì sao?
Trong thực tiễn xét xử, “giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng
nhận sở hữu nhà” không là tài sản. Quyết định số 06 cho ta câu trả lời rằng
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất chỉ là văn bản chứa đựng thông tin về
Quyền sử dụng đất, là văn bản chứng quyền, không phải là tài sản và không
thể xem là loại giấy tờ có giá. Do đó, việc ơng Hai khởi kiện u cầu ơng
Thái địi trả lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất không thuộc thẩm quyền
giải quyết của Tòa án, chiếu theo Điều 105, 115 BLDS 2015 và khoản 6 Điều
3 Luật đất đai. Bởi vì, Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là một trong
những căn cứ cho phép xác định thẩm quyền của các cơ quan nhà nước có
liên quan trong việc giải quyết các tranh chấp về quyền sử dụng đất, chứ hồn
tồn khơng phải là tài sản
5
1.4 Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của thực tiễn xét xử
liên quan đến “giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận sở
hữu nhà” nhìn từ khái niệm tài sản (và nếu có điều kiện, đối chiếu thêm
với pháp luật nước ngoài);
Từ khái niệm tài sản được ghi nhận tại Điều 105 BLDS 2015, có chăng “giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận sở hữu nhà” chỉ là một loại
giấy tờ chứa đựng, ghi nhận quyền sở sử dụng đất, sở hữu nhà được chứng
nhận từ nhà nước và các cơ quan có thẩm quyền? Trích một phần bình luận
trong bài viết của tác giả Đỗ Thành Cơng:
Gần đây, Tịa án nhân dân tối cao ban hành công văn số 141/TANDTCKHXX ngày 21/9/2011 hướng dẫn thẩm quyền giải quyết các yêu cầu trả lại
chứng nhận quyền sở hữu tài sản (“Công văn 141”). Theo công văn 141, các
giấy chứng nhận quyền sở hữu tài sản (Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất,
Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở, Giấy đăng kí xe mơ tơ, xe máy; Giấy
đăng kí xe ơ tơ…) khơng phải là giấy tờ có giá được quy định tại Điều 163
BLDS 2005, do đó, nếu có u cầu Tịa án giải quyết buộc người chiếm giữ
trả lại các giấy tờ này thì Tịa án khơng thụ lý giải quyết. Khi trả lại đơn khởi
kiện hoặc đình chỉ vụ án dân sự liên quan tới yêu cầu kiện đòi lại giấy chứng
nhận quyền sở hữu tài sản do người khác đang chiếm giữ, Tòa án phải hướng
dẫn cho người khởi kiện yêu cầu cơ quan chức năng giải quyết theo thẩm
quyền buộc người chiếm giữ bất hợp pháp giấy tờ nêu trên phải trả lại cho
chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp đối với loại giấy tờ đó. Tác giả đã nêu
ra nhận định: “Việc Tòa án nhân dân tối cao coi Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất không phải là tài sản chưa phù hợp với quy định của pháp luật hiện
hành. Theo Điều 163 BLDS 2005, tài sản bao gồm vật, tiền, giấy tờ có giá và
các quyền tài sản. Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất khơng phải là giấy tờ
có giá, tuy nhiên hồn tồn có thể xem Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là
vật. Điều này là hợp lý bởi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tồn tại dưới
một hình thức vật chất nhất định, thậm chí có hình dạng cụ thể (là tờ giấy),
nằm trong khả năng chiếm hữu của con người (có thể thực hiện việc nắm giữ,
chiếm giữ, quản lý đối với Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất), có giá trị sử
dụng (được dùng để chứng minh quyền sử dụng đất hợp pháp của người sử
dụng đất. Việc giấy chứng nhận quyền sử dụng đất không thể tham gia vào
giao dịch trao đổi mua bán không làm mất đi bản chất tài sản của nó. Thứ ba,
