Tải bản đầy đủ (.docx) (135 trang)

Quản lý xây dựng văn hóa nhà trường ở các trường trung học cơ sở huyện tuy phước, tỉnh bình định

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (477.65 KB, 135 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC QUY NHƠN

MAI NGỌC THINH

QUẢN LÝ XÂY DỰNG VĂN HÓA NHÀ TRƢỜNG
Ở CÁC TRƢỜNG TRUNG HỌC CƠ SỞ

HUYỆN TUY PHƢỚC, TỈNH BÌNH ĐỊNH

Chuyên ngành: QUẢN LÝ GIÁO DỤC
Mã số: 8140114

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. MAI XUÂN MIÊN


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tơi, các số liệu,
phân tích trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng và chƣa từng đƣợc
trình bày hay cơng bố trong bất kỳ cơng trình nào khác.

Bình Định, ngày 28 tháng 07 năm 2020

Học viên thực hiện


LỜI CẢM ƠN
Tôi xin chân thành cảm ơn sâu sắc tới giáo viên hƣớng dẫn TS. Mai Xuân
Miên đã nhiệt tình hƣớng dẫn giúp tơi hồn thành luận văn.
Tơi xin chân thành cảm ơn tới quý thầy cô giáo đã giảng dạy lớp Cao học
Quản lý Giáo dục khóa 21B, Khoa Khoa học Xã hội và Nhân văn, Phòng Đào tạo


sau đại học trƣờng Đại học Quy Nhơn đã quan tâm, giúp đỡ tơi trong suốt q trình
học tập và nghiên cứu luận văn.
Tôi cũng xin trân trọng cảm ơn sự hỗ trợ của Ban Giám hiệu, quý Thầy, Cô
tại các Trƣờng THCS ở huyện Tuy Phƣớc, Bình Định trong q trình thu thập
thơng tin.
Trong q trình học tập, nghiên cứu viết luận văn, chắc chắn không thể tránh
khỏi những thiếu sót, tơi rất mong nhận đƣợc sự thơng cảm và ý kiến đóng góp của
q thầy cơ.
Xin trân trọng cảm ơn!


1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Ngày nay, trong bối cảnh hội nhập quốc tế sâu rộng trên mọi lĩnh vực, sự
bùng nổ của cách mạng công nghiệp 4.0, giáo dục và đào tạo (GD&ĐT) của nƣớc
ta đang đứng trƣớc nhiều triển vọng phát triển và cũng gặp không ít những thách
thức lớn; đặc biệt đối với xây dựng, giữ gìn, phát triển văn hóa nói chung và văn
hóa nhà trƣờng (VHNT) nói riêng.
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng cũng chỉ rõ
phƣơng hƣớng, nhiệm vụ về phát triển văn hóa, xây dựng con ngƣời Việt Nam
trong những năm tới là: “Xây dựng con ngƣời Việt Nam phát triển tồn diện và mơi
trƣờng văn hóa lành mạnh, văn minh trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội,
khắc phục các biểu hiện xuống cấp về đạo đức xã hội. Nâng cao hiệu quả hoạt động
của các thiết chế văn hóa. Xây dựng, nhân rộng các mơ hình gia đình văn hóa tiêu
biểu, tăng cƣờng sự phối hợp giữa gia đình, nhà trƣờng và xã hội” [2]. Nghị quyết
số 29-NQ/TW ngày 4 tháng 11 năm 2013 của Hội nghị Trung ƣơng 8 khóa XI về
Đổi mới căn bản, tồn diện giáo dục và đào tạo đề ra một trong những nhiệm vụ,
giải pháp là “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ và đồng bộ các yếu tố cơ bản của giáo dục,
đào tạo theo hƣớng coi trọng phát triển phẩm chất, năng lực của ngƣời học”. Trong

đó nhấn mạnh: “Đổi mới chƣơng trình nhằm phát triển năng lực và phẩm chất
ngƣời học, hài hịa đức, trí, thể, mỹ; dạy ngƣời, dạy chữ và dạy nghề... Chú trọng
giáo dục nhân cách, đạo đức, lối sống, tri thức pháp luật và ý thức công dân. Tập
trung vào những giá trị cơ bản của văn hóa, truyền thống và đạo lý dân tộc, tinh hoa
văn hóa nhân loại, giá trị cốt lõi và nhân văn của chủ nghĩa Mác-Lênin và tƣ tƣởng
Hồ Chí Minh”[1]. Để thực hiện những nhiệm vụ, giải pháp đó, đồng thời nâng cao
chất lƣợng GD & ĐT, đòi hỏi chúng ta phải quan tâm quản lý xây dựng VHNT tích
cực, lành mạnh.
1.2. Văn hố và giáo dục ln đồng hành với nhau. Cùng với giáo dục, văn hóa
cũng là một hiện tƣợng riêng có của xã hội lồi ngƣời. Xét về bản chất, mỗi nhà
trƣờng chính là một tổ chức hành chính - sƣ phạm. Đó là một thế giới đƣợc thu nhỏ


2
với những cơ cấu, chuẩn mực, quy tắc hoạt động, những giá trị, điểm mạnh và điểm
yếu riêng do những con ngƣời cụ thể thuộc mọi thế hệ tạo lập. Với tƣ cách là một
tổ chức, mỗi nhà trƣờng đều tồn tại, dù ít hay nhiều, một nền văn hóa nhất định.
VHNT ấy sẽ tồn tại cùng với sự phát triển của nhà trƣờng, những truyền thống, giá
trị nhà trƣờng xây dựng sẽ thẩm thấu và đồng hành cùng với các thế hệ thầy và trị.
Nó sẽ đƣợc các thế hệ sau bồi đắp, xây dựng và phát huy, phát triển để những giá trị
tinh thần lan tỏa và biến thành những hành động cụ thể. Do vậy, việc xây dựng
VHNT là một vấn đề rất cần thiết trong mỗi nhà trƣờng và trong giai đoạn hiện nay.
VHNT thể hiện bản sắc tập thể và thơng qua đó các thành viên kết nối với nhau để
đạt mục tiêu chung, chống lại sự xâm lăng và phê phán từ bên ngoài. Trong q
trình phát triển, nhiều trƣờng học có văn hóa tiêu cực. Thay vì tập trung vào nhiệm
vụ trọng tâm của trƣờng học là dạy và học, cán bộ, giáo viên trong nhà trƣờng mất
đồn kết, giảm lịng tin của học sinh và phụ huynh, hiện tƣợng tiêu cực trong dạy
và học xuất hiện nhiều. Kết quả học tập giảm sút. Vấn đề xây dựng VHNT và đi tìm
các biện pháp nhằm xây dựng và phát triển văn hoá nhà trƣờng lành mạnh, an toàn,
thân thiện hiện nay đang đặt ra ngày càng bức thiết đối với mỗi nhà trƣờng.

Trong những năm gần đây do những tác động của mặt trái kinh tế thị trƣờng
và tồn cầu hóa, mơi trƣờng văn hóa - xã hội nói chung và nhà trƣờng nói riêng đã
nảy sinh những biểu hiện tiêu cực, thiếu lành mạnh, làm ảnh hƣởng nghiêm trọng
đến chất lƣợng giáo dục cũng nhƣ uy tín của các nhà trƣờng và ngành giáo dục.
Trƣớc tình hình đó, mỗi nhà trƣờng địi hỏi phải xây dựng và phát triển VHNT để
thực sự phát huy ảnh hƣởng tích cực của nó đến mọi thành viên trong tổ chức nhà
trƣờng - đặc biệt là thế hệ trẻ đang trƣởng thành; mặt khác để định hƣớng những
chuẩn mực văn hóa cho xã hội.
1.3. Tuy Phƣớc là một huyện thuộc tỉnh Bình Định, hiện có 13 trƣờng trung
học cơ sở (THCS). Nhìn chung vấn đề quản lý xây dựng VHNT hiện nay vẫn còn
chƣa đƣợc quan tâm đúng mức và triển khai thực hiện một cách hệ thống, bài bản.
Thậm chí nhiều trƣờng cịn chƣa xác định, tuyên bố rõ ràng sứ mệnh, tầm nhìn và
hệ giá trị cốt lõi vốn là những thành tố rất quan trọng trong cấu trúc VHNT… Trong


3
bối cảnh đổi mới căn bản, toàn diện GD&ĐT hiện nay và tình hình thực tế về xây
dựng và phát triển VHNT ở các trƣờng THCS trên địa bàn huyện, vấn đề quản lý
xây dựng VHNT lành mạnh, tích cực nhằm góp phần nâng cao chất lƣợng giáo dục
của nhà trƣờng, tạo động lực cho sự phát triển bền vững nhà trƣờng là vấn đề rất
quan trọng và có tính cấp thiết.
Xuất phát từ những lý do trên, chúng tôi chọn vấn đề: “Quản lý xây dựng
văn hóa nhà trường ở các trường trung học cơ sở huyện Tuy Phước, tỉnh Bình
Định” làm đề tài luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Quản lý giáo dục.
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu

2.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của đề tài là trên cơ sở hệ thống hóa những vấn đề lý
luận và tìm hiểu thực trạng, đề xuất các biện pháp quản lý xây dựng VHNT phù hợp
với thực tế ở các trƣờng THCS huyện Tuy Phƣớc, tỉnh Bình Định, góp phần hồn

thiện và nâng cao chất lƣợng giáo dục toàn diện về nhân cách ngƣời học trong giai
đoạn hiện nay.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt đƣợc mục đích nghiên cứu đề ra, luận văn của chúng tôi tập trung giải
quyết các nhiệm vụ chủ yếu sau:
- Nghiên cứu cơ sở lý luận về quản lý xây dựng VHNT các trƣờng THCS.
- Khảo sát và đánh giá thực trạng VHNT và thực trạng quản lý xây dựng

VHNT ở các trƣờng THCS huyện Tuy Phƣớc, tỉnh Bình Định.
- Đề xuất các biện pháp quản lý xây dựng VHNT ở các trƣờng THCS huyện

Tuy Phƣớc, tỉnh Bình Định.
3. Khách thể, đối tƣợng nghiên cứu
3.1. Khách thể nghiên cứu: Xây dựng VHNT ở các trƣờng THCS
3.2. Đối tượng nghiên cứu: Quản lý xây dựng VHNT ở các trƣờng THCS
trên địa bàn huyện Tuy Phƣớc, tỉnh Bình Định.
4. Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung, luận văn giới hạn phạm vi nghiên cứu, đề xuất các biện pháp


4
quản lý xây dựng VHNT ở các trƣờng THCS huyện Tuy Phƣớc, tỉnh Bình Định.
- Phạm vi khảo sát thực trạng gồm các trƣờng THCS trên địa bàn huyện Tuy
Phƣớc, tỉnh Bình Định từ. Thời gian khảo sát từ năm 2019- 2020.
5. Giả thuyết khoa học
Nếu xác lập cơ sở lý luận đúng đắn và khảo sát thực trạng đáng tin cậy, có
giá trị thì sẽ đề xuất đƣợc các biện pháp quản lý xây dựng VHNT phù hợp với cơ sở
lý luận và điều kiện thực tế ở các trƣờng THCS trên địa bàn huyện Tuy Phƣớc, tỉnh
Bình Định, góp phần nâng cao hiệu quả quản lý xây dựng VHNT, tạo mơi trƣờng
giáo dục tích cực cho cán bộ quản lý (CBQL), giáo viên (GV) và học sinh (HS), góp

phần nâng cao chất lƣợng giáo dục của các trƣờng THCS trên địa bàn huyện trong
giai đoạn hiện nay.
6. Phƣơng pháp nghiên cứu
6.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận
Sử dụng các phƣơng pháp phân tích, tổng hợp, khái quát hóa các tài liệu về
lý luận có liên quan đến công tác quản lý xây dựng VHNT để xây dựng cơ sở lý
luận cho đề tài.
6.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn
Sử dụng các phƣơng pháp điều tra, phƣơng pháp quan sát, phƣơng pháp lấy
ý kiến chuyên gia, phƣơng pháp phỏng vấn, phƣơng pháp tổng kết kinh nghiệm
trong nghiên cứu QLGD nhằm khảo sát, đánh giá thực trạng VHNT và quản lý xây
dựng VHNT ở các trƣờng THCS thuộc huyện Tuy Phƣớc, tỉnh Bình Định, làm cơ
sở thực tiễn cho việc đề xuất các biện pháp quản lý.
6.3. Nhóm phương pháp hỗ trợ
Sử dụng phƣơng pháp thống kê toán học và phần mềm vi tính để xử lý, phân
tích số liệu thu đƣợc qua kết quả khảo sát.
7. Bố cục của luận văn

Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và khuyến nghị, Tài liệu tham khảo, Phụ lục,
nội dung chính của luận văn đƣợc cấu trúc qua 3 chƣơng nhƣ sau:
Chƣơng 1: Cơ sở lý luận về quản lý xây dựng văn hóa nhà trƣờng ở trƣờng


5
trung học cơ sở.
Chƣơng 2: Thực trạng quản lý xây dựng văn hóa nhà trƣờng ở các trƣờng
trung học cơ sở huyện Tuy Phƣớc, tỉnh Bình Định.
Chƣơng 3: Biện pháp quản lý xây dựng văn hóa nhà trƣờng ở các trƣờng
trung học cơ sở huyện Tuy Phƣớc, tỉnh Bình Định.



6
Chƣơng 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ XÂY DỰNG VĂN
HÓA NHÀ TRƢỜNG Ở TRƢỜNG TRUNG HỌC CƠ SỞ

1.1. Tổng quan lịch sử nghiên cứu vấn đề
1.1.1. Nghiên cứu về VHNT và quản lý VHNT ở nước ngồi
Trong cơng tác quản lý giáo dục, VHNT là một trong những vấn đề có tính
rộng lớn và phức tạp, có sự ảnh hƣởng lớn đến toàn bộ hoạt động của nhà trƣờng.
Do vậy, quản lý VHNT đã thực sự thu hút đƣợc sự quan tâm của nhiều nhà nghiên
cứu trong và ngoài nƣớc. Về các phƣơng diện nghiên cứu nội dung này, chúng ta có
thể nêu ra một số hƣớng tìm hiểu cơ bản nhƣ sau
Thứ nhất là hướng nghiên cứu về các yếu tố cấu thành nên VHNT. Đại diện
cho hƣớng nghiên cứu này là các tác giả: Purkey và Smith; Barbara Fralinger,...
trong đó đáng kể nhất là Edgar H. Schein(2004) [15]. Theo quan điểm của tác giả này,
khi nghiên cứu văn hóa nhà trƣờng, ơng ta đã cho rằng văn hóa nhà trƣờng gồm 3
thành tố cấu thành. Nó bao gồm: Những quá trình và cấu trúc hữu hình; Hệ thống giá
trị đƣợc tuyên bố; Những quan niệm chung. Các thành tố này nằm trong mối quan hệ
hữu cơ, tạo nên VHNT nhƣ một tổng thể. Schein đã đƣa ra khái niệm văn hóa tổ chức
đƣợc giới khoa học thừa nhận. Theo ơng, văn hóa tổ chức là một tập hợp của những
nguyên tắc cơ bản đƣợc công nhận là đúng mà một tập thể cùng chia sẻ, những nguyên
tắc ấy đƣợc vận dụng để giải quyết những vấn đề nảy sinh trong tổ chức khi cần phải
thích nghi với những biến đổi bên ngoài cũng nhƣ để tạo ra sự gắn kết và hội nhập
trong nội bộ tổ chức ấy. VHNT cũng đƣợc coi nhƣ chân dung nhân cách của một tổ
chức. Thông qua kiến trúc của các tịa nhà, việc bảo trì thiết bị của nhà trƣờng, tƣơng
tác giữa ngƣời học với nhau, giữa GV, CBQL và HS.