việc Tịa án nhân dân tối cao coi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất không
6
phải là tài sản dẫn đến nhiều hệ quả không giải thích được về mặt lý luận và
thực tế, đồng thời nhận thức này làm ảnh hưởng trực tiếp tới quyền lại của
người sử dụng đất… Việc coi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất không phải
là tài sản đã tước bỏ quyền chiếm hữu và sử dụng hợp pháp của người sử
dụng đất đối với loại giấy tờ này, từ đó dẫn tới việc Tịa án khơng có cơ sở để
thừa nhận việc bảo hộ quyền chiếm hữu và sử dụng hợp pháp đối với Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất một khi có tranh chấp… Giá trị vật chất của
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất không lớn (chỉ là một tờ giấy trên đó Nhà
nước ghi nhận quyền sử dụng đất hợp pháp của người sử dụng đất). Tuy thế,
loại giấy tờ này rất có ý nghĩa trong việc chứng minh quyền lợi hợp pháp của
người sử dụng đất. Thực tiễn xét xử hiện nay không coi giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất là một loại tài sản, tuy nhiên quan điểm này tỏ ra thiếu cơ
sở pháp lý và thực tiễn.” . Vì những điều đã đề cập ở trên, việc thừa nhận
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là tài sản trong thực tiễn xét xử là cần
thiết.
Theo em, xét về phương diện pháp lí, thì giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
có thể được coi là loại tài sản nếu nhìn nó dưới góc độ đơn thuần chỉ là một
tờ giấy, vì nó là vật.
1.5 Nếu áp dụng BLDS 2015, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy
chứng nhận sở hữu nhà có là tài sản khơng? Vì sao?
Nếu áp dụng BLDS 2015, cụ thể là Điều 105 thì giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất, giấy chứng nhận sở hữu nhà không được coi là tài sản. Vì giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận sở hữu nhà là văn bản chứa
đựng quyền sử dụng đất chứ không phải là tài sản.
1.6 Bitcoin là gì?
Bitcoin (ký hiệu: BTC, XBT, ) là một loại tiền mã hóa, được phát minh bởi
Satoshi Nakamoto dưới dạng phần mềm mã nguồn mở từ năm 2009. Bitcoin
có thể được trao đổi trực tiếp bằng thiết bị kết nối Internet mà không cần
thông qua một tổ chức tài chính trung gian nào.
Bitcoin là loại tiền mã hố điển hình nhất, ra đời đầu tiên, và được sử dụng
rộng rãi nhất trong thương mại điện tử. Các doanh nghiệp có xu hướng muốn
thanh tốn bằng Bitcoin để giảm thiểu chi phí. Đến tháng 7 năm 2018, lượng
tiền cơ sở của Bitcoin được định giá hơn 109 tỷ đô la Mỹ - là loại tiền mã hóa
có giá trị thị trường lớn nhất. Những biến động lớn trong giá trị của mỗi
7
bitcoin đã tạo nên những lời chỉ trích về tính phù hợp kinh tế của Bitcoin như
là một loại tiền tệ.
1.7 Theo Tịa án, Bitcoin có là tài sản theo pháp luật Việt Nam khơng?
Theo Tịa án, Bitcoin khơng phải là tài sản theo pháp luật Việt Nam :
- Theo Điều 163 BLDS 2005 quy định: “Tài sản bao gồm vật, tiền, giấy tờ có
giá và các quyền tài sản.
Theo Điều 3 Luật thương mại năm 2005 quy định: “Hàng hóa bao gồm: tất
cả các loại động sản, kể cả động sản hình thành trong tương lai; những vật
gắn liền với đất đai”.
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam không chấp nhận tiền ảo là tiền tệ, phương
tiện thanh toán hợp pháp, đồng thời Nghị định số 96/2014/NĐ-CP ngày
17/10/2014 của Chính phủ quy định chế tài xử phạt vi phạm hành chính đối
với hành vi phát hành, cung ứng và sử dụng phương tiện thanh tốn khơng
hợp pháp như Bitcoin và các loại tiền ảo tương tự.
Bên cạnh đó, theo Điều 4, Nghị định số 101/2012/NĐ-CP ngày 22/11/2012
(được sửa đổi, bổ sung theo Nghị định số 80/2016/NĐ-CP ngày 01/7/2016)
đã có quy định rất rõ các phương tiện thanh tốn khơng dùng tiền mặt, trong
đó khơng có loại phương tiện tương tự như Bitcoin, cụ thể: "Phương tiện
thanh tốn khơng dùng tiền mặt sử dụng trong giao dịch thanh toán (sau đây
gọi là phương tiện thanh toán), bao gồm: Séc, lệnh chi, ủy nhiệm chi, nhờ
thu, ủy nhiệm thu, thẻ ngân hàng và các phương tiện thanh toán khác theo
quy định của Ngân hàng Nhà nước”. Đồng thời, các quy định của Nghị định
101/2012/NĐ-CP cũng cấm sử dụng các phương tiện thanh tốn khơng hợp
pháp tại Việt Nam. Như thế, ở khía cạnh này nếu xem Bitcoin là một phương
tiện thanh toán thì nó chưa được pháp luật Việt Nam cho phép thực hiện để
thực hiện các hoạt động thanh toán. Từ đó có thể thấy rằng, ở Việt Nam cho
tới thời điểm hiện nay Bitcoin chưa được xem là một loại tài sản, và không
được nhà nước công nhận.
1.8 Pháp luật nước ngồi có coi Bitcoin là tài sản khơng? Nếu có, nêu hệ
thống pháp luật mà anh/chị biết.
- Pháp luật nước ngồi có xem Bitcoin là tài sản
8
- Năm 2013, Bộ Tài chính Hoa Kỳ phân loại bitcoin như là một loại tiền ảo
phi tập trung có thể chuyển đổi. Ủy ban Giao dịch Hàng hóa Tương lai,
CFTC, đã phân loại bitcoin là một loại hàng hóa vào tháng 9 năm 2015. Theo
IRS, bitcoin bị đánh thuế như một tài sản.
1.9 Suy nghĩ của anh/chị về quan điểm của Tòa án đối với Bitcoin trong
mối quan hệ với khái niệm tài sản ở Việt Nam.
Quan điểm của Tòa án đối với Bitcoin trong mối quan hệ với khái niệm tài
sản ở Việt Nam khi không coi Bitcoin là tài sản theo pháp luật Việt Nam là
hợp lý. Do sự phát triển q nhanh và khó kiểm sốt của tiền ảo, pháp luật
chưa có quy định cụ thể nào về việc sử dụng đồng tiền Bitcoin, Ngân hàng
Nhà nước Việt Nam cũng không chấp nhận loại tiền ảo như một đồng tiền sử
dụng.
Với cơ chế hoạt động không có sự kiểm sốt, Bitcoin nằm ngồi thẩm quyền
quản lý của Ngân hàng Nhà nướckhi bạn mở một tài khoản Bitcoin, bạn
không cần phải khai báo bạn là ai, đến từ đâu, làm gì và thu nhập bao nhiêu
hàng tháng. Chỉ cần một vài cú click chuột để tạo một địa chỉ ví trên hệ thống
(wallet address), địa chỉ đó thường là một dãy ký tự xếp ngẫu nhiên tương tự
như số tài khoản ngân hàng của bạn, và bạn có thể gửi nó cho bất kỳ ai để
bảo họ chuyển tiền vào đó cho bạn.
Vì thế những giao dịch ngầm chúng ta khó kiểm sốt được cho những
hoạt động của tội phạm rửa tiền, trốn thuế, chuyển tiền bất hợp pháp, thanh
toán, tài trợ chủ quyền quốc gia về phát hành tiền tệ sẽ bị xâm phạm, ảnh
hưởng đến hiệu quả điều hành chính sách tiền tệ, pháp luận nước ta đã thực
hiện những chính sách quản lý riêng. Tuy nhiên, mức độ phủ song của
Bitcoin hiện tại vẫn cịn những vấn đề Nhà nước chưa kiểm sốt được. Hy
vọng trong thời gian sớm nhất chúng ta sẽ có một cái nhìn cụ thể về loại hình
này.