Thứ hai là hướng nghiên cứu về sự tác động của yếu tố VHNT đến hiệu quả
giáo dục của nhà trường và vai trò của chủ thể quản lý tới xây dựng VHNT. Tiêu
biểu cho hƣớng tiếp cận này là tác giả Dewitdvà nhóm cộng sự của mình [15]. Năm

2003, nhóm nghiên cứu của ơng đã tìm hiểu văn hóa nhà trƣờng từ góc độ vai trị
của VHNT đối với kết quả học tập và hành vi của HS. Các tác giả này đã phân tích


7
cũng về sự tác động, ảnh hƣởng của VHNT đến kết quả học tập và hành vi của HS.
Ở đây, VHNT nhƣ là cơ sở, chuẩn mực để HS học tập và hành động. Mọi nhận

thức, thái độ và hành vi của HS đều lấy VHNT để quy chiếu.
Thứ ba là hướng nghiên cứu về các yếu tố ảnh hưởng tới xây dựng VHNT.
Nếu những nghiên cứu trên tập chung vào việc nghiên cứu về các yếu tố cấu thành
nên VHNT; sự tác động của yếu tố VHNT đến hiệu quả giáo dục của nhà trƣờng và
vai trò của chủ thể quản lý tới xây dựng VHNT thì một số nhà nghiên cứu dƣới đây
lại tập trung vào việc tìm hiểu về các yếu tố ảnh hƣởng tới VHNT. Nghiên cứu của
các tác giả Trost, S. G., Owen, N., Bauman, A. E., Sallis, J. F., &Brown, W. (2002)
[15]. Các tác giả này lại tập trung vào việc tìm hiểu tác động của yếu tố thể chất,

hoạt động thể dục, thể thao trong nhà trƣờng tới VHNT. Kết quả nghiên cứu đã cho
thấy, rõ ràng là yếu tố thể chất, hoạt động thể dục, thể thao trong nhà trƣờng thật sự
có ảnh hƣởng tới văn hoá của nhà trƣờng. Hoạt động thể dục, thể thao trong nhà
trƣờng nhƣ là một trong những nội dung cấu thành nên diện mạo văn hoá học tập,
sinh hoạt trong nhà trƣờng. Nhà trƣờng tổ chức tốt các hoạt động thể dục, thể thao,
thu hút đƣợc nhiều HS và GV trong trƣờng tham gia sẽ tạo ra một mơi trƣờng văn
hố sinh hoạt lành mạnh, tạo điều kiện cho ngƣời học đƣợc phát triển một cách
toàn diện. Chính trong hoạt động tập thể cùng nhau này sẽ tạo ra các nhóm học sinh
tích cực, tạo ra sự thân thiện và đồng thuận trong môi trƣờng học đƣờng, giảm
thiểu các hoạt động tiêu cực của học sinh nhƣ: chơi game, nghiện cờ bạc, rƣợu chè.
Nhƣ vậy, khác với các nghiên cứu trƣớc đây, nghiên cứu này đã đi một hƣớng
riêng, tìm ra một trong những nội dung rất cơ bản, một thành tố tạo nên VHNT đó là
hoạt động thể dục, thể thao trong nhà trƣờng.

Thứ tư là hướng nghiên cứu về giải pháp phát triển VHNT. Cũng theo hƣớng
nghiên cứu này các tác giả Keup Jennifer R.; Walker, Arianne AAstin; Helen S.;
Lindholm, Jennifer; A Julie Heifetz & Richard Hagbergtìm hiểu chiến lƣợc phát
triển VHNT [15]. Kết quả nghiên cứu của các tác giả trên cho thấy: Ngƣời lãnh đạo
cần tìm hiểu mơi trƣờng và các yếu tố ảnh hƣởng tới chiến lƣợc phát triển của nhà
trƣờng trong hiện tại và tƣơng lai. Xem xét những yếu tố có ảnh hƣởng đến sự thay


8
đổi chiến lƣợc phát triển của nhà trƣờng. Ngƣời lãnh đạo cần xác định đâu là giá trị
cốt lõi làm cơ sở cho thành công và sự phát triển của nhà trƣờng. Các giá trị cốt lõi
phải là các giá trị ln có ảnh hƣởng đến các thành viên trong nhà trƣờng và ảnh
hƣởng đến uy tín xã hội của nhà trƣờng. Đây là một định hƣớng cơ bản để quản lý
và xây dựng VHNT và thể hiện tầm nhìn của nhà trƣờng. Ngồi ra, cơng tác đánh
giá thực trạng văn hóa của nhà trƣờng hiện tại sẽ hƣớng đến việc chỉ ra những mặt
mạnh và tồn tại của VHNT; xác định những yếu tố tác động đến VHNT; xác định
những điều cần thay đổi trong quá trình xây dựng VHNT; xác định vai trò của
ngƣời lãnh đạo trong phát triển văn hóa của nhà trƣờng từ hoạch định chính sách,
xác định tầm nhìn của nhà trƣờng, gây dựng niềm tin của các thành viên. Soạn thảo
một kế hoạch, một phƣơng án hành động cụ thể trong việc thực hiện chiến lƣợc và
mục tiêu phát triển VHNT.
Nhƣ vậy, các công trình nghiên cứu của các học giả uy tín hàng đầu về phát
triển nhà trƣờng ở nƣớc ngoài đã xác định rõ cần phải xem VHNT nhƣ là một bộ
phận của quá trình thay đổi trong tổ chức. Một nhà trƣờng có mơi trƣờng văn hóa
tốt là một nhà trƣờng đào tạo có chất lƣợng cao, có sự phát triển bền vững, có uy
tín trong cộng đồng và tồn xã hội. Qua kết quả nghiên cứu của các học giả, các nhà
quản lý giáo dục ở nƣớc ngoài đã phân tích trên, chúng ta có thể nhận thấy đây là
một trong những vấn đề trọng yếu và có tác động thiết thực đối với công tác quản lý
nhà nƣớc trong nhà trƣờng hiện nay.
1.1.2. Nghiên cứu VHNT và quản lý VHNT ở trong nước

Nhƣ đã trình bày, VHNT là một khái niệm mới xuất hiện trong vài thập niên
gần đây, nhƣng nội hàm của nó thì đã đƣợc đề cập đến từ lâu rồi. VHNT là nền tảng và
định hƣớng cho sự phát triển tiến bộ của nhà trƣờng, là một động lực quan trọng để
thực hiện đổi mới QLGD. Cũng giống nhƣ văn hóa, VHNT cũng đƣợc nhiều tác giả
nghiên cứu và tiếp cận dƣới nhiều góc độ khác nhau. VHNT và công tác quản lý
VHNT sẽ trở thành những điểm quy chiếu mới để đánh giá sự phát triển tồn diện của
nhà trƣờng trong q trình phát triển tồn diện và vì quyền lợi của ngƣời học.

Năm 1991, trong Giáo dục Việt Nam trước ngưỡng cửa của thế kỉ XXI,


9
Phạm Minh Hạc đã phân tích sâu về giáo dục nếp sống văn hóa cho sinh viên trong học
tập, sinh hoạt, văn hóa, tiêu dùng và trong ứng xử [12]. Năm 2007, Phạm Minh Hạc,
Hồ Sỹ Quý trong bài viết “Nghiên cứu con ngƣời, đối tƣợng và những hƣớng chủ
yếu” cho rằng xây dựng văn hóa học đƣờng sẽ tạo điều kiện đƣa tiêu chí Chân - Thiện
- Mỹ vào nhà trƣờng. Khi đƣa các giá trị này vào nhà trƣờng sẽ làm cho chất lƣợng
dạy và học đƣợc nâng cao, sự phát triển của nhà trƣờng sẽ tốt hơn” [37].