1.10 Quyền tài sản là gì ?
- Quyền tài sản là quyền trị giá được tính bằng tiền, khơng địi hỏi có sự
chuyển giao trong giao dịch dân sự. Đối với quyền tài sản là đối tượng phải
đáp ứng được hai yêu cầu là trị giá được tính bằng tiền và được chuyển giao
cho người khác trong giao dịch dân sự. Quyền tài sản gồm có: quyền sử dụng
tài sản thuê, quyền thực hiện hợp đồng, quyền đòi nợ, quyền trị giá bằng tiền,
9
quyền sở hữu trí tuệ. Các quyền tài sản khác gắn với nhân thân thì khơng thể
chuyển giao như: quyền cấp dưỡng, quyền thừa kế, quyền yêu cầu bồi thường
thiệt hại về sức khỏe.
1.11 Có quy định nào cho phép khẳng định quyền thuê, quyền mua tài
sản là quyền tài sản không?
Điều 115 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định: Quyền tài sản là quyền trị giá
được bằng tiền, bao gồm quyền tài sản đối với đối tượng quyền sở hữu trí tuệ,
quyền sử dụng đất và các quyền tài sản khác. Theo đó:
Quyền tài sản là quyền trị giá được bằng tiền, khơng địi hỏi phải có sự
chuyển giao trong giao dịch dân sự. Đối với quyền tài sản là đối tượng của
giao dịch dân sự phải đáp ứng được hai yêu cầu là trị giá được bằng tiền và
có thể chuyển giao cho người khác trong giao dịch dân sự. Quyền tài sản bao
gồm quyền đòi nợ, quyền sử dụng tài sản thuê, quyền trị giá bằng tiền, quyền
thực hiện hợp đồng, quyền sở hữu trí tuệ. Những quyền tài sản khác gắn với
nhân thân thì khơng được chuyển giao như quyền thừa kế, quyền cấp dưỡng,
quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại về sức khỏe.
II. Căn cứ xác lập quyền sở hữu
2.1 Đoạn nào của Quyết định trên cho thấy Tịa án khẳng định gia đình
chị Vân đã chiếm hữu nhà đất có tranh chấp trên 30 năm và cho biết suy
nghĩ của anh/chị về khẳng định này của Tòa án?
Trong Quyết định của Tòa án, đoạn khẳng định gia đình chị Vân đã chiếm
hữu nhà đất có tranh chấp trên 30 năm là:
“Gia đình chị Nhữ Thị Vân ở tại nhà số 2 Hàng Bút đã nhiều thế hệ, tuy chị
Vân có lời khai thừa nhận gia đình chị thuê nhà của cụ Hảo và nộp tiền th
nhà cho ơng Chính (con cụ Hảo), nhưng cụ Hảo vào miền Nam sinh sống từ
năm 1954, ông Chính khơng xuất trình được tài liệu cụ Hảo ủy quyền cho
ơng Chính quản lý căn nhà. Trong khi đó chị Vân khai gia đình chị ở tại căn
nhà số 2 Hàng Bút từ năm 1954, lúc đầu là ông nội chị ở, sau này là bố chị
Vân và chị Vân tiếp tục ở.”
Quyết định của Tòa án là hợp lí vì cho dù khơng xác định được thời điểm mà
gia đình chị Vân thuê nhà là năm 1954 hay 1968 thì đến thời điểm năm 2004
10
khi cụ Hảo kiện ra Tồ thì cũng đã q 30 năm. Vậy việc chiếm hữu trên 30
năm của chị Vân đối với ngôi nhà là thỏa đáng theo Khoản 1 Điều 186 Bộ
luật Dân sự 2005: “ Khi chủ sở hữu giao tài sản cho người khác thông qua
giao dịch dân sự mà nội dung không bao gồm việc chuyển quyền sở hữu thì
người được giao tài sản phải thực hiện việc chiếm hữu tài sản đó phù hợp với
mục đích, nội dung của giao dịch”.