Đến năm 2009, Phạm Minh Hạc trong bài viết “Giáo dục giá trị xây dựng
văn hoá học đƣờng” (Kỷ yếu Văn hoá học đường – Lý luận và thực tiễn) [30] đã nêu
bật một số vấn đề cơ bản về mặt lý luận của VHNT. Trong nghiên cứu này, tác giả
đã cho rằng, việc việc xây dựng và quản lý VHNT ở Việt Nam hiện nay cần quan
tâm một số vấn đề sau: Một là, cần chú ý đến điều kiện học tập, cơ sở vật chất của
nhà trƣờng. Cơ sở vật chất của các trƣờng cịn nhiều khó khăn (trƣờng lớp, sách
giáo khoa). Để xây dựng và quản lý VHNT cần chú ý đến công tác đầu tƣ, xây dựng
và quản lý hệ thống cơ sở vật chất của nhà trƣờng. Hai là, trong quá trình xây dựng
và quản lý môi trường giáo dục trong nhà trƣờng - một môi trƣờng giáo dục thân
thiện gồm 6 nội dung: Kỷ cƣơng, trung thực, khách quan, cơng bằng, tình thƣơng,
khuyến khích sáng tạo, hiệu quả. Ba là, cần chú trọng xây dựng và quản lý hệ thống

các tiêu chuẩn về văn hóa ứng xử, văn hóa giao tiếp trong nhà trƣờng với tƣ cách là
những phƣơng diện cụ thể của VHNT. Đó là cách ứng xử văn minh, thân thiện, biết
tơn trọng, quan tâm đến ngƣời khác.
Trong bài viết “Văn hoá học đƣờng – Nhìn từ khía cạnh lý luận và thực tiễn”
(2009), Vũ Dũng cho rằng văn hóa học đƣờng là hành vi ứng xử của các chủ thể tham
gia hoạt động đào tạo trong nhà trƣờng, là lối sống văn minh trong trƣờng học. [30].
Cùng quan điểm với Vũ Dũng, Trần Quốc Thành trong “Bàn về văn hoá học đƣờng”
(2009) cũng nhấn mạnh về các biểu hiện của của văn hóa học đƣờng. Theo tác giả, văn
hóa học đƣờng gồm 2 phần lớn: Phần nổi là định hƣớng phát triển của nhà trƣờng,
mục tiêu phát triển, các giá trị mà nhà trƣờng theo đuổi, khung cảnh của nhà trƣờng
(nhà, phòng học, phòng làm việc, cơ sơ vật chất, biểu trƣng của nhà trƣờng). Phần
chìm của văn hóa học đƣờng gồm các trạng thái tâm lý của các cá


10
nhân, bầu khơng khí tâm lý của nhà trƣờng, thƣơng hiệu của nhà trƣờng, sự thừa
nhận các giá trị của nhà trƣờng [30].
Khi phân tích về VHNT ở Việt Nam hiện nay, Nguyễn Minh trong “Bàn về
văn hoá học đƣờng Việt Nam hiện đại” (2009) [30] đã khẳng định văn hóa học
đƣờng là khung cảnh sƣ phạm, mơi trƣờng sƣ phạm, giao tiếp và ứng xử học
đƣờng. Các giá trị cơ bản của văn hóa học đƣờng gồm: các giá trị cơ bản, các
chuẩn mực đạo đức, các mẫu hành vi của các thành viên (CBQL, GV, HS). Tác giả
này cũng chỉ ra những hạn chế của văn hóa học đƣờng hiện nay nhƣ: Học sinh mặc
dù mặc đồng phục nhƣng nói năng văng tục, chửi bậy, gọi thầy cơ là ông này, bà nọ,
thiếu tôn trọng thầy cô. Nạn bạo lực học đƣờng gia tăng, xảy ra liên tục. Nữ sinh ăn
mặc chƣa đứng đắn. Trong thi cử thì quay cóp, thi hộ... Một số hành vi bạo lực mà
trƣớc đây khơng xuất hiện nhƣ học trị, phụ huynh đánh thầy. Trong nghiên cứu của
mình tác giả cũng đƣa ra một số yếu cầu để xây dựng văn hóa học đƣờng ở nƣớc ta
hiện nay nhƣ: Tăng quá trình tự học trong nhà trƣờng, nâng cao kiến thức, kỹ năng
sƣ phạm của ngƣời thầy, tăng cƣờng giáo dục đạo đức cho học sinh,chú trọng văn

hóa ứng xử trong nhà trƣờng, chú ý ăn mặc của thầy giáo và học sinh. Giáo dục
những giá trị truyền thống tốt đẹp cho HS.
Trong cơng trình Quản lý giáo dục, tác giả Bùi Minh Hiền, Vũ Ngọc Hải, Đặng
Quốc Bảo (2011), đã nói đến khái niệm về văn hóa quản lý, văn hóa sƣ phạm - VHNT
và nhấn mạnh đến khía cạnh ngƣời quản lý nhà trƣờng với việc xây dựng văn hóa
quản lý [16]. Các nhà nghiên cứu cho rằng “Văn hoá tổ chức của một nhà trƣờng là hệ
thống niềm tin, giá trị, chuẩn mực, thói quen và truyền thống hình thành trong quá trình
phát triển của nhà trƣờng, đƣợc các thành viên trong nhà trƣờng thừa nhận, làm theo
và đƣợc thể hiện trong các hình thái vật chất và tinh thần, từ đó tạo nên bản sắc riêng
cho mỗi tổ chức sƣ phạm”. Xây dựng văn hóa nhà trƣờng cần chú ý đến các vai trò của
ngƣời lãnh đạo (Hiệu trƣởng): “ngƣời lãnh đạo và yếu tố thời gian”: “những giá trị
trong văn hóa tổ chức của nhà trƣờng khơng phải chỉ là phƣơng tiện mà cịn là mục
đích của bản thân trƣờng đại học”. Những vấn đề này đã đƣợc Phạm Thành Nghị tiếp
tục nghiên cứu trong bài viết “Văn hóa


11
trƣờng học: đặc điểm, chức năng và sự phát triển”đăng tải trên Tạp chí Quản lý
giáo dục (số 5, 2009) [29].
Năm 2013, Trần Kiểm với cuốn Tiếp cận hiện đại trong quản lý giáo dục đã lý
giải quan niệm về văn hóa tổ chức, các biểu hiện của văn hóa tổ chức trong giáo dục,
QLGD và xây dựng văn hóa tổ chức trong giáo dục và QLGD[21]. Tiếp cận theo
hƣớng lý luận này, Lê Thị Ngọc Thúy trong cơng trình Xây dựng văn hóa nhà trường
phổ thơng lý thuyết và thực hành(2014) [33], đã giới thiệu một số khái niệm cơ bản
nhƣ văn hóa, văn hóa tổ chức, VHNT phổ thơng và vai trị của nó trong trong q trình
quản lý trƣờng học. Cũng theo tác giả thì văn hóa tổ chức của nhà trƣờng còn đƣợc
xây dựng theo lối tiếp cận giao tiếp đa chiều thông tin “từ trên xuống” hoặc “từ dƣới
lên”. Những chính sách hay quy định có thể buộc ngƣời ta hành động theo một cách
nào đó, nhƣng khơng thể buộc ngƣời ta phải chia sẻ một niềm tin, suy nghĩ và cảm xúc
theo một cách nào đó. Văn hóa tổ chức thực sự khơng thể hình thành nếu thiếu niềm tin

bên trong của các thành viên. Hành vi của từng thành viên đều có tác động củng cố hay
phá hoại văn hóa của tổ chức, nhƣng hành
vi của ngƣời lãnh đạo thì có một tác động đặc biệt lớn đối với VHNT.

Từ các cơng trình nghiên cứu của các chuyên gia giáo dục tại Việt Nam,
chúng ta có thể rút ra một số nhận xét sau: Những cơng trình nghiên cứu về văn hóa
học đường (văn hóa nhà trường) được nhiều tác giả ngồi nước và trong nước
quan tâm. Bởi lẽ, văn hóa lan tỏa và bao trùm lên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội,
mọi phạm vi của cuộc sống. Nghiên cứu của các tác giả trong nước tập trung vào
một số nội dung sau: Nhiều tác giả tập trung xác định nội hàm của khái niệm văn
hóa nhà trường và xác định các thành tố cầu thành văn hóa nhà trường. Từ những
cách tiếp cận khác nhau có thể thấy văn hóa nhà trường được cấu thành từ hai
thành tố: văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần. Văn hóa vật chất gồm khơng gian,
vị trí địa lý, kiến trúc của nhà trường (phịng học, phịng thí nghiệm, phịng làm
việc, thư viện, khu vui chơi), môi trường cây xanh, cơ sở vật chất phục vụ giảng
dạy, nghiên cứu, học tập...Văn hóa tinh thần của nhà trường gồm: Tầm nhìn, chiến
lược, các giá trị, chuẩn mực, biểu trưng, những tấm gương, phong cách ứng xử
giữa các thành viên


12
của nhà trường. Một số nghiên cứu cũng nêu ra một số hướng để xây dựng văn hóa
nhà trường và quản lý xây dựng văn hoá nhà trường ở nước ta trong bối cảnh kinh
tế thị trường và hội nhập quốc tế.
Trên cơ sở các cơng trình nghiên cứu trong và ngồi nƣớc, luận văn của
chúng tơi cố gắng đi sâu khảo sát và đánh giá những vấn đề cơ bản liên quan đến
công tác quản lý xây dựng VHNT nói chung và ở các trƣờng THCS trên địa bàn
huyện Tuy Phƣớc, tỉnh Bình Định nói riêng. Từ kết quả nghiên cứu của luận văn,
chúng tôi sẽ đề xuất những giải pháp cơ bản góp phần nâng chao chất lƣợng quản lý
xây dựng VHNT của các trƣờng THCS trên địa bàn để đáp ứng yêu cầu phát triển

và quản lý của Phòng Giáo dục và Đào tạo huyện Tuy Phƣớc, góp phần nâng cao
chất lƣợng giáo dục, thúc đẩy sự phát triển tồn diện về chính trị, kinh tế và xã hội
của huyện Tuy Phƣớc, tỉnh Bình Định trong thời gian tới. Ngoài ra, qua những đúc
kết về thực tiễn trong quá trình khảo sát, kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ là cơ sở
khoa học, có thể xây dựng thành các chuyên đề báo cáo kinh nghiệm và tài liệu
tham khảo bổ ích cho chủ thể quản lý ở các trƣờng THCS trên địa bàn huyện Tuy
Phƣớc nói riêng và các địa phƣơng khác trong tỉnh Bình Định nói chung.
1.2. Các khái niệm cơ bản của đề tài
1.2.1. Quản lý, quản lý giáo dục, quản lý nhà trường
1.2.1.1. Quản lý
Dựa trên cơ sở của sự tiếp cận khác nhau, khái niệm quản lý đƣợc định nghĩa
khác nhau. Hiện nay có hơn 100 định nghĩa về quản lý. Từ góc độ mơi trƣờng và
hiệu quả làm việc, các tác giả Haron Koontz, Cyril O’Donnell, Heinz Weirich
“Quản lý là thiết kế một mơi trường mà trong đó con người cùng làm việc với nhau
trong các nhóm có thể hồn thành mục tiêu”. F.W. Taylor thì khẳng định: “Quản lý
là biết được chính xác điều người khác muốn làm và sau đó hiểu được rằng họ đã
hồn thành cơng việc một cách tốt nhất và rẻ nhất” [dẫn theo 10, tr.8].
Từ góc độ định hƣớng và tác động của chủ thể đến đối tƣợng trong chuỗi
hoạt động,theo Trần Kiểm, quản lý là những tác động của chủ thể trong việc huy
động, phát huy, kết hợp, sử dụng, điều chỉnh, điều phối các nguồn lực (nhân lực, vật


13
lực, tài lực) trong và ngoài tổ chức (chủ yếu là nội lực) một cách tối ưu nhằm đạt
mục đích của tổ chức với hiệu quả cao nhất. Cũng theo hƣớng tiếp cận đó, Nguyễn
Minh Đạo cho rằng “Quản lý là sự tác động liên tục có tổ chức, có định hướng của
chủ thể quản lý (người quản lý, tổ chức quản lý) lên khách thể quản lý (đối tượng
quản lý) về các mặt chính trị, văn hóa, xã hội, kinh tế,.. bằng một hệ thống các luật
lệ, các chính sách, các nguyên tắc, các phương pháp và các biện pháp cụ thể nhằm
tạo ra môi trường và điều kiện cho sự phát triển của đối tượng” [dẫn theo 17 tr.21].

Từ góc độ mục tiêu, Nguyễn Quốc Chí và Nguyễn Thị Mỹ Lộc khẳng định:
Quản lý là hoạt động có định hƣớng, có chủ đích của chủ thể quản lý (ngƣời quản
lý) đến khách thể quản lý (ngƣời bị quản lý) trong một tổ chức nhằm làm cho tổ
chức vận hành và đạt đƣợc mục đích của tổ chức [6]. Và Nguyễn Ngọc Quang cho
rằng: Quản lý là tác động có mục đích, có kế hoạch của chủ thể quản lý đến tập thể
những ngƣời lao động (nói chung là khách thể quản lý) nhằm thử hiện những mục
tiêu dự kiến [Dẫn lại theo 17].
Từ khái niệm này cho thấy một số điểm cần chú ý sau: Quản lý là hoạt động
có mục đính, có định hướng của con người. Đó là một hệ thống gồm có hai phân
hệ: chủ thể và khách thể quản lý và tác động quản lý thường mang tính tổng hợp
bao gồm nhiều giải pháp khác nhau.
1.2.1.2. Quản lý giáo dục
Quản lý giáo dục (QLGD) là một bộ phận quan trọng của quản lý xã hội.
Khái niệm này có thể tiếp cận từ nhiều góc độ và cấp độ khác nhau. Theo M.I.
Kônđacốp “QLGD là tập hợp các biện pháp tổ chức cán bộ, giáo dục, kế hoạch
hóa, tài chính ... nhằm đảm bảo sự vận hành bình thường của các cơ quan trong hệ
thống giáo dục để tiếp tục phát triển và mở rộng hệ thống cả về mặt số lượng cũng
như chất lượng” [dẫn theo17, tr.19].
Nhà giáo dục Phạm Minh Hạc cho rằng “Việc quản lý nhà trường phổ thơng
(có thể mở rộng ra là việc QLGD nói chung) là quản lý hoạt động dạy - học, tức là
làm sao được hoạt động đó từ trạng thái này sang trạng thái khác để dần tiến tới
mục tiêu giáo dục” [13, tr.62]. Với quan điểm này, tác giả khẳng định, QLGD chính


14
là một hệ thống những tác động có mục đích, có kế hoạch cụ thể, hợp quy luật của
chủ thể quản lý nhằm làm cho hệ vận hành theo đƣờng lối, nguyên lý giáo dục của
Đảng trong phạm vi trách nhiệm của mình, tức làm đƣa nhà trƣờng vận hành theo
nguyên lý giáo dục tiến tới mục tiêu giáo dục, mục tiêu đào tạo đối với ngành giáo
dục đối với thế hệ trẻ và từ HS.

Theo tác giả Trần Kiểm, QLGD có hai cấp độ chủ yếu: cấp độ vĩ mô và cấp
vi mô: Ở cấp độ vĩ mô: QLGD đƣợc hiểu là những tác động tự giác (có ý thức, có

mục đích, có kế hoạch, có hệ thống, hợp quy luật) của chủ thể quản lý đến tất cả các
mắt xích của hệ thống (từ cấp cao nhất đến các cơ sở giáo dục là nhà trƣờng) nhằm
thực hiện có chất lƣợng và có hiệu quả mục tiêu phát triển giáo dục, đào tạo thế hệ
trẻ theo yêu cầu của xã hội. Ở cấp độ vi mô, trong phạm vi nhà trƣờng, hoạt động
quản lý bao gồm nhiều loại, nhƣ quản lý các hoạt động giáo dục: hoạt động dạy
học, hoạt động giáo dục (theo nghĩa hẹp), hoạt động xã hội, hoạt đông văn thể, hoạt
động lao động, hoạt động ngoại khóa, hoạt động giáo dục hƣớng nghiệp; quản lý
các đối tƣợng khác nhau: quản lý GV, HS, quản lý tài chính, quản lý cơ sở vật chất;
Về cơ bản, quản lý thực ra là sự tác động đến nhiều khách thể khác nhau: quản lý
thực hiện xã hội hóa giáo dục, điều tiết và điều chỉnh ảnh hƣởng từ bên ngoài nhà
trƣờng, tham mƣu với Hội cha mẹ HS [21, tr. 10].
Trong phạm vi đề tài này, chúng tơi hồn tồn thống nhất với quan điểm của
Trần Kiểm về khái niệm quản lý theo tiếp cận ở cấp độ vi mơ. Do vậy, khái niệm
QLGD có thể hiểu nhƣ sau:
QLGD là hệ thống những tác động tự giác (có ý thức, mục đích, có kế hoạch,
có hệ thống, hợp quy luật) của chủ thể quản lý đến tập thể GV, công nhân viên, tập
thể HS, cha mẹ HS và các lực lượng xã hội trong và ngoài nhà trường nhằm thực
hiện có chất lượng và hiệu quả mục tiêu giáo dục của nhà trường [21, tr.12].
1.2.1.3. Quản lý nhà trường
Nhƣ chúng ta đã biết, hầu hết các hoạt động giáo dục đều đƣợc diễn ra trong
nhà trƣờng hoặc thơng qua hệ thống nhà trƣờng. Nhà trƣờng chính là “tế bào chủ
chốt” của hệ thống giáo dục. Do đó, QLGD luôn đi kèm với quản lý nhà trƣờng
(QLNT). Các nội dung QLGD ln gắn liền với QLNT, nói chính xác hơn QLNT