2.2 Đoạn nào của quyết định trên cho thấy Tòa án khẳng định gia đình
chị Vân đã chiếm hữu ngay tình nhà đất có tranh chấp trên 30 năm và
cho biết suy nghĩ của anh/chị về khẳng định này của Tòa án?
Trong quyết định của Tịa án, đoạn khẳng định gia đình chị Vân đã chiếm
hữu ngay tình nhà đất có tranh chấp trên 30 năm là: “Gia đình chị Nhữ Thị
Vân tại nhà số 2 Hàng Bút đã nhiều thế hệ, tuy chị Vân có lời khai thừa nhận
gia đình chị th nhà của cụ Hảo và nộp tiền thuê nhà cho ông Chính (con cụ
Hảo), nhưng cụ Hảo vào miền Nam sinh sống từ năm 1954, ơng Chính cũng
khơng xuất trình được tài liệu cụ Hảo ủy quyền cho ơng Chính quản lý căn
nhà. Trong khi đó chị Vân khai gia đình chị Vân ở tại nhà số 2 Hàng Bút từ
năm 1954, lúc đầu là ông nội chị Vân ở, sau này bố chị Vân và chị Vân tiếp
tục ở. Mặc dù phía ngun đơn khai có địi nhà đối với gia đình chị Vân từ
sau năm 1975 nhưng khơng có tài liệu chứng minh (chỉ có biên bản hịa giải
tại Uỷ ban nhân dân phường Hàng Bồ năm 2001); đến năm 2004 cụ Hảo mới
có đơn khởi kiện ra Tịa án u cầu chị Vân trả nhà là khơng có căn cứ vì
thực tế cụ Hảo khơng cịn là chủ sở hữu nhà đất nêu trên. Gia đình chị Vân đã
ở tại căn nhà này trên 30 năm là chiếm hữu ngay tình, liên tục, cơng khai theo
quy định tại khoản 1 Điều 247 Bộ luật dân sự về xác lập quyền sở hữu theo
thời hiệu: “ Người chiếm hữu, người được lợi về tài sản khơng có căn cứ
pháp luật nhưng ngay tình, liên tục, cơng khai trong thời hạn mười năm đối
với động sản, ba mươi năm đối với bất động sản thì trở thành chủ sở hữu tài
sản đó, kể từ thời điểm bắt đầu chiếm hữu, trừ trường hợp quy định tại khoản
2 điều này...”.”
Theo tôi, tơi khơng đồng ý với quyết định của Tịa án. Vì chị Vân vốn biết
căn nhà của gia đình chị đang sinh sống được th từ ơng Chính nên khơng
thể khẳng định gia đình chị Vân đã chiếm hữu ngay tình nhà đất có tranh
chấp trên 30 năm theo Điều 189 Bộ luật dân sự 2005: “Người chiếm hữu tài
11
sản khơng có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình là người chiếm hữu tài sản đó
là khơng có căn cứ pháp luật”.
2.3 Đoạn nào của Quyết định trên cho thấy Tịa án khẳng định gia đình
chị Vân đã chiếm hữu liên tục nhà đất có tranh chấp trên 30 năm và cho
biết suy nghĩ của anh/chị về khẳng định này của Tòa án?
Trong quyết định của Tòa án, đoạn khẳng định gia đình chị Vân đã chiếm
hữu liên tục nhà đất có tranh chấp trên 30 năm là: “Gia đình chị Nhữ Thị Vân
tại nhà số 2 Hàng Bút đã nhiều thế hệ, tuy chị Vân có lời khai thừa nhận gia
đình chị thuê nhà của cụ Hảo và nộp tiền th nhà cho ơng Chính (con cụ
Hảo), nhưng cụ Hảo vào miền Nam sinh sống từ năm 1954, ơng Chính cũng
khơng xuất trình được tài liệu cụ Hảo ủy quyền cho ơng Chính quản lý căn
nhà. Trong khi đó chị Vân khai gia đình chị Vân ở tại nhà số 2 Hàng Bút từ
năm 1954, lúc đầu là ông nội chị Vân ở, sau này bố chị Vân và chị Vân tiếp
tục ở. Mặc dù phía nguyên đơn khai có địi nhà đối với gia đình chị Vân từ
sau năm 1975 nhưng khơng có tài liệu chứng minh (chỉ có biên bản hịa giải
tại Uỷ ban nhân dân phường Hàng Bồ năm 2001); đến năm 2004 cụ Hảo mới
có đơn khởi kiện ra Tịa án u cầu chị Vân trả nhà là khơng có căn cứ vì
thực tế cụ Hảo khơng cịn là chủ sở hữu nhà đất nêu trên. Gia đình chị Vân đã
ở tại căn nhà này trên 30 năm là chiếm hữu ngay tình, liên tục, công khai theo
quy định tại khoản 1 Điều 247 Bộ luật dân sự về xác lập quyền sở hữu theo
thời hiệu: “Người chiếm hữu, người được lợi về tài sản khơng có căn cứ pháp
luật nhưng ngay tình, liên tục, công khai trong thời hạn mười năm đối với
động sản, ba mươi năm đối với bất động sản thì trở thành chủ sở hữu tài sản
đó, kể từ thời điểm bắt đầu chiếm hữu, trừ trường hợp quy định tại khoản 2
điều này...”
Khẳng định của Tòa án là hợp lí bởi lẽ dù khơng có bằng chứng xác thực
thời điểm cho thuê là từ năm 1954 hay từ năm 1968 thì đến thời điểm năm
2004 khi cụ Hảo khởi kiện ra Tòa án cũng đã quá 30 năm. Cùng với việc gia
đình cụ Hảo khơng có tài liệu chứng minh có địi nhà đối với chị Vân từ sau
năm 1975 nên việc chiếm hữu liên tục trên 30 năm của chị Vân đối với ngôi
nhà là thỏa đáng theo điều 190 bộ luật Dân sự 2005: “Việc chiếm hữu tài sản
được thực hiện trong một khoảng thời gian mà khơng có tranh chấp về tài sản
đó là chiếm hữu liên tục, kể cả khi tài sản được giao cho người khác chiếm
hữu.”
12
2.4 Đoạn nào của Quyết định trên cho thấy Tòa án khẳng định gia đình
chị Vân đã chiếm hữu cơng khai nhà đất có tranh chấp trên 30 năm và
cho biết suy nghĩ của anh/chị về khẳng định này của Tòa án?
Trong Quyết định của Tòa án, đoạn khẳng định gia đình chị Vân đã chiếm
hữu cơng khai nhà đất có tranh chấp trên 30 năm là: “Ngày 18/02/2001 chị
bán tầng 1 nhà số 2 Hàng Bút cho vợ chồng anh Nguyễn Hồng Sơn và chị
Dương Thị Ngọc Lan, giá 80 lượng vàng tương đương 384.000.000 đồng.
Giấy bán nhà có chữ ký của 3 anh em (là chị và anh Nhữ Duy Lâm, anh Nhữ
Duy Lân) nhưng chị là người trực tiếp mua bán nhà và nhận tiền với chị Lan
anh Sơn, còn hai anh em là anh Lâm và anh Lân do chị u cầu nên có kí vào
giấy…nếu hợp đồng mua bán nhà giữa anh chị với chị Vân khơng đúng thì
anh chị u cầu chị Vân thanh toán tiền nhà cho anh chị theo giá thị trường.”