15
chính là sự cụ thể hố, hiện thực hố các nội dung của QLGD. Ngày nay, nhà

trƣờng không phải là một thiết kế sƣ phạm đơn thuần, mọi công việc diễn ra trong
nhà trƣờng đều hƣớng đến mục tiêu cao nhất là giáo dục, hình thành nhân cách –
sức lao động, phục vụ phát triển cộng đồng, góp phần gia tăng nguồn lực về con
ngƣời, vốn tổ chức và nguồn vốn xã hội.
Nhà nghiên cứu giáo dục Nguyễn Ngọc Quang [32] đã khẳng định, QLNT là tập
hợp những tác động tối ƣu (cộng tác, tham gia, hỗ trợ, phối hợp, huy động, can thiệp...)
của chủ thể quản lý đến tập thể GV, HS và các cán bộ khác nhằm tận dụng các nguồn
dự trữ do nhà nƣớc đầu tƣ, lực lƣợng xã hội đóng góp và do lao động xây dựng vốn tự
có hƣớng vào việc đẩy mạnh mọi hoạt động của nhà trƣờng mà điểm hội tụ là quá
trình đào tạo thế hệ trẻ. Tác giả Phạm Minh Hạc thì tiếp tục khẳng định rõ hơn [13].
Ơng cho rằng, QLNT là thực hiện đƣờng lối giáo dục của nhà nƣớc trong phạm vi
trách nhiệm của mình, tức là đƣa nhà trƣờng vận hành theo nguyên lý giáo dục để đạt
tới mục tiêu giáo dục. Mục tiêu giáo dục đƣợc xác định một cách chuẩn xác đối với
ngành giáo dục, với thể hệ trẻ và từng cấp học cụ thể.

Tóm lại, QLNT là quá trình tác động của chủ thể quản lý nhà trƣờng (Hiệu
trƣởng, Ban Giám hiệu, các Tổ trƣởng chuyên môn) đến các đối tƣợng quản lý
(GV, HS, các quá trình dạy học và giáo dục) để đạt đƣợc mục tiêu giáo dục mà nhà
trƣờng đề ra. Trong nội dung QLNT thì quản lý VHNT là một nội dung quan trọng
và thiết yếu.
1.2.2. Văn hóa, văn hóa tổ chức, văn hóa nhà trường
1.2.2.1. Văn hóa
Văn hóa là một khái niệm đa tầng và có nhiều hƣớng tiếp cận minh định khác
nhau. Theo thống kê của các nhà nghiên cứu, hiện nay có hơn 400 định nghĩa khác
nhau về văn hóa với nhiều quan điểm và khuynh hƣớng tiếp cận khác nhau. Theo các
nhà biên soạn Từ điển Triết học (Nga), “văn hóa là tồn bộ những giá trị vật chất và
tinh thần do con người tạo ra trong quá trình thực tiễn xã hội - lịch sử và tiêu biểu cho
trình độ đạt được trong lịch sử phát triển xã hội” [dẫn theo 17, tr.12]. Bên cạnh đó, nếu
các nhà nghiên cứu Nhân học coi “văn hóa là tập tục, thói quen



16
của một nhóm người, cộng đồng người” [dẫn theo 17, tr.13] thì các nhà Tâm lý học
định nghĩa “văn hóa” là hành vi, hành động, thái độ của con ngƣời. Từ quan điểm
này, các nhà nghiên cứu cho rằng, trong việc giáo dục tri thức, kĩ năng, chúng ta cần
coi trọng giáo dục các thái độ, tức là giáo dục nhân cách văn hóa.
Quan điểm về văn hố của các chuyên gia UNESCO (1992) đƣợc phân định
ở hai phạm vi rộng và hẹp. Theo nghĩa rộng, “văn hóa là một tổng thể các đặc

trưng diện mạo về tinh thần, vật chất, tri thức, tình cảm khắc họa lên bản sắc của
một cộng đồng gia đình, xóm làng, xã hội,…”. Ở biên độ này, quyền cơ bản của con
ngƣời, những hệ thống giá trị, những truyền thống tín ngƣỡng. Theo nghĩa hẹp,
“văn hóa là một tổng thể những hệ thống biểu trưng chi phối cách văn hóa khơng
chỉ bao gồm nghệ thuật văn chƣơng mà cả những lối sống, những ứng xử và sự
giao tiếp trong một cộng đồng khiến cộng đồng ấy có đặc thù riêng,….”. Với nội
hàm đã
xác định nhƣ vậy,văn hóa bao gồm hệ thống những giá trị để đánh giá một sự việc,
một hiện tƣợng (đẹp hay xấu, có đạo đức hay vơ đạo đức, phải hay trái, đúng hay
sai…) theo cộng đồng ấy.
Trần Ngọc Thêm trong Tìm về bản sắc văn hố Việt Nam (1996) [31] cho
rằng, văn hoá là một hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần do con ngƣời
sáng tạo và tích luỹ qua q trình hoạt động thực tiễn, trong sự tƣơng tác giữa con
ngƣời với môi trƣờng tự nhiên và xã hội của mình.
Từ một số quan niệm về văn hố đã nêu trên, chúng ta có thể có thể khái quát
văn hóa bao gồm những đặc trƣng sau: Toàn bộ những giá trị vật chất, tinh thần do
con ngƣời sáng tạo ra trong quá trình thực tiễn tiêu biểu cho trình độ đạt đƣợc trong
lịch sử phát triển xã hội; Một tập hợp các giá trị, chuẩn mực, tƣ tƣởng, quan niệm,
tín ngƣỡng, phong tục, tập quán, tôn giáo, phƣơng thức sinh hoạt của con ngƣời xã
hội; Văn hóa là mơi trƣờng, là “bình chứa” của xã hội hóa. Theo nghĩa tích cực, nó
vừa là phƣơng thức, nó vừa là cơ sở của xã hội hóa, đồng thời vừa là cái đích cần

đạt của xã hội hóa; Văn hóa là tổng thể sống động những sáng tạo đa dạng của các
cá nhân và cộng đồng, đồng thời là cái mà qua đó hình thành nên (tạo nên) những
đặc trƣng, đặc tính và bản sắc riêng, độc đáo của mỗi quốc gia, cộng đồng và dân


17
tộc (văn hóa nhân loại, văn hóa chung, văn hóa châu lục, văn hóa vùng và những
tiểu văn hóa nhỏ hơn nữa).
Nhìn chung, văn hóa gắn liền với lịch sử xã hội. Nếu xã hội biến đổi thì văn
hóa cũng biến đổi. Sự biến đổi của văn hóa xét về tồn cục ln mang tính tiếp nối
liên tục.Theo đó, xã hội hóa cũng là một q trình liên tục khơng đứt đoạn. Với ý
nghĩa đó, văn hóa chính là nền tảng tinh thần của xã hội, là cái tạo nên “phẩm chất”
của cuộc sống.
1.2.2.2. Văn hóa tổ chức
Vào năm 1938, khi nghiên cứu tác động của môi trƣờng lên các cá nhân,
Henry Murray và các cộng sự đƣa ra khái niệm văn hóa tổ chức (VHTC). Từ đó về
sau, có khá nhiều nhà nghiên cứu quan tâm và tìm hiểu vấn đề này, nhất là ở thập
niên 70 và 80 của thế kỉ XX. Về cơ bản, văn hoá tổ chức (Organization Culture) là
một thuật ngữ đƣợc tích hợp từ hai khái niệm văn hoá và tổ chức. Khi khái niệm
VHTC đƣợc hình thành thì việc định nghĩa và tiếp cận nó có những cách thức khác
nhau. Về nội hàm của khái niệm VHTC, chúng ta có thể nêu bật một số định nghĩa
nhƣ sau:
Theo Tunstall (1983), VHTC là toàn bộ các giá trị, niềm tin, truyền thống và
thói quen có khả năng quy định hành vi của mỗi thành viên trong tổ chức, mang lại
cho tổ chức một bản sắc riêng, ngày càng phong phú thêm và có thể thay đổi theo
thời gian. [15, tr.2]
Học giả Edgar Schein quan niệm “VHTC là hệ thống những giá trị, niềm tin
được chia sẻ, phát triển trong một tổ chức và định hướng hành vi của các thành
viên”[dẫn theo 15, tr.16].
Từ các định nghĩa trên có thể khái quát lại, văn hóa tổ chức có những đặc

trƣng sau: Tính hợp thức của hành vi: Khi các thành viên trong tổ chức tƣơng tác
với nhau, họ sử dụng cùng một ngôn ngữ, khái niệm; Các chuẩn mực của hành vi:
Tuy không rõ ràng song các chuẩn mực của hành vi tạo ra sự ràng buộc đối với các
thành viên, những ai mới đến cần tuân thủ để có thể đƣợc chấp nhận; Các giá trị
chính thống: Đó là các giá trị mà tổ chức mong đợi ở các thành viên; những nguyên