Theo tơi, tơi đồng ý với Quyết định của Tịa án. Vì theo Điều 191 BLDS
2005 “Việc chiếm hữu tài sản được coi là chiếm hữu công khai khi thực hiện
một cách minh bạch, không giấu diếm; tài sản đang chiếm hữu được sử dụng
theo tính năng, cơng dụng và được người chiếm hữu bảo quản, giữ gìn như
tài sản của mình”. Có thể thấy trong khoảng thời gian gia đình chị Vân chiếm
hữu căn nhà, bố chị Vân có nâng cao nền nhà, thay cửa, giữ gìn như tài sản
của mình và sinh hoạt, sống trong căn nhà đó liên tục, công khai trong 30
năm.
2.5 Đoạn nào của Quyết định trên cho thấy Tịa án khẳng định cụ Hảo
khơng cịn là chủ sở hữu nhà đất có tranh chấp và cho biết suy nghĩ của
anh/chị về khẳng định này của Tòa án?
Đoạn của Quyết định trên cho thấy Tòa án khẳng định cụ Hảo khơng cịn là
chủ sở hữu nhà đất có tranh chấp là: “Mặc dù phía ngun đơn khai có địi
nhà đối với gia đình chị Vân từ sau năm 1975 nhưng khơng có tài liệu chứng
minh (chỉ có biên bản hịa giải tịa Ủy ban nhân dân phường Hàng Bồ năm
2001 ); đến năm 2004 cụ Hảo mới có đơn khởi kiện ra Tịa án u cầu chị
Vân trả nhà là khơng có căn cứ vì thực tế cụ Hảo khơng cịn là chủ sở hữu
nhà đất nêu trên. Gia đình chị Vân đã ở tại căn nhà này trên 30 năm là chiếm
hữu ngay tình, liên tục, công khai theo quy định tại khoản 1 Điều 247 Bộ luật
dân sự về xác lập quyền sở hữu theo thời hiệu: “Khi chủ sở hữu giao tài sản
cho người khác thông qua giao dịch dân sự mà nội dung không bao gồm việc
13
chuyển quyền sở hữu thì người được giao tài sản phải thực hiện việc chiếm
hữu tài sản đó phù hợp với mục đích, nội dung của giao dịch”.”
Theo tơi, tơi đồng ý với Quyết định của Tòa án. Bởi năm 2004, cụ Hảo có di
chúc giao quyền bất động sản cho bà Châu tồn quyền sử dụng. Do đó cụ
Hảo đã khơng cịn là chủ sở hữu nhà đất có tranh chấp.
2.6 Theo anh/chị, gia đình chị Vân có được xác lập quyền ở hữu đối với
nhà đất có tranh chấp trên cơ sở quy định về thời hiệu hưởng quyền
khơng? Vì sao?
Theo quy định tại khoản 1 Điều 247 BLDS 2005 về xác lập quyền sở hữu
theo thời hiệu: “Người chiếm hữu, người được lợi về tài sản không có căn cứ
pháp luật nhưng ngay tình, liên tục, cơng khai trong thời hạn mười năm đối
với động sản, ba mươi năm đối với bất động sản thì trở thành chủ sở hữu tài
sản đó, kể từ thời điểm bắt đầu chiếm hữu, trừ trường hợp quy định tại khoản
2 điều này…”.
Gia đình chị Vân khơng được xác lập quyền sở hữu đối với nhà đất có tranh
chấp trên cơ sở quy định về thời hiệu hưởng quyền, bởi vì gia đình chị vân đã
được xác định là đã ở tại căn nhà có tranh chấp trên 30 năm, là chiếm hữu,
liên tục, cơng khai nhưng khơng ngay tình.