18
tắc, những giá trị mà tổ chức và từng thành viên cố gắng đạt tới đƣợc thông báo
công khai; Các triết lí tổ chức: Những triết lí này chỉ dẫn hoạt động của tổ chức và
các thành viên của nó; Những luật lệ: Những nguyên tắc chặt chẽ liên quan đến việc
chấp nhận mình là thành viên của tổ chức; Bầu khơng khí tổ chức: Tổng thể những
cảm giác đƣợc tạo ra từ những điều kiện làm việc, những cách cƣ xử hợp tác;
Những kĩ năng thành công: Những năng lực và khả năng đặc biệt của các thành viên
trong tổ chức biểu hiện qua việc thực hiện tốt các cơng việc cụ thể.
1.2.2.3. Văn hóa nhà trường
Trong xu thế quản lý các quá trình giáo dục gắn liền với việc lồng ghép giáo
dục văn hoá trong nhà trƣờng, quan niệm về VHNT đã xuất hiện. Đây là một khái
niệm mới xuất hiện trong vài chục năm gần đây, nhƣng nội hàm của nó đã đƣợc đề
cập đến từ lâu rồi, trong nhiều tình huống thực tiễn của cơng tác GD&ĐT hiện nay.
Xét về bản chất, mỗi nhà trƣờng là một tổ chức hành chính - sƣ phạm cụ thể. Đó là
một thế giới thu nhỏ với những cấu trúc, chuẩn mực và quy tắc hoạt động chuyên
biệt có những giá trị và ƣu nhƣợc điểm riêng. VHNT là nền tảng và định hƣớng
cho sự phát triển tiến bộ của nhà trƣờng, là một động lực quan trọng để thực hiện
đổi mới QLGD. Từ góc nhìn của VHTC, VHNT có thể xem nhƣ là một tập hợp các
giá trị căn bản, là hệ thống các chuẩn mực đạo đức, phƣơng tiện và mẫu hành vi
quy định cách thức mà CBQL, GV và HS trong nhà trƣờng tƣơng tác với nhau và
cùng nhau thực hiện có hiêu quả mục tiêu, nhiệm vụ của nhà trƣờng.
Cũng giống nhƣ văn hóa, VHNT cũng đƣợc nhiều tác giả nghiên cứu và tiếp
cận dƣới nhiều góc độ khác nhau:

Theo Deal và Peterson, “văn hóa là mơ hình hay khn mẫu sâu sắc về giá
trị, niềm tin và truyền thống được hình thành qua lịch sử phát triển của nhà trường”
[dẫn theo 30, tr.227].
Theo Stoolp và Smith “VHNT được định nghĩa như là các kiểu ý nghĩa được
lưu truyền theo lịch sử. Nó bao gồm những chuẩn mực, giá trị, niềm tin, các lễ hội,
các lễ nghi, những câu chuyện thần thoại và được hiểu theo các mức độ khác nhau
bởi các thành viên trong cộng đồng nhà trường. Hệ thống ý nghĩa này định hướng


19
suy nghĩ của mọi người và cách hành xử hoặc VHNT phổ thông được hiểu là tập
hợp các nguyên tắc, giá trị và niềm tin, nghi thức và nghi lễ, các biểu tượng và câu
chuyện hay giai thoại tạo nên cái “tôi” của nhà trường và định hướng các thành
viên trong nhà trường cùng nhau làm việc” [dẫn theo 30, tr.128].
Từ những định nghĩa trên, về cơ bản, chúng ta có thể khái quát về VHNT
nhƣ sau: VHNT là những thống nhất cơ bản, là niềm tin và hệ thống giá trị được sẻ
chia, tạo nên cái tôi và phương cách làm việc của nhà trường. Nó có tác dụng định
hướng cách cư xử giữa các thành viên của nhà trường với nhau và được phản ánh
qua các hiện thực văn hóa như: biểu tượng, nghi thức, ngơn ngữ, trang phục, quan
hệ văn hoá cụ thể v.v.
1.2.3. Quản lý xây dựng văn hóa nhà trường, biện pháp quản lý xây dựng
văn hóa nhà trường
1.2.3.1. Quản lý xây dựng văn hóa nhà trường
Văn hóa là tồn bộ những giá trị vật chất và tinh thần đã đƣợc hệ thống hóa,
tích lũy lại qua thời gian và có thể truyền lại cho các thế hệ sau. Trong hệ thống đó,
VHNT đƣợc xem nhƣ là những giá trị vật chất và các giá trị tinh thần của nhà
trƣờng đƣợc các đã đƣợc hệ xây dựng, tích lũy lại qua thời gian và có thể truyền lại
cho các thế hệ sau. Việc xây dựng VHNT chính là q trình hình thành các giá trị
vật chất và các giá trị tinh thần của nhà trƣờng theo một phƣơng hƣớng, kế hoạch
cụ thể nhất định.

Có thể nói, văn hóa nói chung và VHNT nói riêng là những giá trị bền vững,
nhƣng không phải là những giá trị bất biến. Hệ giá trị này của một trƣờng có thể
thay đổi để phù hợp với yêu cầu của thực tiễn và xu thế phát triển của nhà trƣờng.
Việc xây dựng các giá trị vật chất và các giá trị tinh thần của nhà trƣờng có thể theo
những con đƣờng khác nhau. Chúng ta có thể đánh giá theo một số điểm nhƣ sau:
Thứ nhất, xây dựng các giá trị hoàn toàn mới đối với những trƣờng vừa mới
thành lập. Việc lựa chọn các giá trị cần xây dựng phải phù hợp với mục tiêu phát triển
của nhà trƣờng. Các giá trị xây dựng phải thống nhất và logic với nhau, không mâu
thuẫn với nhau, phải bổ sung cho nhau. Các giá trị mà nhà trƣờng xây dựng cần


20
phải tạo nên một tổng thể chung, phản ánh bản sắc riêng của nhà trƣờng.
Thứ hai, đối với những trƣờng đã thành lập trong một thời gian nhất định
hoặc đã có truyền thống lâu dài thì có thể kế thừa những giá trị đã có phù hợp, bổ
sung thêm một số giá trị mới mà nhà trƣờng cho là cần thiết.
Từ hai điểm nhìn trên, có thể nói xây dựng VHNT cần phải kế thừa và phát
huy những giá trị phù hợp đã có và bổ sung thêm các giá trị mới để nhà trƣờng đáp
ứng đƣợc yêu cầu giáo dục của địa phƣơng và của đất nƣớc. Do vậy, việc quản lý
xây dựng văn hóa trƣờng THCS là sự tác động có định hƣớng, có mục đích, có hệ
thống thông tin của chủ thể quản lý tới khách thể quản lý nhằm tạo ra hoặc gìn giữ,
phát triển các giá trị vật chất và các giá trị tinh thần của nhà trƣờng để thực hiện
mục tiêu giáo dục và truyền lại cho các thế hệ sau.
Nhìn từ thực tế công tác, quản lý xây dựng VHNT ở bậc THCS đƣợc đánh
giá qua hai mặt cơ bản: Một là quản lý nhằm phát huy đƣợc những giá trị, những
nội dung văn hóa phù hợp của nhà trƣờng; Hai là quản lý việc xây dựng những giá
trị và nội dung mới của VHNT. Nghiên cứu quản lý xây dựng VHNT ở bậc THCS
của chúng tơi dựa trên tiếp cận văn hố tổ chức kết hợp với tiếp cận chức năng quản
lý. Dựa theo cách tiếp cận này, quản lý xây dựng văn hóa trƣờng THCS có các nội
dung sau: Lập kế hoạch; Tổ chức thực hiện; Chỉ đạo, điều phối thực hiện; Kiểm tra,