Bởi vì chị Vân biết rõ căn nhà được thuê từ ông Chính, đồng thời người đứng
tên sở hữu là tài sản riêng của cụ Dư Thị Hảo (có bằng khốn điền thổ số 25,
tập 2, tờ số 55, đăng ký trước bạ tại Hà Nội ngày 4/11/1946). Và việc chiếm
hữu tài sản của chị Vân không phù hợp với quy định của Bộ luật dân sự, tức
là trường hợp người chiếm hữu không phải là chủ sở hữu tài sản; không phải
là người được chủ sở hữu ủy quyền quản lý tài sản, không phải là người được
chuyển giao quyền chiếm hữu thông qua giao dịch dân sự phù hợp với ý chí
của chủ sở hữu và cũng khơng phải là người phát hiện ra tài sản vô chủ hoặc
bị đánh rơi, bỏ qn, bị chơn giấu, bị chìm đắm phù hợp với các điều kiện do
pháp luật quy định, thì đó là chiếm hữu khơng có căn cứ pháp luật.
14
III. Chuyển rủi ro đối với tài sản
3.1 Ai phải chịu rủi ro đối với tài sản theo quy định của BLDS? Nêu cơ
sở pháp lý khi trả lời.
Chủ sở hữu phải chịu rủi ro đối với tài sản thuộc sở hữu của mình, trừ trường
hợp có thỏa thuận khác hoặc BLDS 2015, luật khác có liên quan quy định
khác, điều này được quy định rõ ở khoản 1 Điều 162 BLDS 2015.
3.2 Tại thời điểm cháy chợ, ai là chủ sở hữu số xoài? Nêu cơ sở pháp lý
khi trả lời.
Tại thời điểm cháy chợ bà Dung là chủ sở hữu của số xoài. Căn cứ theo
khoản 1 Điều 161 BLDS 2015 quy định về thời điểm xác lập quyền sở hữu,
quyền khác đối với tài sản: “Thời điểm xác lập quyền sở hữu, quyền khác đối
với tài sản thực hiện theo quy định của Bộ luật này, luật khác có liên quan;
trường hợp luật khơng có quy định thì thực hiện theo thỏa thuận của các bên;
trường hợp luật khơng quy định và các bên khơng có thỏa thuận thì thời điểm
xác lập quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản là thời điểm tài sản được
chuyển giao. Thời điểm tài sản được chuyển giao là thời điểm bên có quyền
hoặc người đại diện hợp pháp của họ chiếm hữu tài sản.” Và trong tình huống
nêu ra khơng có việc thỏa thuận giữa bà Dung và bà Thủy về thời điểm xác
lập quyền sở hữu khi thực hiện giao dịch mua bán, nên thời điểm xác lập
quyền sở hữu về số xồi đó sẽ được tính từ khi thời điểm bà Thủy chuyển
giao số xồi đó cho bà Dung hay nói cách khác là bà Dung nhận số xồi đó,
mà thời điểm cháy chợ là sau khi bà Dung nhận số xồi đó. Do vậy tại thời
điểm cháy chợ thì bà Dung là chủ sở hữu của số xồi.
3.3 Dung có phải thanh tốn tiền mua ghe xồi trên khơng? Vì sao? Nêu
cơ sở pháp lý khi trả lời.
Bà Dung phải thanh tốn tiền mua ghe xồi trên cho bà Thủy. Căn cứ vào
khoản 1 Điều 441 BLDS 2015 quy định về thời điểm chịu rủi ro thì “Bên bán
chịu rủi ro đối với tài sản trước khi tài sản được giao cho bên mua, bên mua
chịu rủi ro đối với tài sản kể từ thời điểm nhận tài sản, trừ trường hợp có thỏa
thuận khác hoặc luật có quy định khác” tức việc xác định người chịu rủi ro về
tài sản căn cứ vào thời điểm trước hay sau khi người mua giao cho người bán.
Cụ thể trong tình huống này thì thời điểm vụ cháy (rủi ro) xảy ra là sau khi bà
Dung (người mua) đã nhận ghe xoài từ bà Thủy (người mua) nên người phải
chịu rủi ro đối với ghe xoài ở đây là bà Dung. Và vì bà Dung là người phải
15
chịu rủi ro với tài sản nên bà Dung phải có nghĩa vụ thanh tốn tiền mua ghe
xồi trên cho bà Thủy.
16