đánh giá xây dựng văn hóa trường THCS.
Trong nghiên cứu này, kế thừa kết quả nghiên cứu đi trƣớc cũng nhƣ mục
đích nghiên cứu của đề tài, luận văn sẽ đi sâu tìm hiểu về các yếu tố thuộc về sự
lãnh đạo của Hiệu trƣởng nhà trƣờng và các yếu tố khách quan nhƣ: GV chủ nhiệm
và GV bộ mơn; Tập thể học sinh; Chi đồn nhà trường; Các quy định của Nhà
nước, của Bộ GD & ĐT; Sự quan tâm của Sở GD &ĐT và Phòng GD & ĐT; Cơ sở
vật chất của nhà trường; truyền thống văn hóa của nhà trường; Gia đình học sinh
(Ơng bà, cha mẹ); Sự phối hợp của các lực lượng xã hội có ảnh hưởng tới quản lý
xây dựng VHNT.
1.2.3.2. Biện pháp quản lý xây dựng văn hóa nhà trường
Trong lịch sử hình thành và phát triển mỗi nhà trƣờng, các yếu tố văn hóa
tồn tại một cách tự nhiên, khách quan. Do vậy, nhà trƣờng nào cũng có những đặc


21
trƣng, dạng thức văn hóa tổ chức của riêng mình. Việc phát triển VHNT cần phải
đƣợc xây dựng bằng những lộ trình cụ thể, khơng phải chuyện ngày một ngày hai
mà cần có những bƣớc đi phù hợp. Có nhiều quan điểm về văn hóa tổ chức, do đó
cũng có nhiều mơ hình xây dựng văn hóa tổ chức. Dƣới đây, là mơ hình xây dựng
văn hóa của một tổ chức mà chúng ta có thể áp dụng vào định hình, xây dựng
VHNT gồm 11 bƣớc theo đề xuất của Julie Heifetz và Richard Hagberg [15]:
- Tìm hiểu mơi trƣờng và các yếu tố ảnh hƣởng tới chiến lƣợc phát triển của

nhà trƣờng trong tƣơng lai và xác định những yếu tố nào có ảnh hƣởng nhất làm
thay đổi chiến lƣợc phát triển của tổ chức nhà trƣờng;
- Xác định rõ những giá trị cốt lõi làm cơ sở cho q trình xây dựng VHNT

đƣợc thành cơng. Đây là bƣớc cơ bản nhất. Các giá trị cốt lõi phải là các giá trị
khơng phai nhịa theo thời gian và nó phải là cái tinh hoa của nhà trƣờng;
- Xây dựng tầm nhìn - một bức tranh lý tƣởng trong tƣơng lai - mà nhà


trƣờng sẽ vƣơn tới. Đây là định hƣớng để xây dựng VHNT, thậm chí có thể tạo lập
một nền văn hóa tƣờng lai cho nhà trƣờng khác hẳn trạng thái hiện tại;
- Tập trung nghiên cứu, đề xuất giải pháp cần làm gì và làm nhƣ thế nào để

thu hẹp khoảng cách của những giá trị văn hóa hiện có và xây dựng mơ hình văn
hố trong tƣơng lai của nhà trƣờng;
- Đề xuất, soạn thảo kế hoạch, phƣơng án hành động cụ thể và chi tiết tới

từng việc, từng ngƣời, phù hợp với các điều kiện thời gian và nguồn lực khác để có
thể thực thi đƣợc kế hoạch, phƣơng án;
- Giúp cho mọi ngƣời, mọi bộ phận nhận rõ những trở ngại của sự thay đổi

một cách cụ thể, từ đó, động viên, khích lệ các cá nhân mạnh dạn từ bỏ thói quen cũ
khơng tốt, chấp nhận vất vả để có sự thay đổi tích cực hơn;
- Thƣờng xuyên đánh giá VHNT và thiết lập các chuẩn mực mới, những giá

trị mới mang tính thời đại; đặc biệt là các giá trị học tập không ngừng và thay đổi
thƣờng xuyên. Việc truyền bá các giá trị mới cho mọi thành viên trong nhà trƣờng
cần đƣợc coi trọng song song với việc duy trì những giá trị, chuẩn mực tốt đã xây
dựng đƣợc là lọc bỏ những chuẩn mực, giá trị cũ lỗi thời hoặc gây ra ảnh hƣởng
tiêu cƣc cho tiến trình phát triển của VHNT.


22
1.3. Những vấn đề lý luận về văn hóa nhà trƣờng
1.3.1. Tầm quan trọng của văn hóa nhà trường:
VHNT có ảnh hƣởng đến tất cả các hoạt động diễn ra trong nhà trƣờng đó.
Theo Deal và Peterson, văn hóa ảnh hƣởng định hình đến cách mà GV, HS, cán bộ
quản lý suy nghĩ, cảm nhận và hành động. Văn hóa là một mạng lƣới mạnh mẽ của

nghi lễ và truyền thống, chuẩn mực và giá trị có ảnh hƣởng đến tất cả mọi góc cạnh của
đời dố nhà trƣờng. VHNT quyết định đến việc các thành viên trong nhà trƣờng tập
trung chú ý vào cái gì, học cam kết nhƣ thế nào với nhà trƣờng, họ nỗ lực làm việc đến
đâu và mức độ họ đạt đƣợc mục tiêu đề ra. Cụ thể, VHNT định hƣớng sự tập trung của
các thành viên nhà trƣờng vào hành vi hàng ngày và tăng cƣờng sự chú ý vào những gì
quan trọng và có giá trị. Nếu các giá trị và chuẩn mực cơ bản củng cố cho việc học tập,
nhà trƣờng sẽ tập trung vào hoạt động học tập trong nhà trƣờng.

Trong Giáo dục Việt Nam trước ngưỡng cửa thế kỉ XXI [12], Phạm Minh Hạc
đã nêu rõ kết quả nghiên cứu về những hữu ích của VHNT mà Peter Smith (Đại học
Sunderland) đã công bố. Từ kết quả nghiên cứu của tác giả này cho thấy, VHNT có
ảnh hƣởng vơ cùng to lớn đối với chất lƣợng cuộc sống và hiệu quả hoạt động của
nhà trƣờng: Sự phát triển của trẻ em chịu ảnh hƣởng rất lớn của mơi trƣờng văn
hóa xã hội nơi các em lớn lên; Môi trƣờng VHNT thuận lợi giúp trẻ có nhiều cơ hội
để phát triển; Môi trƣờng này không thuận lợi sẽ làm thui chột sự phát triển; VHNT
lành mạnh giúp giảm bớt sự không hài lịng của GV; Tạo ra mơi trƣờng thuận lợi hỗ
trợ việc dạy và học, khuyến khích GV, học sinh nỗ lực rèn luyện, học tập đạt thành
tích mong đợi; VHNT lành mạnh nuôi dƣỡng, hỗ trợ việc dạy và học.
Trên thực tế, VHNT giúp xác định và xây dựng cam kết của nhà trƣờng đối
với các giá trị cốt lõi. Nếu những nghi lễ, truyền thống, lễ kỉ niệm tạo ra tình cảm
cộng đồng, GV, HS và cộng đồng đó sẽ xác định với nhà trƣờng và cam kết với
những giá trị cốt lõi và các mối quan hệ ở đây. Ngồira,VHNT tích cực góp phần
quan trọng cải thiện hiệu quả và năng suất làm việc trong nhà trƣờng. GV và HS
thành cơng hơn trong một mơi trƣờngvăn hóa mà ở đó ni dƣỡng sự nỗ lực làm
việc, cam kết với những giá trị đến cuối cùng, chú ý giải quyết các vấn đề và tập
trungvào việc học tập của HS. Nhìn chung, VHNT sẽ tạo ra một bầu sinh quyển làm


×